Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.31 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>QUAN HỆ GIỮA NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG TỘC NGƯỜI CHĂM VÀ CÁC TỘC</b>
<b>NGƯỜI MÃ LAI – ĐA ĐẢO Ở TÂY NGUYÊN</b>
QUẢNG ĐẠI TUYÊN
Trong thành phần 54 dân tộc Việt Nam hiện nay, có 5 tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo,
bao gồm các tộc người: Chăm, Êđê, Giarai, Raglai, Churu. Các tộc người này thuộc loại hình
nhân chủng Indơnesien, có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô – Pôlynesien trong họ ngôn
ngữ Nam Đảo. Hiện nay dân số của 5 tộc người này có trên 600.000người, chiếm tỷ lệ gần 1%
dân số của Việt Nam và trên 0,23% tổng số dân các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Đông Nam Á.
Những tộc người này vốn được hình thành và phát triển lâu đời trên các địa bàn của núi rừng
nam Trường Sơn – Tây Nguyên và vùng đồng bằng ven biển Trung bộ.
Trong quá trình sinh sống, các dân tộc này ngoài đặc điểm chung về nền tảng văn hóa và nguồn
gốc Mã Lai – Đa Đảo thì các dân tộc này đã có sự giao lưu rất rõ rệt về kinh tế – văn hóa – xã
hội. Chính vì vậy, các tộc người này có sự tương đồng rất lớn về nhiều mặt, đặc biệt là về văn
hóa. Tuy nhiên mỗi tộc người lại có những thang bậc khác nhau về trình độ phát triển kinh tế –
văn hóa – xã hội. Mặc dù vậy nhưng các tộc người Mã Lai – Đa Đảo cũng đã có sự đóng góp
đáng trân trọng vào q trình dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Các tộc người Mã Lai – Đa Đảo có tiềm năng và sự phát triển nghệ thuật rất to lớn. Họ là những
người có năng khiếu về nghệ thuật mang dấu ấn đặc trưng của tộc người Mã Lai – Đa Đảo.
<b>1. Nhạc cụ truyền thống tộc người Chăm</b>
Người Chăm là một tộc người có nền âm nhạc rất phong phú và đa dạng. Trải qua những bước
thăng trầm của lịch sử nền âm nhạc của tộc người Chăm cũng phát triển một cách đặc biệt, vừa
mở rộng phạm vi ảnh hưởng sang các vùng, các tộc người xung quanh, vừa học hỏi, tiếp nhận
nền âm nhạc của các tộc người khác. Chính điều này đã tạo nên một kho tàng âm nhạc dân gian
Chăm vô cùng độc đáo và giàu bản sắc.
Trong nền âm nhạc Chăm, nhạc cụ truyền thống đóng vai trị rất quan trọng trong đời sống văn
hóa tinh thần của cộng đồng Chăm. Hầu hết các lễ hội, lễ nghi, tín ngưỡng tơn giáo của tộc người
Chăm đều không thể thiếu nhạc cụ truyền thống.
Hệ thống nhạc cụ truyền thống Chăm được chia làm 2 loại:
Một là, các nhạc cụ đã thất truyền như đàn champi, kaping, đàn rabap…các nhạc cụ này chỉ còn
được ghi nhận qua các văn bản cổ của người Chăm và trong các ký ức người già.
Hai là, nhạc cụ hiện đang tồn tại như đàn kanhi, kèn xaranai, trống baranưng, trống ginơng…
những nhạc cụ này hiện được người Chăm sử dụng rất phổ biến trong các sinh hoạt văn hóa của
mình.
Dựa trên các tiêu chí về về hình dáng, ngun tắc phát âm, cấu trúc, tính năng âm nhạc… mà
người Chăm đã có sự phân loại theo hệ thống cụ thể như sau:
- Nhóm gõ: bao gồm những nhạc cụ có màng rung và nhạc cụ tự thân vang:
Ginơng: trống đôi 2 mặt, Baranưng: trống 1 mặt, Hagar praung: trống lớn 2 mặt, Hagar xit: trống
nhỏ 2 mặt, Ceng đap (sar): chiêng bằng, Ceng tathuw: chiêng có núm, Grong: lục lạc, Chụm
chọe
- Nhóm dây: Đàn kanhi: làm bằng mai rùa, Đàn champi, Đàn kaping, Rabap: đàn bầu.
Trong hệ thống nhạc cụ trên, có 3 loại nhạc cụ được cộng đồng Chăm thường được sử dụng và
xem như chủ đạo là kèn saranai, trống paranưng, trống ginăng.
<b>2. Nhạc cụ truyền thống của các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên</b>
Có thể nói mỗi dân tộc ở Tây Nguyên có những nét đặc trưng riêng dựa trên nền tảng văn hoá
bản địa. Nhạc cụ truyền thống của các tộc người ở Tây Nguyên cũng như vậy. Trước tiên đó là
sự tương đồng về một số loại nhạc cụ, đồng thời cũng có những nhạc cụ truyền thống đặc trưng
của tộc người mình. Các tộc người theo ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo cũng không phải là ngoại lệ.
Hều hết những sáng tạo về nhạc cụ truyền thống của người Tây Nguyên đều dựa vào môi trường
tự nhiên. Các chất liệu để chế tác nhạc cụ thường được lấy từ tự nhiên như tre nứa, lá, da thú, gỗ,
đất, vỏ bầu khô… Các vật liệu để chế tác nhạc cụ ở Tây Nguyên cũng có sự tương đồng mang
trên nương rẫy.
Các nhạc cụ truyền thống thường thấy ở các tộc người Tây Nguyên nói chung và tộc người Mã
Lai – Đa Đảo nói riêng đều là những sáng tạo của chính tộc người đó. Riêng duy nhất nhạc cụ
cồng – chiêng khơng phải là sản phẩm do chính những tộc người ở đây sản xuất. Những cồng –
chiêng này thường được mua từ người Việt ở miền trung, người Khmer ở Campuchia, người
Lào… Tuy cồng – chiêng không phải do tộc người ở đây sản xuất nhưng họ lại là những bậc
thầy về khả năng chỉnh âm của chiêng. Và họ (pô ching) chính là những người có khả năng cảm
nhận và điều chỉnh tiếng chiêng cho phù hợp với sắc thái, tâm lý và sở thích của tộc người mình.
Cồng – chiêng được xem là nhạc cụ tiêu biểu nhất không chỉ của riêng tộc người Nam Đảo mà ở
tất cả tộc người ở Tây Nguyên. Phải nói là trong bất cứ nghi lễ, lễ hội hay sinh hoạt nào của tộc
người Tây Ngun lại khơng thể khơng có âm vang của cồng – chiêng. Điều này cho thấy tuy
không trực tiếp sáng tạo ra cồng chiêng nhưng những tộc người ở đây có khả năng cảm nhận
cồng chiêng, và cồng chiêng có vai trị, vị trí đặc biệt trong các sinh hoạt, lễ hội, lễ nghi của các
tộc người ở đây.
Ngồi những nhạc cụ truyền thống trên thì ở Tây Nguyên còn được biết đến bởi những bộ đàn đá
cổ xưa. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bộ đàn đá mới được phát hiện ở Tây Ngun có cấu trúc
hồn toàn phù hợp với cấu trúc phổ biến của dàn cồng chiêng các tộc người Êđê, Raglai, Mnông,
Bana… .
Như vậy, có thể thấy các nhạc cụ truyền thống của tộc người Nam Đảo nói riêng và các tộc
<b>3. Mối quan hệ giữa nhạc cụ truyền thống của tộc người Chăm với nhạc cụ truyền thống</b>
<b>của các dân tộc Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên</b>
hóa Chăm có sự ảnh hưởng mạnh mẽ sang các vùng, các tộc người xung quanh và lẽ dĩ nhiên,
trong đó có thể có sự ảnh hưởng qua lại của các nhạc cụ truyền thống giữa các tộc người.
Hệ thống nhạc cụ của người Chăm khá đa dạng. Tuy nhiên, trải qua q trình sử dụng thì đã có
một số ít nhạc cụ đã thất truyền và chỉ còn tồn tại ở các tộc người như Raglai, Êđê, Giarai,
Churu…
Trong các loại nhạc cụ hơi của các tộc người Raglai, Êđê… đáng chú ý là loại kèn bầu mà người
Raglai gọi là rơkle, loại lớn hơn gọi là kuwach, còn người Êđê gọi là đinh năm, người Churu gọi
là rơkel. Rơkle được cấu tạo từ 6 ống nứa nhỏ, có lưỡi gà, được gắn vào quả bầu khơ và hàn kín
bằng sáp mật ong. Rơkle cho 6 âm thanh tương ứng với các âm như: đô, rê, mi, son, la, si. Kèn
của người Raglai, Giarai, Êđê…giống nhau ở chỗ có 6 ống: 4 ống hàng trên đảm nhiệm phần giái
điệu, 2 ống ở phần dưới đảm nhiệm phần bè, đệm. Ngồi ra, cịn phải kể đến tawao (Raglai),
tawao còn thấy ở người Êđê với tên là đinh bt chơc (ống khóc) hoặc đinh buôc mu-ing (ống
hát), người Giarai gọi là vô-ông, người Chăm gọi là wao, người Churu gọi là kwao. Đó là chiếc
sáo dọc có 4 lỗ, tiếng tawao trong sáng, mượt mà, bay bổng rất thuận lợi cho việc diễn tả tình
cảm con người.
Một nhạc cụ hơi khác là kèn awach (tên gọi theo của người Raglai), người Chăm gọi là kadait.
Awach là loại nhạc cụ được làm bằng sừng trâu, bò hay dê rừng. Sừng được cắt thủng hai đầu,
đầu nhọn được dùi bằng lỗ nhỏ thông với phần rỗng của sừng để làm lỗ thổi, đầu lớn dùng sáp
mật ong để đắp thành cái bầu nhỏ, có tác động cộng hưởng. Tiếng awach rất trầm, có độ vang xa.
Awach không tham gia vào diễn tấu với các nhạc cụ khác mà chủ yếu vào công việc kêu gọi, ra
hiệu lệnh hoặc gây khơng khí hun náo.
Trong bộ dây, có 1 nhạc cụ đáng chú ý là đàn goong rel (theo tiếng Giarai). Tùy từng vùng, từng
tộc người có tên gọi khác nhau. Người Raglai gọi là chapi hoặc chaping, người Chăm gọi là
champi. Ngồi ra cịn có k’ny, loại nhạc cụ dây kéo của Giarai, Êđê tuy nhiên, k’ny khơng có
bầu cộng hưởng như đàn kanhi của người Chăm. Khi chơi đàn để khuếch đại âm thanh, người ta
dùng 1 sợi dây, 1 đầu dây buộc vào dây đàn, đầu kia buộc vào 1 mảnh mo măng tre có hình trịn.
Nghệ nhân phải ngậm tồn bộ mảnh trịn này vào miệng sao cho 1 mặt của nó sát vào hàng răng
cửa và giữ cho dây tơ căng. Ở loại nhạc cụ này, người nhạc cơng thay đổi khẩu hình của mình
làm biến dạng âm sắc của cây đàn. Âm lượng của k’ny rất nhỏ, âm thanh được phát ra nghe rất
độc đáo, gần giống giọng của con người.
Riêng bộ gõ của các tộc người Nam Đảo có rất nhiều nhạc cụ khác nhau. Cụ thể như hơgơr
praung (tiếng gọi của người Raglai, Êđê), người Raglai gọi là sagar, người Chăm gọi là hagơr
praung, người Churu gọi là sơgơr. Hagơr praung là lọai nhạc cụ có ống lớn thuộc loại nhạc cụ
khơng định âm có âm thanh trầm, vang xa. Hầu hết các tộc người Nam Đảo dùng trống xưa kia
đều tin rằng, tiếng trống mạnh mẽ, linh thiêng. Vì thế, nhiều nơi trống được cất giữ cận thận, chỉ
đưa ra đánh vào các ngày hội và lễ.
Một loại nhạc cụ màng rung đáng chú ý khác là hơgơr tăk m’lia (hơgơr păk) là danh từ của tộc
người Giarai để chỉ một loại trống nhỏ thường dành cho cá nhân sử dụng. Loại trống này không
phổ biến ở các dân tộc Tây Nguyên. Đây là loại nhạc cụ giống hagơr xit của người Chăm. Hơgơr
tăk m’lia có âm thanh 1 bên trầm có màu âm đục, 1 bên cao có màu âm vang thanh thoát hơn.
Hai mặt có âm thanh khác nhau nên để diễn tả những tình cảm lắng đọng, sâu sắc.
Nói đến cồng – chiêng (theo cách gọi của người Việt) hoặc ching – ceng (người Raglai), knah –
ching (người Êđê), hoặc ceng đap – ceng tathuw (người Chăm) có nghĩa là chỉ hai loại: cồng có
núm và chiêng bằng khơng có núm. Tuy nhiên, cũng với hai loại nhạc cụ này người Chăm có
cách gọi ngược lại, nếu như cồng có núm được gọi là ching hay knah thì người Chăm gọi là sar.
Cồng và chiêng là hai loại nhạc cụ rất đặc thù ở Việt Nam và Đông Nam Á. Vùng Tây Nguyên
được xem là một trong những trung tâm cồng chiêng của Đông Nam Á. Hầu hết các tộc người cư
trú trên địa bàn Tây Nguyên đều có dàn cồng chiêng của riêng mình. Có tộc người có đến 2-3
dàn chiêng cho các nghi lễ khác nhau. Người Êđê có chiêng knah, gồm 6 chiêng khơng có núm,
3 chiêng có núm và 1 hơgơr. Người Raglai có 1 dàn chiêng aráp, người Giarai, Chăm H’roi… có
dàn chiêng trum. Âm thanh của cồng – chiêng trầm, vang vọng. Ching – cheng được sử dụng
rộng rãi trong đời sống của đồng bào Tây Nguyên, đặc biệt âm thanh của nó là ngôn ngữ giao
tiếp với thế giới siêu nhiên.
Hệ thống nhạc cụ người Chăm rất đa dạng và phức tạp. Trong đó, có một số nhạc cụ có tên gọi,
cấu tạo và chức năng tương tự như các nhạc cụ của các tộc người cùng ngữ hệ Nam Đảo ở Tây
Nguyên. Đó là đàn bầu rabáp, kèn sừng kadait, sáo waw, trống hagơr, ceng – ching… nhưng
đồng thời người Chăm cũng có những nhạc cụ rất độc đáo như kèn xaranai, trống ginơng,
baranưng và đàn kanhi.
Các tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo có sự tương đồng rất lớn trong văn hóa nghệ thuật
qua một số loại hình nhạc cụ truyền thống. Sự tương đồng này trước tiên do những mối quan hệ
gần gũi về nguồn gốc văn hoá Mã Lai – Đa Đảo, tiếp đến là do môi trường sống ngày xưa của
các tộc người này khá gẫn gũi và giống nhau. Đặc biệt là quá trình sống, sinh hoạt và giao lưa
tiếp biến văn hố chính là yếu tố đặc biệt tạo nên sự tương đồng này.
Ngày nay, để tìm hiểu về hệ thống nhạc cụ Chăm khơng thể khơng tìm hiểu qua nhạc cụ truyền
thống của các dân tộc Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên để có những so sánh, đối chiếu và trong
tương lai cũng có thể phục hồi lại một số nhạc cụ đã thất truyền của người Chăm. Đây cũng là sự
góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc.
Như vậy, nhạc cụ truyền thống của người Chăm và các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Tây
Nguyên có mối quan hệ rất gần gũi nhau khơngchỉ về cấu trúc, hình dáng, chức năng mà cả âm
thanh, thang điệu. Tuy nhiên, mỗi tộc người lại có những nhạc cụ đặc trưng của riêng mình. Điều
_______________________
<b>Tài liệu tham khảo</b>
1. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc Jrai và Bahnar, NXB Trẻ 1993.
2. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc ở Gia Lai, NXB Giáo Dục, Hà Nội 1998
3. Đình Hy – Trượng Tốn, Nhạc cụ truyền thống tộc người Chăm, Sở Văn hóa – Thơng tin tỉnh
Ninh Thuận, 1996.
4. Hải Liên, Vai trò của âm nhạc trong lễ hội dân gian Chăm Ninh Thuận, NXB Âm Nhạc, Hà
Nội 1999.
5. Lê Ngọc Canh – Tô Đông Hải, Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm, NXB Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội 1995
6. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXB Trẻ 2004.
7. Nguyễn Văn Huy (chủ biên), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, NXB Giáo dục, 1997.
8. Nguyễn Tuấn Triết, Lịch sử phát triển xã hội các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2000.