Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc thổ ở miền tây nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 63 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
======***======
-----

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA DÂN TỘC
THỔ Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN

Sinh viên thực hiện

: Võ Thị Thùy Trang

Chuyên ngành

: Sư phạm Lịch sử

Lớp

: 15SLS

Người hướng dẫn

: TS. Trương Anh Thuận

Đà Nẵng, Tháng 01 năm 2019
1



LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế khơng có sự thành cơng nào mà không gắn liền với những sự hỗ trợ
giúp đỡ, dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt thời
gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, tôi đã nhận được rất nhiều
sự quan tâm, giúp đỡ của q Thầy Cơ, gia đình và bạn bè.
Với lịng biết ơn sâu sắc, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến Qúy thầy cô giáo
trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng đã tận tình giảng dạy và truyền đạt kiến
thức cho chúng tôi trong suốt thời gian học tập tại trường đại học, đặc biệt là TS.
Trương Anh Thuận, người đã ln tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện
để tơi có thể hồn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp một cách tốt nhất.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo và các anh chị là cán bộ, viên chức
các Sở, ban ngành của tỉnh: Sở Khoa học – Cơng nghệ, Sở Văn hóa thể thao và du
lịch, Trung tâm bảo tồn di tích – di sản và các cơ quan liên quan của tỉnh Nghệ An và
các huyện : Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Con Cuông, Tương Dương và Quỳ Hợp.
Xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ,

Con Cuông, Tương Dương và Quỳ Hợp, UBND các xã trong huyện,các ngành,
đoàn thể liên quan của huyện và cán bộ, đồng bào dân tộc Thổ đã tạo thuận lợi để tôi
thực hiện đề tài này.
Ngồi ra, nhóm chúng tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn thân thiết
đã đóng góp ý kiến bổ ích cho đề tài này.
Xin chúc Qúy ban lãnh đạo, Qúy thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm – Đại học
Đà Nẵng lời chúc sức khỏe, thành công và thịnh vượng trong cuộc sống cũng như
trong công tác.
Đà Nẵng, ngày 07 tháng 01 năm 2019
Tác giả

Võ Thị Thùy Trang


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Trong đó, người Kinh (Việt) chiếm gần
90% tổng số dân cả nước, hơn 10% còn lại là dân số của 53 dân tộc. Trải qua
bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã gắn bó với nhau trong suốt q
trình lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành độc lập, tự
do và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc hầu như có tiếng nói, chữ viết và bản sắc
văn hoá riêng. Bản sắc văn hoá của các dân tộc thể hiện rất rõ nét trong đời
sống vật chất và tinh thần, từ ăn, mặc, ở, đi lại cho đến quan hệ xã hội, phong
tục tập quán các hoạt động cưới xin, ma chay, thờ cúng, lễ tết, văn nghệ, vui
chơi…
Cũng như nhiều địa phương khác, Nghệ An là một tỉnh có nhiều dân tộc
thiểu số cùng chung sống, bao gồm: Thái, Mường, Hmông, Thổ, Ơ đu. Các dân
tộc ít người ở Nghệ An vừa mang những đặc điểm chung của các dân tộc trong
nước vừa mang những nét đặc thù của một số dân tộc ít người cư trú trong một
vùng lãnh thổ nhất định. Việc tìm hiểu các dân tộc ít người trong tỉnh sẽ giúp ta
nhân thức thêm sâu sắc cái chung và cái riêng về vấn đề dân tộc ở Nghệ An,
hiểu đầy đủ hơn tính đa dạng và phong phú của vấn đề dân tộc ở nước ta. Điều
đặc biệt quan trọng là từ tình hình đặc điểm cụ thể về địa lý, mơi trường sinh
thái, cư dân, lịch sử của một vùng lãnh thổ nhất định, nêu lên bản sắc văn hoá
của các tộc người trong vùng, mối quan hệ giao lưu văn hố các dân tộc, tìm
hiểu mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển của các tộc người ở đây. Việc
nghiên cứu các dân tộc ít người ở Nghệ An, trong đó có cộng đồng người Thổ sẽ
cho ta cứ liệu để nói lên một cách hùng hồn những thành tựu cực kỳ to lớn trong
chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua; mặt
khác những tồn tại lâu nay ở các dân tộc trong tỉnh, đặc biệt về phương diện
nâng cao hơn nữa đời sống mọi mặt của đồng bào, làm cho “ai cũng có cơm ăn,

áo mặc, ai cũng được học hành” như mong muốn của Bác Hồ, đồng thời nhận
thấy rõ những vấn đề cấp bách trong thời gian tới để thực hiện tốt hơn nữa chính
2


sách dân tộc của Đảng và Nhà nước với ba ngun tắc cơ bản là đồn kết, bình
đẳng, tương trợ.
Để giải quyết các nội dung đặt ra ở trên, tôi đã chọn vấn đề “Giá trị văn hóa
tinh thần của dân tộc Thổ ở miền Tây Nghệ An” để làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đối với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung, văn hóa tinh thần gắn
liền với đời sống con người, nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cộng đồng.
Đối với việc nghiên cứu về cộng đồng người dân tộc thiểu số ở Nghệ An, trong
đó có dân tộc Thổ, từ trước đến nay đã thu hút sư quan tâm của giới nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Đình Lộc - Cán bộ giảng dạy khoa Lịch sử - Trường Đại học
Vinh đã dành nhiều thời gian tìm hiểu chủ trương thực hiện chính sách dân tộc
tỉnh Nghệ An. Ông đã tiến hành nhiều đợt điền dã dân tộc học ở vùng núi cao
Nghệ An, cùng lăn lộn với đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây
trong nhiều năm. Kết quả nghiên cứu khoa học của anh đã được công bố một
phần và được đưa vào nội dung giảng dạy cho sinh viên các ngành khoa học xã
hội của Trường. Gần đây, ơng cịn có dịp trở lại thực địa để bổ sung, chỉnh lý
một số tư liệu, và nhất là nắm bắt những vấn đề mới nảy sinh trong đời sống các
dân tộc ở đây trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới theo đường lối Đại
hội VI, VII của Đảng ta. Tuy nhiên, cơng trình trên cũng chỉ mới nghiên cứu
khái quát các dân tộc thiểu số trên địa bàn toàn tỉnh, mà chưa đi sau tìm hiểu về
dân tộc Thổ, đặc biệt là giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng người này.
Trong đó, trong các cơng trình nổi tiếng như Cơ sở văn hóa Việt Nam của
Trần Quốc Vượng; Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm; Văn hóa
vùng và phân vùng văn hóa của Ngơ Đức Thịnh... đã cung cấp cho chúng tôi

vấn đề lý luận chung về văn hóa với một hệ thống lý thuyết, khái niệm, cấu trúc
đặc trưng văn hóa. Đây là những cơng trình cần thiết cung cấp những kiến thức
cơ bản về văn hóa nói chung và văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng.
3


Nhìn chung, tuy đã bắt đầu xuất hiện các cơng trình nghiên cứu về văn hóa
vùng đất Nghệ An, nhưng cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có cơng trình nào
đi sâu nghiên cứu giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thổ ở miền tây Nghệ An.
Vì vậy, tơi đã chọn “Giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thổ ở miền Tây
Nghệ An” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm tìm hiểu các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc
Thổ ở miền Tây Nghệ An, từ đó đề ra giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa đặc trưng của dân tộc này đang bị mai một hoặc mất dần đi qua thời gian.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ:
Nghiên cứu giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thổ trên các phương diện
tơn giáo – tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, văn học dân gian,
âm nhạc…..
Đề ra giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc
Thổ trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các giá trịvăn hóa tinh thần của dân tộc
Thổ ở miền Tây Nghệ An.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Không gian nghiên cứu của đề tài là địa bàn sinh sống
của dân tộc Thổ ở miền Tây Nghệ An, bao gồm các huyện: Nghĩa Đàn, Tân Kỳ,
Con Cuông, Tương Dương và Quỳ Hợp.
Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu các giá trị văn hóa tinh thần được lưu
giữ trong cộng đồng người Thổ từ trước cho đến nay.

4


4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Đề tài khai thác, sử dụng các tư liệu gồm:
Các sách địa phương chí.
Cơng trình biên khảo của các nhà nghiên cứu về dân tộc Việt Nam nói chung
và dân tộc Thổ nói riêng.
Các bài báo trên các phương tiện truyền thông và các trang mạng.
Tư liệu điền dã, thực tế địa phương trên địa bàn cư trú của dân tộc Thổ Nghệ
An hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tơi sử dụng phương pháp lịch
sử và phương pháp lơgic. Ngồi ra còn vận dụng một số phương pháp khác như
phân tích, so sánh, các phương pháp liên ngành khác.
5. Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học, đề tài làm rõ giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thổ, nêu
lên những bản sắc văn hóa riêng biệt vốn có của cộng đồng người này. Trên cơ
sở đó đề ra giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đó cho thế hệ
sau.
Ngồi ra, đề tài cung cấp một hệ thống tư liệu hoàn chỉnh về văn hóa tinh thần
của đồng bào dân tộc Thổ, góp phần nghiên cứu một cách tồn diện hơn về văn

hóa của vùng đất này. Mặt khác, khi đề tài hoàn thiện sẽ là một tài liệu tham
khảo trong việc học tập và nghiên cứu cho những ai quan tâm đếnvăn hóa tinh
thần của cộng đồng dân tộc trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung và dân tộc Thổ
nói riêng.
6. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bố cục đề tài bao gồm hai
chương:

5


Chương 1: Khái quát về vùng đất miền Tây Nghệ An và dân tộc thổ ở
miền Tây Nghệ An
Chương 2: Giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thổ ở miền Tây Nghệ
An

6


NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT MIỀN TÂY NGHỆ AN VÀ DÂN
TỘC THỔ Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN
1.1. Khái quát về vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên vùng đất miền Tây
Nghệ An
Về vị trí địa lí, Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam, thuộc
vùng Bắc Trung Bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh, nằm
cách thủ đô Hà Nội 291 km về phía nam. Trước đây, Nghệ An cùng với Hà
Tĩnh có cùng một tên chung là Hoan Châu (trước đời Nhà Lý), Nghệ An châu
(đời Nhà Lý, Trần), xứ Nghệ (năm 1490, đời vua Lê Thánh Tông), rồi trấn Nghệ
An[31, tr.2]. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ

An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam) [31, tr.2]. Năm 1976 đến 1991,
Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Từ năm 1991, lại tách ra
thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Miền Tây Nghệ An, nằm ở phía Tây Nghệ
An cách thành phố Vinh 70km, gồm 11 huyện, thị là Thanh Chương, Anh Sơn,
Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tân Kỳ,
Nghĩa Đàn và Thị xã Thái Hồ, có diện tích gần 1,4 triệu ha, chiếm 84% diện
tích tồn tỉnh[31, tr.3]. Phía bắc giáp với Thanh Hóa, phía Đơng giáp các huyện
Quỳnh Lưu, Diễn Châu, phía tây giáp Lào, phía nam giáp Quảng Bình.
Về điều kiện tự nhiên, khu vực miền Tây Nghệ An có 885.339 ha diện tích
đất rừng, rừng tự nhiên chiếm tỷ lệ lớn với diện tích 732.741 ha, rừng trồng
chiếm 152.867 ha, độ che phủ đạt gần 54%[31, tr.3]. Rừng Nghệ An mang nhiều
nét điển hình của thảm thực vật rừng Việt Nam. Theo thống kê có đến 153 họ,
522 chi và 986 lồi cây thân gỗ, chưa kể đến loại thân thảo, thân leo và hạ
đẳng[31, tr.3]. Trong đó có 23 lồi thân gỗ và 6 loài thân thảo được ghi vào sách
đỏ Việt Nam. Rừng tập trung ở các vùng đồi núi với hai kiểu rừng phổ biến là

7


rừng kín thường xanh, phân bố ở độ cao dưới 700m và rừngkín hỗn giao cây lá
kim, phân bố ở độ cao lớn hơn 700m.
Khí hậu mang tính chất khí hậu gió mùa đặc trưng ở Việt Nam, nắng ẩm mưa
nhiều. Song ở miền Tây Nghệ An chịu thêm tác động của gió mùa Đơng Bắc từ
phía bắc và chịu gió phơn Lào thổi theo hướng Tây Nam. Chính vì thế khí hậu
nơi đây vơ cùng khắc nghiệt. Mùa đơng thì lạnh, nhiệt độ hạ thấp và có một số
huyện có hiện tượng đóng băng, sương muối gây thiệt hại về chăn nuôi gia súc,
gia cầm và hoa màu mất trắng. Mùa hạ nắng nóng dẫn đến tình trạng thiếu nước
sinh hoạt và cháy rừng. Mùa mưa thì hiện tượng lũ ống, lũ quét diễn ra thường
xuyên, gây thiệt hại lớn về người và của.
1.2. Khái quát về dân cư

Dân tộc Thổ là một trong những dân tộc sinh sống xen kẽ cùng hai dân tộc
Kinh và Thái trong cộng đồng các dân tộc ở khu vực miền núi tây bắc Nghệ An,
với dân số khoảng 80.000 người, sống tập trung chủ yếu tại các huyện Nghĩa
Đàn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ và thị xã Thái Hoà, định cư từ khoảng thế kỷ XV đến
thế kỷ XVIII[5, tr.10].
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, người Thổ được xem như là một nhóm
của dân tộc Mường. Từ tháng 12 năm 1973, thể theo đề nghị và căn cứ vào
những phong tục tập qn, sinh hoạt…tộc danh Thổ được Nhà nước chính thức
cơng nhận là một dân tộc riêng biệt nằm trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam[5,tr.11].Người Thổ có nhiều dịng họ, trong đó họ Trương là một họ lớn
chiếm số đông trong cộng đồng, tiếp đến là các họ Lê, Nguyễn, Phạm…
Dân tộc Thổ là một cộng đồng dân cư bao gồm các nhóm người mang tên
Kẹo, Mọn, Cuối, Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng, cư trú ở các huyện Nghĩa Đàn,
Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Con Cuông và Tương Dương thuộc nhóm ngơn ngữ Việt –
Mường. Dân số khoảng 80.000 người. Người Thổ có nhiều dịng họ, trong đó họ
Trương là một họ lớn chiếm số đơng trong cộng đồng, tiếp đến là các họ Lê, họ
Nguyễn, họ Phạm…

8


Người Đan Lai - Ly Hà hiện đang cư trú tại các xã Môn Sơn và Lục Dạ thuộc
huyện Con Cuông. Người Tày Poọng cư trú tại bản Phồng, xã Tam Thái, huyện
Tương Dương. Nhóm Cuối được coi là cư dân bản địa hiện cư trú tại các xã Tân
Hợp huyện Tân Kỳ, làng Lơ, làng Rạch, làng Đống ở xã Nghĩa Quang, huyện
Nghĩa Đàn,...
Vùng cư trú của đồng bào dân tộc Thổ ở Nghệ An phía Tây Bắc bao gồm các
nhóm Kẹo, Mọn và Cuối. Khối cư dân ít hơn ở phía Tây Nam bao gồm các
nhóm Đan Lai – Ly Hà và Tày Poọng. Về ngôn ngữ song song với tiếng
Mường, tiếng Việt và tiếng Chứt chứ không phải là phương ngôn tiếng

Mường...
1.3. Đời sống kinh tế - xã hội của dân tộc Thổ
Đời sống của đồng bào dân tộc Thổ chủ yếu là sản xuất nông nghiệp làm
nương rẫy, trồng lúa nước và chăn nuôi. Công cụ sản xuất điển hình là chiếc
“cày nại” (cần nọn) gần giống chiếc cày chìa vơi của dân tộc Kinh. Ngồi ra cịn
có chiếc gậy chọc lỗ tra hạt “cần nón”, “tắm rói”. Đây là cơng cụ điển hình của
phương thức canh tác nương rẫy. Ngồi chăn ni và sản xuất nơng nghiệp,
người Thổ cịn rất giỏi săn bắn và đánh bắt cá. Từ xưa họ đã săn bắt tập thể bằng
các loại bẫy đơn giản như bẫy sập, thòng lọng, lưới…có thể bắt được cả những
loại thú lớn như voi, hổ , bò rừng…Kết thúc những buổi săn là việc chia thịt thú
rừng săn được cho tất cả các gia đình trong làng khơng phân biệt giàu nghèo.
Người Thổ cịn rất giỏi đánh bắt cá trên các ao hồ, sông suối. Nghề đánh bắt cá
bằng những dụng cụ đánh bắt đặc trưng khá đa dạng như chài lưới, đăng,
xúc..được xem là nghề cổ truyền. Đặc biệt tất cả các dụng cụ dùng trong công
việc đánh bắt cá đều tự tay họ làm[32].
Ngày trước, đồng bào Thổ ở nhà sàn và nhà đất lợp tranh như người Kinh.
Nhà sàn dân tộc Thổ gần giống nhà sàn người Mường vùng Tây Bắc, Việt Bắc.
Nay phần lớn đã ở nhà đất theo kiểu miền xi nhưng cách bố trí trong nhà vẫn
theo truyền thống dân tộc mình. Đồng bào dân tộc Thổ khơng có tập quán trồng
9


bông dệt vải…quần áo của họ thường mua bán trao đổi với người Thái và người
Kinh, do vậy y phục dân tộc Thổ khơng đồng nhất, khơng có bản sắc riêng. Đàn
ơng thường mặc giống người Kinh, phụ nữ có sự khác biệt tuỳ theo từng vùng,
có nơi mặc váy Thái, váy dài có có sọc viền chân váy (vùng Quỳ Hợp, Tân Kỳ
và một số địa phương thuộc Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hồ như ở vùng làng
Đóng , làng Dong..). Có nơi váy của phụ nữ như của người Kinh (vùng Lâm La
- Nghĩa Đàn). Áo của phụ nữ Thổ thường là loại áo 5 thân màu nâu hoặc trắng
gần giống với áo của người Kinh[32].

Khác với người Kinh, người Mường, hôn nhân trong cộng đồng dân tộc Thổ
thường là hôn nhân nội tộc. Chế độ hôn nhân này có thể xem như là một biểu
hiện cao nhất về ý thức củng cố cộng đồng trong điều kiện sống xen kẽ với các
dân tộc khác. Ngày trước còn nhiều hủ tục như ở rể, cưới vợ lẽ nhưng nay đã bãi
bỏ. Hiện tại, một số nhóm họ dân tộc Thổ ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp và Tân Kỳ
vẫn cịn phong tục “ngủ mái”- một hình thức kết bạn, đi tìm hiểu người yêu.
Thường khi người con trai con gái đến tuổi cập kê, được phép của gia đình cơ
gái, người con trai đến “ngủ mái” tại nhà cơ gái - người mình chọn để tìm hiểu.
Trong đêm “ngủ mái”, trai gái có quyền tự do tâm sự với nhau một cách lành
mạnh. Tục lệ lên án và có những hình phạt nặng các hành vi dung tục mờ ám
trong đêm “ngủ mái”. Sau đêm “ngủ mái” nếu người con trai và người con gái
đồng ý lấy nhau thì bàn các bước thực hiện những nghi thức bắt buộc như nhờ
người làm mai mối (ơng Pin) sau đó là những cuộc thăm hỏi thường xuyên rồi
dạm hỏi và xin cưới…[30].
Mang dấu ấn của sự cộng cư nhiều thành phần sắc tộc, người Thổ thờ thần.
Hầu như trong tất cả mọi làng người Thổ đều có đền miếu thờ cúng quanh năm
các vị thần và thành hồng làng. Có làng thờ tới 15 vị thần. Mỗi nghề lại thờ
một vị thần với những hình thức nghi lễ riêng. Những người làm nghề tôn giáo các bậc sư sãi - có vị vị trí khá cao trong cộng đồng. Quan niệm của đồng bào
cho rằng vạn vật đều có linh hồn. Khi có người ốm, người ta cúng “ vía mụ bà”
và buộc “ vịng vía” cho bệnh nhân. Thường trong các buổi cúng, thầy cúng
10


dùng tiếng Cuối để khấn. Người Thổ rất coi trọng lễ xuống đồng (cầu móng) đầu
năm mới, lễ cúng cơm mới, lễ mừng nhà mới…với những nghi thức trang
trọng[29]. Hàng năm vào dịp lễ xuống đồng, làng chọn một người đàn ơng khoẻ
mạnh làm ăn khấm khá, nhẹ vía để làm người phát nhát dao đầu tiên và cũng là
người chọc lỗ tra hạt giống đầu tiên (gọi là chủ giống).
Cũng như nhiều dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân
tộc Thổ có nhiều truyền thuyết, chuyện cổ tích mang đậm dấu ấn dân tộc mình

được lưu truyền qua các thế hệ theo lối “kể đắng” (kể chuyện) như Sự tích lèn
Chành Đanh, Hịn đá cục xôi, Mèo và diều…[13]. Hầu như làng nào cũng có
một vài người có khả năng “kể đắng” rất diễn cảm. Trong nền văn hố của mình,
người Thổ đến nay vẫn còn giữ và phổ biến nhiều làn điệu dân ca, dân vũ độc
đáo mang đậm dấu ấn đặc trưng như Đu đu điềng điềng, Ên ên- Ạc ạc, hát
Thuôm, hát ghẹo, hát cuối, hát dặm..múa sạp, múa nón…[25].
Cùng với những nhạc cụ truyền thống như sáo, khèn, người Thổ cịn có
những nhạc cụ của dân tộc mình như cây đàn Thổ (gần giống cây đàn đáy của
người Kinh). Đặc biệt phaỉ kể đến cây đàn Tính tang - loại đàn được làm từ một
ống tre có hai dây bằng chính thanh cật tre tước ra và căng ngay trên phần mặt
có cữ tăng giảm âm vực, sử dụng bằng cách dùng một thanh tre nhỏ có bọc vải
một đầu gõ lên, cho âm thanh rất hay. Từ nhạc cụ đơn giản này, hiện tại một số
nghệ nhân dân tộc Thổ tại Quỳ Hợp đã cải tiến thành một giàn đàn gồm 8 ống
dài ngắn theo cung bậc với cách sử dụng như với loại đàn Tam thập lục… Hầu
như trong mọi gia đình, dịng họ của đồng bào Thổ ở Nghệ An đều có những
dàn cồng chiêng được các thế hệ lưu giữ với cách sử dụng của các nghệ nhân rất
độc đáo, thể hiện qua những âm hưởng tiết tấu và những vũ điệu sinh động diễn
tả những sinh hoạt trong đời sống hàng ngày[23].

11


Chương 2: GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA DÂN TỘC THỔ Ở
MIỀN TÂY NGHỆ AN
2.1. Khái quát về giá trị văn hóa tinh thần
2.1.1. Định nghĩa
Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo
nghĩa thơng dụng để chỉ trình độ học thức văn hóa, lối sống (nếp sống văn hóa);
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa
Đơng Sơn)… Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những

sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động...
Chính với cách hiểu rộng này, văn hóa mới là đối tượng đích thực của văn hóa
học.
Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm
định nghĩa khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết cần xác định
được những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt và tiêu biểu,
cần và đủ để phân biệt khái niệm (sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Phân
tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như
hệ thống, như giá trị, như hoạt động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như
thuộc tính xã hội…). có thể xác định được 4 đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại,
ta có thể nêu ra một định nghĩa văn hóa như sau:
Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trí vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội [16, tr.10].
Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội
lồi người. Ở phương Đơng, từ văn hố đã có trong đời sống ngơn ngữ từ rất
sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và từ hố: Xem dáng vẻ con người,
lấy đó mà giáo hố thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hoá thành thiên hạ). Người sử
dụng từ văn hố sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77-6 TCN), thời Tây Hán
với nghĩa như một phương thức giáo hoá con người- văn trị giáo hoá. Văn hoá ở
12


đây được dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc võ là vì khơng phục tùng,
dùng văn hố mà khơng sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết). Ở phương Tây, để
chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Nga có từ kultura.
Những chữ này lại có chung gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh
thần. Vậy chữ cultus là văn hoá với hai khía cạnh: trồng trọt, thính ứng với tự
nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ khơng
cịn là con vật tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp[12, tr.17].

Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và
thay đổi theo thời gian thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử
dụng vào thế kỉ XVII- XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nơng
nghiệp.
Vào thế kỉ XIX, thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học phương
Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hố (văn
minh) thế giới có thể phân ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất và văn
hố của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hố hướng về
trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh. E.B Taylo (E.B. Taylor)
là đại diện cho cách nhận thức về văn hóa này. Theo ơng, văn hố là tồn bộ
phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong
tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một
thành viên của xã hội.
Ở thế kỉ XX, khái niệm “văn hoá” thay đổi theo F. Boa (F. Boas), ý nghĩa
văn hoá được quy định do khung giải thích riêng, chứ khơng phải bắt nguồn từ
cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hố từng dân tộc
cũng khơng phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn
hố”. Văn hố khơng xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt.
L. Kroibơ (A.L. Kroeber) và C.L. Klúchơn (C. L. Kluckhohn) quan niệm văn
hố là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu
tượng và nó hình thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại hình khác,
trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra[16, tr.19].
13


Theo định nghĩa văn hóa của Unesco, văn hóa có nội hàm rộng nhất, “văn
hóa hơm nay có thể là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ
và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong
xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những
quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và

những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản
thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân
bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa
mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương
án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi
khơng biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những cơng trình vượt
trội lên bản thân….”[12, tr. 24].
Như vậy, văn hóa khơng phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể
nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa
là chìa khóa của sự phát triển.
2.1.2. Phân loại văn hóa
Nguồn gốc sâu xa của sự khác biệt văn hóa là do những khác biệt về mơi
trường sống quy định. Do vậy, khi xưa giữa những nền văn hóa của các dân tộc
ở phương Đơng và phương Tây có sự khác biệt rõ ràng. Các cộng đồng cư dân
phương Đông cư trú trong môi trường là những vùng châu thổ nằm trong lưu
vực các con sơng lớn với khí hậu nóng ẩm. Phương Tây thì lại là xứ sở của
những thảo ngun mênh mơng với khí hậu lạnh khơ.
Hai loại địa hình châu thổ và đồng cỏ dẫn đến việc cư dân của hai khu vực
phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau: trồng trọt và chăn nuôi. Kinh tế trồng
trọt bắt buộc phải sống định cư (vì trồng cây xuống thì phải chờ cho nó lớn lên,
ra hoa kết trái để cịn thu hoạch). Có những loại cây phỉa trồng cơng phu, lâu
năm, có khi 5 – 10 năm mới có quả, rồi lại thu hoạch nhiều lần. Lối sống chăn

14


ni thì khác. Tài sản của dân du mục là lối sống du cư – vừa đi vừa ở, nay đây
mai đó…
Kinh tế được quy định bởi mơi trường sống và văn hóa cũng vậy. Kết quả là
hình thành hai loại hình văn hóa: Văn hóa nơng nghiệp lo tạo dựng một cuộc

sống ổn định, lâu dài, mang tính trọng tình trọng nghĩa. Văn hóa du mục lo tổ
chức làm sao để có thể thường xuyên di chuyển một cách gọn gàng, nhanh
chóng, thuận tiện, mang tính chất cộng đồng.
Các nền văn hóa hiện đại, dù thuộc giai đoạn văn minh nào (nơng nghiệp,
cơng nghiệp) cũng khơng hồn tồn thốt ra ngồi hai loại hình truyền thống ấy.
Căn cứ theo nguồn gốc, ta thường gọi chúng là văn hóa nơng nghiệp và văn hóa
du mục. Điển hình cho loại gốc nơng nghiệp là cấc nền văn hóa phương Đơng.
Mỗi loại hình văn hóa này là một chùm những đặc trưng khác biệt do mơi
trường sống và loại hình kinh tế quy định.
Bên cạnh đó, con người có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và
nhu cầu tinh thần, do vậy, con người cũng có hai loại hoạt động cơ bản là sản
xuất vật chất và sáng tạo các giá trị tinh thần. Từ đó, văn hố cũng thường được
chia làm hai dạng: văn hoá vật chất và văn hố tinh thần.
Văn hóa tinh thần hay cịn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín
ngưỡng, phong tục, tập quán, giá trị, chuẩn mực,... tạo nên một hệ thống. Hệ
thống đó bị chi phối bởi trình độ của các giá trị, đơi khi có thể phân biệt một giá
trị bản chất. Chính giá trị này mang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng
tiến hóa nội tại của nó[12, tr.27].
Văn hóa vật chất: Ngoài các yếu tố phi vật chất như giá trị, tiêu chuẩn,... nền
văn hóa cịn bao gồm tất cả những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã
hội học gọi chung là đồ tạo tác. Những con đường, tịa cao ốc, đền đài, phương
tiện giao thơng, máy móc thiết bị...đều là đồ tạo tác. Văn hóa vật chất và phi vật
chất liên quan chặt chẽ với nhau. Khảo sát một nền văn hóa có thể thấy văn hóa
vật chất phản ánh những giá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng. Ở
15


các nước Hồi giáo, cơng trình kiến trúc đẹp nhất và hoành tráng nhất thường là
thánh đường trong khi ở Mỹ, nó lại là trung tâm thương mại. Văn hóa vật chất
cịn phản ánh cơng nghệ hiểu theo khái niệm xã hội học là sự áp dụng kiến thức

văn hóa vào sinh hoạt trong môi trường tự nhiên. Ngược lại, văn hóa vật chất
cũng làm thay đổi những thành phần văn hóa phi vật chất[12, tr.27].
2.2. Giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc thổ ở miền Tây Nghệ An
2.2.1. Tơn giáo – tín ngưỡng
Người Thổ quan niệm “đất có thổ cơng, sơng có hà bá”. Hiện nay, nhiều
làng người Thổ ở Quỳ Hợp cịn duy trì lễ cúng thành hoàng. Đây là một trong
những lễ cúng quan trọng nhất của cộng đồng.
Người Thổ thờ rất nhiều thần, đặc biệt là các vị thần có liên quan đến việc
đánh giặc và khai khẩn đất đai. Ngày xưa, hầu như tất cả các làng người Thổ
đều có đền miếu thờ các vị thần và thành hồng làng.
Theo ơng Trương Thanh Hải, dân tộc Thổ, cán bộ văn hoá xã Nghĩa Xuân,
huyện Quỳ Hợp, Nghệ An, thì điều này liên quan đến nguồn gốc và quá trình
phát triển của dân tộc. Người Thổ là những cư dân nhóm Việt Mường di cư đến
miền núi Nghệ An, Thanh Hóa, vào khoảng thế kỉ XV-XVIII[]. Khi đến đây
khai hoang, tạo nên một vùng cư trú mới, một tộc người mới, người ta mang
theo những phong tục, tín ngưỡng của cộng đồng mình, trong đó có việc thờ
thần. “Dân tộc tộc Thổ xưa nay đều thờ thổ cơng. Ngồi ra, người ta thờ long
mạch, thờ thành hồng làng. Người ta thờ những ơng có cơng khai khẩn hay có
cơng với làng, coi đó là những vị thần của làng, chủ yếu là ông khai đất, mở cõi,
chống giặc ngoại xâm. Do ảnh hưởng của người xi lên thì người ta có thờ ơng
thành hồng Cao Sơn, sau đó người ta thờ đến các vị thần, chúa đất, thần đất,
thần có cơng khai khẩn có tên lưu ở đền, đình làng” [35].
Lễ cúng Thành hồng làng, ngày xưa, làng mổ một con lợn, lấy cái thủ lợn
cúng trên đình. Từng hộ có con gà thỏi xơi, bánh trái, gồm có bánh đầu chó,

16


bánh sừng trâu, bánh ít, mang đến dâng. Ai có thịt thì mang thịt, ai có gà thì
mang gà, dâng cúng xong, cả làng cùng ăn.

Trong tâm thức người Thổ, thành hồng làng có tác động và ảnh hưởng đến
cuộc sống, sự phát triển của dân làng cũng như sự đồn kết của các gia đình,
dịng tộc trong làng. Làng nào duy trì được việc thờ cúng thành hồng thì làng
đó mới thịnh vượng, dân làng mới ăn nên làm ra.
Trên thực tế, việc thờ cúng thành hồng làng cịn giúp duy trì tình làng nghĩa
xóm, giúp các gia đình gắn bó với nhau hơn. Bởi, ngày thờ cúng thành hoàng đã
trở thành ngày hội của cả dân làng. Vào ngày này, những người con xa quê nếu
có điều kiện đều trở về thắp nén hương tưởng các vị thần có cơng khai mở bờ
cõi[22].
Các làng người Thổ cịn cắt cử người thường xuyên trông coi và lo việc cúng
lễ, hương khói hàng ngày tại đền hoặc đình làng. Họ gọi những người này là ông
từ đền. Đối với người Thổ, những ơng từ đền rất được coi trọng.
Ơng từ phải là người có uy tín, biết rành các phong tục lễ nghi để cúng bái.
Gia đình ơng phải song tồn, có con trai, con gái, làm ăn khấm khá, đạo đức tốt
đẹp. Nếu người này để xảy ra chuyện xấu thì dân làng cắt nhiệm và họp, cử
người khác. Nhiệm kì của ơng từ thường kéo dài 2 năm, có khi đến 5 năm nếu
có uy tín. Người Thổ rất tự giác giữ gìn sự tơn nghiêm của đền làng.
Khơng phải những ngày lễ tết, ngày cúng thành hồng làng hay các ngày mở
cửa đình làng, khơng phải ai cũng được tự tiện vào. Phụ nữ có thai, phụ nữ đến
kỳ kinh nguyệt thì tự giác khơng vào đền.
Ngày nay, việc thờ cúng thành hoàng làng và các vị thần vẫn được một số
làng người Thổ ở Quỳ Hợp (Nghệ An) duy trì. Tuy nhiên, một số làng, theo thời
gian, tục thờ thành hoàng làng mai một dần. Nhiều ngơi đình làng, biểu tượng
của sự uy nghiêm, linh thiêng một thời, đã từng được trưng dụng làm kho hợp
tác trong thời kỳ chiến tranh hay thời bao cấp, giờ bỏ hoang.
Ơng Trương Thanh Hải, cán bộ văn hóa xã Nghĩa Xuân, bảo rằng khi ông
đến các làng này, bà con người Thổ đều bày tỏ mong muốn được khôi phục
17



phong tục cổ truyền của địa phương mình. Bởi, theo bà con, do điều kiện khách
quan, đình làng có thể bị phá, dẫn đến phong tục thờ cúng có thể bị mai một,
nhưng bà con vẫn giữ niềm tin, tín ngưỡng truyền thống. Và, đó mới là điều
quan trọng[35].
Ngồi thành hồng làng, người Thổ cịn thờ rất nhiều thần khác và ma. Trong
một làng có khi thờ tới 14 – 15 vị thần. Thần Cao Sơn, Long mạch, Bản
thổ,…thường được thờ ở nhiều địa phương. Nhiều nơi thờ cả thần Đông, thần
Tây, thần Sơn dương (do con sơn dương chết làm hại cả làng), Thủy tề, Đức
ơng… Có nơi thờ thần Cả, thần Đẹt (anh cả, em bé)…Song đối tượng thờ cúng
phổ biến là những người có cơng khai phá đất đai, có cơng đánh giặc. Người
Thổ cũng thờ các loại ma, như: ma trầy, ma cận, ma cõi, ma đất, ma lôi, ma mục
đồng,…[31].
2.2.2. Phong tục tập quán
Cưới hỏi: Nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hôn nhân của người Thổ là ngoại
hôn - cấm hôn nhân nội bộ dịng họ (đó là những thành viên có quan hệ máu mủ,
ruột thịt với nhau dựa theo mối quan hệ thân thuộc tính theo huyết thống phía
cha mà đồng bào gọi là họ “nội”). Trong quan niệm của đồng bào có sự phân
biệt rạch rịi giữ họ nội (họ cha), họ ngoại (họ mẹ) và họ vợ. Để tránh vi phạm
nguyên tắc này họ thường được nhận biết qua tộc phả (gia phả dòng họ), qua
việc truyền dạy của cha mẹ với con cái[22]. Ở người Thổ mỗi dòng họđều có tên
và các chi nhánh đều có tên đệm, vì thế dù có ở xa họ vẫn nhận ra nhau. Ở nhóm
Đan Lai, Ly Hà, Tày Poọng, tội loạn luân bị trừng phạt nặng, trước đây phải ăn
vào máng lợn, và bị đuổi đi nơi khác,… [22].
Người Thổ phổ biến hình thức hơn nhân 1 vợ 1 chồng bền vững và vợ cư trú
bên chồng. Do tính chất phụ quyền của kiểu gia đình gia trưởng, nên việc hơn
nhân chủ yếu là do cha mẹ quyết định. Trước đây, hôn nhân thể hiện tính chất
mua bán, nhà trai phải đền bù cho nhà gái 1 món tiền và 1 số hiện vật nhất định,
ở những gia đình giàu có cịn tồn tại chế độ đa thê, nhưng nay khơng cịn.

18



Trong việc dựng vợ gả chồng, tiêu chuẩn người chồng lý tưởng là khỏe
mạnh, cần cù, tháo vát trong công việc, đạo đức tốt, được mọi người yêu mến.
Tiêu chuẩn đối với người vợ là khỏe mạnh, đẹp người, đẹp nết, biết cư xử ăn ở
với bố mẹ, anh em trong gia đình, thạo cơng việc đồng áng và nội trợ[22].
Trong tình u, nam nữ thanh niên có 1 số quyền tự do nhất định. Vào những
dịp đó, trai gái thường đi thành tốp, rủ nhau kiếm bạn, đánh đu, tung còn, hát
“dạ ời” (người Thổ ở Quỳ Hợp), qua đó làm quen và tỏ tình với nhau.
Trong q trình tìm hiểu, họ trao quà tặng cho nhau để thể hiện tình cảm của
mình. Những đơi trai gái có thể thành vợ chồng hay không, phần nhiều phụ
thuộc vào cha mẹ. Người Thổ có tục “ngủ mái” khá thịnh hành. Vào những dịp
hội hè, hay tết nhất, 1 chàng trai có thể nằm tán chuyện với 2,3 cơ gái và ngược
lại. Những lúc “ngủ mái”, trai gái rất quý mến, tôn trọng nhau, bất kỳ hành vi
xấu xa nào cũng bị dư luận xã hội và tập quán dân tộc lên án nghiêm khắc[22].
Trong trường hợp ở rể, nhà gái chủ động trong hơn nhân chịu 1 số phí tổn
đám cưới cùng với nhà trai. Người Thổ ở Nghĩa Đàn có tục đưa dâu ban đêm.
Tùy theo cung độ dài ngắn của quảng đường mà tính giờ xuất phát, nhưng
thường thì phải đến nhà trai lúc mờ sáng để cho những con chó trong nhà khơng
thấy được mặt cơ dâu khi bước lên nhà. Người Thổ nhóm Đan Lai, Ly Hà ở Con
Cuông tổ chức và làm lễ cưới không làm tại nhà gái hay nhà trai, mà tại 1 cái lán
do nhà trai dựng ở rừng cạnh suối[29]. Cỗ cúng lúc này gồm có nếp đồ với củ
nâu chín (đã xát nhỏ) và cá khơ cũng đồ lên, nói là cúng tần rừng núi, sông suối
– kẻ chi phối con người. Những ai có mặt, nhất là dâu rể, đều phải nếm món ăn
truyền thống lần này sau khi cúng để cho có phước. Mọi thức ăn đãi khách nhà
gái, họ nhà trai phải làm từ lán mang đến. Nhưng khi chú rể và họ nhà trai tới
cầu thang nhà gái thì sẽ nhận một trận “mưa” ngập đầu của nhà gái đã chuẩn bị
sẵn với tư thế ngăn cản – cũng phản phất giống với tục này của người Thái và
tục chăng dây của người Kinh. Vậy là chú rể phải lóp ngóp đội “mưa” – trận
mưa nhân tạo ấy, đêm rượu và bạc trắng biếu riêng trong họ nhà gái làm lễ xin

lên nhà, mới được buông tha, mở đường cho đoàn dẫn cưới theo lên. Buổi chiều
19


hơm đó, cơ dâu chú rể phải ra ngủ ngồi lán, để tỏ lòng chia sẻ những vất vả cho
họ nhà trai. Sáng hôm sau, cô dâu sẽ về nhà bố mẹ đẻ để cùng người họ về nhà
trai. Trong “tuần trăng mật” 3 ngày đêm đó, cơ dâu đóng đô tại buồng, không
phải động tay vào bất cứ việc gì kể cả nấu ăn, đi lấy nước. Hai vợ chồng cùng ăn
riêng 1 mâm trong buồng mà không ăn chung với gia đình cho đến ngày cuối
cùng[29].
Trong cuốn Địa chí huyện Quỳ Hợp, các tác giả cho biết 1 đám cưới của
người Thổ cụ thể trải qua các bước sau:
Một, trai gái tìm hiểu nhau. Trai gái Thổ được tự do tìm hiểu yêu đương. Họ
tìm hiểu nhau qua những dịp “ngủ mái”, gặp nhau nơi chợ búa, nơi hội hè, hát
đối đáp giao duyên,v.v. Sau khi hai người đac ưng ý, thì nói với cha mẹ, chuẩn
bị làm lễ ăn hỏi.
Hai, lễ ăn hỏi. Nhà trai tìm người làm mai mối đến ướm lời. Lễ ăn hỏi được
tiến hành 2 lần:
Lần thứ nhất: Ông mối và bà mối cùng bố hoặc mẹ chàng trai, với 1 số người
thân và vài cô gái, mang theo lễ vật gồm 1 chai rượu, 1 liền trầu 30 lá bẻ đôi, 1
trẽ cau, 12 cái bánh “peng trốc chó” (bánh đầu chó) – bánh gói bằng lá đót, có 3
góc trơng như cái vú). Nếu nhà gái nhận lễ thì tiến hành lễ ăn hỏi lần 2
Lần thứ 2: Thành phần người đi như lần 1, số người thân có thể đơng hơn. Lễ
vật cũng như lần trước, nhưng số lượng nhiều gấp đơi. Nhà gái thuận tình thì
nhận lễ, đặt lên bàn thờ. Những lễ vật này sẽ được nhà gái đem chia cho bà con
họ hàng trong làng, coi như báo cho mọi người biết là họ sắp gả con gái đi lấy
chồng. Người Thổ ở các huyện khác nhau như Nghĩa Đàn, tân Kỳ thì có lễ “hỏi
bánh”, thêm 24 cái bánh “ống”, tức bánh tét, và vài cân thịt; và lễ “hỏi trầu”.
Ba, lễ trầu lại/đi chơi nhà. Thành phần những người đi như 2 lần trước, thêm
vài cơ gói gọi là “con mái” để gánh lễ vật. Lễ vật mang theo cũng như 2 lần

trước, thêm bánh ống (bánh tét), bánh nổ, bánh thính… Mục đích của lễ này là
để thơng gia tìm hiểu, gắn bó với nhau hơn. Khi nhadf trai ra về, con gái ra cửa
trao mũ nón cho mọi người và nhà trai biếu cơ ít tiền, mời cơ có dịp sang nhà
20


trai chơi. Từ đó, hàng tháng, hàng năm, người con trai phải sang nhà con gái lao
động, cho dến khi nhà gái ưng thuận cho cưới. Đó cũng giống như tục ở rể của
người Thái vậy. Từ lễ ăn hỏi cho đến lễ cưới, ngoài những lễ trên, vào những
dịp như tết Đoan Ngọ, Thường tân, tết Nguyên Đán,…thì nhà trai vẫn phải đi lễ
nhà gái. Nếu khơng thì coi như bỏ cô dâu.
Bốn, lễ cưới. Lễ cưới của người Thổ ở Quỳ Hợp khá tốn kém, có rước dâu và
khơng rước dâu. Trường hợp có rước dâu là khơng phải ở rể, do đã ở rẻ trước
rồi, hoặc đã nạp của cải thay thế. Không rước dâu là trường hợp phải ở rể sau
đám cưới, do chưa ở rể, và khơng có của cải thay thế[29].
Tục lệ sinh đẻ: Theo quan niệm của người Thổ, gia đình có nhiều con là một
niềm hạnh phúc lón. Trước kia cũng như hiện nay, để kén chọn vợ cho con trai,
các bậc cha mẹ tìm hiểu kỹ gia đình người con gái, nhất là xem người mẹ sinh
đẻ có tốt và dễ ni con khơng.
Khi người phụ nữ có thai, họ vẫn đi làm nhưng vẫn kiêng làm những việc
nặng nhọc để bảo vệ thai nhi. Trong thời gian thai nghén, người phụ nữ có rất
nhiều kiêng kỵ như: kiêng ăn thịt chồn, rùa, ba ba, vịt, dê,… Họ cho rằng nếu ăn
vào, sau này người vợ sẽ khó đẻ. Người chồng cũng kiêng ngủ chung với vợ,
không tham gia các đám ma, giết các súc vật,v.v. Gần đến ngày sinh, gia đình
nhà chồng chuẩn bị rượu, gạo, nếp, cho người vợ bồi dưỡng. Đến ngày sinh, sản
phụ lo tắm rửa, chuẩn bị đồ đạc cho việc sinh đẻ, dọn buồng cho mình. Phụ nữ
Thổ thường đẻ ngồi hoặc đẻ nằm. Khi đứa bé được ra đời, bà đỡ hay người mẹ
dùng dao (kéo) hay cật nứa cắt rốn cho bé. Cuống rốn được cất giữ và chôn cẩn
thận, không để người ngoài biết. Khi đứa trẻ đầy tháng, người ta tổ chức cúng
“mụ” và lễ ăn mừng, mời bà con, anh em đến dự. Lễ đặt tên được tiến hành sau

khi sinh: Tên đứa bé thường do ông, bà hay anh em đặt và không được trùng tên
với họ hàng[22].
Tang lễ: Nghi lễ đám tang người Thổ khá phức tạp. Nó phản ánh quan niệm
lâu đời của đồng bào về thế giới bên kia, thế giới của người chết. Khái niệm

21


“linh hồn” là hạt nhân của mọi tư tưởng tôn giáo mà tang lễ đã phần nào biểu
hiện.
Người Thổ quan niệm con người có 3 hồn, 7 vía, hoặc 3 hồn, 9 vía. Đồng bào
coi âm phủ là thế giới của người chết. Người ta quan niệm chết là hoàn thành
cuộc sống ở trần gian để về sống với tổ tiên. Khi hồn lìa khỏi xác để về trời sẽ
tiếp tục cuộc sống mới nhưng sung túc hơn so với trần gian. Họ cho rằng chết
già là cái chết lành, trọn nghiệp, còn chết trẻ nhất là các trường hợp bất đắc kì tử
là cái chết oan uổng, xấu số nên hồn biến thành ma hay chọc ghẹo người qua
đường[22].
Khi trong nhà có người chết, tang chủ, con cái báo cho trùm làng, rồi trùm
làng lập tức đánh 3 hồi 9 tiếng cồng hoặc trống báo cho họ hàng và dân làng
biết. Nghe những tín hiệu âm thanh đó, mọi người tập trung đến nhà có tang,
nghe cắt đặt cơng việc, cùng nhau lo lắng giúp đám tang chu đáo. Người thì đi
mời thầy mo, mời phường nhạc, làm quan tài, làm nhà “vẹ” (nhà mồ), sắm sửa
khăn áo tang … Xác người chết được đặt trong chiếu ở gian giữa, đầu quay vào
phía trong, mặt đắp vng vải trắng, gọi là “thượng câm”, và lấy miếng vải khác
dài 1,5m đắp dọc theo người, gọi là “hạ câm”; chân quay ra phía ngồi. Sau khi
con cháu đến đầy đủ, người ta tắm rửa, thay quần áo và khâm liệm người chết,
bỏ vào quan tài. Tấm vải trắng đắp mặt người chết được xé thành nhiều mảnh/
sợi dây nhỏ, đem buộc và cổ tay những người thân thích, xóm làng, gọi là “chạc
thượng”, thể hiện mối quan hệ tình cảm giữa người chết và người sống. Nữ buộc
vào tay trái, nam buộc vào tay phải. “Chạc thượng” được mọi người giữ gìn cho

đến khi tự đứt mới thơi[22].
Quan tài thường làm bằng cây gỗ, như gỗ dổi, vàng tâm, hoặc “nhất săng vì,
nhì cây lội”. Sở dĩ họ coi trọng việc sử dụng hai loại gỗ này là vì có lí do của nó.
Truyền thuyết kể lại rằng, ngày xưa có một nhà nọ có người bố bị chết, anh em
họ hàng họp nhau lại và quyết định lên núi lấy đá đẽo quan tài để bảo quản cho
xác bố được lâu và sạch sẽ. Nhưng mấy anh em đi hàng tháng trời vẫn chưa đẽo
được xong, ông trời thấy vậy thương tình bảo cậu em út lên rừng lấy một trong
22


hai loại gỗ săng vì hoặc cây lội, để làm áo quan cho bố. Đây là loại gỗ tốt mà
người Thổ chỉ dùng trong việc làm quan tài, và cũng từ đó người ta kiêng đốt
loại cây này vì họ cho rằng nếu đốt sẽ bị nóng mồ mả. Hai nửa quan tài được
kht hình lịng máng. Phía ngồi quan tài đẽo theo hình lục lăng, hoặc đốt vét
khum hum. Đàn ơng qua đời có 7 đường đẽo, đàn bà có 9 đường đẽo. Khâm
liệm xong, người ta gắn quan tài bằng chất keo làm bằng cám và đất sét, rồi “kê
cối, kê chày” để đặt quan tài[22].
Thi hài được quàn trong nhà từ 1 đến 3 ngày. Trước đây, người ta thường
quàn người chết trong nhà lâu ngày, có khi hàng tuần, hàng tháng, nay đã giảm.
Phục vụ đám tang có gồm kèn xơna, với một cái trống to, một cái cồng nhỏ, một
cái “pục poọng”, một cái phèn la, một bộ chũm chọe. Trong thời gian quàn xác,
người ta tổ chức 1 số nghi lễ như:
Một, thăm ún dôộng eng (Thăm em, chơi với anh). Họ dùng rơm hoặc vải
bện thành hình nhân thay cho người chết, mặc quần áo và đắp mặt cho hình
nhân, cáng hình nhân bằng võng, đến nhà bà con, họ hàng thăm. Đến mỗi nhà,
thầy mo thay mặt người qua đời cảm ơn sự giúp đỡ và tình cảm sâu nặng của
chủ nhà đối với mình lúc cịn sống và chào vĩnh biệt chủ nhà. Cịn chủ nhà thì
khóc lóc, kể lại cơng đức của người chết và nói lên lịng tiếc thương vơ hạn của
mình.
Hai, thăm bến nước. “Thăm ún dộộng eng” xong, người chết được đưa ra bến

sông, hoặc giếng nước,… những nơi mà khi cịn sống người đó hay đến đó để
tắm rửa, múc nước. Tại những nơi này, con dâu hoặc con gái người chết, thay
mặt người chết kể lại sự gắn bó của người chết với những kỷ niệm sâu sắc, đồng
thời cảm ơn công lao của những nơi này đối với người chết lúc còn sống, rồi
vĩnh biệt để sang thế giới bên kia[22].
Riêng đối với người Quỳ Hợp cịn có thêm các lễ “Cắt xắc” (cắt tóc), “Tơm
kem” (khất âm dương), “Cung cơm” ( cúng cơm), “ Xí vong”, và múa hát, diễn
trị chơi, đấu vật.

23


Lễ “Cắt xắc” (Cát tóc), đây là lễ “trả ơn”của người sống đối vỡi người chết
và để người qua đời chào người thân trong gia đình trước lúc sang thế giới bên
kia. Trong lễ này, con cháu đứng trước bàn thờ, thầy mo tay cầm cành “phan” –
một cành tre có treo tờ giấy trắng ghi tên từng người theo thứ bậc cao thấp trong
họ hàng làng xóm. Ơng mo gọi hồn ma lên, hồn ma nhập vào tay ông mo, tay
ơng chỉ vào tên người nào thì mo liền thay mặt hồn người chết nói những lời lưu
luyến, biết ơn người ấy, rồi kể những kỷ niệm, tiếc thương và vái. Cúng xong,
mọi người nghiêng đầu cho thầy mo cắt một nhúm tóc. Tóc của tất cả mọi người
thân trong gia đình có thể được đốt ngay tại nhà hoặc đốt ở mộ sau lễ mai
táng[22].
Lễ “Tơm kem” (khất âm dương), đó là lễ người chết xin với ơng bà, tổ tiên –
những người đã chết trước mình tha thứ cho những lỗi lầm của họ và cho phép
mình về thế giới bên kia với họ. Thầy mo thay mặt người chết nói những lời
thỉnh cầu này. Xong gieo hai đồng tiền xuống cái dĩa, một mặt sấp một mặt ngửa
thì được, khơng thì phải xin lại và cho đến khi được thì thơi[22].
Lễ “Cung cơm” ( cúng cơm), lễ vật gồm xơi, rượu nếu khơng thì phải có lịng
lợn, thịt lợn. Xơi, thịt từng loại bày ra trên một cái “châm” (đĩa bằng lá chuối),
rồi những cái “châm” đó lại đặt vào một cái mâm và dâng lên cúng. Con cháu

phải tập trung đông đủ, rồi thầy mo mới cúng, mời người qua đời lại ăn cơm.
Nội dung bài cúng nói về thân thế, cơng lao, tấm lịng của người qua đời đối với
con cháu, và quan hệ của người chết đối với anh em họ hàng, làng xóm[6].
Lễ “Xí vong” (mai táng), đây là hình thức “mai táng” giả. Vào giờ đã chọn,
con cháu làm lễ này, xúm vào cùng nhấc quan tài lên và hạ xuống như vậy 3 lần.
Người chết coi như đã được chôn cất xong. Sau này, đưa ra rú mồ mai táng lúc
nào cũng được, không phải chọn ngày, giờ nữa[22].
Múa hát, diễn trò vui, tiêu biểu là múa lang bang. Đây là điệu múa đi săn,
diễn cho hồn ma xem trước lúc sang thế giới bên kia. Một người đội lốt hổ, một
người đội lốt nai và một thợ săn. Họ diễn lại cảnh hổ bắt nai và thợ săn bắn hổ.
Mở đầu là cảnh con nai đang ăn cỏ, bỗng hổ ở ở đâu xuất hiện, gầm thét, lồng
24


×