Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tổng hợp 5 bài phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.02 KB, 17 trang )

Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

VĂN MẪU LỚP 12: VIỆT BẮC – TỐ HỮU
TỔNG HỢP 5 BÀI “PHÂN TÍCH 8 CÂU ĐẦU BÀI THƠ VIỆT BẮC CỦA TỐ
HỮU”
BÀI MẪU SỐ 1:
Một trong những điểm nổi bật của phong cách thơ Tố Hữu là chất thơ trữ tình chính trị. Thơ
Tố Hữu gắn bó một cách sâu sắc với mọi biến chuyển trong đời sống cách mạng, trong cuộc
đấu tranh giành độc lập, giải phóng miền nam thống nhất giang sơn và từng bước đi lên
cuộc CM DT DC do Đảng cộng sản lãnh đạo… Nhưng thơ Tố Hữu vô cùng tha thiết đằm
thắm đem đến cho người đọc xúc cảm tinh tế và lớn lao. Tố Hữu đã trữ tình hố mọi vấn đề
chính trị - xã hội để làm nên chất “trữ tình chính trị”.
Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp và cũng là đỉnh cao của thơ Tố
Hữu là bài thơ tiêu biểu cho phong cách này. Bằng cấu từ đầy màu sắc trữ tình dân gian, 1
thứ ngơn ngữ ngọt ngào tha thiết, những hình ảnh rất giàu chất thơ Tố Hữu đã từ cuộc chia
tay giữa những người kháng chiến đối với đồng bào Việt Bắc mà tái hiện lại một Việt Bắc
trong kháng chiến đầy gian khổ hy sinh nhưng thấm đẫm nghĩa tình quần chúng giữa cách
mạng với nhân dân, lãnh tụ với dân tộc, miền ngược với miền xi, q khứ, hiện tại, tương
lai như hồ quyện vào nhau. Điều đó dã được thể hiện ngay trong 8 câu thơ mở đầu bài thơ.
Vì là 1 phong cách trữ tình chính trị nên thơ Tố Hữu ln gắn liền với những vấn đề thời sự,
luôn kết tinh trong tác phẩm hơi thở của cuộc sống. Nhờ thế Việt Bắc đã ra đời trong một
hoàn cảnh khá đặc biệt. Đó là vào tháng 10/ 1954, sau khi kháng chiến vĩ đại của dtộc ta kết
thúc bằng một chiến thắng rạng rỡ khắp 5 châu 4 biển, làm chấn động địa cầu, đất nước đã
hồ bình, Bác Hồ và các cơ quan trung ương Đảng, cùng với phần lớn các tổ chức kháng
chiến, những người kháng chiến đã hồ hởi trở về tiếp quản thủ đô. 1 cuộc chia tay lớn mang
tính chất lịch sử đã diễn ra trên khắp vùng quê nẻo đường. Nhân sự kiện ấy Tố Hữu muốn
làm một cuộc tổng kết về quá trình chiến thắng, VB- thủ đô của kháng chiến. Nhưng Tố
Hữu đã không thể hiện nó như bản tổng kết quân sự hay những trang sử về kháng chiến
hoặc một báo cáo chính trị thơng thường. Tố Hữu đã trữ tình hố cuộc chia tay lớn này bằng
việc thể hiện nó như một cuộc chia tay của đơi lứa, của “mình với ta”, “ta với mình” trong


ca dao dân ca của mọi miền đất nước đặc biệt trong ca dao dân ca của đồng bằng Bắc Bộ.
Hoàn cảnh đã tạo nên cấu trúc trữ tình tác phẩm, cái âm hưởng dìu dặt, lưu luyến, bịn rịn
bao trùm bài thơ đó là cái âm hưởng của những câu thơ lục bát đều đặn nhịp nhàng và
những thanh bằng thanh trắc đắp đổi cho nhau như trong câu thơ lục bát truyền thống. Cấu
trúc trữ tình tạo nên cái tứ trữ tình, uốn vào nó thiên nhiên rất giàu giá trị biểu cảm, trực tiếp
bày tỏ cảm xúc với rất nhiều chữ “nhớ” lan toả khắp bài thơ rồi những từ “tha thiết”, “bâng
khuâng” với hình ảnh người u. Có thể nói hồn cảnh ra đời chính là sự khơi gợi cảm

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 1


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

hứng, từ cảm hứng khơi gợi giọng điệu, từ giọng điệu như một thanh nam châm hút vào tác
phẩm những từ ngữ cùng một trường biểu cảm.
Việt Bắc là một những hoài niệm lớn của những ngày kháng chiến, những hồi niệm được
đặt trong khơng gian thấm đẫm chất trữ tình. Cho nên ngay từ những dòng thơ mở đầu, Việt
Bắc mở ra khung cảnh chia tay giữa núi rừng, trong đó 4 dịng thơ đầu là tiếng nói Việt Bắc
với người miền xi, và cũng 4 câu thơ như vậy viết về cảm xúc của người miền xuôi như
để đáp lại người Việt Bắc. Kết cấu đối đáp đã tạo nên những suy nghĩ về tấm lòng người ở,
người đi thuỷ chung son sắt.
Việt Bắc là tiếng nói trữ tình giữa khung cảnh chia tay của những người kháng chiến với
đồng bào vùng cao, nhưng lại được mở đầu bằng tiếng nói của người miền ngược, Tố Hữu
như muốn nói cái tình của đồng bào Việt Bắc với Bác Hồ, Trung ương Đảng, những người
kháng chiến thật sâu sắc biết bao nhiêu, thuỷ chung đến chừng nào. Tiếng nói của người
tiễn đưa đã thấm đấm nhớ thương, ngay từ những từ ngữ xưng hô: “Mình về mình có nhớ
ta”. Chữ “mình” vốn để chỉ những người nói, nhưng VB lại dành để chỉ những người về

xi, gọi người đối thoại với mình là mình, hay đúng hơn là phần thương nhớ của chính
mình, hoặc sự phân thân của chính mình. Cho nên mình và ta tuy hai mà một, cứ quấn quýt
bên nhau, thậm chí nhớ thương dành cho người về xi nhiều hơn, cho nên 4 dịng thơ mà
“mình” trở đi trở lại bốn lần: “mình về mình có nhớ ta”; “mình về mình có nhớ khơng”.
Người viết đã biến cuộc chia tay lớn thành cuộc chia tay “mình” và “ta” giống như đôi lứa
yêu nhau, đầy bịn rịn lưu luyến.
Lời chia tay lại có kết cấu của hai câu hỏi. Một câu hỏi bao trùm cả thời gian: có nhớ “muời
lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Một câu hỏi bao trùm cả khơng gian : có nhớ “Nhìn cây
nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn”. Đó là những câu hỏi rất giàu giá trị tu từ, nó như xốy sâu
vào kí ức của người miền xi, nó như dồn nén bao nhiêu kỉ niệm của muời lăm năm sâu
nặng nghĩa tình với những buồn vui, những gian khổ mà gắn bó từ những ngày ngọn lửa
hồng của cách mạng được chính chủ tịch Hồ Chí Minh khơi lên từ Pắc Bó, cho tới những
ngày độc lập rồi kháng chiến thành cơng. Đó cũng là 15 năm với bao nhiêu thiết tha mặn
nồng. Trong khi đó câu hỏi:
“Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn”
lại bao trùm cả không gian, không phải gợi nhớ kỉ niệm mà làm cho khoảng cách không
gian giữa miền xi và Việt Bắc như xích lại nhau trong một chữ nhớ “nhìn cây nhớ núi”;
“nhìn sơng nhớ nguồn”. “Cây” và “sông” là biểu tượng của không gian miền xuôi vời vợi,
với vùng cao trong biểu tượng “núi” “nguồn”. Chữ “nhớ” đặt giữa “cây” và “ núi”; “sông”
và “ nguồn” như có sự kết nối khơng gian cách trở vời vợi ấy trong tâm tưởng, như xố
nhồ sự chia li. Cũng giống như ở câu thơ mở đầu “mình” và “ta” trong cuộc chia li này
khơng hề có sự xa cách trong tình cảm, bởi một chữ “nhớ” đã gắn liền họ với nhau.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 2


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


Ngôn ngữ của đoạn thơ không chỉ đằm thắm trong những từ xưng hô đầy sáng tạo mà còn ở
những từ ngữ khơi gợi bao nhiêu nỗi nhớ. 4 chữ “mình” gắn liền cới 4 chữ “nhớ” trong một
đoạn thơ. Nỗi nhớ ấy chẳng phải nồng nàn tha thiết lắm sao! Nỗi nhớ như một dòng chảy
xuyên suốt 4 câu thơ, đồng thời tác giả trực tiếp sử dụng những từ ngữ biểu hiện trạng thái
cảm xúc như “thiết tha”, “mặn nồng”. Thậm chí có những từ tưởng như chỉ là một hư từ,
rỗng về nghĩa như chữ “ấy” nhưng nó thật có giá trị, nó làm cho khái niệm thời gian 15 năm
trở thành 15 năm kỉ niệm, gợi nhớ tới câu thơ của Lưu Trọng Lư:
Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ ai quên
Cho nên “15 năm ấy” cũng là 15 năm sâu nặng tình yêu của đồng bào Việt Bắc.
Khơng chỉ có cách nói tràn đầy cảm hứng lãng mạn như trong những câu thơ viết về tình
u đơi lứa mà những hình ảnh, cách phơ diễn cịn có sự cộng hưởng của ca dao, như trong
câu: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn”. Đó là một câu thơ được viết theo thể phú,
thể tỉ, vốn rất quen thuộc trong ca dao :
“Qua đình ngả nón trơng đình
Đình bao nhiêu ngói nghĩa tình bấy nhiêu”
“Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu”.
Tố Hữu sử dụng thể phú để viết “nhìn A nhớ B, nhìn C nhớ D” như trong một cơng thức ca
dao.
Cái trữ tình khơng chỉ dào dạt ở lời thơ, cấu trúc câu hỏi hay nhưng từ ngữ giàu sức biểu
cảm mà cịn là âm hưởng của câu thơ nói chung, dìu dặt, da diết như âm hưởng của tiếng hát
ru trong dân ca vùng đồng bằng bắc bộ, dễ thấm vào tâm hồn người đọc lúc bấy giờ.
Nằm trong kết cấu của mạch đối đáp, sau tiếng hát đưa tiễn của người Việt Bắc đầy nhớ
thương, mặn nồng là lời đáp của người về xuôi:
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...”


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 3


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Nếu như người Việc Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì
trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử
dụng đại từ xưng hơ “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ “ai” để khẳng định
trước hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại
từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bồi hổi bồi hồi” hay như Tú Xương một
nhà thơ trào phúng bậc nhất của Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX cũng rất trữ tình, tha
thiết trong chữ “ai” như vậy: “Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”, “Áo bông ai ướt khăn đầu ai
khơ”. Đó là những chữ “ai” đầy u thương. Dẫu không phải không biết áo bông của ai,
khăn đầu của ai nhưng người nói vẫn sử dụng chữ “ai” mà khơng gọi tên cụ thể chính là tạo
nên một khoảng trống của không gian để yêu thương chứa đầy trong nó. Tố Hữu sử dụng và
khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ
“ai” của người về xi đủ làm xao xuyến lịng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi
yêu thương Việt Bắc đến chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với
cách mạng, đối với người miền xuôi. Một chữ “ai” làm xao động cả khơng gian đưa tiễn.
Cịn người về xuôi trước những tiếng tha thiết của người đưa tiễn đã xúc động ra sao? Tố
Hữu đã diễn tả một cách hết sức chính xác tâm trạng của người về xuôi qua những chữ
“bâng khuâng”, “bồn chồn”. “Bâng khuâng” là tâm trạng chất chứa những nhớ thương bao
trùm cả không gian với bao nhiêu kỉ niệm, không dừng lại một kỉ niệm nào. Còn “bồn chồn”
cũng là từ chỉ tâm trạng nhớ thương, những đó là tâm trạng khơng thể kìm nén bên trong mà
biểu hiện qua bên ngoài như nét mặt bồn chồn mong đợi. Ở đây cái tâm trạng ấy lại hiện ra
trong bước đi của người về xuôi thành “bồn chồn bước đi”. Nghĩa là những người kháng

chiến về tiếp quản thủ đô cũng như bao nhiêu thành phố, thị xã khác thì việc về đã đành
phải về nhưng lịng lại khơng muốn chia xa. Cho nên mỗi bước đi đều bồn chồn không
muốn rời chân. Tâm trạng bâng khuâng bồn chồn ấy còn được thể hiện một cách hết sức
tinh tế qua nhịp điệu 2 câu thơ tiếp theo:
Áo chàm /đưa buổi/ phân li
Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hơm nay
Câu thơ lục bát vốn có nhịp chẵn như nhịp thơ đều đặn của ca dao Việt Nam, nhưng với 2
câu thơ này tác giả đã tạo nên những đột biến trong nhịp điệu như một đảo phách trong âm
nhạc, đột ngột chuyển sang những nhịp lẻ, như ta đã phân tích. Đó chính là nhịp bồn chồn
của bước đi. Đoàn Thị Điểm trong “Chinh phụ ngâm khúc” đã tả cái bồn chồn ấy bằng một
câu thơ rất giàu hình ảnh:
Bước đi/ một bước/ dây dây/ lại dừng

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 4


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Tố Hữu không tả mà dùng nhạc tính của câu thơ với nhịp lẻ liên tiếp nhau để diễn tả trạng
thái bồn chồn ấy. Ta như thấy người đi và người ở dùng dằng bên nhau không nỡđứt, như
thế đôi bàn tay của người ở kẻ đi bịn rịn, không muốn rời xa.
Về phương diện nghệ thuật còn phải thấy t/giả đã sử dụng những hình ảnh hốn dụ ẩn chứa
nhiều tầng ý nghĩa. Dùng “áo chàm” để nói người VB, cũng để nói cả Việt Bắc đang tiễn
đưa người kháng chiến về xuôi. Ta chợt nhớ câu thơ của Lưu Quang Vũ viết về bàn tay của
những người yêu nhau:
Khi chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói

Mình đi rồi hơi ấm còn để lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta
Việt Bắc chỉ với tám dịng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng
chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với
ngơn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc
trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 5


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 2:
I. MỞ BÀI
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố
Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ơng đậm đà tính dân
tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và
cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Việt Bắc có nhiều đoạn thơ
hay mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta…
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay”
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: – Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm
sáu tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và
nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954).
- Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Buổi
chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ
nhưng nghĩa tình.
2. Nội dung cảm nhận
a. Bốn câu thơ mở đầu là lời của Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi kỷ niệm về một giai
đoạn đã qua, về khơng gian nguồn cội, nghĩa tình.
- Mở đầu là câu hỏi tu từ. Trong câu hỏi này, “Mình” là chỉ người ra đi, “Ta” là chỉ người ở
lại.
+ “Mười lăm năm ấy” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là thời gian chỉ độ dài gắn bó nhớ
thương vơ vàn giữa người đi kẻ ở. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa
Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt.
- Hai câu sau là lời nhắc nhở chân tình, lời dặn dị kín đáo mà rất đỗi thiết tha. Câu thơ có
hai hình ảnh “núi” và “nguồn” là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố Hữu với câu
tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Đó là lời nhắc nhở, dặn dị kín đáo rất đỗi chân thành:
Việt Bắc là cội nguồn Cách mạng, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Xin người về
đừng quên cội quên.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 6


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

b. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lịng của người về xi mang bao nỗi nhớ thương, bịn
rịn:
- “Bâng khuâng” có nghĩa là nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn (buồn vì phải xa VB,
vui vì được trở lại quê hương của mình) mà buồn nhiều hơn vui. “Bồn chồn” là từ láy diễn
tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng
ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa .

- Buổi chia tay ấy có hình ảnh “Áo chàm đưa buổi phân ly”. “Áo chàm” là màu áo nghèo
khổ, bình dị của người dân Việt Bắc, là hình ảnh hốn dụ để chỉ con người Việt Bắc. Đó là
những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng ln “đậm đà lịng son” thủy chung,
mặn nồng.
- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay” đầy tính chất biểu cảm. “Biết nói gì hơm
nay…” khơng phải là khơng có gì để nói. Khơng nói được vì xúc động nghẹn ngào khơng
thốt được nên lời. Những lời khơng nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ “Cầm tay nhau”.
“Cầm tay” là biểu tượng của tình u thương đồn kết. “Cầm tay” là đã đủ nói lên bao cảm
xúc trong lịng rồi. Mặt khác, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái tình
cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân
dài sâu lắng.
3. Nghệ thuật: Thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu
phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hốn dụ, câu
hỏi tu từ). Ngơn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ
Ta – Mình)
III. KẾT BÀI
- Đánh giá chung.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 7


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 3:
Tháng 10/1954, Trung ương Đảng chính phủ rời “ Thủ đời gió ngàn Việt Bắc” về với
thủ đô hoa và nắng Ba Đình. Nhân sự kiện thời sự có tính chất lịch sử này Tố Hữu đã viết
bài thơ Việt Bắc gồm 150 câu lục bát để nói lên nghĩa tình sâu nặng, nhắc nhở những người

chiến thắng giữ tấm lòng thủy chung ân nghĩa với mảnh đất con người quê hương Việt Bắc
đã đùm bọc mình trong những ngày gian khó. Đặc biệt, tám câu mở đầu là lời giao duyên
đằm thắm của kẻ ở người đi thắm đượm ân tình cách mạng.
Bài thơ là một hoài niệm lớn, là những hồi tưởng đầy xúc động về những chặng
đường kháng chiến ân tình găn bó thủy chung. Những hồi niệm thiết tha đã làm sống dậy
những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình với thiên nhiên con người Việt Bắc với cuộc sống kháng
chiến gian khổ và hào hùng. Tố Hữu đã khéo léo sáng tạo một tình huống đặc biệt đậm chất
trữ tình để bộc lộ tình cảm, cảm xúc. Đó là một cuộc chia tay lưu luyến có kẻ ở người đi, có
lời giao dun tỏ bày tình cảm hồi niệm, ân nghĩa, ước vọng và tin tưởng. Tám câu mở đầu
chính là những lời giao dun gói trọn cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
Bốn câu đầu bài là lời ướm hỏi tình tứ ngọt ngào của người ở lại:
“ Mình về …
… nhớ nguồn”.
Thể thơ lục bát, cùng với lời xưng hơ mình ta tạo nên những vần thơ kháng chiến lại giống
những lời đối đáp giao duyên mặn nồng tình lứa đơi quen thuộc trong những khúc dân ca. Ở
đây ta là núi rừng, con người Việt Bắc, mình là cán bộ, chiến sỹ về xi. Chia tách là vậy
nhưng thực ra tuy hai là một, ta và mình chỉ là sự phân thân của một chủ thể trữ tình mà
thơi. Cách cấu tứ đặc biệt, đối thoại là kết cấu bề thực chất là lời độc thoại, bộc lộ tâm trạng
nhớ thương ân tình gắn bó mà Tố Hữu thay mặt những người khánh chiến bày tỏ với quê
hương cách mạng.
Bốn dòng thơ kết cấu bằng hai câu hỏi. Câu hỏi đầu hướng về thời gian mười lăm năm ấy.
Mấy chữ “15 năm ấy” gợi nhớ đến những câu kiều chan chưa ân tình “ 15 năm ấy biết bao
là tình” – “15 năm ấy bây giờ là đây”, 15 năm là một thời kỳ lịch sử đầy biến dộng kể từ khi
cách mạng còn trứng nước, “Khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”. Rồi đến 9 năm kháng
chiến trường kì mà kết thúc là chiến dịch Điện Biên Phủ “ Nên cành hoa đỏ nên thiên sử
vàng”. Câu hỏi gợi nhắc 15 năm chiến đấu gian khổ gắn bó nghĩa tình sâu nặng với thiên
nhiên cuộc sống Việt Bắc. Tất cả làn sóng lại một thời kì lịch sử gian khó nhưng oai hùng
của dân tộc.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!


Trang | 8


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Câu hỏi thứ 2 “nhìn sơng nhớ núi nhìn cây nhớ nguồn” thành ngữ dân gian nhắc nhở đạo lý
uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Từ “nhớ” được lặp lại tha thiết “ có nhớ ta, có nhớ
khơng, nhớ núi, nhớ nguồn”. Đó vừa là lời nhắn nhủ về ân nghĩa cội nguồn vừa khẳng định
tình cảm nhớ thương gắn bó của người ở lại. Hai câu hỏi 1 hướng về thời gian, một hướng
về khơng gian gói trọn một vùng dân tộc, một vùng kháng chiến. Thắm đượm bao ân tình
thủy chung gắn bó bền lâu. Tình cảm cách mạng ấy cũng thiết tha mặn nồng như tình dun
đơi lứa.
Bốn câu tiếp theo là tấm lồng của người ra đi, người cán bộ, chiến sỹ về xuôi đã cảm
nhận được biết bao gắn bó nghĩa tình trong lời ướm hỏi của Việt Bắc nếu người ở lại hỏi về
15 năm thiết tha mặn nồng.
Tâm trạng người đi cũng tràn đầy nỗi nhớ câu thơ tách thành 2 vế đối. Bâng khuâng trong
dạ/ Bồn chồn bước đi. Bâng khuâng lưu luyến trong nội tâm nhưng ngập ngừng bối rối
trong hành động. Tố Hữu đã diễn tả thật tinh tế trạng thái tâm lí phức hợp trong lòng người
ra đi. Chia tay vơi vùng đất gắn bó sâu nặng bao năm trời, lịng người kháng chiến không
tránh khỏi sự bịn rịn lưu luyến. Nhưng cuộc chia tay này lại diễn ra trong bối cảnh kháng
chiến thắng lợi nên lòng người cũng náo nức thấp thỏm khơn ngi. Chân bước đi mà lịng
ai ngược về chốn cũ một đảo ngữ nhỏ mà mật độ rất lớn từ láy gợi cảm xúc khiến cả khơng
gian nhịa đi trong sự bịn rịn lưu luyến. Nhịp thơ đột ngột chuyển sang nhịp lẻ 3/3; 3/3/2
diễn tả thần tình một tình huống ngập ngừng những nghẹn ngào khơng muốn nói. Chút lằng
lặng giữa dịng thơ ấy có sức gợi tả rất lớn.
“ Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay” tay trong tay biết bao lời muốn nói mà khơng nói
được, nhưng tâm trạng bồn chồn bang khuânng đã thể hiện sâu sắc tình cảm của người đi.
Nỗi nhớ cảu tác giả: “ Tiếng ai tha thiết bên cồn”, nhớ tình, nhớ cảnh, “ áo chàm đưa buổi

phân li” càng khắc sâu thêm tấm lòng thủy chung son sắc của người kháng chiến với quê
hương cách mạng.
Thơ xưa nói cảnh phân li thường viện dẫn sắc tím hồng hơn hay màu vàng li biệt “ Rừng
phong thu đã nhuộm màu quan san” những cuộc chia tay này là sắc áo cahmf lại là màu chủ
đạo. Áo chàm là biểu tượng cho con ngườii Việt bắc bình dị, chân chất, thắm đượm nghĩa
tình sắc son, chung thủy sẽ khơng bao giờ phai nhạt. Từ Hán Việt phân li đem lại hương vị
cổ điển cho cuộc chia tay.
Tám câu đầu ngắn gọn mà đầy đủ không gian và thời gian cả tâm trạng, nỗi niềm. Đó là
cuộc chia tay trong tâm tưởng, một sự phân thân để bộc lộ tình cảm. Tố Hữu đã khéo léo tạo
một tình huống trữ tình để thể hiện một cách chân thành, tinh tế tình cảm sâu nặng của cán
bộ chiến sỹ về xuôi với quê hương con người Việt Bắc. Tám câu thơ đậm màu dân tộc từ
giọng điệu, lời thơ, ngôn ngữ tạo nên hình ảnh là lời mở đầu cho khúc giao duyên thắm
đượm nghĩa tình, những hồi niệm tha thiết gắn bó với những kỉ niệm nơi vùng quê cách

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 9


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

mạng kháng chiến. chất giọng cảm xúc ân tình của 8 câu mở đầu ấy sẽ chi phối toàn bài thơ.
Phần một của Việt Bắc là “bâng khuâng trong dạ”, phần 2 là “bồn chồn bước đi” khắc đậm
mối tình miền ngược miền xi.
Khơng phải ngẫu nhiên Tố Hữu lấy tên Việt Bắc để đặt nhan đề cho tập thơ kháng
chiến của mình. Việt Bắc khơng chỉ là một bản hùng ca mà cịn là một khúc tình ca thể hiện
những găn bó sâu nặng với con người, quê hương cách mạng. Có lẽ những ân nghĩa cội
nguồn và hình thức biểu hiện giàu tính dân tộc đậm màu sắc dân gian và hương vị cổ điển
đã thành sức sống bền lâu của bài thơ trong lịng bạn độc mn thế hệ.


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 10


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 4:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
Quả thật hai câu thơ của Chế Lan Viên mãi mãi ln làm sống dậy những tình cảm chân
thành và thiết thực nhất khi ta phải rời xa một nơi đã trở nên quá quen thuộc. Nơi ấy, cây cỏ
đất đai giờ cũng như hóa thành một tâm hồn sống động,cũng quyến luyến như chia tay với
người đi. Việt Bắc cũng là một bài thơ như vậy,lấy cảm hứng từ cuộc chia tay của các cán
bộ lãnh đạo từ Việt Bắc về Hà Nội, những tình cảm gắn bó, như tình anh em bằng hữu sống
dậy và cuộn trào. Việt Bắc cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ thời kì
kháng chiến chống Pháp.
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam trong
thời kì đất nước chia cắt bị xâm lược. Những vần thơ giản dị đã trở thành những bài thơ
thuộc lòng khơng chỉ có những tầng lớp cách mạng biết đến mà cịn là nhiều tầng lớp khác.
Thơ ơng đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Ngay từ đầu bài thơ Việt
Bắc, những câu thơ vang lên như một lời thủ thỉ tâm tình của người Đi với người Ở dành
cho nhau. Với cách xưng hơ hết sức thân thiết “ Mình – Ta” mà khổ thơ cũng như toàn bài
thơ tạo được dấu ấn sâu sắc trong long người đọc:
“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn?”

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay”
Chỉ với 8 câu thơ, nhưng những gì mà Tố Hữu khắc họa ngay từ đầu đã mang lại cho độc
giả những cảm giác thật gần gũi, “ Mình và Ta “ như anh em trong một nhà vậy, bây giờ”
Mình về, Ta ở lại “ bao nhiêu cảm xúc dâng trào. Có thể nói Tố Hữu là nhà thơ vận dụng
các yếu tố nghệ thuật của dân tộc. Một điều chúng ta có thể thấy ngay đó chính là thể thơ
của bài thơ .Lục bát với câu sáu câu tám xen kẽ, là một thể thơ truyền thống của Việt Nam,
khiến nhà thơ có thể dễ dàng bộc lộ tình cảm đắm thắm. Hơn nữa thể thơ lục bát này thực sự

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 11


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

rất uyển chuyển , giống như lời ăn tiếng nói hàng ngày mà con người ta vẫn thường trao cho
nhau.
“ Mình về “ Ta ở lại nhưng câu hỏi “ có nhớ ta ở giữa câu thơ như kéo tình cảm thân thiết
của mình và ta lại với nhau. Tình cảm đó khơng dễ gì mà gây dựng cũng khơng dễ gì mà
qn đi được. Cách dùng mình ta trong bài thơ giúp người ở lại thể hiện tình cảm một cách
dễ dàng nhất. Tình cảm nào bằng tình cảm quyến luyến này. Hơn nữa mình và ta lại có thời
gian gắn bó lâu dài” 15 năm ấy” thời gian dài và đầy khó khăn vất vả cũng đầy những chia
sẻ ngọt bùi, làm sao mà dễ dàng quên được. Câu hỏi ở cuối giống như một lời bộc bạch từ
đáy lịng, “ nhìn cây nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn” . đấy, một khi tình cảm gắn bó với nhau
thì tất cả mọi thứ xung quanh đều trở thành cái cớ cho sự nhớ nhung, sông núi, nguồn cuội.
Bốn câu sau được xem như là lời đáp lại :

“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay”
Hình ảnh và âm thanh trong ngay câu đầu tiên cũng gợi ra cho chúng ta nhiều liên tưởng. “
ai “ đó có thể là người ra đi , người về miền xi nhưng cũng có thể là những người dân
Việt Bắc, họ cũng quyến luyến bịn rịn với nhau, không muốn tách rời, có ai có thể hiểu đc
chứ, sống trong hồn cảnh ấy ta mới thấy tình người thật cao quí biết bao. Hai tính từ trong
bài là “ bâng khuâng, bồn chồn” như càng tô đậm tâm trạng và cảm xúc của khung cảnh
chia tay . cảm xúc đó là buồn vui lẫn lộn, tới lúc chia tay rồi nhưng chân thì phải bước
nhưng lịng thì lại bối rối, chưa dám bước. Hình ảnh áo chàm trong khổ thơ xuất hiện như là
hình ảnh giản dị của những con người áo mộc mạc trong cuộc sống giản dị đời thương
nhưng hình ảnh này cũng gợi tới màu áo của sự nghèo khó của người dân Việt Bắc. Hình
ảnh áo chàm là ẩn dụ cho những con người Việt Bắc nhưng cũng góp phần ám chỉ tình cảm
son sắt khó phai của “ mình và ta”.
Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay” đầy tính chất biểu cảm, đây khơng phải là
khơng có gì để nói mà là vì xúc động nghẹn ngào khơng thốt được nên lời. Những lời khơng
nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ “Cầm tay nhau”. “Cầm tay” là biểu tượng của tình u
thương đồn kết. “Cầm tay” là đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lịng rồi. Cũng giống trong
bài thơ “ Những chiếc xe khơng kính” những cái bắt tay qua cửa kính vơi đi rồi như chắp
nối thêm động lực cũng như tình cảm gắn bó,tình đồng đội tình đồng chí, cùng nhau vượt
qua mọi khó khăn trong chiến tranh ác liệt.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 12


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


Chỉ với 8 câu thơ và với thê thơ lục bát, khơng có gì để diễn tả hay hơn những cảm xúc lắng
đọng những tình cảm thiêng liêng khơng phải dễ gì mà vun đắp. Tình cảm đó thật dung dị
nhưng cũng nồng nàn chân chất và gắn bó bền chặt.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 13


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 5:
I/ MỞ BÀI:
_ Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, là cờ đầu của nền thơ ca cỏch mạng Việt Nam.
_ Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình
chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa…
_ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp núi chung. Bài thơ là
khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người
kháng chiến, mà cội nguồn sâu xa của nó là tình u q hương đất nước, là niềm tự hào về
sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.
Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khơn ngi được thể hiện qua hình thức đối
đáp giữa người ra đi và người ở lại :
Và đoạn thơ:

“ Mình về mình có nhớ ta

tay nhau biết nói gì hơn nay”


Là một trong những đoạn tiêu biểu cho tình cảm ân nghĩa thủy chung đó
II/ THÂN BÀI
1/ (Xuất xứ chủ đề) Bài thơ được làm vào thỏng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ
cùng cỏn bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ
khơng khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đó xúc động viết nên bài thơ này.
2/ ( Phân tích chi tiết)
_Bài thơ được cấu tạo theo lối đối đáp giao duyên của ca dao dân ca: Đối đáp giữa hai
người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng nay phải chia tay nhau kẻ đi người ở. Cả bài
thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong kẻ ở và người đi trong câu hỏi và trong cả lời đáp. Nỗi
nhớ cứ trở đi trở lại cồn cào da diết.
(a/ Bón câu đầu) Dường như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, người ở lại lên tiếng
trước, căn vặn người ra đi về tấm lòng chung thuỷ:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ khơng
…Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 14


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Giọng thơ như tuôn chảy từ trong nguồn mạch của ca dao dân ca. Lối xưng hơ Mình _ ta
ngọt ngào tha thiết như tình u đơi lứa. Nhưng mình ở đây khơng ai khác chính là người ra
đi, là cán bộ kháng chiến chuẩn bị về xi. Cịn ta là người ở lại, là những người dân Việt
Bắc ân tình chung thủy. “Mình về mình có nhớ ta”. Liệu mình – những người cán bộ chiến
sĩ sau khi chiến thắng về chốn phồn hoa đơ hội có cịn nhớ đến đồng bào và mảnh đất Việt

Bắc với những tháng năm gian khổ đã từng đùm bọc và che chở cho họ trước đây không.
Cách xưng hơ “mình- ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân gian Và Tố Hữu đã
mượn cách nói thân mật ấy để lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa cán bộ kháng chiến với
nhân dân. Vì thế lời thơ khơng bị khơ cứng mà ngọt ngào êm ái.
_ “Mười lăm năm ấy”, Con số vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười
lăm năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm
năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc . Câu thơ mang
dáng dấp một câu Kiều – Những là rày ước mai ao – Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ càng
thêm da diết : Không biết mình cịn nhớ hay đã qn, chứ ta thì ta không thể quên được
những tháng năm ấy
Và cũng để rõ thêm tấm lòng của người ra đi, kẻ ở đã khéo gợi ra cảnh
_ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn
Nghĩa tình giữa ta và mình bắt nguồn từ những lý lẽ hiển nhiên giống như đạo lý uống nước
nhớ nguồn của dân tộc vậy. Liệu mình có giữ được tấm lòng chung thuỷ trước những cám
dỗ mới của cuộc đời khơng? èĐó cũng chính là tâm trạng, là nỗi lòng băn khoăn của “người
ở lại”, của “ta”. → Cách liên tưởng so sánh trên không chỉ mở rộng khơng gian của nỗi
nhớ, mà cịn làm cho kỷ niệm cứ như tuôn trào tầng tầng lớp lớp.
→Các cặp hình ảnh “ cây-núi”; “sơng-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa
ảo.Nó khơng chỉ gợi ra khơng gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Mà nó
cịn nói lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra. Nhớ về
nhân dân, như nhớ về cội nguồn
→Các từ “mình” “ta”, câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ …” được láy lại 2 lần làm cho
nỗi nhơ niềm thương cứ dâng lên mãi trong lòng của người đi và kẻ ở.
b/ Đáp lại sự băn khoăn của người ở lại là tiếng lòng của người ra đi.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!


Trang | 15


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay
Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ ( như cách bày tỏ
trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…) Hố ra người đi cũng cùng một tâm trạng, cùng một tình
nghĩa chung thuỷ như bạn mình : Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
.-“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui,
luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu
mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ
niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội
(10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào ? Tác giả đã sử dụng một loạt
những từ láy, những từ chỉ trạng thái tình cảm của người đang yêu để giãi bày tình cảm
khơng nói lên lời của người ra đi cũng thuỷ chung tình nghĩa như tấm lịng người ở lại vậy.
Một thời gắn bó, một thời thủy chung, nay ta và mình chia xa :“Áo chàm đưa buổi phân
li”.Áo chàm” không đơn thuần là chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê
nghèo thượng du đồi núi mà nó đã được hốn dụtrở thành biểu tượng cho nhân dân Việt Bắc
thuỷ chung sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần khơng nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu
nước. Nay kẻ đi người ở, hỏi sao không bồi hồi xúc động : “Cầm tay nhau biết nói gì hơm
nay”.
– Câu thơ …”đầy tính chất biểu cảm . Nó gợi ra cảnh bịn rịn luyến lưu tay trong tay mà
khơng nói lên lời của đơi trai gái yêu nhau để từ đó tác giả như khắc sâu thêm tình cảm gắn
bó thắm thiết, thuỷ chung của người miền xi đối với người miền ngược.“Biết nói gì”
khơng phải khơng có điều để giãi bày mà chính là vì có q nhiều điều muốn nói mà khơng
biết phải bắt đầu từ đâu, nên nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên
khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…Trong buổi chia ly, mặc dù chưa biết nói gì với

kẻ ở lại nhưng thực ra người ra đi đã nói được rất nhiều điều. Bởi im lặng cũng là một thứ
ngôn ngữ của tình cảm
+ Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách thân tình cái ngập
ngừng , bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở.Kỷ vật trao rồi mà mà lịng
vẫn quyến luyến khơng thể rời xa.
III/ KẾT BÀI:
– Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc.
– Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền
cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 16


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

–Thơng qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân
dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với “Việt
Bắc”.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 17



×