9
PHẦN MỘT
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
GÓP PHẦN VÀO THẮNG LỢI CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
Theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác, quần chúng nhân dân làm ra lịch sử. Lịch sử xã hội là lịch sử của con
người do chính con người tạo ra thông qua hoạt động tồn tại và chủ yếu là hoạt
động sáng tạo của mình. Quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia bắt đầu từ sự trao
đổi sản phẩm thừa giữa các bộ lạc và trải qua các thời kỳ lịch sử mở rộng về
không gian và lĩnh vực (buôn bán, giao lưu hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau và hịa
bình, giao lưu văn hóa…).
Trong một nước dân là gốc. Đường lối chính trị và chính sách đối nội, đối
ngoại của chính phủ một nước có đáp ứng được nhu cầu, lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân thì mới được nhân dân chấp nhận, thực hiện và mới có hiệu
quả. Thái độ của nhân dân có tác động quyết định đối với sự tồn tại và khả năng
hoạt động của chính phủ.
V.I. Lênin từ nhận thức về vai trò của nhân dân ngày càng tăng trong lịch
sử đã đi đến kết luận về ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của các dân tộc đối với
chính sách đối ngoại của các quốc gia. Trong quá trình hoạt động cách mạng,
Lênin rất coi trọng công tác vận động quốc tế ủng hộ cách mạng và nhân dân
nước Nga, đặc biệt là vận động nhân dân, các cá nhân và tổ chức chính trị - xã
hội các nước. Sau Cách mạng tháng Mười 1917, Lênin đã cùng với Đảng và
Nhà nước Xô viết, các đảng an hem ở các nước vận động phong trào nhân dân
rộng lớn ủng hộ và bảo vệ chính quyền Xơ viết. Hoạt động đối ngoại nhân dân
(ngoại giao nhân dân) của nước Nga Xô viết và sau đó là Liên Xơ đã góp phần
quan trọng thực hiện các nguyên tắc đối ngoại của Nhà nước Xô viết, chủ yếu là
nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vơ sản và ngun tắc cùng tồn tại hịa bình giữa
các nước có chế độ chính trị khác nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại,
trong đó có cơng tác đối ngoại nhân dân.
Khi tìm đường cứu nước và vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước hình thành và phát triển quan điểm,
nguyên tắc và nội dung, phương thức công tác đối ngoại nhân dân và công tác
đối ngoại của Đảng. Con đường cứu nước “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
đã đưa cách mạng nước ta hòa nhập vào trào lưu giải phóng của nhân loại: giải
10
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đặt cách mạng nước ta
vào vị trí là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Nhờ vậy cách
mạng nước ta ngay từ đầu đã có khả năng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, tạo cho mình sức
mạnh tổng hợp to lớn để giành thắng lợi. Để khả năng này trở thành hiện thực,
yếu tố quyết định là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân trong đường lối, chính sách và
hoạt động đối ngoại.
Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là nguồn gốc, mục
tiêu và nội dung cơ bản của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh là người sáng lập và phát triển, trong đó có cơng tác đối ngoại nhân
dân.
Trong những năm 1920, Người xác định và trực tiếp tổ chức thực hiện
hai quan điểm cơ bản về đối ngoại: một là, đồn kết với giai cấp vơ sản và các
dân tộc bị áp bức trên thế giới; hai là, gắn cách mạng ở thuộc địa với cách mạng
của nhân dân lao động Pháp. Hoạt động đối ngoại, vận động quốc tế lúc đó là
hoạt động đối ngoại nhân dân. Năm 1928 - 1929, khi ở Thái Lan Nguyễn Ái
Quốc đã đề ra nhiệm vụ “ngoại giao nhân dân” cho Việt kiều với khẩu hiệu
“Việt – Thái thân thiện” và làm cho người Thái Lan có cảm tình hơn nữa với
người Việt Nam và cách mạng Việt Nam. Người viết báo, viết sách, nói chuyện
về tình cảnh nước ta dưới chế độ thực dân Pháp, tổ chức vận động nhân dân
nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi đồng tình và ủng hộ cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln ln chú trọng đẩy mạnh cơng tác đối ngoại, vận động quốc tế của
Đảng và nhân dân.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nền ngoại giao hiện đại của Việt
Nam hình thành một cách hồn chỉnh, bao gồm công tác đối ngoại của Đảng,
ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp trên mặt
trận đối ngoại. Với tư cách là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo và trực tiếp tiến hành công tác đối ngoại của Đảng, ngoại
giao nhà nước và công tác đối ngoại nhân dân phù hợp với những hoàn cảnh và
đối tượng cụ thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng công tác đối ngoại nhân
dân và xác định công tác đối ngoại nhân dân là một bộ phận cấu thành của công
tác đối ngoại chung, hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với công tác đối ngoại của
Đảng và ngoại giao nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, đường lối, chính
sách đối ngoại của Đảng.
Cơng tác đối ngoại nhân dân thực chất là công tác dân vận, vận động các
đối tượng là quần chúng nhân dân nước ta và quần chúng nhân dân nước ngoài
11
để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình, hữu nghị và hợp tác
của nước ta. Cơng tác về đối ngoại nhân dân có tiếng nói và tiến hành các biện
pháp về đối ngoại trên một số vấn đề và ở những nước, khu vực trong những
hồn cảnh cụ thể mà cơng tác đối ngoại của Đảng và nhất là ngoại giao nhà
nước khơng có điều kiện làm hoặc nếu làm thì khơng thuận lợi như mong
muốn.
Lực lượng hoạt động của đối ngoại nhân dân bao gồm khơng phải chỉ có
các đồn thể và tổ chức nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề
nghiệp, các doanh nghiệp và rộng ra là các tầng lớp nhân dân, mà cả các tổ chức
của Đảng, cơ quan nhà nước các cấp và lực lượng vũ trang nhân dân (tiến hành
với đối tượng và hình thức thích hợp); đồng thời có những tổ chức chính trị - xã
hội có nhiệm vụ và chức năng chuyên về hoạt động đối ngoại nhân dân, đó là
các tổ chức hịa bình, hữu nghị, đồn kết.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng Mười hai 1986 đề
ra mục tiêu đối ngoại: giữ vững hịa bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế
thuận lợi để thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII tháng Sáu 1991 nhấn mạnh: tích
cực và năng động thực hiện đường lối độc lập tự chủ, chính sách rộng mở đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Phát triển và cụ thể hóa nhiệm vụ
đối ngoại do Đại hội lần thứ VII đề ra, Hội nghị Trung ương lần thứ ba tháng
Sáu 1992 nêu cụ thể nhiệm vụ mở rộng và đổi mới hoạt động đối ngoại nhân
dân phối hợp với công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao nhà nước nhằm giữ
vững hịa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, theo tinh thần “Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và
phát triển”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII tháng Sáu 1996 nêu rõ: mở rộng
quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế
hịa bình, hợp tác, phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tháng Tư 2001 nhấn mạnh: mở
rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song phương và
đa phương với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, góp phần tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và
nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hoạt động đối ngoại nhân dân nhằm:
12
Làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ đất nước, con người Việt
Nam, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, tranh thủ thiện
cảm, sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân các nước đối với công cuộc đổi mới,
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đồng thời, đấu tranh
với những quan điểm, ý đồ và hành động xấu của một số người và tổ chức nước
ngoài đối với nước ta.
Tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân các nước trên thế giới, các
tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế về vốn, chuyển giao công nghệ, kinh
nghiệm quản lý kinh tế và quản lý xã hội, đào tạo cán bộ…
Làm cho nhân dân ta hiểu rõ đất nước và con người các nước
khác, tăng cường tình hữu nghị, mở rộng quan hệ hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới.
Bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các
dân tộc vì hịa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết những vấn đề
có tính tồn cầu như loại trừ vũ khí hạt nhân và vũ khí giết người hàng loạt
khác, phòng chống bệnh hiểm nghèo, bảo vệ mơi trường…
Tích cực góp phần duy trì và đổi mới hoạt động của các tổ
chức quốc tế mà nước ta là thành viên phù hợp với tình hình mới của thế giới1.
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
NHÂN DÂN VÀO THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành
chính quyền (1930 – 1945)
Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng khi thành lập và Luận
cương chính trị tháng Mười 1930 nêu rõ: Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam
tự do” và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng
vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên vận động quốc tế, tranh
thủ tình hữu nghị, sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân nước Pháp, các nước
thuộc địa, phụ thuộc và nhân dân các nước khác, đặc biệt là Liên Xô, Trung
Quốc, Ấn Độ đối với nhân dân ta, thông qua việc giới thiệu, thơng tin về tình
cảnh dân tộc ta bị đế quốc thực dân Pháp áp bức, bóc lột và về cuộc đấu tranh
giành độc lập của dân tộc ta. Đồng thời, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ủng hộ,
cổ vũ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa, phụ
thuộc ở châu Á, châu Phi, và Mỹ La tinh.
Sau Đại hội lần thứ I của Đảng tháng Ba 1935, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh gắn cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân ta với việc góp phần thực
1
.Theo tinh thần Chỉ thị số 44 – CT/TW ngày 20 tháng Chín 1994 của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VII)
13
hiện nhiệm vụ chung của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa phát xít, chống
chiến tranh, ủng hộ Liên Xơ và cách mạng Trung Quốc, ủng hộ Mặt trận nhân
dân Pháp và tranh thủ sự ủng hộ của mặt trận này đối với cuộc đấu tranh giải
phóng của nhân dân ta.
Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh thơng qua Mặt trận Việt Minh tăng cường phối hợp cuộc đấu tranh giải
phóng của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của nhân dân Lào và nhân
dân Campuchia, ủng hộ cuộc chiến đấu chống phát xít của nhân dân Liên Xơ và
nhân dân Trung Quốc, gắn cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống Nhật – Pháp
với cuộc chiến đấu của các lực lượng Đồng minh chống phát xít.
Những hoạt động đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân trong thời kỳ
1930 – 1945 đã tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ của Quốc tế cộng sản, của
Liên Xô và cách mạng Trung Quốc đối với Đảng và cách mạng nước ta, tạo
điều kiện thuận lợi cho thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám 1945.
Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám (tháng Tám 1945 – tháng Mười hai
1946)
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo chặt chẽ và cùng với chính quyền nhân
dân tiến hành hoạt động đối ngoại một cách chủ động và sáng tạo, góp phần
quyết định giữ vững nền độc lập mới giành được, đưa đất nước vượt qua những
lúc hiểm nguy “ngàn cân treo sợi tóc”.
Thực hiện quyết nghị về đối ngoại của Hội nghị Tân Trào (ngày 13 đến
15 tháng Tám 1945) và chính sách đối ngoại của nước Việt Nam độc lập
(Thơng cáo ngày 3 tháng Mười 1945 của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa), Đảng và Chính phủ tiến hành các hoạt động bày tỏ thái độ
hữu nghị với các nước coi trọng nền độc lập của Việt Nam, hữu nghị và hợp tác
trên cơ sở bình đẳng với các nước trong Đồng minh, tranh thủ sự giúp đỡ của
các nước thuộc địa và nhân dân Trung Hoa và Pháp, đoàn kết với nhân dân Lào
và nhân dân Campuchia, tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và ở mức độ nhất
định của Mỹ chống lại mưu đồ Pháp trở lại Đơng Dương và chính quyền Trung
Hoa Tưởng Giới Thạch định chiếm Việt Nam.
Để hỗ trợ thực hiện chính sách đối với Mỹ và Trung Hoa qua con đường
đối ngoại nhân dân, hội Việt – Mỹ thân hữu và Hội Việt – Trung thân hữu được
thành lập cuối tháng Tám và trong tháng Chín 1945.
Trước tình hình thực dân Pháp xâm lấn Nam Bộ (từ ngày 23 tháng Chín
1945) và quân Tưởng ở phía Bắc gây rối âm mưu lật đổ chính quyền cách
mạng, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần thực hiện chủ trương tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào kẻ thù chính lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, tránh
xung đột với qn Tưởng, hịa hỗn, nhân nhượng có ngun tắc nhằm làm thất
bại âm mưu lật đổ của chúng (Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25 tháng
Mười một 1945). Trong khi hịa hỗn với qn Tưởng, nhân dân ta tỏ rõ tinh
14
thần đoàn kết, tự lực tự cường, ra sức tăng gia sản xuất chống giặc đói và chống
giặc dốt, đồng thời tiến hành những cuộc mít tinh, biểu tình tỏ rõ thái độ quyết
bảo vệ nền độc lập, tự do mới giành được để biểu dương thực lực.
Đối với Pháp, quân và dân ta anh dũng chiến đấu chống các cuộc tiến
công xâm lấn của quân Pháp ở Nam Bộ, đồng thời có thái độ đối xử đúng đắn
với kiều dân Pháp lương thiện tôn trọng nền độc lập của Việt Nam, quán triệt
chính sách của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phân rõ bạn thù, phân biệt nhân
dân Pháp với thực dân Pháp. Nhiều cuộc mít tinh, diễu hành lớn đã diễn ra
nhằm ủng hộ Chính phủ ta đàm phán với Pháp và ký hiệp định Sơ bộ ngày 6
tháng Ba 1946 để gạt nhanh quân Tưởng về nước, làm thất bại âm mưu phá
hoại, lật đổ của họ và bọn phản động người Việt, có thời gian hịa hỗn để xây
dựng lực lượng cách mạng. Nhân dân ta cũng bày tỏ sự ủng hộ Chính phủ ta
đàm phán với Pháp ở Fontainebleau (Phôngtennơblô) (Pháp) từ đầu tháng Bảy
1946 và Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với chính phủ Pháp Tạm ước 14 tháng Chín
1946 để có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến toàn quốc.
Cùng với việc động viên sức mạnh đồn kết của nhân dân góp phần thực
hiện đường lối và chủ trương đối ngoại, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
đạo cơng tác đối ngoại nhân dân vận động quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Trong thời gian ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn đàm phán
của ta đã tiếp xúc rộng rãi với các tầng lớp nhân dân, các chính khách, trí thức,
nhà báo, các đảng phái chính trị, đồn thể quần chúng, tổ chức hữu nghị ở Pháp2
và nhiều nhà hoạt động chính trị, nhà báo của nhiều nước Tây Âu, Bắc Âu, Mỹ,
các nước thuộc địa, nêu rõ ý chí độc lập, tự do và thống nhất của dân tộc Việt
Nam, thiện chí hịa bình và hợp tác của nước Việt Nam với nước Pháp trên cơ
sở tôn trọng nền độc lập của Việt Nam, bày tỏ tình cảm hữu nghị của nhân dân
Việt Nam với nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa.
Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần lên tiếng ủng hộ các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc đang đấu tranh giành độc lập, đặc biệt là Trung Quốc,
Ấn Độ, Inđônêxia, các nước thuộc địa của Pháp, ủng hộ các lực lượng hịa bình,
dân chủ và tiến bộ ở các nước. Trên đường đi Pháp qua Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tuyên bố tán thành sáng kiến của các nhà lãnh đạo Ấn Độ triệu tập một
cuộc hội nghị liên Á chống chủ nghĩa thực dân (Hội nghị liên Á diễn ra cuối
tháng Ba 1947).
Trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược (tháng Mười
hai 1946 – tháng Bảy 1954)
2
.Hội Pháp – Việt được thành lập tháng Sáu 1946, nhằm “giúp cho Việt Nam độc lập”, thành viên là đại diện
nhiều đảng phái chính trị, nhà hoạt động chính trị, xã hội, trí thức, nhà báo có tiếng.
15
Cơng tác đối ngoại nhân dân có bước phát triển mới và đóng vai trị quan trọng
trong việc thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại trong kháng chiến, trước
hết là vẫn động quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước
đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Công tác vận động quốc tế đã tập trung vào nội dung chủ yếu:
Một là, nêu cao tính chất chính nghĩa, nhân đạo và triển vọng nhất định
thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt nam, vạch rõ tính chất phi
nghĩa, tàn bạo và triển vọng nhất định thất bại của cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp.
Hai là, làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ nhân dân Việt Nam giữ vững
đường lối độc lập tự chủ, tự lực tự cường đồng thời rất coi trọng đoàn kết quốc
tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với nhân dân ta “lấy sức ta mà giải phóng cho ta”,
giải thích với nhân dân ta và nhân dân thế giới: Việt Nam “làm bạn với tất cả
mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một ai” (trả lời một nhà báo Mỹ
tháng Chín 1947); “Chúng tôi bao giờ cũng trông cậy vào chúng tơi và vào cái
cảm tình tích cực của các người dân chủ thế giới, trước hết của các người dân
chủ Pháp” (trả lời một nhà báo Mỹ tháng Năm 1948).
Nhân dân ta coi sự ủng hộ và đoàn kết quốc tế là sự đóng góp to lớn vào
cuộc kháng chiến của nhân dân ta và coi thắng lợi của Việt nam là một sự đóng
góp tích cực vào thắng lợi chung của nhân dân thế giới.
Ba là, khẳng định cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực
dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập, tự do và giành lại hịa bình là một bộ
phận của cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thực dân Pháp gây chiến tranh xâm lược không
chỉ Việt Nam mà cả Lào và Campuchia, xâm phạm lợi ích của nhân dân tiến bộ
Pháp, của nhân dân các thuộc địa Pháp và nhân dân u chuộng hịa bình, cơng
lý trên tồn thế giới. Vì vậy, nhân dân Việt Nam chung sức với nhân dân Lào và
nhân dân Campuchia trong kháng chiến; nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp,
nhân dân các nước thuộc địa Pháp và nhân dân thế giới ủng hộ lẫn nhau và đoàn
kết với nhau.
Những năm đầu kháng chiến, nước ta bị bao vây, cô lập với thế giới bên
ngồi. Cơng tác đối ngoại đã khắc phục khó khăn, vận động lập được cơ quan
đại diện tại Băng Cốc (Thái Lan) và Rănggun (Mianma) vào tháng Tư 1947 và
tháng Hai 1948. Một số phái viên được cử đi một số nước châu Á, châu Âu và
11 phịng thơng tin của Việt Nam được đặt ở 1 số nước châu Á và phương Tây
trong những năm 1947 – 19493. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cử một số cán
bộ đi vận động quốc tế ở một số nước như Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân
ở Đông Âu, Trung Quốc (căn cứ Diên An). Tháng Hai 1948 Chủ tịch Hồ Chí
3
. Các phịng thơng tin được đặt ở Băng Cốc, Rănggun, Xingapo, Hồng Kông, Tân Đảo, Niu Đêli, Pari, Ln
Đơn, Praha, Niu Yc
16
Minh gửi thư giao nhiệm vụ cho đoàn 10 cán bộ đi Thái Lan, Mianma (năm
1948) và Trung Quốc (năm 1950) vận động nhân dân, lập quan hệ với một số tổ
chức quần chúng quốc tế và tổ chức quần chúng một số nước.
Đại biểu của nhân dân ta đã dự một số hội nghị quốc tế: Hội nghị liên Á
ở Niu Đêli, Ấn Độ tháng Ba 1947, Hội nghị Thanh niên dân chủ thế giới ở
Praha, Tiệp Khắc tháng Hai 1948, Hội nghị nhân dân thế giới đấu tranh cho hịa
bình ở Pari, Pháp tháng Tư 1949, Hội nghị Liên hiệp cơng đồn thế giới ở
Milano, Italia tháng Sáu 1949…
Trong thời gian này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân cơng đồng
chí Hồng Quốc Việt (Ủy viên thường vụ Trung Ương phụ trách công tác dân
vận và mặt trận) và đồng chí Xuân Thủy (phụ trách ban mặt trận) chỉ đạo hoạt
động đối ngoại nhân dân.
Đầu năm 1950, nước ta giành thắng lợi lớn về chính trị, ngoại giao:
hưởng ứng Tuyên bố ngày 14 tháng Giêng 1950 của Chính phủ ta, Trung Quốc,
Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân Đơng Âu, Mơng Cổ và Cộng hịa Dân chủ
Nhân dân Triều Tiên lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cơng tác đối ngoại nhân dân đã góp phần vào
thắng lợi đó và có thêm điều kiện để phát triển sâu rộng. Các hội nghị với các
nước xã hội chủ nghĩa bắt đầu được thành lập. Một số cán bộ được cử đi công
tác ở bộ phận thường trực của các tổ chức dân chủ quốc tế (thanh niên, sinh
viên, cơng đồn…). Nhiều đồn đại biểu nhân dân đi thăm các nước bạn và
tham dự các hội nghị quốc tế.
Trong tình hình phong trào hịa bình thế giới phát triển mạnh mẽ, Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương cử đoàn đại biểu Việt Nam dự Đại hội
thành lập thế giới và thành lập Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam,
gắn cuộc kháng chiến của nhân dân ta với phong trào hịa bình thế giới, tăng
thêm sức mạnh cho nhân dân ta. Ủy ban bảo vệ hịa bình thế giới của Việt Nam
đã ra mắt ngày 19 tháng Mười một 1950 trong Đại hội thành lập tại Việt Bắc4.
Chiến thắng Biên giới cuối năm 1950 tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt
động đối ngoại chung của nước ta. Công tác đối ngoại nhân dân nhận được sự
giúp đỡ tích cực của các tổ chức quần chúng của Liên Xô, Trung Quốc, các
nước dân chủ nhân dân và các tổ chức dân chủ quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng những thường xun chỉ đạo mà cịn đích
thân làm cơng tác đối ngoại nhân dân, vận động quốc tế. Người đã có những lời
kêu gọi nhân dân Pháp và các nước, gửi thư tới tổng thống Pháp, Mỹ và chính
phủ các nước trên thế giới, những cuộc trả lời phỏng vấn báo chí… nhằm làm
rõ chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, cơ lập cao độ thực dân phản động Pháp
và bọn can thiệp Mỹ, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ ở mức cao nhất có thể được
của nhân dân các nước, đặc biệt là nhân dân Pháp. Người kêu gọi, động viên và
4
. Tháng Năm 1988, Ủy ban bảo vệ hịa bình thế giới của Việt Nam đổi tên là Ủy ban hòa bình Việt Nam
17
cảm ơn nhân dân Pháp đấu tranh cho hịa bình ở Việt Nam, phản đối âm mưu và
hành động chiến tranh của Chính phủ Pháp ở Đơng Dương để cứu lấy tính
mạng của thanh niên hai nước và tình thân thiện giữa hai dân tộc Việt – Pháp
(Thư gửi nhân dân Pháp ngày 25 tháng Năm 1947). Người cũng chú ý tranh thủ
những người tiến bộ Mỹ và nhân dân Mỹ.
Hoạt động đối ngoại nhân dân đã đóng góp tích cực vào những thắng lợi
to lớn về đối ngoại phối hợp và phục vụ cho mặt trận quân sự và mặt trận chính
trị (ba mặt trận đấu tranh bảo đảm kháng chiến thành cơng. Cùng với ba mặt
trận đồn kết tồn dân trong nước, đã hình thành mặt trận đồn kết nhân dân
Việt – Lào – Campuchia đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ và đoàn kết với nhân dân Việt Nam (ba tầng mặt trận).
Tiếp theo những hành động giúp đỡ lẫn nhau và phối hợp trong xây dựng
lực lượng và chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Hội
nghị nhân dân ba nước ngày 11 tháng Ba 1951 ở Việt Bắc đã chính thức thành
lập một mặt trận đoàn kết, liên minh Việt – Lào – Campuchia trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng, tương trợ và hợp tác, tôn trọng quyền tự quyết, chủ quyền
và lợi ích chính đáng của nhau.
Phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp địi Chính phủ Pháp chấm dứt
“cuộc chiến tranh bẩn thỉu” đã nổi ra rất sớm, phát triển nhanh và mạnh, thúc
đẩy sự hình thành trên thực tế mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân
Việt Nam. Nội dung và hình thức đấu tranh rất phong phú: biểu tình địi Chính
phủ Pháp chấm dứt chiến tranh, đình cơng khơng sản xuất, bốc dỡ vũ khí và
phương tiện chiến tranh đưa sang Đơng Dương, vứt vũ khí xuống biển… Sau
chuyển thăm Việt Bắc của đồng chí Lêo Phighe, Ủy viên Trung ương Đảng
cộng sản Pháp, phong trào phản chiến ở Pháp phát triển ngày càng sâu rộng.
Trong thời gian Hội nghị Giơnevơ giữa năm 1954 nhân dân Pháp đấu tranh địi
chính phủ Pháp phải đàm phán thật sự và sớm ký hiệp định đình chiến ở Đơng
Dương.
Trong mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ và đoàn kết với Việt Nam, nhân
dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc, là lực lượng
nòng cốt. Bên cạnh sự ủng hộ mạnh mẽ về tinh thần và chính trị, nhân dân các
nước này đã dành cho nhân dân Việt Nam sựu giúp đỡ to lớn và quý báu về vật
chất.
Nhân dân các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là các nước
thuộc địa của Pháp, các nước mới giành được độc lập dân tộc, các lực lượng
hịa bình, dân chủ trên thế giới, kể cả một bộ phần nhân dân Mỹ, đã đồng tình,
ủng hộ nhân dân ta kháng chiến. Mặt khác, phong trào giải phóng dân tộc rộng
lớn của nhân dân các nước châu Á, Phi, Mỹ La tinh chống chủ nghĩa thực dân
cũ và chủ nghĩa thực dân mới trong thời gian nhân dân ta kháng chiến là nguồn
cổ vũ và sự hỗ trợ quốc tế to lớn đối với nhân dân ta.
18
Nhiều cuộc biểu tình, mít tinh và hội nghị quốc tế của các lực lượng và tổ
chức hịa bình, dân chủ đã thực sự là những cuộc biểu dương lực lượng ủng hộ
nhân dân ta. Các đại hội hịa bình thế giới đều có nghị quyết ủng hộ Việt Nam.
Đại hội Cơng đồn thế giới lần thứ ba vào tháng Mười 1953 ở Viên quyết định
lấy ngày 19 tháng Mười hai 1953 làm “Ngày đoàn kết với nhân dân Việt Nam
anh dũng và đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam”5.
Trong khi tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ quốc tế, Đảng, Chính phủ và
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên lãnh đạo các hoạt động của nhân dân ta
tham gia cuộc đấu tranh chung của thế giới và các tổ chức dân chủ quốc tế, bày
tỏ sự ủng hộ và đoàn kết của nhân dân ta đối với các cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc (như ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Inđônêxia chống thực dân Hà
Lan, cuộc chiến đấu của nhân dân Triều Tiên chống Mỹ, phong trào đấu tranh
giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa Pháp, cuộc đấu tranh chống Mỹ
của nhân dân Goatêmala…).
Tóm lại, hoạt động đối ngoại nhân dân đã góp phần phát huy tính chính
nghĩa, tinh thần anh dũng và các bước thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân
dân ta, vận động được phong trào nhân dân thế giới, trước hết là nhân dân Pháp,
đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ nhân dân ta kháng chiến. Thắng lợi Điện Biên
Phủ tháng Năm 1954 và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ tháng Bảy 1954 được
nhân dân thế giới u chuộng hịa bình và cơng lý, nhân dân các nước thuộc địa
và phụ thuộc chào mừng như thắng lợi của chính mình. Các phong trào giải
phóng dân tộc được thắng lợi của nhân dân Việt Nam cổ vũ, tăng thêm lịng tin
trong đấu tranh, vì nhân dân Việt Nam đã chứng tỏ: một dân tộc nhỏ đã chiến
thắng một đế quốc to, mở đầu sự phá sản của hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(tháng Bảy 1954 – tháng Tư 1975)
Đường lối và những kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân và vận động
quốc tế trong kháng chiến chống Pháp đã được vận dụng và phát triển lên trình
độ cao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hoạt động đối ngoại nhân dân đã góp phần tăng cường mặt trận đấu tranh
ngoại giao phục vụ kháng chiến thành công. Hoạt động đối ngoại và vận động
quốc tế ngày càng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, trải qua các giai đoạn
từ đấu tranh đòi thi hành đúng Hiệp định Giơnevơ (1954 – 1956), đấu tranh
chính trị và đấu tranh chính trị kết hợp với hoạt động du kích tự vệ ở miền Nam
(1957 – 1960), đồng khởi và đấu tranh làm thất bại chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” (1960 – 1964) đến đấu tranh chống “chiến lược chiến tranh cục bộ” ở
miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc
(1965 – 1969), làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và tiến hành
5
. Liên hiệp Cơng đồn thế giới lúc đó có gần 89 triệu đồn viên ở 79 nước
19
“vừa đánh vừa đàm” (1969 – 1972) và cuối cùng giải phóng hồn tồn miền
Nam (tháng Giêng 1973 – tháng Tư 1975)
Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của mặt trận đấu tranh ngoại giao là sự hình
thành trên thực tế mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ nhân dân Việt
Nam chống Mỹ, cứu nước. Khi cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân ta
chứng tỏ sẽ đi đến thắng lợi cuối cùng, mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân
dân Việt Nam lại càng phát triển sâu rộng và mạnh mẽ. Nhìn lại lịch sử thế giới
chưa có một cuộc đấu tranh của một dân tộc nào được sự ủng hộ quốc tế rộng
rãi và mạnh mẽ như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam; chưa bao giờ số phận của một dân tộc nhỏ và số phận của nhân dân thế
giới lại gắn chặt với nhau như vậy.
Nội dung, phương pháp và hình thức vận động quốc tế và đấu tranh ngoại
giao rất phong phú.
Về nội dung, công tác vận động quốc tế nhằm:
- Nêu cao ngọn cờ độc lập, hịa bình và nhân đạo, làm rõ nhân dân Việt
Nam kháng chiến khơng có mục đích nào khác là bảo vệ độc lập, tự do và thống
nhất đất nước, vì vậy Việt Nam tuy là một nước nhỏ, nghèo nàn và lạc hậu
nhưng quyết đánh và đánh thắng cuộc chiến tranh tàn bạo của đế quốc xâm lược
Mỹ. Nhân dân Việt Nam không chống nhân dân Mỹ mà chỉ mong muốn chiến
tranh sớm chấm dứt để nhân dân hai nước giảm được mất mát, đau thương và
sống hịa bình, hữu nghị với nhau.
- Khẳng định nhân dân ta ở cả hai miền đều có nhiệm vụ kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước; đề cao cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam.
- Nêu cao thiện chí sẵn sang đàm phán để chấm dứt chiến tranh, lập lại
hịa bình nhưng là hịa bình trong độc lập, tự do, chứ khơng phải là thứ hịa bình
giả dối của Mỹ.
- Nêu rõ nhân dân Việt Nam kháng chiến cũng vì lợi ích chung của nhân
dân thế giới là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nội dung vận động quốc tế nhằm nêu cao chính nghĩa chống phi chính
nghĩa, nhân nghĩa chống bạo tàn, đã góp phần động viên được lương tri của
nhân loại đứng về phía nhân dân Việt Nam.
Về phương pháp đấu tranh, thắng lợi ngoại giao trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ hai chủ trương lớn:
- Một là, đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự và đấu tranh
chính trị, ba mặt trận này tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đưa đến kháng
chiến thành công.
- Hai là, kết hợp chặt chẽ “ba binh chủng” đối ngoại: ngoại giao nhà
nước, đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân, kết hợp đấu tranh tại bàn đàm
phán với vận động quốc tế và đấu tranh dư luận, kết hợp công tác đối ngoại của
miền Bắc và công tác đối ngoại của miền Nam.
20
Về hình thức, bên cạnh việc ra bản tin, sách báo, phát thanh, phim ảnh,
chú trọng vận động cá nhân, gặp mặt và hội thảo, hội nghị (ở nước ngoài và ở
nước ta), dùng “người thật việc thật” (tố cáo tội ác của Mỹ - ngụy giới thiệu
chiến thắng của ta…), sử dụng các diễn đàn nhân dân quốc tế và ở một số nước,
quan hệ giữa các tổ chức quần chúng, hội hữu nghị, tổ chức nhân đạo, và quan
hệ kết nghĩa địa phương giữa nước ta với một số nước…
Trong bối cảnh tình hình thế giới rất phức tạp, gây ra nhiều khó khăn cho
nhân dân ta, đặc biệt là mâu thuẫn Xô – Trung sâu sắc và bất đồng nghiêm
trọng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, công tác đối ngoại nhân
dân đã cùng với công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao nhà nước khắc phục
khó khăn, phát huy tự lực tự cường và đoàn kết quốc tế, tranh thủ đến mức có
thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ về chính trị và giúp đỡ về vật chất của
nhân loại tiến bộ, góp phần kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, đưa công cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng.
Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ, cứu
nước đã hình thành trên thực tế từng bước, bắt đầu phát triển sâu rộng khi chiến
lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ thất bại (1963 – 1964), đã cổ vũ mạnh mẽ mặt
trận đoàn kết trong nước của nhân dân Việt Nam và mặt trận đoàn kết Việt –
Lào – Campuchia.
Nhiều lực lượng khác nhau ở nhiều nước trên thế giới năm châu từ người
dân bình thường đến các nhà hoạt động chính trị, nghị sĩ, trí thức, nhà báo, từ
các tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội đến các đảng phái chính trị và cả một số
chính phủ đã lên án Mỹ xâm lược và ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam
với một tinh thần bền bỉ, lòng mong mỏi và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng
của nhân dân Việt Nam.
Hình thức ủng hộ và đồn kết rất phong phú: mít tinh, biểu tình, bản tin,
sách báo, phát thanh, nói chuyện, hội thảo, quyên góp ủng hộ về vật chất, lập ra
các ủy ban đoàn kết với Việt Nam ở nhiều nước, tự thiêu để phản đối chiến
tranh xâm lược của Mỹ (10 vụ); tự nguyện làm công tác thông tin, vận động
ủng hộ Việt Nam; gửi thư tình nguyện đến Việt Nam để chiến đấu chống Mỹ.
(6. Nhân dân ta bày tỏ lòng cảm ơn và khẳng định tự mình chiến đấu, đổ máu
để giành độc lập và thống nhất, không muốn cuộc chiến tranh lan rộng.)
Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân ta bao gồm trước hết mặt
trận đoàn kết Việt – Lào – Campuchia. Cùng với sự đoàn kết chiến đấu, quan hệ
hữu nghị, đoàn kết và hợp tác giữa nhân dân ba nước phát triển, đánh dấu bằng
Hội nghị nhân dân Đông Dương ở Phnôm Pênh tháng Ba 1965 và Hội nghị cấp
cao của nhân dân ba nước Đông Dương cuối tháng Tư 1970.
Mặt trận bao gồm lực lượng nịng cốt là nhân dân Liên Xơ, nhân dân
Trung Quốc và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa khác. Nhân dân các nước
21
này bày tỏ tinh thần đoàn kết và dành sự ủng hộ về tinh thần và chính trị, sự
giúp đỡ về vật chất to lớn của từng nước cho nhân dân ta.
Sự ủng hộ, đoàn kết và giúp đỡ quý báu đó khơng chỉ làm tăng thêm sức
mạnh về tinh thần và vật chất của nhân dân ta mà còn là động lực thúc đẩy sự
ủng hộ, đoàn kết với nhân dân ta của các đảng cộng sản và công nhân trên thế
giới, của các lực lượng đấu tranh vì độc lập dân tộc và nhân dân các nước Á,
Phi, Mỹ La tinh, các lực lượng hịa bình, dân chủ, tiến bộ và nhân dân ở các
nước tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ, châu Á – Thái Bình Dương.
Hịa đồng hịa bình thế giới, Tổ chức đoàn kết nhân dân Á – Phi, các tổ
chức dân chủ quốc tế (cơng đồn, phụ nữ, thanh niên, sinh viên, nàh báo, luật
gia…) đã tổ chức nhiều hoạt động rộng lớn lên án đế quốc Mỹ xâm lược, bày tỏ
đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Các hội nghị của các tổ chức này đều có nghị
quyết ủng hộ Việt Nam. Đáng kể có các Đại hội hịa bình thế giới kể từ Đại hội
Henxinki tháng Bảy 1965; các Đại hội đoàn kết nhân dân Á – Phi tháng Sáu
1966; cuộc gặp gỡ của thanh niên và sinh viên tháng Tám 1969 ở Henxinki “vì
thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam”.
Bầu bạn quốc tế đã đến Việt Nam để trực tiếp bày tỏ sự ủng hộ và đồn
kết với nhân dân ta. Ủy ban cơng đồn quốc tế đoàn kết với lao động và nhân
dân Việt Nam họp ở Hà Nội tháng Mười 1963. Hội nghị đoàn kết quốc tế với
Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và bảo vệ hịa bình vào cuối tháng Mười
một 1964 ở Hà Nội đã quyết định lấy ngày 20 tháng Mười hai – ngày thành lập
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam – làm ngày đoàn kết của nhân
dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. (7. Hội nghị có sự
tham dự của 64 đại biểu từ 52 nước và 12 tổ chức quốc tế) Nhiều người bạn đã
đến Việt Nam trực tiếp giúp đỡ về y tế, chăm sóc người bị thương, đem viện trợ
nhân đạo đến nhân dân ta.
Cùng với sự ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam, ở nhiều nước đã
diễn ra các hoạt động lên án tội ác của Mỹ. Đặc biệt là tòa án quốc tế Béctơran
Rútsen (Bertrand Russell) thành lập tháng Mười một 1966 đã tổ chức hai phiên
xử tháng Năm 1967 ở Xtốckhôm và tháng Mười một 1967 ở Côpenhaghen, kết
tội Mỹ đã phạm tội ác chiến tranh, tội ác xâm lược và tội ác diệt chủng.
Trong phong trào nhân dân thế giới ủng hộ, đoàn kết với Việt Nam,
phong trào nhân dân Mỹ địi Chính phủ Mỹ chấm dứt chiến tranh và tội ác ở
Việt Nam có một vị trí rất quan trọng. Phong trào nhen nhóm vào cuối chiến
tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam cuối năm 1963, khi sự thất bại của Mỹ đã
lộ rõ và Mỹ phải chuẩn bị cho bước leo thang chiến tranh – chiến tranh cục bộ ở
miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền
Bắc Việt Nam. Phong trào phát triển với quy mô ngày càng rộng lớn và kéo dài
trong nhiều năm.
22
Có tài liệu viết về chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam đã nhận
định: quan tài binh sĩ Mỹ đưa về nước Mỹ và người thất nghiệp ở Mỹ ngày
càng nhiều (ngược lại với chính sách “vừa súng vừa bơ”) thì người Mỹ xuống
đường biểu tình ngày càng đơng; tội ác của Mỹ ngày càng chồng chất thì tấm
lịng của nhân dân Mỹ càng xích gần nhân dân Việt Nam.
Phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ làm rung động nước Mỹ, thực sự
là một phong trào nhân dân chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Báo chí Mỹ
gọi đó là “cuộc chiến tranh ở trong nước Mỹ”. Phong trào bao gồm nhiều tầng
lớp thanh niên, sinh viên, phụ nữ, cơng nhân, trí thức, nhà báo, chức sắc tôn
giáo… Phong trào phản chiến kết hợp với các phong trào người da đen, phong
trào phụ nữ, phong trào sinh viên.
Các hình thức đấu tranh rất phong phú: phổ biến là hội thảo về tội ác
chiến tranh, đòi rút qn Mỹ về nước và biểu tình, tuần hành địi chấm dứt
chiến tranh ở Việt Nam. Trong một số trường hợp đã nổ ra bạo động để phản
đối chiến tranh. Có hình thức độc đáo như đốt thẻ qn dịch, trốn qn dịch, bỏ
ra nước ngồi để khơng phải đi lính, địi bãi bỏ chế độ qn dịch và đặc biệt là
đã xảy ra 8 vụ tự thiêu.
Phong trào nhân dân thế giới ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam
chống Mỹ, cứu nước là một phong trào quốc tế rộng lớn và mạnh mẽ hiếm có
trong lịch sử thế giới. Từ phong trào này “một thế hệ Việt Nam” đã ra đời ở
nhiều nước; ngày nay khơng ít người trong “thế hệ Việt Nam” giữ cương vị lãnh
đạo ở chính phủ, cơ quan chính quyền, tổ chức chính trị, xã hội, viện nghiên
cứu khoa học… và vẫn giữ thiện cảm với nhân dân Việt Nam.
Đáp lại sự ủng hộ chí tình của nhân dân thế giới, nhân dân Việt Nam
không quên làm nghĩa vụ quốc tế trong khi kháng chiến. Bản thân cuộc chiến
đấu của nhân dân ta đã là sự đóng góp thiết thực và tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Sự hình thành trên thực tế mặt trận nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ và
ủng hộ nhân dân Việt Nam – chính là bước phát triển mới của cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới. Ở nhiều nước, phong trào đoàn kết với Việt Nam
đã thực sự là một sự tập hợp lực lượng đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Dân tộc Việt Nam ta đang tiến
hành cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử của mình. Vì độc lập, tự do của
Tổ quốc, vì lợi ích của phe xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc bị áp bức và của
cả lồi người tiến bộ” (8. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CHính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000, t.12, tr.373) (Lời kêu gọi nhân ngày 20 tháng Bảy 1968). Người căn
dặn: “Phải nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị
với các nước xã hội chủ nghĩa anh em; hết lòng ủng hộ phong trào giải phóng
của các dân tộc; đồn kết với giai cấp cơng nhân và nhân dân tồn thế giới trong
23
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc do Mỹ cầm đầu, đấu tranh cho hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội” (9. Như trên, t.11, tr.234)
(Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Hà Nội ngày 27 tháng Ba 1964).
Thực hiện đường lối của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại biểu Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, văn hóa… của
nước ta đã đóng góp tích cực vào hoạt động của thế giới, Tổ chức đoàn kết
nhân dân Á – Phi và các tổ chức dân chủ quốc tế. Công tác đối ngoại nhân dân
đã cùng với công tác đối ngoại của Đảng góp phần gìn giữ và phát triển tình
hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa, từng bước khôi phục quan hệ bình
thường giữa Liên Xơ, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, từng bước
khắc phục cuộc khủng hoảng của phong trào giải phóng dân tộc (đặc biệt là của
nhân dân Cuba, Palextin, Angiêri …).
Thắng lợi của hoạt động đối ngoại nhân dân trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước không tách rời sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Cùng với việc đề
ra phương hướng, nhiệm vụ công tác đối ngoại nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất chú trọng mặt tổ chức. Có thời gian Ban hoạt động quốc tế hoặc
Ban công tác quốc tế được lập ra để giúp Ban Bí thư chỉ đạo cơng tác đối ngoại
chung. Có thời gian để chỉ đạo riêng cơng tác ngoại giao nhân dân, Ban Bí thư
thành lập Ban công tác quốc tế nhân dân (từ tháng hai 1963 đến tháng Tư 1968)
và Ban Quốc tế nhân dân (từ tháng Tám 1974 đến 1976).
Trong kháng chiến chống Mỹ, Ủy ban đoàn kết châu Á của Việt Nam
được thành lập tháng Mười 1956 (đầu năm 1958 đổi thành Ủy ban đoàn kết
nhân dân Á – Phi và tháng Tám 1984 đổi thành Ủy ban đoàn kết, hợp tác Á –
Phi – Mỹ La tinh). Để giúp chỉ đạo trực tiếp Ủy ban bảo vệ hịa bình thế giới,
Ủy ban đoàn kết nhân dân Á – Phi, Hội Quốc tế ngữ bảo vệ hịa bình, các hội
nghị và ủy ban đồn kết song phương, tháng Tư 1968 Ban Bí thư thành lập
Đảng đoàn các tổ chức đoàn kết, hữu nghị. Đây là bước chuẩn bị cho việc hình
thành một tổ chức chính trị - xã hội chun trách cơng tác đối ngoại nhân dân
trên các lĩnh vực hịa bình, đoàn kết, hữu nghị và vận động viện trợ nhân dân.
Thời kỳ từ sau khi thống nhất đất nước,
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả đất nước đến nay.
Những năm 1975 – 1986
Sau chiến thắng 1975, nước ta có nhiều thuận lợi cả nước thống nhất đi lên chủ
nghĩa xã hội song lại đứng trước khơng ít khó khăn: hậu quả chiến tranh nặng
nề, Mỹ cấm vận về kinh tế, sự trì trệ rồi khủng hoảng về kinh tế - xã hội; chiến
tranh ở biên giới phía Bắc và Tây Nam (cuối năm 1978 đầu 1979), các thế lực
thù địch bao vây, cơ lập nước ta về chính trị sau khi chúng ta giới địch bao vây,
24
cơ lập nước ta về chính trị sau khi chúng ta giúp nhân dân Campuchia thoát
khỏi chế độ diệt chủng Pơn Pốt.
Cơng tác đối ngoại nhân dân đã góp phần thực hiện nhiệm vụ đối ngoại
do Đại hội lần thứ IV của Đảng tháng Mười hai 1976 và Đại hội lần thứ V tháng
Ba 1982 đề ra: tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để khắc phục hậu
quả chiến tranh và tình trạng trì trệ khủng hoảng về kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phịng, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong mấy năm đầu sau khi thống nhất đất nước, việc duy trì và phát
triển quan hệ với bạn bè ở các nước độc lập dân tộc và các nước phương Tây đã
ủng hộ nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ chưa được quan tâm đúng
mức. Công tác đối ngoại nhân dân đã góp phần khắc phục thiếu sót đó, từng
bước mở rộng quan hệ với nhân dân Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu và một số nước độc lập dân tộc, với thế giới, Tổ chức đoàn kết nhân dân Á
– Phi và các tổ chức dân chủ quốc tế.
Để thống nhất và tăng cường các tổ chức chun trách hoạt động hịa
bình, đồn kết, hữu nghị, Ban Bí thư đã quyết định thành lập Ủy ban Việt Nam
đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước ngày 29 tháng Giêng 1977. (10.
Tháng Năm 1989 đổi tên là Liên hiệp các tổ chức hịa bình, đồn kết, hữu nghị
Việt Nam).
Từ khi đường lối mới được triển khai thực hiện đến nay
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng tháng Mười hai 1986, hoạt động đối ngoại bắt
đầu chuyển theo hướng rộng mở. Công tác đối ngoại nhân dân đã góp phần tích
cực vào việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (bình thường hóa chính
thức từ tháng Mười một 1991), tăng cường mối quan hệ đoàn kết đặc biệt với
nhân dân Lào, giữ vững quan hệ hữu nghị với nhân dân Campuchia, duy trì
quan hệ với nhân dân Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trong khi
các nước này lâm vào khủng hoảng, mở rộng một bước quan hệ với nhân dân
một số nước Á, Phi, Bắc Âu, Tây Âu, Nhật Bản và Mỹ. Công tác đối ngoại
nhân dân cũng đã góp phần duy trì hoạt động của các tổ chức dân chủ quốc tế.
Sau Đại hội lần thứ VII của Đảng tháng Sáu 1991, công tác đối ngoại
nhân dân đã nhận được sự chỉ đạo chặt chẽ: Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương tháng Sáu 1992 nêu rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại nhân dân và
Ban Bí thư ra chỉ thị về đổi mới và mở rộng công tác đối ngoại nhân dân (Chỉ
thị số 44/CT – TW ngày 20 tháng Chín 1994).
Hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội được
đẩy mạnh. Riêng về các tổ chức chuyên trách trong hoạt động đối ngoại nhân
dân, đầu năm 1992 Liên hiệp các tổ chức hòa bình, đồn kết, hữu nghị Việt
Nam được tách ra khỏi Ban Đối ngoại Trung ương thành một tổ chức chính trị -
25
xã hội độc lập do Ban Bí thư chỉ đạo và Chính phủ quản lý (Quyết định số
22/QĐ – TW ngày 10 tháng Giêng 1992). (11. Đầu tháng Chín 1994, Liên hiệp
các tổ chức hịa bình, đồn kết, hữu nghị Việt Nam được đổi tên thành Liên hiệp
các tổ chức hữu nghị Việt Nam).
Theo Chỉ thị số 27/CT-TW ngày 27 tháng Bảy 1993 của Ban Bí thư, Liên
hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam có nhiệm vụ:
- Góp phần tích cực mở rộng quan hệ đồn kết, hợp tác và hữu nghị, sự
giao lưu kinh tế, văn hóa và khoa học – kyc thuật giữa nhân dân ta với các nước
trên thế giới. Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta.
- Bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các
nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết những vấn đề có tính
chất tồn cầu như bảo vệ mơi trường, phịng chống một số căn bệnh nguy hiểm.
Tiếp tục góp phần duy trì và đổi mới các tổ chức dân chủ quốc tế đấu
tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội phù hợp với tình hình
mới của thế giới và điều kiện thực tế của ta
- Làm đầu mối vận động, điều phối viện trợ của các tổ chức hịa bình,
đồn kết, hữu nghị, các tổ chức nhân đạo, từ thiện, các tổ chức phi chính phủ và
cá nhân ở các nước trên thế giới nhằm góp phần vào cơng cuộc phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Từ sau Đại hội lần thứ VII của Đảng, cơng tác đối ngoại đã có bước phát
triển mạnh, góp phần tích cực gìn giữ hịa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải
thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung
của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Công tác đối ngoại nhân dân được đổi mới và mở rộng một bước, góp phần
khơi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc;
tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào và xây dựng quan hệ
tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành
thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ truyền thống với nhiều
nước, từng bước đổi mới quan hệ hữu nghị với Liên bang Nga, các nước trong
Cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng quan hệ với
các nước công nghiệp phát triển, bình thường hóa quan hệ với Mỹ; thiết lập và
mở rộng quan hệ với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình Dương, Trung Đơng,
châu Phi và Mỹ La tinh; mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các tổ
chức quốc tế và khu vực.
Từ sau Đại hội lần thứ VIII tháng Sáu 1996 và Đại hội lần thứ IX tháng
Tư 2001 của Đảng, hoạt động đối ngoại của nước ta mở rộng thêm và đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.
26
Cơng tác đối ngoại nhân dân có bước phát triển mạnh hơn trước, được đổi mới
một cách tích cực về nội dung, phương thức hoạt động và về tổ chức.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đánh giá, các đồn rtheer nhân dân, các
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức bảo vệ hịa bình thế giới và các hội hữu nghị đã
mở rộng hoạt động đối ngoại cả về phương thức, quy mơ và địa bàn, góp phần
tích cực vào thắng lợi ngoại giao của nước ta.
Trong quá trình hoạt động, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
cũng đã phát triển khá nhanh: giữa năm 1993 có 37 tổ chức thành viên ở trung
ương và có 20 tổ chức liên hiệp các tổ chức hữu nghị ở tỉnh, thành phố; đầu
năm 2001 đã có gần 50 tổ chức thành viên ở trung ương và 20 tổ chức liên hiệp
ở tỉnh, thành phố.
Công tác đối ngoại nhân dân đã có những đóng góp tích cực trên nhiểu
mặt:
- Một là, đã góp phần tranh thủ được thiện cảm, sự đồng tình và ủng hộ
ngày càng rộng rãi của nhân dân các nước đối với công cuộc đổi mới, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ đất nước của nhân
dân ta. Đồng thời, đã chú ý giải thích những hiểu lầm của bên ngồi về nước ta,
đấu tranh một cách thích hợp với những quan điểm, ý đồ và hành động xấu của
một số người và tổ chức nước ngoài đối với nhân dân ta, góp phần giữ vững độc
lập, chủ quyền quốc gia và an ninh chính trị, chống âm mưu “diễn biến hịa
bình”, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch.
Quan hệ với bạn bè cũ đã ủng hộ nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến
được duy trì và tăng cường. Quan hệ với bạn bè mới được xây dựng và mở
rộng. Hoạt động đối ngoại nhân dân đã hướng tập trung vào các nước láng
giềng và ở khu vực Đông Nam Á (đặc biệt là Lào, Campuchia, Trung Quốc và
các nước ASEAN), các nước có quan hệ truyền thống (như Cuba, Ấn Độ, Cộng
hịa Dân chủ nhân dân Triều Tiên…), các nước đang phát triển ở Á, Phi và Mỹ
La tinh. Quan hệ với nhân dân Nhật Bản, Mỹ và nước tư bản chủ nghĩa phát
triển ở Bắc Âu, Tây Âu, Nam Thái Bình Dương được mở rộng thêm. Quan hệ
hữu nghị nhân dân với Liên bang Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông
Âu được khôi phục.
- Hai là, qua những hoạt động vì hịa bình, hữu nghị, đồn kết và hợp tác,
nhân dân ta đã bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của nhân dân
các nước vì hịa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội, đặc biệt là nhân dân
Cuba, Palextin, Irắc, Libi, Triều Tiên, Nam Tư, tham gia giải quyết những vấn
đề có tính tồn cầu như loại trừ vũ khí hạt nhân, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ
mơi trường… Cơng tác đối ngoại nhân dân cũng đã góp phần tích cực duy trì và
đổi mới hoạt động của các tổ chức quốc tế mà nước ta là thành viên, nhất là thế
giới, Tổ chức đoàn kết nhân dân Á – Phi, các tổ chức dân chủ quốc tế. (12. Việt
27
Nam đã đăng cai tổ chức một số hội nghị của thế giới, Tổ chức đoàn kết nhân
dân Á – Phi, Hội quốc tế ngữ châu Á…)
- Ba là, công tác đối ngoại nhân dân đã vận động tranh thủ sự giúp đỡ của
nhân dân các nước trên thế giới về vốn, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm
quản lý kinh tế, xã hội, đào tạo cán bộ. Nhân dân ta nhận được sự giúp đỡ của
nhân dân nhiều nước, chủ yếu qua các tổ chức phi chính phủ nước ngồi và một
phần qua các tổ chức hịa bình, đồn kết, hữu nghị của một số nước. Số tổ chức
phi chính phủ nước ngoài hoạt động ở nước ta tăng từ 125 nước năm 1991 lên
485 tổ chức vào đầu năm 2002. Giá trị viện trợ phi chính phủ tăng từ 25 triệu
đôla Mỹ năm 1990 lên 80 triệu hàng năm từ 1996 đến 2001.
Viện trợ phi chính phủ có giá trị về tiền khơng lớn nhưng có ý nghĩa và
hiệu quả không nhỏ đối với việc phát triển ở nhiều cộng đồng địa phương (nhất
là nông thôn) trên các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, thủy lợi nhỏ, ngành thủ
công, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực,
tạo công ăn việc làm, giải quyết một số vấn đề xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa…
và khắc phục hậu quả thiên tai.
Việc quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngồi có
nhiều vấn đề phức tạp: một phần ba số tổ chức có tính chất tơn giáo và một số
có ý đồ xấu về chính trị; do đó, có nơi có lúc có thiếu sót, sơ hở ảnh hưởng đến
kết quả sử dụng viện trợ chưa đảm bảo chặt chẽ về mặt an ninh.
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
NHÂN DÂN
Hoạt động đối ngoại nhân dân trong quá trình cách mạng của nước ta đã để lại
một số kinh nghiệm quý báu.
1. Hoạt động đối ngoại nhân dân cần tận dụng lợi thế của mình và những
thuận lợi khách quan để phát huy vai trò và thực hiện chức năng có hiệu
quả cao
Cơng tác đối ngoại nhân dân có thể và cần đi trước một bước hoặc đi đầu trong
việc vận động quốc tế, góp phần thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, nhất là khi đất nước ở trong tình thế khó khăn, bị các thế
lực thù địch bao vây, cơ lập; có thể mở đường cho quan hệ đối ngoại của Đảng
và quan hệ ngoại giao nhà nước.
Công tác đối ngoại nhân dân có tiếng nói và hành động mà cơng tác đối
ngoại của Đảng và nhất là ngoại giao nhà nước khơng làm hoặc nếu làm thì
khơng thuận lợi hoặc khơng có hiệu quả cao, như bày tỏ sự đồng tình và ủng hộ
đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân một số nước, phản đối và lên
án hành động của các thế lực bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước
ta hoặc nước khác.
28
Lợi thế của cơng tác đối ngoại nhân dân cịn ở chỗ có sức mạnh nhân dân
làm hậu thuẫn, có thể sử dụng cả lỹ lẽ và tình cảm để thuyết phục, tranh thủ sự
ủng hộ quốc tế; vận động dư luận nhân dân ta và nhân dân các nước lên tiếng
phản đối âm mưu hành động thù địch của các thế lực thù địch bên ngoài.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta trước đây cũng
như trong thời kỳ đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực phù hợp với quá trình tồn cầu hóa, khu
vực hóa, với xu thế hịa bình, hợp tác để phát triển. Trong cơng cuộc đổi mới
nhân dân ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Đó là những thuận lợi
rất cơ bản để đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân, phục vụ tích cực sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
2. Hoạt động đối ngoại nhân dân phải nắm vững đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hịa bình, hữu nghị và hợp tác với các nước, thực hiện chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
Cơng tác đối ngoại nhân dân phải góp phần tích cực bảo đảm lợi ích dân tộc
chân chính, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh bên
trong để xây dựng và bảo vệ đất nước. Khơng ỷ lại vào bên ngồi mà dựa vào
sức mạnh của nhân dân và đất nước mình thì cơng tác đối ngoại nhân dân mới
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ quốc tế rộng rãi, góp phần tăng thêm sức mạnh
của đất nước.
Đa dạng hóa quan hệ nhân dân về nội dung là hoạt động vì hịa bình,
đồn kết, hữu nghị và hợp tác phải thơng qua và bao gồm nhiều mặt: ủng hộ lẫn
nhau về chính trị, giao lưu văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch hữu nghị, giúp
đỡ lẫn nhau về vật chất (viện trợ nhân dân), trao đổi khoa học – công nghệ, giúp
đỡ nhau về kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đào tạo cán bộ…
Về phương thức hoạt động, cần đa dạng hóa, sử dụng từ các hình thức
rộng rãi như mít tinh, họp mặt, liên hoan hữu nghị, văn nghệ, thi đấu thể thao…
đến các hình thức đi vào chiều sâu như hội thảo, hội nghị, tiếp xúc cá nhân…
Đa dạng hóa đối tượng quan hệ là tranh thủ các tổ chức, cá nhân có thể
tranh thủ được thuộc các xu hướng chính trị, tầng lớp xã hội khác nhau; từ tổ
chức chính trị đến tổ chức khoa học, văn hóa, xã hội, nghề nghiệp; từ người dân
bình thường đến các nhà hoạt động chính trị; duy trì, thắt chặt quan hệ với bạn
bè cũ và chủ động xây dựng quan hệ với các đối tác mới, bạn bè mới. Trong khi
đa dạng hóa đối tượng quan hệ, cần đặc biệt chú trọng thế hệ trẻ.
29
Cần đa phương hóa quân hệ đối ngoại nhân dân theo mục tiêu, nhiệm vụ
đối ngoại của Đảng và Nhà nước từng thời kỳ, tập trung hoạt động vào các địa
bàn trọng điểm, đồng thời mở rộng hoạt động ở các địa bàn khác.
Để góp phần tích cực thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, các tổ chức tham gia công tác đối ngoại nhân
dân phải làm tốt công tác nghiên cứu, trao đổi thông tin, kinh nghiệm.
3. Hoạt động đối ngoại nhân dân phải phát huy tính chủ động, sáng tạo,
năng động và linh hoạt, giữ vững nguyên tắc, thực hiện tốt các phương
châm về đối ngoại.
Công tác đối ngoại nhân dân mang tính quần chúng nhân dân rộng rãi, có thể
chủ động và sáng tạo, năng động và linh hoạt vận dụng sách lược trong khi mở
rộng quan hệ. Tuy vậy, cần phải chọn lọc, không phải thiết lập và mở rộng quan
hệ với bất cứ đối tượng nào, trên bất cứ lĩnh vực nào và với bất cứ hình thức
nào.
Điều cơ bản là phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ
nghĩa xã hội, bảo đảm các nguyên tắc quan hệ đối ngoại: tôn trọng độc lập, chủ
quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết
bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hịa bình, phản đối mọi âm mưu và
hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền; bảo đảm góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta, bảo vệ sản xuất, tài nguyên, môi trường và an ninh
quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
Đồng thời, cần phải nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật của Đảng, thi hành
pháp luật của Nhà nước, tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước.
Công tác đối ngoại nhân dân trong khi xử lý các mối quan hệ, phải vận
dụng đúng đắn các phương châm về đối ngoại.
Thực hiện phương châm kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân
chính với tinh thần quốc tế cao cả, kết hợp nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc
tế, kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, hoạt động đối ngoại
nhân dân phải cố gắng vừa tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ quốc tế vừa bày tỏ
sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước, góp phần
vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Thực hiện phương châm nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong
quan hệ đối ngoại, công tác đối ngoại nhân dân cần thuyết phục, giải quyết sự
hiểu lầm và bất đồng của các đối tác để tăng cường hữu nghị và hợp tác; phải có
cách đấu tranh thích hợp với các đối tác lợi dụng các vấn đề gọi là nhân quyền,
dân chủ, tôn giáo, dân tộc để thực hiện ý đồ xấu đối với nhân dân ta, kiên quyết
30
bảo vệ lợi ích dân tộc, chủ quyền của nước ta. Đồng thời, cần giữ bí mật quốc
gia, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh. Khi vận động viện trợ của các tổ
chức phi chính phủ nước ngồi, khơng vì lợi ích vật chất mà qn lợi ích chính
trị, danh dự quốc gia.
4. Hoạt động đối ngoại nhân dân cần biết vận dụng sức mạnh tổng hợp để
mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động
Công tác đối ngoại nhân dân cần gắn các nội dung hoạt động hòa bình, đồn
kết, hữu nghị và vận động viện trợ phi chính phủ với nhau để nâng cao hiệu quả
của từng hoạt động và của hoạt động chung. Đồng thời, kết hợp các hoạt động
mang tính chính trị, văn hóa, xã hội và các hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy quan hệ
về kinh tế, khoa học, kỹ thuật với nhau.
Yếu tố rất quan trọng để tạo sức mạnh tổng hợp là sự phối hợp thường
xuyên và chặt chẽ hoạt động đối ngoại của các đồn thể nhân dân, các tổ chức
chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp với hoạt động của các tổ chức chuyên trách
công tác đối ngoại nhân dân tập hợp trong Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam, dưới sự thống nhất lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước.
Đồng thời, công tác đối ngoại nhân dân phải tranh thủ được sự hỗ trợ của
công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao nhà nước để tăng thêm sức mạnh
cho mình và sức mạnh của cơng tác đối ngoại nói chung, góp phần thực hiện sự
kết hợp chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, đối ngoại với an ninh, quốc
phòng.
5. Để đổi mới, mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ, cần đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ đối ngoại nhân dân và phổ biến đường lối, chính
sách đối ngoại cho nhân dân
Tiêu chuẩn cán bộ đối ngoại nhân dân cần đạt được để áp ứng yêu cầu ngày
càng cao của cơng tác đối ngoại nhân dân là lịng u nước và trung thành với
chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức và phẩm chất tốt, có
ý thức tổ chức kỷ luật, nắm vững tình hình, nhiệm vụ của đất nước và đường
lối, chính sách đối ngoại, có năng lực nghiệp vụ đối ngoại chung và đối ngoại
nhân dân, có phong cách đúng đắn, có trình độ ngoại ngữ sử dụng được trong
cơng tác.
Trong các hình thức bồi dưỡng và đào tạo, chú ý hình thức rút kinh
nghiệm công tác, tổng kết hoạt động từng thời gian, rèn luyện trong thực tế.
Quan hệ đối ngoại của nước ta mở rộng, nhân dân ta tham gia hoạt động
đối ngoại, tiếp xúc với người nước ngoài ngày càng nhiều. Việc thông tin, phổ
biến, giáo dục cho nhân dân hiểu biết về đường lối, chính sách và cơng tác đối
ngoại, về thái độc tiếp xúc với người nước ngoài là cần thiết để góp phần bảo
đảm thắng lợi của công tác đối ngoại chung và công tác đối ngoại nhân dân.
31
PHẦN HAI
PHONG TRÀO HỊA BÌNH
-----------------------------------------------------------------------------------CHIẾN TRANH VÀ HỊA BÌNH – VẤN ĐỀ HÀNG ĐẦU
CỦA MỌI THỜI ĐẠI
Chiến tranh và hòa bình gắn với lịch sử nhân loại
Trong lịch sử xã hội lồi người, chiến tranh và hịa bình kế tiếp nhau, thời gian
có chiến tranh nhiều hơn thời gian có hịa bình. Hai tác giả Will và Durant trong
một cơng trình nghiên cứu năm 1968 ước tính trong khoảng 3421 năm trước đó,
thế giới chỉ có 268 năm khơng có chiến tranh. Nhưng trong những năm tháng
hịa bình ngắn ngủi đó, con người ở nơi này nơi khác vẫn phải chuẩn bị cho
chiến tranh. (1. Có tài liệu cho biết: trong khoảng 5.164 năm (kể từ 3200 năm
trước công nguyên đến năm 1964 sau công nguyên) lịch sử nhân loại đã có
14.513 cuộc chiến tranh lớn nhỏ, trung bình mỗi năm có 2,8 cuộc chiến tranh)
Trên thực tế, trong hai thế kỷ XIX và XX đã xảy ra bốn cuộc chiến tranh
lớn: cuộc chiến tranh xâm chiếm các nước ở Á, Phi, Mỹ Latinh làm thuộc địa
của các nước tư bản chủ nghĩa châu Âu trong thể kỷ XIX, hai cuộc chiến tranh
thế giới và cuộc chiến tranh lạnh trong thế kỷ XX. Từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai đến năm 1990 đã xảy ra 140 cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhỏ ở khắp các
châu.
Khi chiến tranh lạnh kết thúc, vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX, nguy cơ
chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, ở nơi này nơi khác trên thế giới, mọi người đã
nghĩ tới một thời kỳ nhân loại được sống trong hịa bình. Nhưng bức tranh hịa
bình và chiến tranh trên thế giới vẫn là những mảng màu sáng, tối xem nhau.
Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, tranh chấp sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ,
khủng bố tiếp tục diễn ra. Số lượng các cuộc xung đột vũ trang tăng và đã xảy
ra khoảng 45 cuộc; có các cuộc chiến tranh lớn như chiến tranh vụng Vịnh năm
1991, cuộc chiến tranh của các nước NATO, đứng đầu là Mỹ, tấn công Nam Tư
năm 1999.
Sản xuất vũ khí khơng ngừng tăng, chi phí quân sự trên thế giới khoảng
900 tỷ đôla Mỹ hàng năm. Từ hai quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hirơsima
và Nagaxaki (Nhật Bản) nay đã có hàng vạn bom và đầu đạn hạt nhân (chưa kể
các vũ khí giết người hàng loạt khác). Từ hai đến năm nước có vũ khí hạt nhân
và khoảng 20 nước có khả năng sản xuất vũ khí hạt nhân.
Như vậy, ngày nay chiến tranh và hịa bình vẫn là mối quan tâm hàng đầu
của nhân dân thế giới. Hịa bình vẫn là mục tiêu cao cả của thời đại.
Nguồn gốc chiến tranh
Mỗi cuộc chiến tranh đều có nguyên nhân cụ thể riêng nhưng nguyên nhân sâu
xa nhất là xung đột lợi ích giữa tập đồn cầm quyền một nước có tham vọng
32
bành trướng, áp đặt với các dân tộc khác bảo vệ độc lập chủ quyền của mình,
hoặc là tranh giành lợi ích giữa những tập đồn cầm quyền với nhau. Ví dụ như
cuộc Đơng chinh của Alếchxan Makêđơnia từ năm 334 đến năm 30 trước công
nguyên, cuộc Tây chinh của quân Mông Cổ thế kỷ XII từ Trung Quốc tới tận bờ
Địa Trung Hải, cuộc chiến tranh Anh – Pháp 100 năm thế kỷ XIX – thế kỷ XX,
cuộc chiến tranh của Napôlêông nước Pháp xâm chiếm châu Âu đầu thế kỷ
XIX…
Ngun nhân chiến tranh cịn có thể là các mâu thuẩn sắc tộc, dân tộc,
tôn giáo, lãnh thổ, nhưng trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, cái gốc của chiến
tranh là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản. Bốn cuộc chiến tranh thế giới từ
thế kỷ XIX đến nay đều do chủ nghĩa đế quốc gây ra nhằm mục đích cuối cùng
là thống trị thế giới, bóc lột các dân tộc, chiếm đoạt siêu lợi nhuận tư bản. Các
cuộc xung đột vũ trang do mâu thuẫn sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ hiện
nay ở một số nước đang phát triển đều ít nhiều có tác động của các thế lực bên
ngồi, có bàn tay của chủ nghĩa đế quốc.
Đế quốc Mỹ trong vòng 200 năm kể từ khi thành lập nước Mỹ đã tiến
hành khoảng 70 cuộc chiến tranh, cướp đi quyền sống của hàng chục triệu
người dân nước khác. Ngày nay, ngân sách quốc phòng hằng năm của Mỹ
khoảng trên 320 tỷ đôla, chiếm 36% chi phí quân sự trên thế giới. Mỹ là nước
bán vũ khí lớn nhất. Chạy đua vũ trang của Mỹ dẫn đến chạy đua vũ trang thế
giới, gánh nặng chi phí quân sự đè nặng lên đầu các nước đang phát triển
(chiếm trung bình 25% tổng số chi phí qn sự trên thế giới). Sau vụ khủng bố
ngày 11 tháng Chín 2001 ở Mỹ, chính quyền Mỹ dùng chiêu bài chống khủng
bố quốc tế để tiến hành chiến tranh ở Ápganixtan, chuẩn bị tiến công Irắc, xúc
tiến thiết lập hệ thống phòng thủ tên lửa, đưa ra học thuyết quân sự đánh địn
phủ đầu, mở rộng sự có mặt về quân sự ở nhiều khu vực, thực hiện chính sách
can thiệp và áp đặt đối với các dân tộc.
Trước tình hình đó, nhân dân các nước mà nịng cốt là giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, các lực lượng hịa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ nâng cao cảnh giác, đẩy mạnh cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Quá trình phát triển của tình hình thế giới trước và
đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai chứng tỏ các mục tiêu đấu tranh liên
quan chặt chẽ đến nhau. Đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc, chống chủ
nghĩa đế quốc, thực dân, chống chiến tranh xâm lược và sự áp đặt từ bên ngồi
đồng thời là đấu tranh bảo vệ hịa bình, hịa bình trong độc lập, tự do và phát
triển. Những cuộc đấu tranh đó đều mang tính chính nghĩa, cách mạng. Đấu
tranh địi thủ tiêu vũ khí hạt nhân và các vũ khí giết người hàng loạt khác khơng
những nhằm bảo vệ hịa bình thế giới mà cịn nhằm bảo vệ sự sống cịn của
nhân loại.
PHONG TRÀO HỊA BÌNH THẾ GIỚI
33
Các hoạt động hịa bình trước Chiến tranh thế giới thứ hai
Lịch sử phát triển của nhân loại gắn với chiến tranh đồng thời gắn với những
hoạt động chống chiến tranh vì hịa bình. Cuộc đấu tranh vì hịa bình, chống
chiến tranh đã phát triển từ những hoạt động của cá nhân, các nhóm người
thành phong trào hịa bình quốc gia, khu vực và liên khu vực nhưng đến trước
Chiến tranh thế giới thứ hai chưa trở thành một phong trào rộng lớn trên phạm
vi toàn thế giới.
Các tổ chức hịa bình ra đời ở nhiều nước và khu vực làm nịng cốt cho
phong trào hịa bình. Các tơn giáo lớn có những điều răn hịa bình, nhân ái và
cũng có những hoạt động hịa bình; các tổ chức tơn giáo hoạt động hịa bình có
từ thế kỷ XVI – XVII.
Đến thế kỷ XIX, các tổ chức hoạt động hòa bình mang tính xã hội đã xuất
hiện ở một số nước. Có tổ chức tồn tại đến nay và có ảnh hưởng khá lớn như
American Peace Society thành lập 1828 ở Mỹ, New England Non-Resistance
Society thành lập năm 1838 ở Anh với tư tưởng bất bạo động được Lép Tônstôi
ở nước Nga phát triển và ảnh hưởng khá mạnh tới Mahatma Gandi ở Ấn Độ, tổ
chức Universal Peace Congress ra đời đầu những năm 1840, một trong những
tổ chức mang tính liên quốc gia đầu tiên, tiền thân của tổ chức International
Peace Bureau thành lập năm 1892 có trụ sở tại Giơnevơ, Thụy Sĩ hiện nay. Có
tài liệu cho biết, vào năm 1900 ở Tây – Bắc Âu và Mỹ có khoảng 425 tổ chức
hịa bình, phần lớn mang tính chất hịa bình chủ nghĩa.
Đầu thế kỷ XX, phong trào phụ nữa đấu tranh vì hịa bình và quyền bình
đẳng của phụ nữ đã dẫn tới việc thành lập hai tổ chức quốc tế của phụ nữ. Hội
nghị phụ nữ xã hội quốc tế thành lập năm 1915, do bà Clara Zetkin, đảng viên
Đảng Xã hội Đức khởi xướng, là tiền thân của Liên đoàn Phụ nữ dân chủ quốc
tế sau này. Hội nghị phụ nữ La Hay tổ chức năm 1915, tiền thân của Liên đoàn
phụ nữ quốc tế vì hịa bình và tự do (WVPE) hiện nay, có trụ sở ở Giơnevơ.
Quốc tế ngữ ra đời và được coi là thứ ngơn ngữ của hịa bình và hi vọng. Năm
1921 Tổ chức Quốc tế ngữ vì hịa bình (PACO) được thành lập và được các
nước xã hội chủ nghĩa duy trì cho đến những năm 1990.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi mở ra một kỷ nguyên mới cho
cuộc đấu tranh vì hịa bình. Tun ngơn đầu tiên của Chính phủ nước Nga Xơ
viết là Tun ngơn hịa bình đã được nhân dân u chuộng hịa bình thế giới
đón nhận và ủng hộ rộng rãi. Phong trào hịa bình ở nhiều nước đã chống lại
cuộc chiến tranh của 14 nước đế quốc, tư bản nhằm bao vây và tiêu diệt nước
Nga Xô viết – nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử loài người.
Trước sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ có chiến tranh, năm
1935 Quốc tế Cộng sản ra đời kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh chống chủ
nghĩa phát xít và chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hòa bình và cải thiện
đời sống được nhân dân nhiều nước hưởng ứng rộng rãi. Nhiều trí thức tiến bộ