TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
MƠN: CƠNG NGHỆ SẢN XUẤT DẦU
ĐỀ TÀI 13
TÌM HIỂU CƠNG NGHỆ TẨY
MÀU DẦU
Gv: Nguyễn Hữu Quyền
Lớp: 02DHTP2_Thứ 4_tiết 10-12
Phịng : E-09
Nhóm: 13
TP. HCM, 9/2014
MỤC LỤC
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Dầu có màu sắc là do sự tồn tại của một số chất màu có tính tan trong dầu.
Chất tồn tan phổ biến nhất là các carotenoid, chúng gồm khoảng 60-70 chất khác
nhau và có màu từ vàng ánh đến đỏ sẫm.
Chlorophyll (diệp lục tố): làm dầu có màu vàng xanh (có nhiều hạt chưa chín)
Gossypol và các dẫn xuất của nó: làm cho dẫu có màu sẫm và có độc tính.
Ngoài ra, còn có một số hợp chất gây màu khác như dầu màu đen do chứa
nhiều các hợp chất nhựa, màu đen của hạt bông là do có hợp chất gosibol.
1.1.
Mục đích công nghệ:
Tẩy màu là mợt khâu quan trọng trong quá trình tinh luyện dầu cả bằng
phương pháp vật lý và hóa học. Tẩy màu không chỉ di chuyển ra khỏi dầu các hợp
chất tạo màu không mong muốn mà còn có khả năng tách loại khỏi dầu lượng
phosphoslipid, các sản phẩm oxy hóa và xà phòng còn sót lại trong dầu. Trong giai
đoạn hiện nay, khi quá trình tinh luyện dầu theo phương pháp vật lý ngày càng được
ưa chuộng, tẩy màu trở thành quá trình được sử dụng phở biến hơn do đây là giai
đoạn cuối có khả năng di chuyển lượng dư của phospholipid, xà phòng, kim loại và
các sản phẩm oxy hóa trước khi chuyển qua khâu khử mùi. Việc di chuyển các hợp
chất không tinh khiết này có vai trò rất quan trọng do nó có ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng cảm quan và sự ổn định với các tác nhân oxy hóa của dầu sau khử mùi.
Như vậy, quá trình tẩy màu sẽ loại bỏ được các chất màu ra khỏi dầu nhằm
tăng phẩm chất của dầu và tạo được dầu có màu như mong muốn. Từ đó, làm cho
dầu sáng màu, cải thiện giá trị cảm quan của dầu. Tuy nhiên, mức độ mịn của chất
hấp phụ cần có mợt giới hạn nhất định vì quá mịn sau khi tẩy màu, màu khó tách ra
khỏi dầu mỡ.
Ẩm của dầu làm giảm tính chất hấp phụ của chất tẩy màu nên độ ẩm dầu
trước khi tẩy màu dao động trong khoảng 0.05-1%.
1.2.
Các phương pháp tẩy màu
Quá trình tẩy trắng dầu có thể tiến hành theo 4 phương pháp chủ yếu:
•
•
•
•
Sự hấp phụ chất rắn,
Tác dụng nhiệt,
Do quá trình hydrogen hóa có xúc tác,
Sử dụng chất tẩy trắng hóa học.
1.2.1. Tẩy màu bằng chất hấp phụ
Hấp phụ là quá trình hút các chất trên bề mặt các vật liệu xốp nhờ các lực bề
mặt, các vật liệu xốp được gọi là chất hấp phụ, chất bị hút được gọi là chất bị hấp
phụ.
Phương pháp này dựa vào khả năng hấp phụ của các chất có tính chất bề mặt.
Sự hấp phụ này có có tính chất chọn lọc, đối với dầu mỡ chủ yếu là hấp phụ các
chất màu, sau khi hấp phụ xong tiến hành tách chất hấp phụ ra khỏi dầu.
Mỗi loại chất hấp phụ có một khả năng hấp phụ riêng và có một giới hạn nhất
định. Quá trình hấp phụ khơng thể tách rời sự tồn tại của các bề mặt hoạt động hấp
phụ có hiệu lực. Các chất hấp phụ thường có cấu tạo xốp ở dạng bột, tuy nhiên
mức độ mịn của chất hấp phụ cần có một giới hạn nhất định, vì nếu quá mịn
sau khi khử màu khó tách ra khỏi dầu mỡ. Các chất hấp phụ thường sử dụng
trong tinh luyện dầu mỡ là đất tẩy màu, than hoạt tính, silicagel... Trong đó đất tẩy
màu và than hoạt tính được sử dụng rộng rãi do khả năng khử màu cao rất cao và tỷ
lệ hút dầu tương đối thấp.
Than hoạt tính (Activated carbon) có cấu tạo rỗng xốp cả bên trong và bên
ngoài hạt than, độ rỗng này có liên quan đến khả năng hấp phụ màu và mùi trong
dầu mỡ. Các chất bị hấp phụ sẽ bám vào bề mặt và bên trong những chỗ rỗng đó
cho đến khi đạt trạng thái cân bằng.
Nguyên liệu để làm than hoạt tính là những vật liệu có chứa carbon như
antraxit, than bùn, xương động vật… Tính chất của than hoạt tính phụ thuộc vào
tính chất của nguyên liệu và điều kiện hoạt hóa. Than hoạt tính có thể dùng ở dạng
bột (50 - 200m) hay dạng hạt kích thước từ 1 - 7 mm. Bề mặt hoạt động biểu diễn
bằng m2/g; 1gram than hoạt tính có thể đạt từ 600 - 1700 m 2. Thông thường nhiệt độ
khi khử màu bằng than hoạt tính khoảng 40 - 50 0C, lượng chất hấp phụ vào khoảng
0,5 - 5% so với trọng lượng dầu mỡ, thời gian khử màu khoảng 20 - 30 phút. Không
nên kéo dài hơn làm cho dầu mỡ biến đổi và sinh mùi do tiếp xúc quá lâu với chất
hấp phụ. Trường hợp tẩy màu bằng đất tẩy trắng cũng được tiến hành trong thời
gian 20 - 30 phút với hàm lượng đất tẩy trắng từ 0,5-2% ở nhiệt độ 80- 100 oC. Do
nhiệt độ tối ưu để kích thích hoạt độ của đất sét tẩy trắng khá cao nên giai đoạn này
thường được tiến hành ở áp suất thấp nhằm giảm tác động của nhiệt độ cao và oxy
không khí đến khả năng oxy hóa dầu khi đất tẩy màu có thể đóng vai trò chất xúc
tác.
Việc tẩy trắng có thể tiến hành theo cả hai phương pháp gián đoạn và liên tục.
Quá trình tẩy trắng gián đoạn vẫn được sử dụng rất phổ biến trong nhiều hệ thống
tinh luyện dầu do phương pháp và dụng cụ đơn giản. Có thể sử dụng thiết bị trung
hòa cho tẩy trắng dầu. Thêm vào đó, khi tẩy trắng gián đoạn theo từng mẻ, lượng
dầu nhập liệu có thể thay đổi rất linh động, dễ dàng. Mặc dù vậy, tẩy trắng liên tục
vẫn rất được ưu chuộng do rút ngắn thời gian và giảm thấp sự gia tăng nhiệt đợ quá
trình xử lý nhằm hạn chế thấp nhất các biến đổi không mong muốn và các phản ứng
phụ làm thay đổi chất lượng dầu. Chất hấp phụ sau phản ứng có thể tách loại ra khỏi
dầu bằng hệ thống lọc: lọc dĩa, lọc khung bản…
Chất hấp phụ đã được phân tách khỏi dầu nhờ lọc vẫn còn chứa một lượng lớn
dầu (khoảng ± 50%). Lượng dầu này có thể thu hồi lại bằng biện pháp xử lý với
nước hay trích ly bằng dung môi. Dầu thu được nhờ phản ứng với nước thường có
chất lượng kém do quá trình thu hời này đã hòa lẫn các hợp chất hấp thụ có cực thường là chất có tính oxy hóa vào trong dầu. Chất hấp phụ sau khi tách loại dầu chỉ
chứa tối đa 5% các hợp chất hữu cơ không được tái sử dụng tiếp tục.
1.2.2. Tẩy màu do tác động nhiệt
Tẩy trắng bằng nhiệt được sử dụng phổ biến nhất trong tinh luyện dầu cọ với
mục đích tách loại các hợp chất carotene ra khỏi dầu. Tiến trình này có thể thực hiện
theo hai phương pháp chủ yếu:
•
•
Tẩy trắng sơ bợ bằng chất hấp phụ, kế tiếp ứng dụng tẩy trắng ở nhiệt độ cao.
Kích thích hoạt động của chất tẩy màu nhờ vào quá trình tẩy màu ở nhiệt đợ
trung bình.
Quá trình tẩy trắng ở nhiệt độ cao có thể được tiến hành theo từng mẻ (3 giờ 220oC) hay liên tục (20 phút – 270oC).
1.2.3.
Tẩy màu bằng phương pháp hydro hóa
Biện pháp này cũng được ứng dụng chủ yếu trong tinh luyện dầu cọ. Cơ sở lý
thuyết cho quá trình tẩy trắng theo phương thức này dựa trên việc hydro hóa có
chọn lọc các liên đôi trung tâm của carotene nhằm phá hủy đặc tính tạo màu của
chúng. Tuy nhiên, biện pháp này cũng là nguyên nhân làm thay đổi các acid béo có
nối đôi trong dầu do chúng sẽ cùng hydro hóa với các hợp chất carotene
1.2.4. Tẩy màu hóa học
Phương pháp này dựa trên khả năng phá hủy các hợp chất tạo màu nhạy cảm
với chất oxy hóa (carotene trong dầu cọ) bằng các tác nhân oxy hóa hóa học như
hydrogen và benzoyl peroxide. Tuy nhiên, đây không phải là phương pháp được sử
dụng phổ biến do các acid béo đa nối đôi cũng có thể bị tấn công.
Tóm lại, tẩy trắng là mợt trong những quá trình tinh luyện quan trọng và có tác
động rất lớn đến hiệu quả kinh tế của dầu. Hợp chất hấp phụ có giá thành khá cao,
đồng thời lượng dầu mất mát vào chất tẩy trắng khá lớn. Chính vì thế, việc nghiên
cứu tìm ra mợt quy trình tẩy trắng phù hợp cho từng loại dầu vẫn đang được các nhà
khoa học quan tâm
Nguyên tắc:
1.3.
Phương pháp này dựa vào khả năng hấp phụ của các chất có tính hấp phụ bề
mặt. Sự hấp phụ này có tính chất chọn lọc đối với dầu mỡ là hấp phụ các chất màu.
Sau khi hấp phụ xong, tiến hành tách chất hấp phụ ra khỏi dầu.
Tiến hành tẩy màu bằng các chất hấp phụ thích hợp như than hoạt tính, đất
hoạt tính.
1.4.
Chất hấp phụ màu
Trong quá trình tẩy màu, xảy ra sự tương tác giữa các chất màu tan trong dầu
và chất hấp phụ được đưa từ ngoài vào. Lực hấp phụ được dùng để thực hiện liên
kết các chất màu lên bề mặt của chất hấp phụ. Khi tăng bề mặt hấp phụ, khả năng
hấp phụ chất màu cũng tăng lên. Mỗi loại chất hấp phụ thông thường chỉ hấp phụ
một số chất nào đó vì khả năng liên kết với các dạng chất màu lên bề mặt của chúng
là khác nhau. Yêu cầu chung cho chất hấp phụ dùng để tẩy màu dầu như sau:
Có khả năng hấp phụ lớn, tỷ lệ sử dụng thấp.
Có tính hấp phụ chọn lọc chất màu, độ ngấm dầu nhỏ, hấp phụ rất ít dầu
trung tính.
Không tác dụng hóa học với dầu (phản ứng oxy hóa, trùng hợp dầu)
Không gây mùi vị mới cho dầu
Dễ dàng tách ra khỏi dầu bằng phương pháp lắng, lọc.
Dễ tìm, giá rẻ.
Đất tẩy màu tự nhiên (bentonite): hấp phụ được chất màu và các tạp chất
khác như phospholipid, xà phòng, kim loại. Khả năng hấp phụ tối đa là 15% so với
tổng lượng tạp chất có trong dầu thô. Đất tẩy màu tự nhiên không làm tăng hàm
lượng các acid béo tự do và cũng không gây ra sự chuyển đồng phân trong nhóm
các acid béo. Tuy nhiên mức độ hấp phụ dầu thô cao (30% so với khới lượng đất)
nên gây tởn thất dầu. Vì vậy, đất tẩy màu chỉ được ứng dụng để tẩy màu sơ bộ
những dầu có giá trị không cao như dầu dừa.
Đất hoạt tính (Activated bleaching earth): có bản chất hóa học là alluminosilicate, có cấu tạo tinh thể hoặc dạng vơ định hình. Đất hoạt tính được hoạt hóa
bằng phương pháp vật lý hay hóa học để làm thay đổi cấu trúc, tạo nhiều lỗ xốp, từ
đó làm tăng bề mặt hoạt động của chúng. Đất hoạt tính có hoạt tính cao 1.5 – 2 lần
so với đất tẩy màu tự nhiên. Nó có khả năng tẩy màu một số loại dầu khó tẩy màu
như dầu cọ, dầu nành, dầu canola, và có thể ứng dụng trong quy trình tinh luyện vật
lý để loại các ion kim loại và các phospholipid. Mức độ hấp phụ dầu trung tính là
70% (so với khối lượng đất). Đất hoạt tính còn là tác nhân thủy phân một phần các
dàu trung tính làm tăng hàm lượng các acid béo tự do, tham gia phản ứng phân hủy
các peroxyde, phản ứng chuyển đồng phân trong nhóm các acid béo.
Than hoạt tính (Activated carbon): có khả năng tẩy màu cao, đặc biệt là có
thể loại được các tập chất màu không thể tẩy bằng đất hoạt tính như các hợp chất có
cấu tạo vòng. Than hoạt tính được sử dụng hạn chế trong các quá trình tinh luyện
dầu vì các vấn đề: lọc rất khó, chi phí cao, tởn thất dầu lớn vì hấp phụ đến 150 %
dầu thô so với khối lượng than hoạt tính được sử dụng.
Trong thực tế, người ta thường sử dụng phối hợp đất hoạt tính và than hoạt
tính để tăng hiệu quả tẩy màu và giảm lương dầu tổn thất. Lượng sử dụng là 0.15%
-3% đất hoạt tính so với lượng dầu thô kết hợp với 15% than hoạt tính so với lượng
đất hoạt tính
Silicagel: có diện tích bề mặt hoạt động tương đối lớn, 500 g/cm 2, nên khả
năng hấp phụ rất cao. Silicagel có khả năng hấp phụ các sản phẩm oxy hóa từ dầu
như aldehyte, ketone, phospholipid và xà phòng. Tuy vậy, khả năng hấp phụ các
hợp chất màu như caroten, chlorophyl…của silicagel rất hạn chế. Silicagel trước khi
đưa vào sử dụng cần được hoạt hóa bằng acid, sau khi tái sử dụng 1-2 lần lại phải
tái hoạt hóa.
2. Quy trình cơng nghệ khâu tẩy màu
2.1.
Sơ đờ quy trình cơng nghệ khâu tẩy màu gián đoạn
2.2.
Sơ đờ quy trình cơng nghệ khâu tẩy màu liên tục
2.3.
Sơ đồ thiết bị công nghệ tẩy màu dầu
Chú thích:
V401: bồn định lượng
V402a: phần chưa than,đất hoạt tính
V402b: bồn chứa than, dầu, đất hoạt tính.
V403a: bồn tẩy màu
V403b: bồn trung gian
V404,405,406: bồn ngưng tụ
E401a,401b: bơm tạo chân không
V407: bồn chứa dầu không đạt yêu cầu
V408:bồn chứa dầu đạt yêu cầu
P401,402: Bơm dầu
F401: máy lọc ép khung bản.
2.4.
Thuyết minh quy trình
Dầu sau trung hòa sau khi đã sấy để loại bỏ nước sẽ được bơm vào bồn V401
để gia nhiệt sơ bộ. Sau đó, dầu sẽ được chuyển quá thiết bị tẩy màu nhờ sự chênh
lệch về áp suất giữa áp suất chân không ở bồn tẩy màu V403a và áp suất khí quyển
tại bồn định lượng V401.
Một lượng dầu (chiếm 15 – 20 % so với lượng dầu đem tẩy màu) từ bồn định
lượng V401 sẽ đưa xuống bồn V402b để trộn chung với than và đất hoạt tính từ
phễu V402a. Tại đây, dầu, than và đất hoạt tính sẽ được trộn đều và đưa sang thiết
bị tẩy màu V403a nhờ sự chênh lệch về áp suất giữa thiết bị tẩy màu và bồn V402b.
Dầu sau khi hút qua bồn tẩy màu V403a được tiếp tục khuấy và gia nhiệt theo
yêu cầu, tạo sự hấp phụ màu và đất, than hoạt tính sau đó dầu được giải nhiệt và
được đưa xuống bồn V403b để bồn V403a tiếp tục hoạt động để tránh chờ đợi .Dầu
ở bồn V403b được chuyển tới máy ép lọc khung bản F401.
Dầu sau khi ép lọc xong lấy mẫu thử nếu đạt yêu cầu cho xuống bồn V408.
Nếu không đạt cho về bồn V407.
Dầu từ bồn V408 được bơm P402 bơm ra bồn chứa trung gian để khử mùi,
trích khoảng 15- 20% hoàn lưu lại bồn định lượng V401 để trộn với than và đất hoạt
tính. Dầu không đạt chất lượng từ bồn V407 được bơm về bồn chứa dầu sau trung
hòa hoặc về lại bồn V401 bằng bơm P402 để tái chế lại.
Có đường ống dẫn từ đáy thiết bị tẩy màu V403a đến máy lọc ép khung bản
F401 có tác dụng cân bằng nhiệt cho dầu khi có trường hợp nhiệt độ tại bồn trung
gian quá thấp (dưới 75oC). Lượng dầu từ bồn tẩy màu sẽ đi thẳng qua máy lọc ép để
nâng nhiệt độ của dầu lên giúp cho quá trình lọc được dễ dàng.
Giải nhiệt: người ta cho nước ở nhiệt độ thường vào ống xoắn để làm nguội
dầu đến nhiệt độ thích hợp.
Tạo áp suất chân không ở bồn tẩy màu V403a theo nguyên tắc tạo thông hút
E401a, E401b thông qua 2 bộ ngưng tụ. Không khí trong bồn V403a được hút theo
hệ thống trên và được cuốn ra ngoài từ hai bộ ngưng tụ xuống bồn nước.
3. Các biến đổi trong quá trình tẩy màu
• Vật lý: giảm hàm lượng các chất mang màu trong dầu.
• Hóa học: nếu có O2 thì sẽ xảy ra quá trình oxy hóa.
• Hóa lý: xảy ra sự tương tác giữa các chất mang màu và chất hấp phụ.
• Cảm quan: sau quá trình tẩy màu dầu sẽ sáng hơn và trong hơn.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tẩy màu
Bản chất của nguyên liệu: mỗi loại dầu thì có thành phần và hàm lượng chất màu
khác nhau.
Bản chất và hàm lượng chất hấp phụ: trong quá trình hấp phụ, xảy ra sự tương
tác giữa các chất màu tan trong dầu và chất hấp phụ được đưa từ ngoài vào. Lực hấp
dẫn được dùng để thực hiện liên kết các chất màu lên bề mặt của chất hấp phụ. Khi
tăng bề mặt hấp phụ, khả năng hấp phụ chất màu cũng tăng lên. Mỗi loại chất hấp
phụ thông thường chỉ hấp phụ mợt sớ chất nào đó vì khả năng liên kết với các dạng
chất màu lên bề mặt của chúng là khác nhau. Yêu cầu chung cho chất hấp thụ dùng
để tẩy trắng dầu như sau:
•
•
Loại được các chất màu cũng như các cặn xà phòng có trong dầu.
Có hoạt tính cao để chỉ cần dùng một lượng nhỏ nhưng đủ sức làm
•
•
•
•
sáng màu dầu, mang theo ít dầu trung tính.
Không tác dụng hóa học lên dầu (oxy hóa, trùng hợp dầu…).
Không gây cho dầu có mùi vị mới.
Dễ dàng tách ra khỏi dầu bằng lọc và lắng, tổn thất dầu ít.
Mức độ sang của dầu sau khi dung chất hấp phụ (trợn lẫn vào dầu
•
hoặc lọc dầu qua lớp chất hấp phụ).
Số lượng và loại chất màu cũng như trạng thái tự nhiên của chúng
trong dầu.
Biểu đồ 1: Ảnh hưởng của tỉ lệ đất tẩy màu đối với dầu cọ thô
Chúng ta có thể nhận thấy được rằng màu sắc của dầu tẩy màu và của dầu khử mùi
liên tục giảm khi tăng tỉ lệ đất hấp phụ . Từ đó ta thấy tỉ lệ lớn chất hấp phụ sẽ hấp
thu tốt sắc tố carotenoic và cũng sẽ tạo thuận lợi cho quá trình khử mùi tiếp theo .
Liều lượng đất tối ưu sẽ phụ thuộc vào số lượng và bản chất của các tạp chất trong
dầu cọ thô
Nhiệt độ: ta tiến hành ở nhiệt độ 70 - 110ºC để giảm sự oxy hóa.
Biểu đồ 2: Ảnh hưởng của nhiệt độ tẩy màu lên màu của dầu cọ
Dựa vào biểu đồ ta thấy màu của đầu trong quá trình tẩy màu giảm dần khi tăng
nhiệt đợ nhưng màu sắc của dầu khử mùi giảm và đạt giá trị nhỏ nhất khi nhiệt độ
khoảng 100oC đều này chứng tỏ nhiệt độ cũng có tác dụng giảm lượng màu trong
dầu
Biểu đồ 3: Ảnh hunwgr của nhiệt độ đối với hàm lượng acid béo tự do trong
dầu cọ
Từ biểu đồ ta nhận thấy lượng FFA của dầu tẩy màu đạt giá trị nhỏ nhất khi nhiệt độ
tẩy màu ở 110oC khi tăng nhiệt đợ thì lượng acid béo tự do tăng lên
Thời gian để thực hiện quá trình vừa đủ để xảy ra quá trình tương tác giữa các chất
màu và chất hấp phụ.
Biểu đồ 4: Ảnh hưởng của thời gian tẩy màu
Từ biểu đồ trên ta có thể thấy tăng thời giang tẩy màu có thể tăng lượng màu hấp
phụ, giảm chỉ số PV (đạt cực tiểu trong khaongr 30 phút đầu)và hàm lượng acid béo
tự do nhưng nếu thời gian tẩy màu quá lâu (trên 2 giờ) thì chỉ sớ PV có xu hướng
tăng lên
Ngoài ra, dầu trước khi tẩy màu cần được thủy hóa và sấy khô. Các chất nhầy,
protein, nhựa, phospholipid, xà phòng có trong dầu sẽ làm giảm mức độ sáng màu
khi thực hiện hấp phụ, do vậy, cần loại bỏ chúng ra khỏi dầu trước. Ẩm của dầu
cũng làm giảm tính chất hấp phụ của đất tẩy trắng, vì vậy đợ ẩm của dầu cần ở mức
0,1 – 0,05%.
Một số các tác nhân tẩy màu hiện nay là: đất hoạt tính, than hoạt tính, silicagel,
đất sét trung tính…
Đất tẩy màu tự nhiên:
Ưu điểm: có khả năng hấp phụ được tối đa 15% (lượng tạp chất có trong dầu
thô) các chất màu và các axit béo tự do cũng không gây ra sự chuyển đồng phân
trong nhóm các axit béo.
Nhược điểm: hấp phụ 30% dầu thô (so với trọng lượng của đất), gây tổn thất
dầu.
Ứng dụng để tẩy màu sơ bộ những giá trị không cao như: dầu dừa, dầu động
vật.
Đất hoạt tính:
Được sản xuất từ các bentonit nhưng có cấu tạo tinh thể hoặc dạng vơ định hình
có bản chất hóa học là các alumino – silicat. Đất hoạt tính được hoạt hóa bằng
phương pháp vật lý hay hóa học để làm thay đổi cấu trúc, tạo nhiều lỗ xốp từ đó
làm tăng bề mặt hoạt động của chúng.
Ưu điểm: Hoạt tính cao gấp 1.5 – 2 lần so với đất tẩy màu tự nhiên, có khả
năng tẩy màu một số dầu khó tẩy màu như: dầu cọ, dầu nành, dầu canola… có thể
ứng dụng như là một phương pháp tinh luyện vật lý để loại các kim loại và các
photphatit…
Nhược điểm: hấp thụ 70% dầu thô (so với trọng lượng của đất hoạt tính), gây
tổn thất dầu, là tác nhân thủy phân một phần các dầu trung tính làm tăng hàm lượng
các axit béo tự do, và phân hủy một số các peroxit và các sản phẩm oxi hóa bậc hai
từ đó làm tăng các phản ứng chuyển đồng phân trong nhóm các axit béo.
Than hoạt tính:
Ưu điểm: có khả năng tẩy màu cao, đặc biệt là có thể loại được các tạp chất
màu mà không thể tẩy bằng đất hoạt tính như : các hợp chất có cấu tạo vòng…
Nhược điểm: than hoạt tính được sử dụng hạn chế trong các quá trình tinh luyện
dầu vì các vấn đề như: khó khăn trong quá trình lọc, chi phí cao, và gây tổn thất dầu
lớn (hấp phụ 150% dầu thô so với trọng lượng của than hoạt tính).
Silicagel:
Ưu điểm: có diện tích bề mặt hoạt động tương đối lớn (500 g/m2), nên khả năng
hấp phụ rất cao.Và có thể hấp phụ các sản phẩm oxi hóa bậc hai của dầu như là
(aldehyt, xeton…), photphatit và xà phòng…
Nhược điểm: hấp phụ rất hạn chế các hợp chất màu như là: carotene,
chlorophyll…
Sự cố công nghệ thường gặp trong khâu tẩy màu
Sự cố
Nguyên nhân
Khắc phục
Chỉ số acid cao hơn quy Lượng xút sử dụng trung Bơm dầu về bồn dầu thô
định
hòa chưa đủ
thêm xút để giảm chỉ số
acid cho đạt
Màu dầu thành phẩm cao Lượng đất và than hoạt tính Hồi lưu về bồn trung gian,
hơn quy định
sử dụng không đủ
điều chỉnh lượng than, đất
sử dụng
Hàm lượng xà phòng cao Quá trình rửa xà phòng Bơm dầu về bờn dầu thơ
hơn quy định
chưa đạt
chờ xử lý lại từ đầu
Dầu sau tẩy màu còn lẫn Chân không không đạt yêu Rút chân không cho đạt yêu
nước
cầu, nhiệt độ sấy thấp
cầu. Tăng nhiệt độ sấy cho
phù hợp
5. Các chỉ tiêu của dầu sau khi tẩy màu
Dầu sau tẩy màu phải đạt tiêu chuẩn về màu, màu của dầu tùy thuộc vàoloại
dầu khác nhau, thường để xác định độ màu của từng lọaị dầu người ta thường dung
máy đo màu Loviband với cuvet 5¼ .dựa vào hai đon vị màu cơ bản là đơn vị đỏ “Red
unit” và đon vị vàng “yellow unit” được kí hiệu là “R” và “Y”. Dầu sau tẩy màu
thường có AV không đổi hoặc cao hơn so với dầu đã trung hòa( nếu đất hoặt tính,
than hoạt tính có tính axit. Chất lượng dầu tẩy màu được tóm tắt trong bảng sau:
Dầu dừa
Dầu phộng
Dầu nành
Dầu mè
Dầu olein
AV
mgKOH/g
≤ 0,2
≤ 0,2
≤ 0,2
≤ 0,2
≤ 0,2
%W+TC
0,01 – 0,1
0,01 – 0,1
0,01 – 0,1
0,01 – 0,1
0,01 – 0,1
% cặn xà
phòng
≤ 0,005
≤ 0,005
≤ 0,005
≤ 0,005
≤ 0,005
Màu dầu
( cuvet 5 ¼)
2R 10Y
2,5R 10Y
2,5R 10Y
1,5R 10Y
3R 10Y
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Nguyên, Kỹ thuật chế biến dầu, Đại học Cần Thơ, 2000
2. Nguyên Quang Lộc, Kỹ thuật ép dầu và chế biến dầu mỡ thực phẩm ,
NXB KHKT, 1993
3. Lê Văn Thạch, Chế biến hạt dầu, NXB Nông Nghiệp,1997