Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.1 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Vị trí vùng Tây Nguyên trong bản đồ Việt Nam (Màu đỏ nâu)
Vùng Tây Nguyên, một thời gọi là Cao nguyên Trung phần Việt Nam là khu vực cao nguyên bao gồm
5 tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ bắc xuống nam gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và
Lâm Đồng. Tây Nguyên là một tiểu vùng, cùng với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ hợp thành vùng
Nam Trung Bộ, thuộc Trung Bộ Việt Nam. Thời Việt Nam Cộng hòa, nơi đây được gọi là Cao nguyên
Trung phần. Hiện nay đôi khi được gọi là Cao nguyên Trung Bộ. Trước đó, thời Bảo Đại làm Quốc
trưởng, vùng đất này còn được hưởng quy chế riêng là vùng Hoàng triều Cương thổ.
Theo Nguyễn Đình Tư trong bài Tây Nguyên xưa và nay, tạp chí Xưa và nay, số 61B, tháng 3
năm 1999, thì địa danh Tây Nguyên được biết đến từ năm 1960, khi cơng bố Hiến pháp 1959
của Việt Nam Cộng hịa, trong đó có điều khoản về các khu tự trị của các sắc tộc thiểu số và có
nhắc đến Tây Nguyên.
Trước đó, từ thời Pháp thuộc, vùng đất này chưa có tên gọi riêng mà chỉ là đơn vị hành chính
trực thuộc Khâm sứ Trung Kỳ, nên có tên là vùng Cao ngun Trung Kỳ. Ngồi ra, người Pháp
cịn gọi nơi này là Les Hauts Plateaux du Sud (Cao nguyên miền Nam). Thời nhà Nguyễn, vùng
đất này được thuộc về châu Thượng Nguyên (bao gồm Thủy Xá, Hỏa Xá là vùng đất cư trú của
người Êđê, Gia Rai, Ba Na và là một phần Tây Nguyên ngày nay) [1]
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim đã đổi tên đơn vị hành chính cấp Kỳ
thành cấp Bộ. Từ đó vùng đất này được gọi là Cao nguyên Trung Bộ.
Khi Quốc gia Việt Nam thành lập, Quốc trưởng Bảo Đại đã đổi tên đơn vị hành chính cấp Bộ
thành cấp Phần. Riêng khu vực cao nguyên được tách ra và được hưởng quy chế hành chính đặc
biệt có tên là Hồng triều cương thổ. Tại vùng này thì Quốc trưởng Bảo Đại vẫn giữ vai trị là
Hồng đế.
Đến năm 1955, chính phủ Ngơ Đình Diệm chấm dứt chế độ Bảo đại và thành lập nền Đệ nhất
<b>nguyên Trung phần. Tên gọi này được chế độ Việt Nam Cộng hòa sử dụng mãi cho đến năm</b>
1975.
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. trong khi Kon Tum có biên
giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nơng chỉ có chung đường
biên giới với Campuchia. Cịn Lâm Đồng khơng có đường biên giới quốc tế.
<i>Con đường đất đỏ Tây Nguyên một thời huyền thoại</i>
Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là
các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku
cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500
m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh
cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đơng bởi những dãy núi
và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).
Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây
Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng
với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây
Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên
rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su
cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây
Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bơ xít.
Tây Ngun cũng là khu vực ở Việt Nam cịn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng
khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên có thể coi là mái
nhà của miền trung, có chức năng phòng hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên
nhiên và khai thác lâm sản bừa bãi chưa ngăn chận được tại đây có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo kiệt
rừng và thay đổi môi trường sinh thái.
Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chưa phát
triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa, các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở
thành nạn nhân trước các cuộc tấn công của vương quốc Champa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nơ lệ.
Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm
Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua Chăm Pa là Trà Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Chăm
Pa thời đó vào Đại Việt. Hai phần Chăm Pa cịn lại, được Lê Thánh Tơng chia thành các tiểu quốc nhỏ
thuần phục Đại Việt. Phần đất Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng Chăm là Bồ Trì trấn
giữ, được vua Lê coi là phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất nay là tỉnh Phú Yên,
Lê Thánh Tông phong cho Hoa Anh vương tạo nên nước Nam Hoa. Vùng đất phía Tây núi Thạch Bi,
tức miền bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành nước Nam Bàn, vua nước này được phong là Nam
Bàn vương.[2]
Sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các chúa Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng
còn lại của Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ
tộc thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt, vốn khơng có thói quen bn bán
nơ lệ. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn còn manh mún và mục tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến
Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của
các chúa Nguyễn. Thời nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia
nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến
công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789) [3]. Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là một căn cứ
chuẩn bị lực lượng cho quân Tây Sơn thủa ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần này của quân Tây Sơn
là người vợ dân tộc Ba Na của Nguyễn Nhạc. [4]
Sang đến triều nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây Nguyên vẫn không thay đổi
nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ Tây Nguyên vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất
thống toàn đồ - 1834). Người Việt vẫn chú yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng
miền Đông Nam Bộ ngày nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên (như
trường hợp của bộ tộc Mạ). Trong cuốn Đại Việt địa dư tồn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có
viết: <i>Thủy Xá, Hỏa Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thượng đạo tỉnh Phú An</i>
<i>có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đơng núi ấy, ... Hỏa Xá ở phía Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp</i>
<i>với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân Lạp, phía Nam thì là Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là</i>
<i>sơng Đại Giang, phía dưới là sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy...</i>[5]
Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm
và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn
hoang sơ và chất phác này.
Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên Lang Biang. Ông đã
đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt
Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố
nghỉ mát. Vùng đất cao nguyên Trung kỳ (Tây Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền
thực dân Pháp. Năm 1907, tịa đại lý ở Kontum đổi thành tịa Cơng sứ Kontum, cùng với việc thành lập
các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo. Những thực dân người Pháp bắt đầu lên đây xây dựng
các đồn điền đồng thời cũng ngăn cấm người Việt lên theo, trừ số phu họ mộ được. Năm 1917, tại đó,
thị xã Đà Lạt được thành lập.
Nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân tộc Việt (Kinh) ở Tây Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ
Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nơng... Chính quyền Việt Nam cộng hòa gọi chung những dân tộc này là "đồng
bào sắc tộc" hoặc "người Thượng"; "Thượng" có nghĩa là ở trên, "người Thượng" là người ở miền cao
hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống trên cao nguyên miền Trung.
Nhà của đồng bào người Nùng, di cư từ miền Bắc vào
Năm 1976, dân số Tây Nguyên là 1.225.000 người, gồm 18 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số
là 853.820 người (chiếm 69,7% dân số). Năm 1993 dân số Tây Nguyên là 2.376.854 người, gồm 35 dân
tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.050.569 người (chiếm 44,2% dân số). Năm 2004 dân số Tây
Nguyên là 4.668.142 người, gồm 46 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.181.337 người
(chiếm 25,3% dân số) [6]. Riêng tỉnh Đắc Lắc, từ 350.000 người (1995) tăng lên 1.776.331 người (1999),
trong 4 năm tăng 485% [7]. Kết quả này, một phần do gia tăng dân số tự nhiên và phần lớn do gia tăng cơ
học: di dân đến Tây nguyên theo 2 luồng di dân kế hoạch và di dân tự do. Người dân tộc đang trở thành
thiểu số trên chính quê hương của họ. Sự gia tăng gấp 4 lần dân số và nạn nghèo đói, kém phát triển và
hủy diệt tài nguyên thiên nhiên (gần đây, mỗi năm vẫn có tới gần một nghìn héc-ta rừng tiếp tục bị phá [8]
) đang là những vấn nạn tại Tây Nguyên và thường xuyên dẫn đến xung đột. Theo kết quả điều tra dân
số 01/04/2009 dân số Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh) là 5.107.437 người, như thế so với năm 1976 đã tăng
3,17 lần , chủ yếu lả tăng cơ học. Hiện nay, nếu tính cả những di dân tự do không đăng ký cư trú với cơ
quan chính quyền ước lượng dân số Tây Nguyên thực tế vào khoảng 5,5 đến 6 triệu người.
Ba Na là nhóm sắc tộc đầu tiên, sau người Kinh, có chữ viết phiên âm dựa theo bộ ký tự Latin do các
giáo sĩ Pháp soạn năm 1861. Đến năm 1923 hình thành chữ viết Ê Đê. Sử thi được biết đến đầu tiên là
Đam San được sưu tập và xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris (Le Chanson de DamSan). Đến 1933, tạp
chí của học viện Viễn Đơng bác cổ tại Hà Nội in lại dưới hình thức song ngữ Êđê - Pháp. Vào tháng 2
năm 1949, phát hiện một bộ đàn đá mang tên Ndút Liêng Krak tại Đắc Lắc và bộ nhạc cụ thời tiền sử vô
giá này hiện được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Con Người - Paris. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2005, Khơng
gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Ngun được UNESCO cơng nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể
của nhân loại.
So với các vùng khác trong cả nước, điều kiện kinh tế - xã hội của Tây Nguyên có nhiều khó khăn, như
là thiếu lao động lành nghề, cơ sở hạ tầng kém phát triển, sự chung đụng của nhiều sắc dân trong một
vùng đất nhỏ và với mức sống còn thấp. Tuy nhiên, Tây Nguyên có lợi điểm về tài nguyên thiên nhiên.
Tây Nguyên có đến 2 triệu hecta đất bazan màu mỡ, tức chiếm đến 60% đất bazan cả nước, rất phù hợp
với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm, trà. Cà phê là cây công nghiệp quan
trọng số một ở Tây Nguyên. Diện tích cà phê ở Tây Nguyên hiện nay là hơn 290 nghìn ha, chiếm 4/5
diện tích cà phê cả nước. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích cà phê lớn nhất (170 nghìn ha) và cà phê Bn Ma
Thuột nổi tiếng có chất lượng cao. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam
Bộ, chủ yếu tại Gia Lai và Đắk Lắk. Tây Nguyên cịn là vùng trồng dâu tằm, ni tằm tập trung lớn nhất
Việc phân bổ đất đai và tài nguyên không đồng đều cũng gây ra nhiều tranh chấp. Trước đây, chính
quyền có chủ trương khai thác Tây Nguyên bằng hệ thống các nông lâm trường quốc doanh (thời kỳ
trước năm 1993 là các Liên hiệp xí nghiệp nông lâm công nghiệp lớn, đến sau năm 1993 chuyển thành
các nông, lâm trường thuộc trung ương hoặc thuộc tỉnh). Các tổ chức kinh tế này trong thực tế bao
chiếm gần hết đất đai Tây Nguyên. Ở Đắk Lắak, đến năm 1985, ba xí nghiệp Liên hiệp nơng lâm công
nghiệp quản lý 1.058.000 hecta tức một nửa địa bàn tồn tỉnh, cộng với 1.600.000 hecta cao su quốc
doanh, tính chung quốc doanh quản lý 90% đất đai toàn tỉnh. Ở Gia Lai-Kon Tum con số đó là 60%.
Tính chung, đến năm 1985, quốc doanh đã quản lý 70% diện tích tồn Tây Ngun. Sau năm 1993, đã
có sự chuyển đổi cơ chế quản lý, nhưng con số này cũng chỉ giảm đi được 26% [9].
Đàn trâu và bò sử dụng cày kéo trên những đồi núi cao
có thử nghiệm giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
và giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong bn, làng [8].
Nhờ địa thế cao nguyên và nhiều thác nước, nên tài nguyên thủy năng của vùng lớn và được sử dụng
ngày càng có hiệu quả hơn. Trước đây đã xây dựng các nhà máy thủy điện Đa Nhim (160.000 kW) trên
sông Đa Nhim (thượng nguồn sông Đồng Nai), Đray H'inh (12.000 kW) trên sơng [[Serepơk]. Mới đây,
cơng trình thủy điện Ya ly (700.000 kW) đưa điện lên lưới từ năm 2000 và đang có dự kiến xây dựng
các cơng trình thủy điện khác như Bon Ron - Đại Ninh, Plây Krông. Tây Ngun khơng giàu tài ngun
khống sản, chỉ có bơxit với trữ lượng hàng tỉ tấn là đáng kể [10] .
Theo tài liệu cũ của Liên Xô để lại, Tây Ngun có trữ lượng Bơ xít khoảng 8 tỉ tấn [11]. Ngày 1 tháng 11
năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định 167 phê duyệt quy hoạch phân vùng, thăm dị, khai
thác, chế biến, sử dụng quặng bơ xít từ giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025 [12] và hiện nay, Tập
đồn Than Khống sản Việt Nam cũng đã thăm dị, đầu tư một số cơng trình khai thác bơ-xít, luyện
alumin tại Tây Ngun. Tuy nhiên, việc làm này đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của các nhà khoa học
và dân cư bản địa vì nguy cơ hủy hoại mơi trường và tác động tiêu cực đến văn hóa - xã hội Tây Nguyên
và có thể tổn thương cả một nền văn hóa bản địa [13].
Trước 1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia Cao nguyên Trung Phần thành các tỉnh: Kontum,
Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng với tổng cộng gần một triệu dân với
50% dân số tập trung vào hai tỉnh Darlac và Tuyên Đức. Từ 1976 đến đầu thập niên 1990, Tây Nguyên
gồm 3 tỉnh là Gia Lai-Cơng Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Sau đó tỉnh Gia Lai-Công Tum được chia thành
hai tỉnh: Gia Lai và Kon Tum (thay đổi cả cách viết chính thức tên tỉnh). Tỉnh Đắc Lắc chia thành hai
tỉnh: Đắk Lắk và Đắk Nơng.
Hiện tại, địa bàn Tây Ngun có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
Sự gia tăng dân số nhanh chóng và nạn nghèo đói, kém phát triển và hủy diệt tài nguyên thiên nhiên
đang là những vấn nạn tại Tây Nguyên và thường xuyên dẫn đến xung đột.
Theo nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi viết cách đây 25 năm, việc thi hành chính sách dân tộc từ sau
thống nhất năm 1975 đã có những mặt tích cực như:
Trường cấp I dần dà mọc lên gần khắp các xã. Ở huyện lỵ nào, cũng có trường cấp II, đôi khi cấp
Nhà sàn của người Êđê ở Đắk Lắk
Sự giao thông được mở rộng, tạo điều kiện tốt cho du lịch, trao đổi hàng hóa. Thị trường cũng
được mở rộng.
Đã có mặt người dân tộc trong cơ cấu các cấp ủy, ủy ban, cơ quan. Người dân tộc được góp phần
có tiếng nói riêng của mình.
Gia tăng sản xuất, chẳng hạn như việc đưa lúa nước mà năng suất cao hơn để thay thế lúa rẫy,
nhưng đồng thời cũng thay đổi phương pháp canh tác từ lâu đời.
Tuy nhiên cũng theo ông Chi, bên cạnh mặt tích cực, cũng có những mặt tiêu cực có thể là mầm mống
gây nên những xung đột Kinh-Thượng thường trực nén sâu trong tâm tư người dân tộc:
Nạn phá rừng , khai thác gỗ quý không được kiểm sốt chặt chẽ và khơng quan tâm đến việc
trồng mới và bảo vệ rừng. Rừng Tây Nguyên sẽ sớm bị phá trụi.
Sự di dân không được kế hoạch chu đáo. Người Việt lên Tây Nguyên ngày càng đông (78-80%)
đã và sẽ chiếm hết những vùng đất thuận lợi của người dân tộc, đẩy họ vào sâu trong rừng thẳm
và gây nên hiềm khích kéo dài.
Phá hỏng hoặc thay đổi cơ cấu cổ truyền làng xã và đời sống tâm linh của người dân tộc. Bên
cạnh đó, thái độ của những cán bộ và người Kinh đối với phong tục, tập quán cổ truyền của các
dân tộc chưa tương xứng. [14].
Đến nay những cảnh báo trên đã có phần thành hiện thực. Trong Hội nghị phát triển kinh tế - xã hội Tây
nguyên giai đoạn 2006-2010 tổ chức vào tháng 7 năm 2006, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá rằng
Tây Nguyên "phát triển chưa tương xứng với tiềm năng". Theo ơng Mai Văn Năm, Phó Ban thường trực
Thêm vào đó, việc khai thác Bơ xít được tiến hành vào năm 2009, mặc dù đã vấp phải sự phản đối quyết
liệt của các nhà khoa học và dân cư bản địa vì nguy cơ hủy hoại mơi trường và tác động tiêu cực đến văn
hóa - xã hội Tây Nguyên và có thể tổn thương cả một nền văn hóa bản địa [13]. Trong thư của cựu đại