Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Nguyen Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.54 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU </b>


<b>Đại Thi hào Nguyễn Du ( 1765 - 1820 ) </b>


<b> Nguyễn Du (chữ Hán: </b>阮攸; 1765–
1820) tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh
<b>Hiên (</b>清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ
(鴻山獵戶), là một nhà thơ nổi tiếng thời
Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Nguyễn
Du được xem như là một nhà thơ lớn của
Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi
ơng là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965,
ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân
văn hóa thế giới.


<b>I. Cuộc đời</b>


<b> Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), </b>
niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ
tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay
thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).


Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê
mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.


Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến
chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê... Ngồi là một đại thần,
ơng Nghiễm cịn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám
vợ và 21 người con trai[1]<sub>. Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp </sub>
tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Cơng (con bà chính, rất mê hát
xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là


Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì
Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là <i>Chiêu Bảy</i>.


Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức
câu kế, [2]<sub>, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc </sub>
Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm
con, bốn trai và một gái.[3]<sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa
Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tơng. Ơng
Khản giúp Trịnh Tơng, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được
cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”)
khơng phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với
em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến
nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.


Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó khơng rõ vì lẽ gì
khơng đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (khơng rõ tên) ở Thái Ngun, khơng có
con nên đã nhận ơng làm con ni. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập
ấm[4]<sub> một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.</sub>


Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.
Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong


ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân
ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân
Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn
Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống
(1766-1793) nhưng không kịp, đành trở
về quê vợ[5]<sub>, q ở Quỳnh Cơi ở Thái</sub>


Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh
sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).


Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa
Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi
địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba
tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu
năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ơng được gọi ra
làm quan cho nhà Nguyễn.


Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu,
Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà
Nội).


Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam
Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.


Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.


Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.


Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng
(1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh
sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì
mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm
chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào
ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm


1820[6]


Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An
Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn
năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh)[7]<sub>.</sub>

<b>II.Tác phẩm</b>



<b>1. Khái quát</b>



Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc
cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thơng sâu sắc của tác giả đối
với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (xem: Văn tế
thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.). Cái nhìn nhân đạo này
khiến ông được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn
học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm
tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình u lứa đơi.”


Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể
thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở
thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của
ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “có khả năng chuyển
tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ.”[8]


<b>2. Tác phẩm bằng chữ Hán</b>



Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, được chia ra như sau:


 <b>Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong </b>
những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.



 <b>Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi </b>
làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.


 <b>Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131</b>
bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

"Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của ông. Các bài thơ
trong <i>Thanh Hiên thi tập</i> và <i>Nam trung tạp ngâm</i> tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau,
day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội
của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn
Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các
nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện. Hai là phê phán xã hội
phong kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé
dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi..."(tr. 94)


<b>3. Tác phẩm bằng chữ Nôm</b>



Sáng tác của Nguyễn Du gồm có:


 <b>Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đan đứt ruột. Tên phổ biến là </b>
Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội
dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau
khi bán mình chuộc cha của Th Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cơ gái
có tài sắc.


Về thời điểm sáng tác, <i>Từ điển văn học</i> ghi: Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau
khi ơng đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ơng viết trước khi đi sứ, có thể
vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều


người chấp nhận hơn (tr. 1844)


<i> Ngữ văn 10 tập 2</i> đánh giá: "Trên nền tảng nhân đạo chủ nghĩa vững chãi, với tài
năng điêu luyện, với sự lựa chọn thể loại truyện thơ kết hợp nhuần nhuyễn cả chất tự sự
và chất trữ tình, với sự am hiểu đồng thời cả ngơn ngữ bình dân cũng như ngơn ngữ văn
học bác học, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một kiệt tác độc nhất vô nhị của văn học trung
đại Việt Nam." (tr.94)


 <b>Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại </b>
chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang
Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo”
năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm
hằng triệu người chết, khắp non sơng đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các
chùa, người ta đều lập đàn giải thốt để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ơng
Hồng Xn Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết <i>Văn chiêu hồn</i> trước cả Truyện
Kiều, khi ơng cịn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm
theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

 <b>Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay </b>
lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cơ gái phường vải.


 <b>Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất </b>
hận vì mối tình với hai cơ gái phường vải khác.


Hai bài này được sáng tác khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Nghệ An, sau bị
quân Tây Sơn bắt giữ rồi thả.


Theo <i>Từ điển văn học</i> (bộ mới) thì: "Bài <i>Thác lời trai phường nón</i> rất tình tứ, mang âm
hưởng của ca dao, của vè còn đậm nét. Bài <i>Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ</i>, tác giả cũng
học tập ở ca dao, tục ngữ, thành ngữ nhưng chưa được nhuần nhuyễn; nhiều chỗ tác giả


tỏ ra quá lệ thuộc, làm giảm tính sáng tạo của mình.


<b>III. Nỗi lịng Nguyễn Du</b>



Nỗi lòng của Nguyễn Du rất phức tạp. Để hiểu nó, các nhà nghiên cứu văn học
thường dựa vào <i>Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền</i> và các tác phẩm của ông (đặc biệt là
<i>Truyện Kiều</i>) để rút ra một số nhận định. Nhưng những nhận định ấy đến nay vẫn chưa
thống nhất, thậm chí cịn mâu thuẫn với nhau một cách sâu sắc.


Trích một số ý kiến:


Năm 1963, GS. Phạm Thế Ngũ viết:


"Một thuyết thịnh hành từ lâu do Trần Trọng Kim xướng ra rằng <i>Truyện Kiều chứa </i>
<i>đựng một tâm sự tha thiết nhất của Nguyễn Du, ấy là cái tâm sự của kẻ hàng thần nhớ </i>
<i>chúa cũ (hồi Lê)</i>. Thuyết trên khơng phải là điều bị đặt mà có sở cứ rõ ràng. Thái độ phị
Lê của ông được tỏ rõ trong những mưu toan chống Tây Sơn. Về sau, bất đắc dĩ phải ra
hợp tác với Nguyễn, ơng thường tỏ ra kín đáo, nếu khơng nói là lãnh đạm, lúc nào cũng
như mang nặng trong lịng một bầu u uất khó nói. Nỗi lịng ấy chỉ có thể là, như lời ai
điếu của Bùi Kỷ trong bài <i>Truy điệu cụ Tiên Điền</i> vào năm 1927:


<i>Dở dang thay cái tu mi.</i>


<i>Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền.</i>


"Hành vi của tác giả chứng tỏ, mà văn chương của tác giả nhiều khi cũng hé lộ rõ ràng.
Nhiều bài thơ chữ Hán của ông trong <i>Thanh Hiên tập</i>, <i>Bắc hành tập</i>, đầy ý điếu cổ
thương kim, giọng khảng khái bi đát. Cho đến bao nhiêu câu trong chính <i>Truyện Kiều</i> tả
thân thế người con gái lưu lạc cũng gióng lên tiếng đau buồn ấy của tác giả..."(tr. 360)
Năm 1967, GS. Thanh Lãng viết:



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

quan dưới một triều đại mới là một trạng thái “thất tiết”, thành ra suốt đời lúc nào ông
cũng buồn rầu, ân hận..."(tr. 612)


Năm 1973, nhà phê bình Thạch Trung Giả viết:


"Điều hiển nhiên là niềm tưởng nhớ nhà Lê, nỗi uất ức của người dồn phải dồn vào thế
hàng thần. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Du là một con người có khí tiết nên đã từng
mưu sự cần vương chống Quang Trung. Đến khi nhà Tây Sơn đổ vì nhà Nguyễn, đám cố
Lê hết chính nghĩa để chống lại, nhưng những người như Nguyễn Du vẫn khơng qn
mình và ơng cha mình đã từng ăn lộc nhà Lê. Vậy việc phải làm tôi cho Gia Long là một
vạn bất đắc dĩ, một sự đau lòng, một sự tủi nhục..."(tr. 370)


Năm 1978, GS. Trương Chính viết:


"Đọc ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta có thể giải quyết được một vấn đề
trước nay ý kiến rất phân tán: thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại."


"Trong một thời gian khá dài, từ khi Tây Sơn ra Bắc hà (1786) cho đến khi Tây Sơn
thất bại (1802), rõ ràng Nguyễn Du có <i>tính việc phục quốc</i> (phù Lê)." Nhưng những chiến
thắng của Quang Trung năm 1789 đã làm cho nhiều người có tư tưởng chống Tây Sơn
khiếp đảm. Do đó, Nguyễn Du bi quan, chán nản."


"Tuy vậy, đến khi ông trở về quê nhà, dưới chân núi Hồng Lĩnh, chí <i>phục quốc</i> vẫn
chưa ngi. Thế là, theo <i>Gia phả</i>, ông toan vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh."


"Và sau này, cũng theo Gia phả thì: <i>Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), vua Cao</i>
<i>Hồng (tức Gia Long) đi ra Nghệ An. Ơng (Nguyễn Du) đón xe yết kiến vua và được đem</i>
<i>thủ hạ đi theo ra Bắc. Mùa thu tháng 8 năm ấy, ông được bổ tri huyện huyện Phù Dung</i>.
"Về điểm này, Đại Nam chính biên liệt truyện chép hơi khác: <i>Đến khi có lệnh (Gia Long)</i>


<i>gọi, khơng thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra</i>. Ở đây, chưa bàn <i>Gia phả</i> hay <i>Liệt truyện</i>
chép đúng, nhưng cũng như một số nhà nho đương thời, thái độ của Nguyễn Du đối với
nhà Nguyễn có khác hơn đối với Tây Sơn. Nghĩa là những cựu thần nhà Lê này vẫn có
thể ra phị giúp mà lương tâm khơng cắn rứt."


"Nhưng tại sao Nguyễn Du được nhà Nguyễn tin dùng mà thái độ hình như là bất đắc
chí. Sách Đại nam chính biên liệt truyện cho biết <i>Đối với nhà vua thì ơng chỉ giữ hết bổn </i>
<i>phận, chứ khơng hay nói năng điều gì” khiến có khi bị nhà vua quở trách...</i> "Qua những
bài thơ trong <i>Nam trung tạp ngâm</i>, kể cả những bài thơ làm trong khi đi sứ, quanh quẩn
chỉ bấy nhiêu ý: ca tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những người cầu phú q cơng danh, nhớ
nhà, nhớ thú săn bắn, muốn về yên nghĩ, cho đời là một cuộc bể dâu...Nghĩa là Nguyễn
Du đã nhìn thấy những nỗi đau khổ của quần chúng bị áp bức, đã thấy được cái mục nát,
tàn khốc trong triều đình nhà Nguyễn, cho nên ơng đã gửi tâm sự vào hai câu thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Và ý kiến của Nguyễn Lộc trong <i>Từ điển văn học (bộ mới), xuất bản năm 2004:</i>


"Có một điều lạ là Nguyễn Du từng chạy theo Lê Chiêu Thống, và như một số tài liệu
nói, ơng từng có ý định chống nhà Tây Sơn; nhưng trong các sáng tác của ông, những
thái độ này rất mờ nhạt. Trong khi những người khác có hàng tập thơ khóc vua Lê thì ơng
chỉ ít nhiều rõ nét trong mỗi bài <i>My trung mạn hứng</i> (Cảm hứng trong tù) và đả kích nhà
Tây Sơn, thì Nguyễn Du khơng có một bài nào đả kích. Với nhà Nguyễn, ông được trọng
vọng, mà trong thơ ông có cái gì như chán chường nhà Nguyễn. Cũng giống như <i>Thanh </i>
<i>Hiên thi tập</i>, trong <i>Nam Trung tạp ngâm</i>, chưa bao giờ Nguyễn Du nói rõ cái tâm sự thật
của mình; rải rác đây đó, trong thơ chỉ thấy ơng than thở cuộc đời là đáng buồn, đáng
chán, là vô nghĩa, là bãi bể nương dâu.


Trong <i>Bắc hành thi tập</i>, nhà thơ có viết về Thăng Long (2 bài) để nói lên những đổi
thay đáng buồn của một đế đô. Tuy bài thơ tốt lên một tình cảm <i>nhớ cổ, thương kim</i> da
diết, mơng lung , nhưng khó có thể nói đây là bài thơ nhớ nhà Lê được. Còn ở <i>Long </i>
<i>thành cầm giả ca</i>, thì bài thơ khơng có tí gì gọi là thù địch với nhà Tây Sơn, mà trái lại,


trong khi thương xót cho số phận của người ca nữ, nhà thơ lại có vẻ như ngậm ngùi cho
sự sụp đổ của triều đại trên...Thái độ của ơng như thế nào, thật hết sức khó hiểu. (tr.
1122)


Bởi cịn đơi điều khác biệt trên, nên chỉ có thể tạm kết luận:


<i>Nguyễn Du là một con người suy nghĩ nhiều về cuộc sống đương thời, có thái độ </i>
<i>yêu ghét khá rõ trước cái tốt cái xấu, nhưng khơng sao thốt khỏi buồn phiền vì </i>
<i>khơng giải thích nổi cuộc đời và khơng biết phải làm thế nào để thay đổi cuộc đời</i>
<i>đó.</i>[10]


<b>IV. Chú thích</b>



1. <b>^ Ghi theo </b><i>Thơ chữ Hán Nguyễn Du</i>, tr. 18.


2. <b>^ </b><i>Từ điển văn học (bộ mới)</i> ghi: xuất thân từ giới bình dân. (tr.1120)


3. <b>^ Thứ tự như sau: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ (hơn Nguyễn Du 4 tuổi), Nguyễn Du, </b>
Nguyễn Ức (kém Nguyễn Du 2 tuổi) và Nguyễn Thị Niên. Năm 1775, người con
đầu của bà Tần mất, mới 18 tuổi, năm sau chồng mất, hai cái tang liền làm cho bà
đau buồn rồi lâm bệnh mất ngày 27 tháng 7 năm 1778, khi mới 39 tuổi (theo <i>Thơ </i>
<i>chữ Hán Nguyễn Du</i>, tr 19 và <i>Từ điển văn học</i> (bộ mới), tr. 1120.)


4. <b>^ Tập ấm: Tập có nghĩa truyền lại đời sau, ấm có nghĩa là nhờ ơn người trước để </b>
lại mà con cháu được phong tặng chức tước hoặc miễn cho một trách nhiệm nào
đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

6. <b>^ Ghi theo </b><i>Ngữ văn 10 tập 2</i> (Nxb Giáo dục, 2008, tr.93). Còn <i>Văn học 11 tập I</i>
(Nxb Giáo dục, 1981, tr 23), <i>Từ điển Văn học</i> (bộ mới, sách đã dẫn, tr.1120) <i>và </i>
<i>theo cách tính của website [1] đều cho biết đó là ngày 16 tháng 9 năm 2008.</i>


7. <b>^ Phần </b><i>tiểu sử Nguyễn Du</i> dựa theo <i>Từ điển văn học</i> (bộ mới), Ngữ văn 10 tập 2,


<i>Thơ chữ Hán Nguyễn Du</i> và <i>Việt Nam văn học sử giản ước tân biên quyển 2</i> của
Phạm Thế Ngũ. Và theo GS. Trương Chính thì một phần cuộc đời của Nguyễn Du
được phân ra mấy giai đoạn như sau: Năm 1786 cho đến khoảng cuối năm 1795
đầu năm 1796, là giai đoạn “Mười năm gió bụi”. Năm 1796 cho đến năm 1802 là
giai đoạn “Dưới chân núi Hồng”. Từ năm 1802 đến cuối năm 1804 là giai đoạn
“Ra làm quan ở Bắc Hà”... (<i>Thơ chữ Hán Nguyễn Du</i>, tr. 15-16)


8. <b>^ Lược theo </b><i>Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du</i>,
Ngữ văn 10, tr. 95-96.


9. <b>^ Lược theo bài </b><i>Giới thiệu</i> của Gs Trương Chính trong <i>Thơ chữ Hán Nguyễn Du</i>,
tr. 29 - tr.48


10.<b>^ </b><i>Văn học 11</i>, Nxb Giáo dục, 1981, tr.24.

<b>V. Liên kết tư liệu tham khảo</b>



 Truyện Kiều của Nguyễn Du
 Đại thi hào Nguyễn Du


</div>

<!--links-->
Nguyễn Du
  • 6
  • 338
  • 0
  • NGUYEN DU NGUYEN DU
    • 6
    • 440
    • 0
  • Nguyễn Du Nguyễn Du
    • 22
    • 327
    • 0
  • Nguyễn Du Nguyễn Du
    • 3
    • 148
    • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×