Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.91 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Thế kỉ XX được ghi nhận là thế kỉ tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ với những thành tựu
rực rỡ trong nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Nó báo hiệu sự xuất hiện một làn sóng văn
minh thứ 3 - văn minh thơng tin. Nhưng đồng thời, nó cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất an, nhiều
thách thức đối với văn minh nhân loại.
<b>1. Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn</b>
Cuộc chiến tranh thế giới 1939 - 1945 vừa chấm dứt chưa được bao lâu, các dân tộc lại phải trải
qua tình trạng căng thẳng của "Chiến tranh lạnh" với những cuộc chạy đua vũ trang cực kì tốn
kém sức người, sức của. Một lần nữa, những tiến bộ khoa học - kĩ thuật hiện đại nhất của văn
minh nhân loại, những nguồn tài nguyên và tiền của khổng lồ lại được dùng vào việc phát minh,
chế tạo những loại vũ khí và phương tiện chiến tranh có sức tàn phá, hủy diệt chưa từng thấy.
Sau gần nửa thế kỉ chạy đua vũ trang tốn kém và mệt mỏi, các dân tộc đã rút ra được nhiều bài
học. Nền văn minh của nhân loại, mối quan hệ quốc tế giữa các dân tộc chỉ có thể phát triển tốt
đẹp nếu dựa trên phương thức cùng nhau chung sống hịa bình, hợp tác phát triển và cạnh tranh
trong kinh tế, bình đẳng, cùng có lợi.
Ngày nay, thời kì chiến tranh lạnh đã kết thúc, hịa bình thế giới được củng cố. Nhưng do nhiều
ngun nhân như những tranh chấp về sắc tộc, tôn giáo và lãnh thổ... hịa bình ở nhiều khu vực
vẫn bị đe dọa nghiêm trọng, thậm chí xung đột quân sự, nội chiến đẫm máu đã kéo dài nhiều
năm ở nhiều quốc gia. Tại những nơi đó, dân chúng lại đổ máu và điêu linh, những giá trị văn
minh bị tàn phá không thương tiếc.
Ở Châu Phi - lục địa không ổn định nhất trên hành tinh, trong 4 thập kỉ qua đã xảy ra tới 33 cuộc
xung đột vũ trang và nội chiến làm chết 7 triệu người và 6,7 triệu người phải rời bỏ xứ sở, tị nạn
ở nước khác. Dịng người lang thang trơi dạt ấy chiếm 43% tổng số người tị nạn trên thế giới.
Sau nhiều năm nội chiến liên miền giữa các phe phái ở Ápganixtan, Bảo tàng Quốc gia Cabun đã
bị đổ nát và bị cướp phá tới mức báo chí thế giới phải gọi là "tội ác của thế kỉ XX". 90% sưu tập
của Bảo tàng bị mất với nhiều loại hiện vật được coi là cổ nhất thế giới.
Sau khi đánh chiếm thủ đơ Cabun (1996), chính quyền Hồi giáo hà khắc Taliban đã ra lệnh triệt
phá toàn bộ các di sản văn hóa khơng thuộc đạo Hồi, trong đó có di sản văn hóa thế giới đã được
UNESSCO xếp hạng: hai bức tượng Phật cổ khổng lồ ở Bamiyan, mà Bộ trưởng Bộ Văn hóa và
Thơng tin của chính quyền Taliban là Q.Jamal (!) từng tuyên bố: "Tất cả các phương tiện sẽ được
huy động và tất cả các bức tượng sẽ bị phá". Và chiều thứ sáu ngày 2-3-2001, mặc dù là ngày
thiêng liêng của đạo Hồi, quân Taliban đã nã pháo và súng cối vào 2 bức tượng Phật cổ được tạc
vào núi đá ở Bamiyan cách thủ đô Cabun khoảng 145 km về phía Tây. Trong đó một bức tượng
cao gần 37m được tạc vào đá từ thế kỉ thứ II và một bức cao 53m tạc từ thế kỉ thứ V, đây là bức
tượng Phật đứng cao nhất thế giới. Quân Taliban còn sử dụng tên lửa và xe tăng tiếp tục phá hủy
các bức tượng và các cơng trình văn hóa khác. Đó là một thảm họa văn hóa khơng những đối với
Apganixtan mà cịn với cả thế giới.
Ngay trong năm đầu tiên của thế kỉ XXI, loài người lại đứng trước một thách thức đầy đe dọa: đó
là chủ nghĩa khủng bố quốc tế, với sự kiện kinh hoàng vào ngày 1-9-2001 ở Mĩ. Ngày hơm đó,
vào lúc 8 giờ 45 phút, 2 chiếc máy bay đã lần lượt đâm vào làm sập hồn tồn tịa nhà gọi là
"Tháp Đơi" cao 110 m, thuộc Trung tâm Thương mại thế giới (WTC) ở New York. Tiếp đó, 1
chiếc khác lại đâm xuống làm sập một phần Lầu Năm Góc - trụ sở Bộ Quốc phòng Mĩ ở
Oasinhtơn. Chỉ trong khoảng 1 tiếng đồng hồ, hơn 3.000 người đã thiệt mạng.
Chủ nghĩa khủng bố không phải là một hiện tượng mới mà đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử.
Nhưng từ sau sự kiện 11-9, hai từ "khủng bố trở thành nỗi ám ảnh với bao lo âu, kinh hoàng đối
với loài người, bởi những thế lực khủng bố ngày nay đã sử dụng những vũ khí và các phương
tiện quân sự tinh vi, hiện đại. Có nhiều nguồn gốc và nguyên nhân dẫn tới chủ nghĩa khủng bố
như: mâu thuẫn giữa các cộng đồng dân tộc; giữa các dân tộc bị áp bức với các quốc gia mạnh
hơn tự cho mình cái gọi là sứ mệnh "khai hóa"; do đói nghèo nhiều người bị dụ dỗ, lôi kéo với
những hứa hẹn hấp dẫn; sự va chạm giữa các tôn giáo hoặc giữa các phái trong cùng một tơn
giáo; sự bất bình đẳng, thiếu cơng bằng trong tiến trình tồn cầu hóa kinh tế...
Mặc dù các nhà cầm quyền của nhiều quốc gia đã đề ra nhiều biện pháp ngăn chặn, chống khủng
<b>3. Thiên tai và mối đe dọa của sự biến đổi khí hậu</b>
Tơmát Krauli thuộc đại học Tếchdát A&M cho rằng: kể từ thập niên cuối của thế kỉ XX, thiên
nhiên chỉ chiếm 25% trong các nhân tố làm cho Trái Đất nóng lên, cịn lại 75% trách nhiệm là
hồn tồn thuộc về những hoạt động của con người gây ra. Trái Đất nóng lên như vậy dẫn tối
việc băng ở 2 cực Nam và Bắc bán cầu sẽ tan, mực nước biển dâng cao và bão biển dữ dội hơn,
có thể đến lúc nào đó sẽ nhấn chìm nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn, nhiều quốc đảo. Đó là chưa kế
các nguồn nước bị đe dọa ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng trăm triệu con người, hạn hán kéo
dài sa mạc hóa nhiều vùng đất, hệ động thực vật bị tác động ghê gốm dẫn tới nguy cơ tuyệt
chủng.
Khí hậu nóng lên, hiểm họa thật khôn lường! Việt Nam sẽ là một trong những nước chịu ảnh
hưởng nhiều nhất trên thế giới do nước biển dâng cao như tốc độ hiện nay. Với trên 3.000 km
đường bờ biển, nêu mực nước biển dâng lên 1m, nước ta sẽ bị mất đi khoảng 16% diện tích lãnh
thổ do ngập chìm trong nước biển, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ, thiệt hại lên
tới 17 tỉ USD mỗi năm...
Liên hợp quốc và các nhà khoa học trên thế giới đã có nhiều nỗ lực nhằm ổn định khí hậu tồn
Cho tới nay, tiếng súng vẫn nổ nhiều nơi trên hành tinh, những thảm họa thiên nhiên vẫn rình rập
địi hỏi cộng đồng các dân tộc hơn bao giờ hết cùng nhau chung sức để có một Thế giới hịa bình
và an ninh, một Trái Đất xanh tươi và hài hòa.
<b>4. Kết luận</b>
1. Lịch sử văn minh thế giới là một quá trình phát triển liên tục từ thấp tới cao, tạo thành một
trong những yếu tố cơ bản thúc đẩy lịch sử phát triển trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đến toàn
thế giới, toàn thế loài người.
2. Từ xa xưa đã sớm hình thành những trung tâm văn minh ở phương Đông, tiêu biểu nhất là
vùng Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Hoa. Ở những nơi này, sớm xuất hiện nền văn minh
nông nghiệp và ra đời nhà nước sơ khai. Cấu trúc nhà nước dần dần được hoàn thiện, luật pháp
được soạn thảo và áp dụng trong cuộc sống, chế độ sở hữu tài sản tư nhân được xác lập, các quy
chế trong quan hệ chính quyền, quan hệ xã hội được xác định.
Muộn hơn các nước phương Đông là sự xuất hiện văn minh Hi Lạp và La Mã. Trong sự bành
trướng lãnh thổ, các dân tộc này cũng đã tiếp nhận từ phương Đông nhiều thành tựu kĩ thuật sản
xuất cũng như kinh nghiệm tổ chức chính quyền. Nền văn minh Hi-La đặt nền tảng cho sự phát
triển sau này của văn minh các nước Tây Âu, để lại những dâu ấn sâu sắc cho lịch sử.
Sau nhiều thế kỉ trì trệ của thời trung cổ, châu Âu đã vươn tối các châu lục khác và bước vào thời
kì Phục hưng, dẫn đến những biến động lớn về kinh tế, những thay đổi cơ bản về thế chế chính
trị cũng như phát huy cao độ năng lực sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã
sáng tạo ra một khối lượng của cải vật chất mà các thế hệ trước đó khơng thể nào có được. Chính
từ thời điểm này mà phương Tây đã vượt lên trước phương Đông và từng bước thống trị phương
Đông.
Từ nửa sau thế kỉ XX, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã mở ra những chân trời mới đi
vào vũ trụ bao la, cũng như đi vào thế giới vi mô, hứa hẹn những chuyển biến vĩ đại và sâu sắc
mà các nhà tương lai học đã dự báo.
Cũng trong thời gian này, khoảng cách Đơng - Tây về trình độ phát triển đang bắt đầu được thu
hẹp với sự tái lập nền độc lập của nhiều quốc gia, sự vươn tối của nhiều dân tộc làm xuất hiện
những khu vực điểm sáng, những quốc gia "con rồng", những nước mới công nghiệp hóa gọi là
NICS. Nhưng sự chênh lệch trên nhiều mặt vẫn cịn đó, cái hố ngăn cách Đơng - Tây, sự phân
biệt giàu nghèo Nam - Bắc chưa thể san lấp. thậm chí, nhiều nơi cịn nghiêm trọng. Phải có một
nỗ lực phi thường, phải qua một thời gian khá dài, phải tạo nên những chuyển biến xã hội cơ bản
thì các quốc gia lạc hậu, các dân tộc đói nghèo mối có thể vượt qua được thử thách để đạt tới
trình độ văn minh chung của nhân loại.
Đến hôm nay đối với nhiều dân tộc, lời giải của bài tốn vẫn đang ở phía trước.
4. Mỗi khi những thành tựu văn hóa được nâng cao, cuộc sống của con người tiến lên một bước,
thì những mặt trái của nó cũng đồng thời xuất hiện. Do vậy, loài người trong khi ứng dụng
những thành quả khoa học kĩ thuật, thưởng thức các cơng trình văn học nghệ thuật để làm cho
cuộc sống ngày càng tiến gần đến cái chân, cái thiện, cái mĩ thì đồng thời phải đối mặt với nạn ơ
nhiễm mơi trường, tình trạng hủy hoại sinh thái, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, sự gia tăng dân số
quá mức và sự hoành hành của bệnh tật. Vì thế, phải gìn giữ sao cho hành tinh này, ngôi nhà
chung của tất cả mọi người, được trong lành, của cải thiên nhiên được khai thác hợp lí, dịch bệnh
được phịng ngừa, sức khỏe và tuổi thọ được bảo đảm. Công việc ấy, không ai thay thế được
Tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng trong xã hội, nỗi đói khổ của người này là hậu quả của sự
thừa thãi của người khác, là một nghịch lí đã từng tồn tại từ bao đời, đã từng là ngòi nổ của bao
cuộc đấu tranh và đến hơm nay vẫn cịn là vấn đề nóng bỏng. Và điều nguy hại hơn cả là những
tàn phá nặng nề của các cuộc chiến tranh diễn ra liên miền trong mọi lúc, trên mọi nẻo của hành
tinh.
5. Những thành tựu khoa học kĩ thuật được sử dụng vào việc chế tạo những vũ khí giết người
nguy hiểm, trong chốc lát có thể hủy diệt hàng triệu sinh mạng. Các phương tiện chiến tranh là
một phần sản phẩm của văn minh được sử dụng để hủy hoại ngay chính nền văn minh đã sinh ra
nó. Vì thế, đấu tranh cho một xã hội cơng bằng, bảo vệ cuộc sống hịa bình vững chắc trên nền
tảng của văn minh hiện đại chính là mục tiêu mà mọi người đều phải quan tâm, đều phải phấn
đầu.
Những thành tựu văn minh là kết quả chung của loài người đã sáng tạo qua bao thế hệ, là kho
tàng tri thức chung của mọi cộng đồng được tích luỹ trong suốt tiến trình lịch sử. Cho nên, văn
minh thế giới chứa đựng những nét chung nhất mà mỗi người, mỗi dân tộc dù ở châu lục nào,
quốc gia nào cũng tiếp thụ và vận dụng nó vào đời sống thường ngày.
Nhưng do những điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử, văn hóa mỗi dân tộc có những nét khác
nhau, có những sắc thái riêng biệt. Cho nên vấn đề đặt ra bao giờ cũng là làm thế nào để tiếp
nhận những yếu tố tích cực và loại trừ những yếu tố tiêu cực trong sự tiếp xúc với bên ngoài, là
hội nhập vào văn minh nhân loại đồng thời gìn giữ bản sắc dân tộc của riêng mình.
Dân tộc Việt Nam đã từng có một nền văn hiến lâu đời, trải qua hàng ngàn năm khai phá và dựng
xây đất nước, trải qua bao cuộc kháng chiến để bảo vệ non sông. Quá trình dựng nước và giữ
nước ấy cũng là quá trình tích lũy và tạo dựng một nền văn hóa Việt Nam mang những nét riêng,
những sắc thái riêng.
trong mối quan hệ gia đình và xã hội, trong nếp sống lành mạnh và giản dị, trong nghĩa vụ đối
với Tổ quốc và Đồng bào.