VĂN MẪU LỚP 12
PHÂN TÍCH NGUN LÍ TẢNG BĂNG TRƠI TRONG TÁC
PHẨM ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ
BÀI MẪU SỐ 1:
Hêminhuây đã sử dụng một hình ảnh nổi tiếng để nói về phương pháp viết của ơng , đó là
phương pháp “tảng băng trơi”: 7/8 chìm dưới nước, chỉ 1 phần nổi lên trên cho mọi người
nhìn thấy. Hình ảnh ấy chẳng những minh họa cho phong cách Hêminhuây mà nó cịn đưa
ra một cách tóm tắt u cầu đối với một áng văn chương thật sự có giá trị, đặc biệt đối với
độc giả của thế kỉ XX.
Truyện đòi hỏi một sự đồng sáng tạo tích cực của người đọc. Mỗi người đọc theo các cấp độ
khác nhau sẽ khám phá được những tảng ngầm của “tảng băng trôi” – tác phẩm văn chương.
Hình ảnh này của Hêminhuây thật ra đã được một thuật ngữ lí luận gợi lên : đó là mạch
ngầm văn bản.
Dưới vẻ trần trụi , thơ sơ, rõ ràng bên ngồi, tác phẩm của ơng ẩn giấu những tầng sâu kín,
đa nghĩa và đầy chất thơ. Thoạt nhìn , ngơn từ ở đây thường rất ngắn gọn và đơn giản , điều
này đặc biệt thể hiện qua 1 loại ngôn từ mà người ta coi là sở trường của ơng, ngơn ngữ đối
thoại. Người ta ví lối văn chương đối thoại của Hêminhuây với những băng ghi âm hoặc nói
đến lối văn điện tín. Đối thoại rời rạc, khó hiểu ấy khơng đơn giản chỉ hứng thú của nhà văn,
mà thường gắn bó với kiểu nhân vật Hêminhy: họ khơng trần tình, bộc lộ tâm tư mà
thường khi lại giấu kín nó.
Muốn hiểu hết đối thoại của nhân vật Hêminhuây, nhiều khi phải đọc cả những im lặng và
nhập hẳn vào văn cảnh của họ nữa. Huống chi nhà văn thường ẩn mình, khơng giải thích ,
bình luận nhiều về nhân vật, nên có những câu đối thoại gần như hồn tồn thuộc về phần
chìm của “tảng băng trơi”
Phần nổi của “tảng băng trơi” trong “Ơng già và biển cả”
+ Đó là những gì nhìn thấy được: Văn bản ngắn gọn, đơn giản.
Qua lượng ngôn từ hạn hẹp chuyển tải những lớp nghĩa hết sức sâu xa. Nhà văn Macket
nhận xét : “Những gì Hêminhuây viết trong khoảng 100 trang sách đó những nhà văn khác
có thể biến thành 1 cuốn tiểu thuyết dày hàng nghìn trang”.
Nhân vật số lượng cũng không nhiều, cũng là tác phẩm đơn giản về hoạt động câu cá cũng
là sự giản lược về cốt truyện.Tác phẩm có khoảng 100 trang (khoảng 27000 từ).
Phần chìm của “tảng băng trơi” trong “Ơng già và biển cả”.
Các tầng ý nghĩa khai thác được. Theo Lê Huy Bắc có 3 cách hiểu về “Ơng già và biển cả”:
- Đọc tác phẩm theo triết lí về cái bi đát của các nhà văn hiện sinh. Tác giả dường như muốn
khẳng định cuộc đời của con người là một cuộc hành trình mệt nhọc và chẳng bao giờ tới
đích nên ơng lão dù có câu được con cá kiếm, chiến thắng nó cũng chẳng mang được nó vào
bờ.
Khi ơng lão mang bộ xương vào bờ, người thấy được giá trị của nó là cậu bé cái mà người
hướng dẫn viên du lịch khơng hiểu được=> Cái có giá trị với người này lại trở nên vô giá
với người khác. “Khơng phải tơi khơng muốn bi kịch hóa cuộc đời nhưng mỗi lần ta yên
tâm về một việc gì đấy thì đó là dấu hiệu của 1 dấu hiệu của 1 sự thảm bại”.
- Theo cái nhìn tiến bộ của các nhà phê bình Mácxit: “Đây là cuộc chiến của con người
chống lại số phận” . Khi con người nỗ lực phấn đấu thì sẽ khơng bị khuất phục.
Gs. Phùng Văn Tửu nhận xét “Tác phẩm miêu tả cuộc vật lộn gay gắt của con người vs
thiên nhiên đầy chân thực từ đó nâng lên thành tầng ý nghĩa thứ 2: nêu bật cái quyết liệt, tàn
bạo của đời sống và khả năng chống trả của con người”
Đặng Anh Đào nhận định “Santiago giống như bức tượng về cuộc đấu tranh của con người
hiện đại trên thế giới này”
Phong Lê lại đánh giá “Ơng già và biển cả” ở góc độ tố cáo hiện thực xã hội, xem ông lão
như 1 người lao động cực nhọc, vất vả.
Con cá kiếm là thành quả lao động nhưng lại bị bọn cá mập cướp đi (bọn cá mập đồng nghĩa
vs bọn tư sản bóc lột người lao động) : “Ta có thể thấy đâu đó thấp thống bóng dáng 1 xã
hội lồi người đầy rấy những bất cơng trong lồi người với nhau. Trong xã hội ông già đang
sống, đất liền kia cũng có bao nhiêu đàn cá mập hung hãn và tham lam khơng kém. Nó đang
ngồi dưng ăn bám, cướp không bao nhiêu của cải, mồ hôi nước mắt của người dân lao động.
- Đọc tác phẩm từ góc độ mĩ học.
Theo Lê Huy Bắc: Ông lão là nhân vật đẹp (đẹp ở cả ý chí và khát vọng) => Bi kịch của cái
đẹp: Sự nỗ lực đó khơng đem lại kết quả gì cả, con cá kiếm rõ ràng là 1 đối thủ đẹp của ông
lão cuối cùng cũng bị chính ơng lão tiêu diệt và trở thành chiến tích thảm thương vì khơng
ai hiểu giá trị của nó.
Hành động đuổi theo con cá là hành động thể hiện khát vọng của con người vươn đến cái
đẹp, cái lớn lao hơn mặc cho kết quả lại là 1 bi kịch. “Cái tốt đẹp chẳng bao giờ bền lâu”
- So sánh công việc câu cá với nghề viết văn ta cũng thấy được sự tương đồng giữa chúng:
Câu cá cần sức lực, viết văn cần công lao. Mục đích hướng đến 1 bên là câu được cá, kiếm
được tiền cịn bên kia là phấn đấu hồn thành tác phẩm tuyệt vời. Lão đánh cá kì vọng vào 1
con cá lớn, còn nhà văn chờ đợi 1 tác phẩm hay , có giá trị. Đơi khi kết quả mang về lại là
một bộ xương khô hay 1 tác phẩm khơng như ý muốn. Bộ xương cá cũng có người hiểu
được (cậu bé Mandoli ) cũng có người khơng (người hướng dẫn du lịch) và công việc viết
văn cũng vậy: số người hiểu được đón nhận tác phẩm đơi khi không nhiều bằng số người
không hiểu, thờ ơ.
- Những yếu tố hỗ trợ cho ngun lí “tảng băng trơi”
+ Độc thoại: Tác giả nhường lời cho nhân vật để khắc họa hình tượng nhân vật ngồi biển
khơi, thủ pháp nhường lời cho nhân vật. Khi lời độc thoại lấn át lời kể có nghĩa là tác giả để
nhân vật tự lên tiếng, tự bộc lộ. “Lão tự nhủ, lão nghĩ, lão cho rằng…..” người kể chuyện tỏ
ra lạnh lùng, khách quan, khơng lồng vào đó dịng suy nghĩ nào mà đánh giá, nhận xét
chuyển sang phía người đọc.
+ “ Cái đẹp thì chẳng bao giờ tồn tại được lâu”
Nghĩa đen: con cá quá lớn không thể mang lên thuyền và rồi bọn cá mập cũng xơi mất.
Nghĩa bóng : Khi ơm ấp khát vọng q lớn thì khó có thể thực hiện được.
+ Đối thoại: Trong tác phẩm lời đối thoại rất ít.
+ Hình tượng nhân vật: 2 nhân vật chính trái ngược nhau
Ơng lão: vừa là người chiến thắng, vừa là kẻ thua cuộc.
Cậu bé Mandoli: gắn với quá khứ đẹp đẽ của ông lão, gợi nhớ về thời trai trẻ của ông lão
mạnh mẽ, sôi nối => là sự tiếp nối của ơng lão .
+ Tính biểu tượng:
Ơng lão Santiago: ( Sant – ơng thánh -> gợi liên tưởng đến chúa Giesu :tay chân trầy xước,
rướm máu, lúc thuyền lên bờ ông lão tháo cột buồm nặng nhọc vác trên vai giống biểu
tượng chúa trên thánh giá): Ông lão là biểu tượng của con người phi thường chống lại định
mệnh.
Con cá kiếm : tượng trưng cho những khó khăn , thử thách của con người, của tự nhiên; Nó
là thành quả lao động của con người, là khát vọng lí tưởng của con người, đồng thời là biểu
tượng của cái đẹp.
Đàn cá mập: tượng trưng cho những khó khăn, thử thách ngáng trở con đường vươn đến lí
tưởng của con người. Nó là biểu tượng của cái xấu, cái tồi tệ, cái đáng lên án. Bọn tư sản
chỉbiết cướp bóc không thành quả lao động của người lao động nghèo.
Biển: Một mơi trường đầy khó khăn, thử thách. Biển là mẹ thiên nhiên kì vĩ, chứa đựng
những khát vọng lớn lao của con người.
BÀI MẪU SỐ 2:
Ơ-nít Hê-minh-uê là nhà văn hiện thực hàng đầu của văn học Mĩ thời kì hiện đại. Năm
1954, ông được trao giải Nô-ben về văn học do những đóng góp lớn trong việc đổi , mới
văn xi hiện đại cũng như việc thể hiện niềm tin bất diệt vào ý chí, nghị lực và lương tri
con người. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hê-minh-uê ra đời năm 1952, Ông già
và biển cả, được sáng tác theo ngun lí "tảng băng trơi".
Ta hãy tìm hiểu ngun lí "tảng băng trơi" và chứng minh rằng Hê-minh- đã thực hiện
ngun lí này trong tiểu thuyết Ơng già và biển cả.
Dựa vào hình ảnh một tảng băng trơi trên đại dương, Hê-minh- nói về phương pháp sáng
tác của mình khi trả lời cuộc phỏng vấn của một nhà báo:
"... Nếu không đến nỗi sai lạc quá, tôi muốn so sánh như thế này: tơi muốn viết theo ngun
lí "tảng băng trơi". Bảy phần tám khối lượng của nó cịn chìm sâu dưới nước, chỉ có một
phần tám là nổi lên cho mọi người nhìn thấy. Như vậy tảng băng sẽ tiến lên một cách chắc
chắn và đáng sợ han".
Việc đề xướng nguyên lí mới mẻ này xuất phát từ phản ứng của Hê-minh-uê đối với thứ văn
chương sáo rỗng, chuộng hình thức hoa mĩ đã tràn ngập văn đàn Hoa Kì từ sau Thế chiến
thứ nhất.Chính trong tiểu thuyết Giã từ vũ khí, nhà văn đã từng chế giễu cách dùng từ ngữ,
hình ảnh mịn rỗng này. Ngun lí "tảng băng trôi" chỉ phương pháp nghệ thuật mới lạ, độc
đáo, tập trung chủ yếu vào cách viết ngắn gọn, hàm súc, ngụ ý chỉ mạch ngầm văn bản hay
các lớp nghĩa chưa được phô bày trực tiếp trong tác phẩm.
Ngun lí "tảng băng trơi" theo Hê-minh-, được thực hiện khi nhà văn hiểu biết cặn kẽ
mọi vấn đề mình muốn tái hiện, rồi loại bỏ hết các chi tiết không cần thiết, chỉ giữ lại những
phần cốt lõi và sắp xếp như thếnào để người đọc vẫn có thể hiểu đượcnhững gì tác giả bỏ đi,
khơng có trong văn bản. Người đọc phải vận dụng kinh nghiệm, hiểu biết của mình để tái
hiện những "khoảng trống'' mà nhà văn cố tình bỏqua, hiểu những gì nhà văn chưa nói hết.
Ý nghĩa của truyện vì thế sẽ được mở rộng rất nhiều. Riêng về nghệ thuật xây dựng hình
tượng nhân vật, Hê-minh-uêđã tiết lộ rằng khi bắt đầu cảm thấy cần "trốn chạy mọi sự dễ
dãi" (trong sáng tác văn chương), thì phải "khiến cho nhân vật hoạt động thay vì miêu tã
họ". Nhân vật trong truyện cửa ơng ít nói năng, và khi để nhân vật độc thoại hoặc đối thoại
càng là đểnhân vật "hành động".
Ông già và biển cả là tiểu thuyết tiêu biểu cho lối viết "tảng băng trơi". Nghĩa là dung lượng
câu chữ ít (khoảng 26000 chữ — lẽ ra dài 1000 trang, theo tác giả) nhưng các "khoảng
trống" được nhà văn tạo ra trong tác phẩm rất nhiều. Vì thế phần chưa được viết đóng vai
trò rất lớn trong việc làm tăng các lớp nghĩa cho văn bản. Ngaytrong đoạn văn kể lại diễn
biến cuộc chinh phục con cá kiếm của Xan-ti-a-gô, dấu hiệu của cách viết "tảng băng trôi"
được thể hiện trên văn bản qua các "khoảng trống" của câu chữ. Chẳng hạn câu "... lão thấy
trong ánh nắng, những tia nước từ sợi dây câu bắn ra. Thế rồi sợi dây thoát đi mất...".Giữa
hai câu văn trên, nhà văn bỏ trống lời giải thích vì sao sợi dây câu thốt đi. Người đọc có thể
khơi phục lại "khoảng trống" đó như sau: "... lão thấy trong ánh nắng, những tia nước từ sợi
dây câu bắn ra. Lão sợ sợi dây câu đứt nên buông ra. Thế rồi sợi dây thốt đi mất..."
Ngun lí "tảng băng trơi" cịn thể hiện trong lời kể, độc thoại và đối thoại về lời kể, đoạn
trích ơng già và biển cả kể lại cuộc săn đuổi con cá kiếm đạt tới đích, xuất hiện hai "nhân
vật" chính của tồn bộ tác phẩm, đó là ơng lão đánh cá và con cá kiếm. Nhân vật trung tâm,
chủ thể của diễn biến việc săn đuổi chính là lão ngư phủ Xan-ti-a-gơ. Vì con cá kiếm q
kiêu hùng, dũng cảm nên ơng lão xem nó như là bạn.Do vậy mới có lời kể họ lái thuyền đi
êm: ‘Họ" ở đây bao gồm ông lão và con cá. Ngồi ra cịn lời độc thoại của ơng lão: Chúng
ta lái thuyền giỏi: "Chúng ta" ở đây cũng bao gồm ông lão và con cá.
Về ngôn ngữ độc thoại, cả đoạn trích Ơng già và biển cả xuất hiện 24 lần cụm từ "Lão
nghĩ". Trước khi ông lão giết được con cá kiếm, tác giả sử dụng 15 lần cụm từ "lão nghĩ" để
miêu tả độc thoại nội tâm của nhân vật. Tất cả hướng đến việc phân tích tình trạng trước
mắt và lời tự động viên bản thân của ông lão nhằm tăng thêm sức mạnh chiến đấu. Từ
những độc thoại nội tâm này, người đọc biết được sức khỏe của ông lão: Xan-ti-a-gô đã 74
tuổi, rất già trong khi con cá kiếm rất sung sức, ngang tàng. Cuộc chiến đấu rõràng là không
cân sức.
Khi ông lão giết được con cá kiếm, tác giả sử dụng 9 lần cụm từ "lão nghĩ". Cụm độc thoại
nội tâm lần thứ hai này cho thấy ơng lão biết phân tích rõ tình hình: "là đã giết con cá, người
anh em" và ý thức rõ cơng việc nhọc nhằn của mình. Diễn biến cuộc chiến đã xảy ra giống
những gì ơng lão nghi Lão đâm chết con cá chỉ bằng một cú phóng lao: chi tiết cho thấy tài
nghệ của nhân vật. Cụm độc thoại nội tâm này cũng cho thấy tâm trạng không hề vui mừng
mà tiếp tục lo lắng của ơng lão về những bất trắc có thểsẽ xảy đến.Đây là một con người
khiêm tốn, biết tự lượng sức mình, biết lị xa — những phẩm chất quan trọng làm nên chiến
thắng. Đặc biệt, trong lần độc thoại nội tâm lần thứ 18, ơng lão nói: "Con cá là vận maycủa
ta", câu nói nhằm khẳng định những gìdân làng chài đánh giá lão trước đó (họ cho là ơng
lão hết thời vì xui q) là khơng đúngƠng lão vẫn gặp vận may. Vận may đến khi ơng lão
kiên trì lao động qua tám mươi lăm lần ra khơi và kiên quyết theo đuổi con cá kiếm đến
cùng.
Đoạn trích xuất hiện 18 lần "lão nói lớn" kể cả lần lão hứa.Lời nói lớn thuộc kiểu ngơn từ
đối thoại.Tuy nhiên, trong tác phẩm Ông già và biển cả, đặc biệt là trong đoạn trích, lời nói
thực chất là một dạng độc thoại nội tâm. Có thể coi như ơng lão phân thân, tự nói với chính
mình để tìm nguồn động viên, vượt qua thử thách.
Cả quyển Ơng già và biển cả chỉ cóvài mẩu đối thoại hiếm hoi của ông lão với chú bé Manô-lin. Trong đoạn cuối tác phẩm, khi ông tỉnh dậy, chú bé mang củi và cà phê tới. Những
lời đối thoại giữa hai người liền xoay chung quanh chuyện đánh cá:
-
Từ nay, hai bác cháu ta lại đi câu với nhau.
-
Thôi cháu ạ. Bác rủi lắm. Bác chẳng bao giờ cịn gặp vận may nữa đâu.
-
Chán cóc căn may rủi gì cả. Bác: rủi nhưng sẽcó cháu may.
-
Từ nay, hai bác cháu ta Lại đi câu với nhau.
Ngôn ngữ đối thoại thật giản dị, thểhiện tính cách, tâm lí nhân vật, Ông già và chú bé rất
hiểu ý nhau, dù cách biệt về tuổi tác. Cho nên họ không cần kể lể nỗi lịng mà chỉ nói đến
những điều đã gắn bó họ với nhau: biển và cá. Tình cảm của họ thể hiện rõ qua nhu cầu
truyền nghề và học nghề.Nếu phân tích, đoạn đối thoại trên nhắc đi nhắc lại một mối quan
tâm (Từ nay, hai bác cháu ta lại đi câu với nhau) gợi lên hai nội dung. Một là tạo ra bước
phát triển hành động nhân vật: chú bé Ma-nô-lin quyết theo ông lão đi biển, dù cha mẹ có
cấm đốn. Hai là biểu hiện một ý tưởng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm: sự tiếp nối giữa hai
thế hệ, sự bổ sung quá khứ bằng tương lai.
Cuối cùng, mạch ngầm văn bản gợi ra hai tầng ý nghĩa của đoạn trích có thểcảm nhận như
sau:
Ởtầng nghĩa thứ nhất, đoạn trích miêu tả một cuộc săn bắt cá. Bởi vậy, nhân vật trung tâm,
"người anh hùng" của cuộc đấu này, trước hết phải là ông lão ngư phú lành nghề, đơn độc
mà dũng cảm, mưu trí thực hiện bằng được ước mơ bắt được con cá lớn của đời mình. Hành
trình ấy đã tới đoạn cuối.Bởi vậy sự cảm nhận của ông lão về đối thủ của mình mãnh liệt,
tập trung hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, hình ảnh người săn đuổi chỉ có thể đẹp đẽ, cao cả, nếu đối thủ — đích tới của
họ— ở một tầm cao khó vươn tới. Chính ở đây, sự cảm nhận của ơng lão về "đối thủ" hồn
tồn khơng nhuốm màu sắc hằn thù mà ngược lại: có thể nói đó là một sự cảm kích, chiêm
ngưỡng - thậm chí đơi khi có pha lẫn tiếc nuối vì hành động của mình. Đó cũng là nét làm
nên vẻ đẹp cao thượng của ơng lão.Đó là một trạng thái tâm lí đầy mâu thuẫn, phức tạp,
song cũng rất thực, cho thấy ở đoạn trích ngắn ngủi này, Hê-minh-uê cũng đãviết nên "một
áng văn xuôi giản dị và trung thực về con người".
Sự miêu tả nhưvậy về cảm nhận (và cảm thơng) của nhân vật chính với đối thủ của mình
làm xuất hiện một lớp nghĩa thứ hai: con cá kiếm không chỉ là con mồi, lão Xan-ti-a-gô
không chỉ làlão ngư phủ, đoạn văn khơng chỉ miêu tả một hành trình săn bắt cá. Vẻ đẹp kiêu
hùng của con cá - đặc biệt khi nó chưa bị săn bắt - có thể là biểu tượng của ước mơ. Cũng
như khi nó đã bị săn bắt là gợi lên một ý nghĩa khác: ước mơ đãtrở thành hiện thực và tất
nhiên nó khổng cịn giống như trước nữa. Có như vậy, người ta mới ln theo đuổi những
ước mơ mới...
Tóm lại, qua hình ảnh "tầng băng trơi" mà Hê-minh- đã hình tượng hóa phương pháp
nghệ thuật của mình, nhà văn đã miêu tả gián tiếp, miêu tả ngầm nhiều chi tiết về nhân vật,
ngôn ngữ, hành vi, tâm trạng, ngôn ngữ độc thoại... phần chìm của "tảng băng trơi". Nhìn
chung, Ông già và biển cả xuất hiện trên phần nổi của ngôn từ không nhiều, lối viết giản dị,
song phần chìm của nó rất lớn, bởi đã gợi lên nhiều tầng ý nghĩa mà người đọc sẽ rút ra
được tùy theo thể nghiệm và cảm hứng trước hình tượng. Đó là biểu hiện của nguyên lí sáng
tác do nhà văn đề ra: ngun lí "tảng băng trơi".