Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Văn xuôi của võ diệu thanh từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đậu Văn Vinh

VĂN XI CỦA VÕ DIỆU THANH
TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đậu Văn Vinh

VĂN XI CỦA VÕ DIỆU THANH
TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA HỌC
Chun ngành : Văn học Việt Nam
Mã số

: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI THANH TRUYỀN



Thành phố Hồ Chí Minh - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Đậu Văn Vinh, cam đoan rằng:
Những nội dung được trình bày trong luận văn này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Bùi Thanh Truyền.
Những kết quả nghiên cứu của các tác giả khác khi sử dụng trong luận văn đều
được trích dẫn đầy đủ về nguồn gốc (tên tác giả, tên cơng trình, thời gian, hình thức
cơng bố).
Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm nguyên tắc nghiên cứu khoa học, quy chế
đào tạo, tơi xin chịu hồn toàn trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Đậu Văn Vinh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Văn xi của Võ Diệu Thanh từ góc nhìn
văn hóa học”, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của quý
thầy cô Ban Giám hiệu, Phòng Sau Đại học, khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh. Tơi xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ nhiệt tâm đó.
Tơi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Bùi Thanh Truyền – người trực tiếp
hướng dẫn và chỉ bảo tôi hồn thành luận văn này.
Cuối cùng, tơi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và đặc biệt là gia
đình đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ trong suốt q trình thực hiện
và hồn thành luận văn.
Tác giả


Đậu Văn Vinh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HÓA
HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VÀ NHÀ VĂN
VÕ DIỆU THANH .............................................................................. 10
1.1. Một số khái niệm ............................................................................................ 10
1.1.1. Văn hóa .................................................................................................... 10
1.1.2. Văn hóa học ............................................................................................. 14
1.1.3. Phương pháp nghiên cứu văn hóa học ..................................................... 15
1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ............................................................ 18
1.2.1. Quan hệ tương đồng ................................................................................. 19
1.2.2. Quan hệ dị biệt ......................................................................................... 20
1.2.3. Quan hệ bổ sung ....................................................................................... 22
1.3. Triển vọng nghiên cứu văn xuôi Võ Diệu Thanh từ phương pháp tiếp cận
văn hóa học ............................................................................................................ 24
1.3.1. Cuộc đời và đường văn Võ Diệu Thanh ................................................. 24
1.3.2. Văn hóa Nam Bộ - khí hậu quyển góp phần kiến tạo nét riêng của
văn xuôi Võ Diệu Thanh ......................................................................... 26
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 31
Chương 2. CON NGƯỜI TRONG VĂN XUÔI VÕ DIỆU THANH
TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA HỌC ................................................... 32
2.1. Con người với những nét riêng trong môi trường sống và lối sống ............... 32
2.1.1. Điều kiện sống và sinh hoạt gắn với sơng nước ...................................... 32

2.1.2. Lối sống tự do, phóng khống ................................................................. 38
2.2. Con người với đời sống tâm linh độc đáo ...................................................... 41
2.2.1. Tục thờ cúng tổ tiên ................................................................................. 41


2.2.2. Niềm tin vào thần thánh, ma quỷ ............................................................. 45
2.3. Con người với những tính cách, tâm lý đậm chất Nam Bộ ............................ 55
2.3.1. Bộc trực, thẳng thắn ................................................................................. 55
2.3.2. Trọng tình trọng nghĩa, thuỷ chung ......................................................... 59
2.3.3. Hào phóng, hồ đồng, hiếu khách ............................................................ 64
2.3.4. Giàu lịng trắc ẩn ...................................................................................... 68
2.4. Con người với nỗ lực gìn giữ, phát huy các giá trị truyền thống ................... 71
2.4.1. Kháng cự những mặt trái của làn sóng đơ thị hóa ................................... 71
2.4.2. Cố gắng giữ gìn những nét văn hóa tốt đẹp ............................................. 77
Tiểu kết Chương 2 .................................................................................................... 83
Chương 3. BIỂU TƯỢNG VÀ NGÔN NGỮ TRONG VĂN XUÔI VÕ
DIỆU THANH TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA HỌC........................... 84
3.1. Biểu tượng nghệ thuật và ngôn ngữ văn học trong mối quan hệ với văn hóa .... 84
3.1.1. Biểu tượng nghệ thuật ……………………………......................................................91

3.1.2. Ngơn ngữ văn học ................................................................................... 86
3.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa với biểu tượng nghệ thuật và ngơn ngữ
văn học ............................................................................................................. 88
3.2. Một số biểu tượng trong văn xuôi Võ Diệu Thanh từ góc nhìn văn hóa học ..... 90
3.2.1. Biểu tượng dịng sơng .............................................................................. 91
3.2.2. Biểu tượng núi.......................................................................................... 98
3.2.3. Biểu tượng cây sầu đâu .......................................................................... 102
3.2.4. Biểu tượng ánh trăng .............................................................................. 106
3.3. Ngôn ngữ trong văn xuôi Võ Diệu Thanh từ góc nhìn văn hóa học ............ 112
3.3.1. Phương ngữ đậm chất Nam Bộ .............................................................. 112

3.3.2. Cách kể chuyện mộc mạc, dung dị ........................................................ 116
3.3.3. Lối triết lý đậm chất dân gian ................................................................ 120
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................... 124
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 127
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Võ Diệu Thanh là nhà văn trẻ với ngịi bút có nội lực rất dồi dào, tác giả đã
mang đến cho văn học Việt Nam hiện đại một cảm hứng mới về cuộc sống, con người
và nghệ thuật. Độc giả cả nước biết đến nhà văn từ tập truyện ngắn Cô con gái ngỗ
ngược và những tập truyện ngắn nổi tiếng khác của tác giả như: Gạt nước mắt đi, Con
nước say mèm, Cửa sổ hình tia chớp, 17 cây số đường ma, Về từ hành tinh ký ức, tiểu
thuyết Lần đầu thấy trăng, tập tản văn Bờ vai cho cả bờ vai ... Đến với tác phẩm của
chị, chúng ta có thể thấy được những lát cắt đời sống của con người và vùng đất Nam
Bộ với những sắc thái riêng được chưng cất từ chồi lộc, hoa trái của hạt giống văn
hóa Việt Nam. Vùng đất, con người Nam Bộ hiện hình trong trang viết của tác giả
với những nét tính cách đẹp đẽ, độc đáo. Cùng với các nhà văn Nam Bộ khác, Võ
Diệu Thanh đã góp phần khắc họa diện mạo văn hóa và con người phương Nam trong
thời kì hiện đại. Tác phẩm của chị đã đem đến cho người đọc một góc nhìn mới trong
văn học như một cứu cánh cho đời sống tinh thần. Tình yêu và ký ức ấy là sự gắn kết
tự nhiên với đất mẹ thiêng liêng, nơi nhà văn sinh ra lớn lên, bao gồm cả những điều
tưởng như vụn vặt, tầm thường nhất như giọng nói, món ăn, nước uống, cỏ cây...
nhưng đậm đà, sâu sắc. Để rồi, bạn đọc không khỏi bâng khuâng, day dứt khi gấp
cuốn sách lại.
Đọc Võ Diệu Thanh, chúng ta càng thấu hiểu được trang văn chính là những

trang đời. Nhà văn chọn viết về nơng thơn với những câu chuyện thấm đẫm tình
người, tình đời, da diết và chan chứa lòng vị tha, làm nhức nhối biết bao con tim.
Người đọc tìm đến và yêu mến Võ Diệu Thanh bởi chị là một trong số cây bút trẻ của
miền Tây có bút lực mạnh mẽ, tạo được cá tính riêng trong phong cách, với lối viết
bình dị nhưng dữ dội, chân thật mà sâu lắng, nhiều u uẩn và mộc mạc của con người
Nam Bộ. Giọng văn của tác giả lại dung dị nhiều màu sắc, có lúc trần trụi, bạo liệt
mà lại khơng kém phần trữ tình, đằm thắm. Độc giả thấu cảm được sự bình dị, mà ẩn
đằng sau đó là một tâm hồn đa mang, đa cảm và giàu lòng trắc ẩn trước con người và
cuộc sống vùng đất An Giang quê hương tác giả. Hơn thế nữa, người đọc nhận ra
những nét văn hóa đặc trưng của vùng đất Nam Bộ trong những trang viết của chị.


2
Cuộc sống gian khó ở nơi tác giả sinh ra và lớn lên, với những bất hạnh của người
phụ nữ quanh mình, cứ tự nhiên tn trào trong trang viết của Võ Diệu Thanh. Nhà
văn ý thức rất rõ về sự đổi mới cách nghĩ, cách viết, tác giả từng bày tỏ: “Khi phát
hiện con người ta không thể căm giận để khôn lớn, tôi đã nghĩ tới một cách sống
khác, lối viết khác” (Nghiêm Quốc, 2013).
2. Phương pháp văn hóa học ngày càng được vận dụng để nghiên cứu nhiều
ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có văn học; nhân thức vai trị cũng như
sự kết gắn của văn hóa với văn học vốn đã có từ trong bản chất đến nay lại càng sâu
đậm và không thể tách rời. Văn học là sự tự ý thức như một bộ phận của văn hóa.
Văn học khơng những chịu sự chi phối và ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà cịn là
một trong những yếu tố bảo lưu văn hóa. Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ mơi
trường văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc,
đồng thời thể hiện cả phạm trù tâm lý văn hóa độc đáo. Mặt khác, nhà văn là chủ thể
sáng tạo chắc chắn phải là con đẻ của một cộng đồng nhất định, dẫu sao họ cũng đã
tiếp nhận những yếu tố văn hóa của cộng đơng mình, những lối ứng xử, tư duy trong
đó chứa đựng giá trị văn hóa tâm lý riêng của thời đại cũng như những kết tinh giá trị
văn hóa truyền thống của miền quê nơi mình sinh ra và trưởng thành. Vì vậy, nghiên

cứu văn học từ góc độ quan hệ văn hố - văn học sẽ thấy được vai trị sáng tạo văn
hố của văn học qua những hình tượng nghệ thuật, qua xây dựng những mơ hình nhân
cách văn hố đẹp cho xã hội, cho dân tộc. Đồng thời, nghiên cứu văn học nhìn từ góc
độ quan hệ văn hố - văn học sẽ góp phần khẳng định vai trị vừa lưu giữ, chuyển tải
vừa thẩm định và lựa chọn văn hoá của văn học.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Văn xi của Võ Diệu Thanh từ góc
nhìn văn hóa học với hi vọng sẽ đóng góp thêm một vài ý kiến để tiến tới có một cái
nhìn tổng thể, toàn diện về sáng tác của Võ Diệu Thanh. Đây cũng là trải nghiệm quý
để chúng tôi vận dụng vào dạy học các văn bản nghệ thuật ở trường phổ thông theo
hướng phát huy năng lực của người học.


3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Hướng tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hướng vận dụng phương pháp văn hoá học để nghiên cứu văn học
đã có từ rất sớm và đạt được những thành tựu đáng kể. Trong phạm vi luận văn, chúng
tơi xin kể ra một số cơng trình tiêu biểu và có tầm ảnh hưởng lớn với hướng nghiên
cứu này. Trước hết, phải kể đến cơng trình nghiên cứu Kinh thi Việt Nam của tác giả
Trương Tửu (Trương Tửu, 2018). Ơng dùng văn hố để cắt nghĩa văn học khi lí giải
trường hợp Hồ Xuân Hương. Từ quan niệm về “tôn giáo thờ sự sinh đẻ” của Trưởng
Tửu đến quan niệm về “tín ngưỡng phồn thực” của Đỗ Lai Thuý sau này, chúng ta
thấy cùng có chung con đường khảo cứu dưới góc nhìn của một hiện tượng văn hóa
có bề dày lich sử của dân tộc và để lại dấu ấn mọi nơi ở Việt Nam ta. Nhà nghiên cứu
Đỗ Lai Thuý đã tổng kết và phát triển các ý tưởng nói trên để viết thành một cuốn
chuyên luận Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực (Đỗ Lai Th, 1999), trong đó
ơng dùng phương pháp nhân học - văn hoá học để lý giải thơ Hồ Xuân Hương. Đây
là một cơng trình khảo cứu khá cơng phu, tuy nhiên tác giả chú trọng vấn đề nghiên
cứu văn hóa học hơn là văn học.
Bên cạnh đó, theo hướng sử dụng phương pháp văn hố học, chúng ta khơng

thể khơng ghi nhận sự đóng góp của Trần Đình Hượu. Có thể nói, Trần Đình Hượu
là một trong những người đầu tiên chú ý đến khía cạnh văn hố của văn học và soi
chiếu văn học trong bối cảnh văn hoá. Trong cuốn sách Nho giáo và văn học Việt
Nam trung cận đại (Trần Đình Hượu, 1995). Trần Đình Hượu đã dùng cách khảo sát
văn hoá - lịch sử, đặc biệt là đối với Nho giáo, để giải quyết một số vấn đề của văn
học, ví dụ như có hay khơng có chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung đại; vị trí
của Nguyễn Đình Chiểu trong thơ Việt Nam mà cụ thể là thơ Nơm; hoặc có hay khơng
có chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Sau Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, trong hai cuốn sách: Nhà nho tài tử
và văn học Việt Nam (Trần Ngọc Vương, 1999) và Văn học Việt Nam dòng riêng
giữa nguồn chung (Trần Ngọc Vương, 1999), Trần Ngọc Vương đã làm một cuộc
khảo sát về mặt văn hoá đối với bức tranh văn hoá - lịch sử. Chiếm một phần rất lớn


4
trong hai cuốn sách này là phong cảnh văn hoá lịch sử thời trung đại Việt Nam, trong
đó xuất hiện loại hình nhà nho tài tử.
Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, trong cuốn Phương pháp tiếp cận văn hóa
trong nghiên cứu, giảng dạy văn học (Trần Nho Thìn, 2018) cũng ứng dụng cách tiếp
cận văn học bằng văn hoá học. Đây là cuốn sách tập hợp các bài đã được viết trong
bề dày của hành trình nghiên cứu của mình, tác giả khẳng định một cách rất có ý thức
trong phần Lời nói đầu, chúng có một điểm chung là “người viết chọn góc độ văn
hố để quan sát và giải thích các hiện tượng văn học”. Theo ơng các tác giả nghiên
cứu ngày nay đôi khi đã dùng cách giải thích hiện đại để áp đặt cho văn học thời quá
khứ, mà cụ thể là cho nền văn học trung đại Việt Nam (thời trung đại trong văn học
Việt Nam được coi là từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX), dẫn đến chỗ suy diễn chủ quan,
xa rời sự thực. Từ đó ơng đã chọn “cách tiếp cận văn hoá như một hướng đi chủ yếu
để nghiên cứu văn học Việt Nam”. Với mục tiêu trên, Trần Nho Thìn đã chọn một số
tác phẩm tiêu biểu đang được giảng dạy trong nhà trường thuộc giai đoạn văn học
trung đại để xem xét từ góc độ văn hố, trong đó có trường hợp Bạch Đằng giang

phú của Trương Hán Siêu và Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi. Với phương pháp
văn hoá học để tiếp cận đối với hai tác phẩm này, ông đã đặt ra nhiều vấn đề để giải
quyết, trong đó ơng đã đem đến cho độc giả một cách lý giải độc đáo về chữ “Đức”
và “Nhân nghĩa” ; tác giả mở ra những hướng khám phá mới mà trước đây những nhà
nghiên cứu chưa phát hiện ra thơng điệp của Nguyễn Trãi trong Bình Ngơ đại cáo và
của Trương Hán Siêu trong Bạch Đằng giang phú.
Theo dòng chảy thời gian, chúng ta thấy ngày càng nhiều các cơng trình nghiên
cứu văn học Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu những tác động và chi phối của văn hóa
được giới thiệu, nó là một minh chứng cho tính ưu việt của hướng nghiên cứu này
khi tiếp cận tác phẩm văn học.
2.2. Nghiên cứu về văn xuôi Võ Diệu Thanh
Nhà văn Võ Diệu Thanh có lối viết rất độc đáo, để lại dấu ấn đậm nét cho văn
xuôi Việt Nam đương đại. Tác giả được độc giả biết đến và yêu mến trên văn đàn từ
năm 2010, khi tập truyện ngắn Cô con gái ngỗ ngược ra đời và mang lại cho chị giải
nhì cuộc thi sáng tác Văn học tuổi 20 lần thứ tư, do Nhà xuất bản Trẻ, Hội Nhà Văn


5
Thành phố Hồ chí Minh và báo Tuổi trẻ tổ chức. Từ đó, Võ Diệu Thanh viết nhiều
và có những đột phá trong sang tác và tìm những hướng sang tạo mới, với một khối
lượng tác phẩm khá đồ sộ; trên các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, tản văn.
Gần đây nhất, tập truyện ngắn Cửa sổ hình tia chớp được rất nhiều độc giả quan tâm
và dành nhiều tình cảm ưu ái. Các tác phẩm của chị được các nhà phê bình, nhà văn
cũng như độc trên khắp cả nước quan tâm. Nhiều bài viết được đăng trên các báo uy
tín như: Thanh niên, Sài Gịn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, tạp chí Văn nghệ Qn
đội, tạp chí Sơng Hương, và trên những trang web báo mạng...
Khi tập truyện Cơ con gái ngỗ ngược trình làng, nhà văn Lê Văn Thảo không
tiếc lời ưu ái nhận xét rằng “văn học đồng bằng sông cửu long đi trước về sau, vài
thập niên gần đây phần nào khởi sắc, những giải thưởng văn thơ hằng năm được cả
nước chư ý. Tác gải Võ Diệu thanh gần như là một tác giả mới, với tập truyện ngắn

này chắc rằng sẽ để lại dấu ấn mình vào nền văn học miền tây hoang dã và cả nước.
và với phong cách dung dị nhiều màu sắc như thế này, nhà văn nữ trẻ chắc sẽ còn đi
xa”. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nhận xét: “Văn của Võ Diệu Thanh đậm nét Nam
Bộ, Lần đầu thấy trăng hay và rất đặc sắc. Chị đã biết nương thân ở “hậu phương”
của mình, nơi đó miền sơng nước Cửu Long, chính là nơi chốn sinh thành và dung
dưỡng tâm hồn của một nhà văn biết chắt lọc, thanh tẩy để đưa ngôn ngữ một vùng
miền ra ngoài một vùng miền”. Hay, “Trở lại với tập truyện ngắn Cửa sổ hình tia
chớp, Võ Diệu Thanh cho thấy mình vẫn là một trong những nhà văn nữ có sức viết
mạnh mẽ nhất hiện nay. Những con người dung dị ở miền Tây hiện rõ nét trên từng
trang viết: một cô giáo tỉnh lẻ lo sợ trộm ở dãy nhà công vụ, một phụ nữ bị nhục hình
thời chiến bước vào thời bình với nỗi đau khơng nói nên lời, một người đàn ơng tự
nhận là Khmer đỏ có gia đình chín người đều thiệt mạng… hàng loạt thân phận lạc
lõng giữa những dịng sơng, những chuyến phà, trôi qua vô số mất mát cuộc đời chỉ
để tìm kiếm sự bình yên. Miền Tây của Võ Diệu Thanh là một miền Tây rất khác”
(Lời giới thiệu tập Cửa sổ hình tia chớp, Nxb Hội Nhà văn, 2018, tr. Bìa). Đặc biệt,
nhà văn nổi tiếng miền Tây Nguyễn Ngọc Tư có lời bình Cửa sổ hình tia chớp của
Võ Diệu Thanh: “Câu văn ngắn, sắc ngọn như nhát dao. Trần trụi, bạo liệt mà lại sâu
lắng, trữ tình”.


6
Bên cành đó, nhiều bài báo có giá trị khoa học thể hiện niềm yêu mến và tâm
huyết của các tác giả dành cho Võ Diệu Thanh. Tiêu biểu và đáng kể nhất phải nói
đến đánh giá của Bùi Thanh Truyền trong bài báo Tình thần sinh thái của Phật giáo
trong truyện Việt Nam sau 1986 viết về loại vật, ông cho rằng: “Mại (Trở lại với
người – Võ Diệu Thanh) mất niềm tin ở tha nhân, đã quay sang ni chó, bạn bầu
cùng nghĩa khuyển. Nhân vật tìm đến với lồi vật như truy tầm căn tính tốt đẹp của
tự nhiên, nhờ tự nhiên cứu chữa vết thương lòng. Hạ bệ vị thế của con người, đề cao
vai trò của những người bạn hai chân, bốn chân trung thành, truyện như một lời cảnh
tỉnh về sự cạn kiệt của nhân tính, sự cơ đơn của con người hơm nay” (Bùi Thanh

Truyền, 2019. Tr.147). Cuối cùng, để góp thêm tiếng nói có giá trị về tác phẩm của
nhà văn, cịn có đề tài luận văn tốt nghiệp đại học Thế giới nhân vật trong tập truyện
ngắn cô con gái ngỗ ngược của Võ Diệu Thanh được thực hiện bởi Đỗ Minh Châu,
Đại Học Cần Thơ, 2011.
2.3. Nghiên cứu văn xuôi Võ Diệu Thanh từ góc độ văn hóa học
Khi tiến hành tìm hiểu sưu tầm các cơng trình nghiên cứu về văn xuôi Võ Diệu
Thanh, chúng tôi thấy rằng tuy rất nhiều tờ báo, trang mạng cũng như những lời giới
thiệu của các nhà xuất bản, lời phê bình của nhà văn rất nhiều và sâu sắc; nhưng chủ
yếu tập trung đánh giá nhận định về những giá trị của các tập sách của chị. Còn, ở
lĩnh vực nghiên cứu tác phẩm văn xi Võ Diệu Thanh về góc độ văn hóa dường như
chỉ có ít ỏi cơng trình. Trong đó, đơn cử Luận văn Thạc sĩ Văn hóa Nam Bộ trong tác
phẩm của Võ Diệu Thanh của Nguyễn Như Cẩm Thu (Đại học Văn Hiến, 2017).
Nên có thể nói rằng, những bài nhận xét, đánh giá, nghiên cứu về các sang tác
của Võ Diệu Thanh khá phong phú đa dạng, nhiều ý kiến có giá trị khoa học cao.
Tuy nhiên chưa có cơng trình nghiên cứu nào tiếp cận đề tài Văn xi của Võ Diệu
Thanh từ góc nhìn văn hóa học. Chính vì thế, chúng tơi quyết định lựa chọn này mong
muốn đi sâu tìm hiểu tác phẩm của nhà văn một cách khách quan, khoa học và hoàn
chỉnh hơn.


7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài Văn xuôi của Võ Diệu Thanh từ góc nhìn văn hóa học, chúng tơi
mong muốn làm rõ những giá trị đặc sắc và những tiếp biến trong văn hóa Nam Bộ
được thể hiện qua các tác phẩm văn xi nói chung và truyện ngắn, tiểu thuyết, tản
văn của Võ Diệu Thanh nói riêng. Từ đó, chúng ta thấy được những đóng góp mới
và kế thừa của tác giả khi viết về vùng đất Nam Bộ.
Bên cạnh đó, với tiêu chí nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc độ văn hóa,
chúng tơi dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa văn hóa và và văn học, hiểu lý thuyêt văn

hóa, các thành tố, giá trị văn hóa, luận văn đi sâu nghiên cứu văn xi Võ Diệu Thanh
dưới góc nhìn văn hóa. Từ vấn đề trung tâm, chúng tôi mở rộng các mặt biểu hiện cơ
bản của biểu tượng văn hóa trong sáng tác của Võ Diệu Thanh trong tính thống nhất
giữa nội dung và hình thức.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khi thực hiện luận văn này, chúng tơi khảo sát tồn bộ sáng tác dành cho người
lớn của Võ Diệu Thanh, trong đó tập trung trọng tâm vào 4 tập truyện ngắn, hai cuốn
tiểu thuyết, một tập tản văn. Cụ thể như sau:
- Võ Diệu Thanh. 2013. 17 cây số đường ma. TP Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
- Võ Diệu Thanh. 2016. Gạt nước mắt đi . TP Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
- Võ Diệu Thanh. 2016. Con nước say mèm. TP Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
- Võ Diệu Thanh. 2018. Cửa sổ hình tia chớp. TP Hồ Chí Minh: Nxb Phụ Nữ.
- Võ Diệu Thanh. 2014. Lần đầu thấy trăng. Hà Nội: Nxb Phụ Nữ.
- Võ Diệu Thanh. 2019. Viên đạn về trời. TP Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
- Võ Diệu Thanh. 2015. Bờ vai cho cả bờ vai. TP Hồ Chí Minh: Nxb Văn hóa
– Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp văn hóa học
Phương pháp này khơng chỉ đi tìm ảnh hưởng của văn hóa đương thời đối với
văn học, mà cịn tìm đến các truyền thơng văn hóa xa xưa của cộng đồng. Nghiên cứu
văn xi Võ Diệu Thanh dựa trên góc độ văn hóa mong muốn có được cơ hội tiếp


8
xúc, tìm hiểu diện mạo đa dạng và phong phú của văn hóa. Tuy nhiên, khi nghiên cứu
văn học bằng phương pháp văn hóa học, chúng tơi chú ý đến mối quan hệ trực tiếp
giữa văn hóa với văn học hay giữa văn hóa với kinh tế - xã hội là mối quan hệ không
thể loaị trừ lẫn nhau. Đồng thời, người nghiên cứu cần xác định chính xác các mối
liên hệ giữa hiện tượng văn học với tư tưởng và mơtíp văn hóa cụ thể.
4.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi vận dụng những hiểu biết về thi
pháp học hiện đại trong văn xuôi, ngôn ngữ học, tự sự học... kết hợp với thụ cảm
truyền thống để khảo sát và nhận định tác phẩm theo quan niệm, hiểu biết của mình.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Để thấy được những đặc điểm khác nhau và giống nhau tiêu biểu về yếu tố văn
hóa Nam Bộ trong văn xi Võ Diệu Thanh, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh,
đối chiếu tác phẩm của chị với một số nhà văn đi trước và cùng thời, từ đó khẳng định
những đóng góp của tác giả với văn học Việt Nam hiện đại.
4.4. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp thống kê, phân loại được sử dụng nhằm khảo sát các yếu tố thuộc
về nội dung và hình thức của tác phẩm và dựa vào tần suất xuất hiện của các yếu tố
đó để hệ thống và khái quát những đặc điểm nổi bật, khác biệt dưới góc nhìn văn hóa
trong văn xi Võ Diệu Thanh.
5. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình khảo sát về sáng tác của Võ Diệu Thanh từ góc nhìn văn
hố - văn học. Thực hiện đề tài, chúng tôi mong muốn mang đến một cái nhìn tồn
vẹn, đa sắc màu về văn xi Võ Diệu Thanh. Tuy nhiên, chúng tôi không tham vọng
đưa ra những kiến giải hoàn toàn mới khác với quan điểm của các nhà nghiên cứu
trước đó mà chỉ vận dụng những thành tựu đã có để đưa ra những đánh giá mang tính
chất cụ thể theo hướng nghiên cứu. Hy vọng, luận văn này sẽ đem lại cái nhìn khái
quát, đầy đủ hơn về văn xuôi của Võ Diệu Thanh. Từ đó, độc giả thấy được những
giá trị, sự vận động trong phong cách sáng tác của Võ Diệu Thanh và đặc biệt là
những bản sắc văn hóa vùng Nam Bộ trong văn chương của chị.


9
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung của luận
văn bao gồm 3 chương chính:
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC

TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VÀ NHÀ VĂN VÕ DIỆU THANH
Chương này nêu lên những khái niệm về văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa với
văn học và triển vọng nghiên cứu văn xuôi Võ Diệu Thanh từ phương pháp tiếp cận
văn hóa học. Nó sẽ là cơ sở lý luận và thực tiễn, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu ở
chương 2 và chương 3.
Chương 2: CON NGƯỜI TRONG VĂN XUÔI VÕ DIỆU THANH TỪ GĨC
NHÌN VĂN HĨA HỌC
Chương này tập trung vào làm rõ yếu tố nội dung của đề tài “văn xi của Võ
Diệu Thanh từ góc nhìn văn hóa học”, mà cụ thể là vai trị của con người văn hóa
trong mối tương quan với thế giới tự nhiện và xã hội trong văn xuôi Võ Diệu Thanh.
Bến cạnh đó, cho thấy giá trị độc đáo mang tính cách, tâm lý, đời sống tâm linh và
đặc biệt là sự nỗ lực gìn giữ, phát huy các giá trị truyền thống mang ý nghĩa nhân văn
của con người Nam Bộ.
Chương 3: BIỂU TƯỢNG VÀ NGÔN NGỮ TRONG VĂN XUÔI VÕ DIỆU
THANH TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA HỌC
Chương này đi vào làm rõ đề tài “văn xuôi của Võ Diệu Thanh từ góc nhìn văn
hóa học” ở phương diện nghệ thuật. Đó là việc tạo dựng biểu tượng nghệ thuật, sử
dụng ngơn ngữ văn hóa với nhiều cung bậc cảm xúc và triết lý đậm mùi hương thổ
của vùng đất Nam Bộ


10

Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN
VĂN HÓA HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
VÀ NHÀ VĂN VÕ DIỆU THANH
Phương pháp văn hóa học là cách thức hữu ích và có giá trị khoa học để vận
dụng trong quá trình tiếp cận đề tài. Tuy nhiên, quá trình từ lý thuyết đến thực tiễn
cần được nghiềm ngẫm lâu dài và thấu đáo. Hơn nữa, chúng tôi thấy được triển vọng
nghiên cứu văn xuôi Võ Diệu Thanh từ phương pháp tiếp cận này sẽ hứa hẹn những

đóng góp mới và có giá trị thiết thực. Do vậy, hiểu được các khái niệm thuộc lĩnh vực
văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa với văn học là một nhiệm vụ sống cịn và có tính
định hướng về lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tổng thể của luận văn.
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Văn hóa
Văn hố là một khái niệm mang tính đồng đại và lịch đại. Nó bao trùm mọi
phương diện của đời sống con người, vì thế bất kì khái niệm nào cũng khơng thể bao
qt đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi vậy, số lượng các khái niệm về văn hóa tuy
nhiều song vẫn chưa phải là đích đến cuối cùng. Hơn nữa, mỗi khái niệm chỉ đề cập
và nhấn mạnh một vài phương diện nào đó của văn hóa phù hợp với mục đích nghiên
cứu nhất định. Sự phong phú của các khái niệm về văn hóa phản ánh những hướng
quan tâm khác nhau. Trong đời sống tự nhiên và xã hội của con người, văn hóa tồn
tại dưới nhiều dạng thức khác nhau, do đó xác định thuật ngữ văn hóa thật khơng đơn
giản. Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là vì khái niệm
văn hóa được dùng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực xã hội. Văn hóa được sử dụng trong
những tình huống có nội hàm khơng giống nhau. Chẳng hạn, văn hóa được dùng để
chỉ trình độ học vấn; văn hóa để chỉ một lối sống… Hiểu theo nghĩa chuyên biệt, văn
hóa để chỉ những thành tựu của con người liên quan đến mọi mặt về vật chất và tinh
thần theo lát cắt đồng đại nhất định trong lịch sử dân tộc từ Đông sang Tây.
Cuốn Cơ sở văn hóa VIỆT NAM do Trần Quốc Vượng (chủ biên) đã viết:
“Ở phương Đông, từ văn hố đã có trong đời sống ngơn ngữ từ rất sớm.
Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hố: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà


11
giáo hoá thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hoá thành thiên hạ). Người sử dụng từ
văn hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77 - 6 trước công nguyên), thời Tây
Hán với nghĩa như một phương thức giáo hoá con người - văn trị giáo hoá. (…).
Vây chữ cultus là văn hố với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên,
khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ khơng cịn

là con vật tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp” (Trần Quốc Vượng,
2018, tr.16).

Theo Phan Ngọc, tính đến nay trên thế giới có khoảng hơn 400 định nghĩa về
văn hóa. Do, mỗi nhà nghiên cứu xuất phát từ mục đích và phương pháp nghiên cứu
của mình đều có quyền đưa ra một định nghĩa thích hợp. Dựa trên vấn đề đó, chúng
tơi xin phép điểm qua một số định nghĩa về văn hóa tiêu biểu.
E. B. Taylor (1832-1917), nhà nhân học văn hóa người Anh là người đầu tiên
đưa ra một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong cơng trình Primitive culture
(Văn hóa ngun thủy). Theo ơng “văn hóa” là “một tổng thể phức hợp bao gồm
kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả
năng và thói quen mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội”
(Chu Xuân Diên, 2004, tr.251).
Trần Ngọc Thêm trong cuốn Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng,
đã nêu định nghĩa văn hố năm 1991 như sau: “VĂN HỐ là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt
dộng thực tiễn trong sự tương tác với mơi trường tự nhiên và xã hội của mình (Trần
Ngọc Thêm 1991, tr.6). Tác giả đã bổ sung hoàn chỉnh từ định nghĩa năm 1991: “Văn
hóa là một hệ thống giá trị mang tính biểu tượng do con người sáng tạo và tích lũy
qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã
hội của mình” (Trần Ngọc Thêm, 2014, tr.56).
Trong cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam Phan Ngọc cho rằng:
“Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay
một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người
này mơ hình hóa theo cái mơ hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ
nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu


12
hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu

lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác” ( Phan Ngọc, 2018, tr.19).

Trong tun bố về những chính sách văn hóa, UNESCO định nghĩa:
“Văn hố hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người
trong xã hội. Văn hố bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những
quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những
tín ngưỡng”: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, có lí
tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con
người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa
hồn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết
mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những cơng trình vượt trội lên bản
thân”, (dẫn theo Trần Quốc Vượng, 2018, tr.23).

Hồ Chủ tịch cũng đã từng tổng hợp những thành tố về văn hóa như sau: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa” (Hồ Chí Minh tồn tập, 2000, tr.431).
Nói tới văn hố khơng thể khơng nhắc đến vấn đề “Bản sắc văn hoá”, tức là cái
tinh hoa, cái cốt lõi của văn hố trong q trình phát triển của lịch sử. Văn hoá là sản
phẩm, giá trị mà cá nhân và cộng đồng sáng tạo thành, nó thể hiện màu sắc và diện
mạo của cá nhân và cộng đồng từng dân tộc. Vì thế Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
từng nói: “Văn hố là sợi chỉ đỏ xun suốt tồn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên
sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và
thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn
mạmh”, (dẫn theo Báo điện tử Đại biểu và Nhân dân, 2006). Dân tộc Việt Nam ta từ
xưa đến nay vốn có một truyền thống văn hố lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong
cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam, Phan Ngọc viết: “Nói đến bản sắc văn hóa là nói
đến cái mặt bất biến của văn hóa trong q trình phát triển của lịch sử” (Phan Ngọc,

2018, tr.34).


13
Cùng nói về khái niệm “Bản sắc văn hố”, Ngơ Đức Thịnh cho là “Một tổng
thể các đặc trưng của văn hố, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình
lịch sử của dân tộc, các đặc trưng văn hố ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu
tượng và tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết nó phải thơng qua vơ vàn các sắc thái văn
hố, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hoá ấy” (Ngơ Đức Thịnh, 2014,
tr.31). Cũng ở khía cạnh này, Dương Phú Hiệp (chủ biên) trong cuốn Cơ sở lí luận
và phương pháp luận nghiên cứu văn hoá và con người Việt Nam cho rằng: “Bản sắc
riêng của mỗi nền/dạng/kiểu văn hoá thường được biểu hiện là những nét đặc thù và
độc đáo thể hiện trong các hiện tượng văn hoá hoặc các sản phẩm của văn hoá, quy
định bộ mặt của mỗi nền văn hoá” (Dương Phú Hiệp, 2012, tr.40). Vậy, chúng ta có
thể hiểu khái quát rằng bản sắc văn hố là những gì tinh hoa, bền vững của một nền
văn hố. Nó mang ý nghĩa chỉ cái cốt lõi, chỉ những đặc trưng riêng của một cộng
đồng văn hóa và là yếu tố cơ bản để phân biệt giữa một nền văn hoá này với một nền
văn hố khác. Vì thế, dấu ấn bản sắc văn hố của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền sẽ được
hiển hiện trong mọi sinh hoạt văn hoá của cộng đồng, trong đó có văn học.
Tóm lại, tuy có nhiều khái niệm về văn hố nhưng chung quy lại văn hố có
những đặc điểm cơ bản sau: Văn hoá là một hoạt động sáng tạo, mang tính lịch sử chỉ
riêng con người mới có. Hoạt động sáng tạo đó bao trùm mọi ứng xử của con người
với nhau và của con người với tự nhiên - xã hội, thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời
sống: đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần. Những hoạt động sáng
tạo đó đã đạt được thành tựu của các giá trị văn hoá, được bảo tồn và khai thác phát
huy từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục (hiểu theo nghĩa rộng).
Văn hoá là thể hiện của mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại,
tạo ra một kiểu lựa chọn riêng của tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác,
một cá nhân khác, tạo thành những nhân cách văn hoá (cá nhân), những nền văn hoá
khác nhau (cộng đồng).

Dù hiểu theo cách nào, văn hoá cũng đều là thành quả, là sản phẩm độc đáo của
quá trình lịch sử do cá nhân và cộng đồng người tạo nên. Trong phạm vi vấn đề được
đề cập trong luận văn này, chúng tôi nghiêng về cách hiểu theo cách tiếp cận phương
pháp hệ thống - loại hình cùng định nghĩa của Trần Ngọc Thêm, và văn hoá gắn liền


14
với bản sắc văn hoá theo định nghĩa của Phan Ngọc và của UNESCO. Dĩ nhiên, định
nghĩa về văn hóa là tiền đề để chúng ta tiếp cận khái niêm văn hóa học.
1.1.2. Văn hóa học
Văn hóa học là một khoa học liên ngành, nghiên cứu văn hóa nói chung, vừa
nghiên cứu các hiện tượng văn hóa riêng biệt, nhằm làm sáng rõ những vấn đề có tính
quy luật về sự hình thành, biến đổi và phát triển của văn hóa của cá nhân hay cộng
đồng người nhất định. Từ khởi thủy, lồi người chúng ta đã ln ý thức cao độ về sự
khám phá thế giới tự nhiên, xã hơi và chính mình nhằm mục đích chắt lọc những giá
trị hữu ích để phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của con người. Do vậy, có
bao nhiêu lĩnh vực trong tự nhiên và xã hội thì có bấy nhiêu ngành khoa học nghiên
cứu. Trên quan điểm đó, văn hóa hiển nhiên cũng là một lĩnh vực đã thu hút rất nhiều
nhà khoa học xã hội từ Đông sang Tây và từ cổ điển đến hiện đại dày cơng nghiên
cứu khám phá.
Ở phương diện tìm hiểu nghiên cứu, văn hóa học có cách khảo sát đặc thù riêng,
đối tượng hướng tới hoàn toàn khác với các bộ mơn khoa học xã hội khác, văn hóa
học đi theo con đường thực chứng cho những giá trị mà nhân loại đã sáng tạo. Theo
A. Ia. Phlier: Văn hoá học là khoa học hình thành trên vùng tiếp giáp của các tri thức
xã hội và nhân văn về con người và xã hội, nghiên cứu văn hoá như một chỉnh thể
toàn vẹn, như một chức năng đặc biệt và như tính tình thái của tồn tại con người (dẫn
theo Từ Thị Loan, 2008). Trong số rất nhiều nhà văn hóa học ở Việt Nam, chúng ta
phải kể đến những nhà khoa học có tên tuổi như Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm,
Phan Ngọc … họ đã mang đến cho ngành nghiên cứu văn hóa học những con đường
có giá trị trong ứng dụng.

Về khía cạnh hình thành, nếu như văn hóa ra đời cùng với sự hình thành của
lịch sử lồi người (khi con người biết sử dụng cơng cụ lao động, phát minh ra lửa, có
bước tiến mới trong phương thức sản xuất…) khi con người tiến hóa đến một nấc
thang ổn định có trí khơn, có tư duy, thì văn hóa học với tư cách là một ngành khoa
học ra đời muộn hơn. Thuật ngữ văn hóa học (culturology) xuất hiện khá sớm nhưng
đến khi cơng trình The Science of Culture của L.Weiter được xuất bản, thì thuật ngữ
này mới bắt đầu được phổ biến. Văn hóa học ra đời như một cơng cụ hữu ích trong


15
nghiên cứu văn hóa, với phương pháp tiếp cận mang tính tổng hợp mà đặc trưng của
nó là phương pháp tiếp cận liên ngành; nhờ thế, văn hóa học có khả năng nghiên cứu
văn hóa một cách tồn diện hơn, sâu sắc và khách quan hơn.
Tóm lại, văn hóa học là khoa học ra đời trên đường ranh tiếp giáp của các tri
thức xã hội và nhân học xã hội, nghiên cứu văn hố như một hệ thống tồn vẹn, như
hình thái của tồn tại con người. Nghiên cứu văn hóa nói chung và các hiện tượng văn
hóa riêng biệt, văn hóa học có tham vọng nghiên cứu văn hóa trong bản chất cũng
như trong toàn bộ các biểu hiện của nó, bao gồm cả lý thuyết và lịch sử văn hóa. Văn
hóa học gần với xã hội học văn hóa, triết học, lịch sử, ngơn ngữ học, khảo cổ học,
dân tộc học, tôn giáo học… và nhiều môn khoa học khác nghiên cứu về những mặt
khác nhau trong tồn tại của con người và xã hội, nhằm tạo nên cơ sở lý thuyết chung,
tìm ra những quy luật tổng quát sự hình thành, phát triển và vận hành của văn hóa.
Văn hóa học quan tâm đến nghiên cứu bản chất của văn hóa, trả lời câu hỏi văn hóa
là gì và đi vào giải quyết các phạm trù cơ bản của văn hóa. Khoa học này nghiên cứu
các bộ phận cấu thành nên nền văn hóa, các hình thái tồn tại của văn hóa, chức năng
của văn hóa. Văn hóa học cịn nghiên cứu các quy luật tồn tại và phát triển của văn
hóa, tìm ra những quy luật tổng quát về sự hình thành, phát triển và vận hành của văn
hóa, miêu tả q trình biến đổi của nền văn hóa nói chung, cũng như lịch sử của nó.
1.1.3. Phương pháp nghiên cứu văn hóa học
Gần đây, sự xuất hiện phổ biến thuật ngữ văn hoá học với nghĩa là khoa học

nghiên cứu về văn hoá, hơn nữa người ta cịn nói đến sự “bùng nổ” văn hố học ở
đầu thế kỷ XXI. Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, ở Việt Nam cũng như
trên thế giới, người ta ngày càng chú trọng đến vai trò của văn hoá trong sự phát triển
của xã hội con người. Văn hóa song song tồn tại với con người. Theo nhiều quan
niệm có sức ảnh hưởng lớn hiện nay thì văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Đây là một khái niệm rất
phức tạp, có rất nhiều định nghĩa khác nhau tùy theo mục đích của người nghiên cứu
muốn hướng tới phương diện nào. Có thể tiếp cận văn hóa từ nhiều góc độ của một
hệ thống văn học, tôn giáo, đạo đức, nhân học, khảo cổ, lại có thể nhìn văn hóa từ


16
góc độ dân tộc hoặc nhân chủng tộc... Nhìn chung, phương pháp văn hóa học có ưu
thế trong ứng dụng nghiên cứu các loại hình nghệ thuật trong đó có văn học.
Thời gian qua, giới nghiên cứu nhận ra được vai trị của văn hố rất quan trọng
trong tiếp cận văn học, đến việc vận dụng các quan điểm và thành tựu văn hoá để giải
mã văn học. Xu hướng này mới xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XX và cho đến nay
đang được hưởng ứng rộng rãi. Người có cơng đầu trong việc khởi xướng cho xu
hướng tiếp cận văn học bằng văn hoá học là Mikhail M. Bakhtin, giáo sư văn học
người Nga thuộc Đại học Saransk.
M. Bakhtin quan niệm: Trước hết khoa học nghiên cứu văn học cần phải gắn
bó chặt chẽ với lịch sử văn hố. Khơng thể hiểu nó ngồi cái bối cảnh [kontekst]
ngun vẹn của tồn bộ văn hố một thời đại trong đó nó tồn tại. Khơng được tách
nó khỏi các bộ phận khác của văn hố, cũng như khơng được như người ta vẫn làm,
và trực tiếp gắn bó với các nhân tố xã hội - kinh tế, vượt qua đầu văn hoá. Những
nhân tố xã hội - xã hội tác động tới tồn bộ văn hố nói chung, và chỉ thơng qua văn
hố, mới tác động được tới văn học. (dẫn theo Vương Trí Nhàn, 2014). Với quan
điểm này văn hóa được đặt đúng vị trí xứng đáng của nó. Năm 1940 ơng đã viết một
cơng trình để rồi đến 1965 (sau 25 năm) mới được xuất bản đó là cơng trình: “Sáng
tác của Francois Rabelais với văn hố dân gian thời Trung đại và Phục hưng”. Và

ông dùng văn hoá để lý giải tác phẩm, do vậy chúng ta nhận thấy ở đây ơng đã dùng
phương pháp văn hố học. Nguyên tắc của phương pháp này là đi tìm ảnh hưởng
khơng chỉ của văn hố đương thời đối với văn học, mà còn truy nguyên đến cả các
truyền thống văn hoá xa xưa của cộng đồng.
Ở Việt Nam, phương pháp văn hoá học trong lĩnh vực nghiên cứu văn học hiện
đại trong những năm gần đây có sự phát triển mạnh. Có thể nêu dẫn một số nhà nghiên
cứu đi theo hướng này và đã mang lại những thành cơng cho cơng trình của họ như:
Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai Thúy, Trần Nho Thìn, Trần Lê Bảo…
Theo Phùng Phương Nga trong bài báo “Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa –
một số xu hướng chính ở việt nam” trên Tạp chí Khoa học & Cơng nghệ: “Nghiên
cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ở Việt Nam không phải là vấn đề của đương đại, mà
thực tế đã được nhiều nhà nghiên cứu văn học triển khai, vận dụng, trong đó có hai


17
xu hướng chính: nghiên cứu tự nghiệm và giới thiệu, nghiên cứu trên nền tảng lý
thuyết phương Tây” (Phùng Phương Nga, 2018, tr.3-4).
Văn hóa có tầm ảnh hưởng rất rộng. Mọi lĩnh vực nghệ thuật đều mang tồn bộ
hình bóng của đời sống văn hóa. Trong đó, đối với văn chương nghệ thuật, nền tảng
của văn hóa có vai trị rất lớn mà văn học đã kết tinh những giá trị bất hủ trong lịch
sử văn hóa mang lại: “Có thể nói, cách tiếp cận văn học bằng con đường văn hóa đã
cung cấp thêm một con đường mới để đến với văn học. Đây là một con đường đặc
sắc nhưng cũng rất phức tạp, bởi lẽ văn hóa là nơi hội tụ của mọi ý tưởng sáng tạo
của con người. Việc lựa chọn yếu tố văn hóa nào để lý giải cho văn học sẽ là một việc
làm không dễ chút nào. Điều quan trọng là phải lý giải được động cơ và mục đích
cuối cùng của sự lựa chọn các mơtíp văn hóa của văn học” (Nguyễn Văn Dân, 2012).
Tóm lại, phương pháp văn hóa học là một con đường đặc sắc, lí thú nhưng cũng
rất phức tạp, bởi lẽ văn hoá là nơi hội tụ của mọi ý tưởng sáng tạo của con người.
Chúng ta có thể khái quát ở những đặc điểm sau:
- Phương pháp đọc tác phẩm văn học từ góc độ văn hóa học (gọi tắt là phương

pháp văn hóa học) lấy con người làm trung tâm để xây dựng hệ thống vấn đề miêu tả
tác phẩm. Thành thử, đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận
dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác
phẩm.
- Phương pháp văn hóa học thực chất là phương pháp tiếp cận liên ngành, nơi
yêu cầu vận dụng tổng hợp tri thức về lịch sử, tôn giáo, khảo cổ học, nhân loại học,
… để giải mã các hiện tượng thi pháp tác phẩm văn học.
- Tiếp cận bằng phương pháp văn hóa học khơng phải là một cái gì khác biệt
tuyệt đối so với các hướng tiếp cận khác. Sự giao thoa, sự gặp gỡ với các cách tiếp
cận đã có trong thế kỉ XX là một điều tất yếu. Tuy nhiên, phương pháp văn hóa học
là một kiểu tiếp cận chắt lọc và có những đặc điểm riêng biệt.
- Tiếp cận theo phương pháp văn hóa học khơng chủ trương miêu tả thế giới
nghệ thuật của tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà cịn có nhiệm
vụ đối chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm
được sản sinh để tìm nguồn gốc của các dạng thức quan niệm về con người, về không


18
gian, thời gian trong tác phẩm. Một hình tượng hay một thủ pháp nghệ thuật sở dĩ hấp
dẫn, có sức thuyết phục vì nó tìm được sự chia sẻ, đồng cảm của những người cùng
một nền văn hóa.
Từ việc nêu ra những cơng trình, thành tựu, triển vọng của phương pháp tiếp
cận văn hóa học, chúng tơi ý thức rằng nó như là một cơng cụ lý thuyết cơ bản để áp
dụng vào tiếp cận văn xuôi Võ Diệu Thanh nhìn từ góc độ văn hóa học. Trong q
trình vận dụng phương pháp văn hóa học để nghiên cứu văn học, người nghiên cứu
cần nắm vững mối quan hệ giữa văn hóa và văn học.
1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Văn hóa và văn học có sự kết gắn chặt chẽ, sâu đậm và không thể tách rời. Văn
học là sự tự ý thức như một bộ phận của văn hóa. Văn học khơng những chịu sự chi
phối và ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà cịn là một trong những yếu tố bảo lưu

văn hóa, sáng tạo ra những giá trị độc đáo bổ sung thêm sự đa dạng và nhiều màu sắc
cho văn hóa. Trong một hệ thống cấu trúc gồm nhiều yếu tố có khi văn học giữ vị trí
trung tâm, là cầu nối của nhiều yếu tố còn lại, do vậy văn học có tiếng nói riêng của
mình, nhiều lúc trượt khỏi khn khổ thơng thường của hệ thống và đó là nguyên cớ
tạo sự tiếp biến cho giá trị của văn hóa; vì vạn vật trong thế giới mn hình này không
đứng yên mà luôn vận động không ngừng theo không gian và thời gian, có những cái
trong thời đại này là chân lý thì trong thời đại khác lại là phi lý. Có thể nêu lý do rằng,
có một thời gian chúng ta cũng đã từng quan niệm giữ văn hóa và văn học là quan hệ
ngang bằng, nhưng khi định nghĩa của UNESCO về văn hóa được đưa ra thì chúng
ta lại có ý thức nhìn lại mối quan hệ này.
Trong Từ điển 150 thuật ngữ văn học, đã khái quát: Văn học là nghệ thuật ngôn
từ, một trong số các loại hình nghệ thuật, lấy chất liệu là các ngôn ngữ tự nhiên của
các tộc người sống trên trái đất, văn học thường được xếp trước hết vào nhóm trứ
thuật, thư tịch. Văn học được xem như một trong số các hình thái chiếm lĩnh thế giới
bằng nghệ thuật; văn học gắn với kiểu hình tượng “phi vật thể” (nhận xét của Lessing
); ngôn từ, chất liệu đặc thù của văn học; bằng ngơn từ văn học có thể nắm bắt thực
tại trong mọi khía cạnh, mọi biểu hiện, từ trực quan cảm tính đến tri giác lý tính; đối
tượng của văn học - cũng như của mọi loại hình nghệ thuật - là thế giới con người,


19
các quan hệ đa dạng của con người với thực tại, được nhìn từ giác độ con người. Tuy
nhiên, ở văn học, con người chủ yếu hiện diện như là “người - nói”, “con người với
lời nói của nó” (Bakhtin). Văn học là đối tượng khảo sát của chuyên ngành nghiên
cứu văn học với các bộ môn chuyên sâu của nó. Tiến trình văn học đương thời là đối
tượng chủ yếu của phê bình văn học. (Lại Nguyên Ân, 2017, tr.479-484). Theo tinh
thần trên, cùng với những khái niệm về văn hóa, văn hóa học, chúng tơi xin nêu lên
một vài ý kiến về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học.
1.2.1. Quan hệ tương đồng
Trước hết, trong phạm vi luận văn, chúng tôi xin nêu ra một vài đặc điểm giống

nhau giữa văn hóa và văn học, mà theo chúng tơi nó cần thiết cho việc giải quyết đề
tài. Trong mối quan hệ giữa văn hóa và văn học có nhiều điểm giống nhau, điểm
giống nhau này dựa trên sự ý thức của văn học là một yếu tố trong hệ thống văn hóa.
Và về mặt giá trị, chức năng của văn học có nhiều điểm trùng khít với văn hóa. Văn
học là sản phẩm sáng tạo của con người về mặt tinh thần, nó có giá trị thanh lọc và
giáo hóa, cảnh tỉnh con người hướng con người đến những giá trị chân – thiện – mỹ.
Thêm vào đó, nếu văn hóa có tính biểu tượng thì văn học biểu tượng là yếu tố quan
trọng làm nên ý nghĩa hàm ẩn của nó. Hơn nữa, khi văn học sáng tạo ra những giá trị
nhân văn cao cả, nó lại phả vào nền văn hóa những giá trị thiết yếu cho văn hóa. Có
lúc, văn học lại mượn những giá trị, biểu tượng của văn hóa để làm giàu cho ý tưởng
sáng tạo văn học, làm cho sáng tác văn học chắt lọc được những tinh hoa, bản sắc văn
hóa để phục vụ cho mục đích mỹ hóa tâm hồn con người.
Trong bài viết “văn học và văn hoá truyền thống” Huỳnh Như Phương cho rằng:
“Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tơn giáo, đạo đức, phong
tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá
thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là
hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để có được
những thành quả quả đó, văn hố của một dân tộc cũng như của toàn thể
nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và
sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con
đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có


×