Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Xã hội học pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.48 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Xã hội học pháp luật</b>



Chúng ta sẽ nghiên cứu một chuyên ngành mới của xã hội học, đó là xã hội học pháp luật. Xã hội
học pháp luật là một chuyên ngành nghiên cứu pháp luật dưới góc độ xã hội học tức là chúng ta
xem xét pháp luật trong tổng thể các mối quan hệ pháp luật để thấy được quá trình hình thành
của pháp luật, để thấy được tính hiệu lực của pháp luật đối với xã hội, để thấy được sự phản ánh
của pháp luật đối với pháp luật (tích cực hoặc tiêu cực).


Trong quá trình nghiên cứu bài này thì chúng ta sẽ nghiên cứu pháp luật nói chung và pháp luật
Việt Nam nói riêng. Cịn cụ thể các ngành luật thì chúng ta hiện thời khơng nghiên cứu mà để
phần việc đó cho chuyên ngành luật.


<b>1. Cơ sở hình thành xã hội học pháp luật</b>



Như chúng ta đã biết pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước. Lúc đó, xã hội có sự phân
chia giai cấp, giai cấp thống trị nắm vai trò quản lý nhà nước.


K.Marx và F.Engels đã cho rằng sự hình thành của pháp luật là kết quả của hoạt động có ý chí,
có ý thức của giai cấp xây dựng pháp luật. Pháp luật ra đời là do ý chí của giai cấp thống trị, các
giai đoạn của pháp luật là do ý chí của giai cấp thống trị. Ví dụ: Trong xã hội phong kiến (Việt
Nam, Trung Quốc và một số nước khác), để bảo vệ nhà vua cùng dịng họ của mình và triều thần
thì chế độ phong kiến có những quy định như vua và một số triều thần cao cấp cùng gia tộc được
miễn trừ pháp luật, miễn tội chết. Các chế độ hình phạt đều có sự phân biệt bất bình đẳng giữa
vua và dân thường.


K.Marx và F.Engels coi pháp luật thuộc loại các hiện tượng chủ quan của sự phát triển xã hội. Ở
đây, các ông đã xác định rằng hoạt động có ý chí, có ý thức của giai cấp thống trị trong từng
trường hợp cụ thể được quyết định bởi các điều kiện hay kết quả của đời sống xã hội đó. Khơng
thể hiểu sự phát triển các hình thức nhà nước, các quan hệ chính trị và pháp luật từ chính nó,
cũng như từ chính sự phát triển chung của tinh thần con người, sự phát triển đó có nguồn gốc sâu
xa trong các điều kiện vật chất của đời sống xã hội trong sự phát triển của các quan hệ kinh tế.


Khi tồn tại trong một xã hội vận động và phát triển, các giai cấp thống trị khơng thể tự mình đặt
ra các luật lệ mà muốn cho các luật lệ đặt ra được tồn tại và có hiệu lực thì các luật lệ đó phải
dựa trên cơ sở các quan hệ trong xã hội, nhất là các quan hệ kinh tế. Ví dụ: Khi người nông dân
bỏ công ra để sản xuất ra những sản phẩm, nếu giai cấp thống trị mà khơng cho họ bán sản phẩm
của mình thì quy định đó khơng phù hợp với điều kiện khách quan, nó sẽ dẫn đến những tiêu
cực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Như vậy, các quan hệ kinh tế, vật chất của từng xã hội đó sinh ra hệ thống pháp luật tương ứng
với nó. Tuy vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng cho rằng các quan hệ vật
chất, các quan hệ kinh tế không trực tiếp sinh ra pháp luật mà các quan hệ pháp luật tương ứng
với các quan hệ vật chất và quan hệ kinh tế đó được trung chuyển bằng cách này hay cách khác
khi chúng được thể hiện trong lợi ích của giai cấp nhất định.


Theo học thuyết Mác - Lênin, các nhu cầu cơ bản của đại bộ phận dân cư, suy cho cùng do các
quan hệ sản xuất trong quá trình sản xuất quyết định là những nguyên nhân thúc đẩy cơ bản hoạt
động có ý thức của họ. Các nhu cầu và lợi ích tồn tại một cách khách quan đa dạng đó được phản
ánh trong ý thức của các giai cấp, các nhóm xã hội, của các cá nhân. Chúng tác động đến ý thức
của họ và suy cho cùng quyết định ý chí của họ, chính ở đó quyết định khách quan quá trình hình
thành ý thức và thể hiện ý chí của con người.


Nguồn trực tiếp của các hoạt động của ý chí của con người là các nhu cầu, lợi ích đã được ý thức
dưới dạng động cơ thúc đẩy sự thể hiện ý chí ra bên ngồi trong hoạt động sống của họ. Do đó,
hoạt động đưa ý chí của giai cấp thống trị lên thành luật là một q trình nhận thức các lợi ích
nhất định của giai cấp đó.


Bởi vậy, khía cạnh ý chí có ý nghĩa rất to lớn đối với việc giải thích vấn đề bản chất của pháp
luật: Chính trong hoạt động có ý chí hướng đến việc xây dựng các quy phạm pháp luật lợi ích tồn
tại một cách khách quan đã được nhận thức của giai cấp thống trị được phản ánh một cách trực
tiếp.



Để bảo vệ lợi ích nhất định cần phải nhận thức được lợi ích đó. Do vậy có thể và cần phải coi
trọng tồn bộ hệ thống pháp luật thực định như là sản phẩm của ý thức. Không phải ý thức con
người làm cơ sở cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ tồn tại (ý thức không quyết định nội dung
của pháp luật) mà ý thức là hình thức tiếp nhận sự phản ánh lợi ích đó trong đầu của con người
được quyết định bởi trạng thái ý thức xã hội (tâm lý xã hội) trong thời đại đó. Nếu khơng tiếp
nhận sự lĩnh hội trạng thái ý thức xã hội thì chúng ta hồn tồn khơng thể giải thích cho chính
mình về lịch sử pháp luật.


Ý chí giai cấp tự mình khơng sinh ra pháp luật, chính nó đã tự bị quyết định bởi ngun nhân
khác. Chính vì vậy cần phải làm sáng tỏ cái nguồn trực tiếp hình thành ý chí xây dựng pháp luật
của giai cấp thống trị. Về vấn đề này, K.Marx và F.Engels viết: “Những quan hệ hiện thực đó
hồn tồn khơng phải do chính quyền lực nhà nước tạo ra mà ngược lại chính những quan hệ đó
là lực lượng tạo ra chính quyền lực nhà nước. Khơng kể cái điều kiện là những cá nhân thống trị
trong điều kiện có những quan hệ đó phải tổ chức quyền lực của mình dưới hình thức nhà nước
họ phải mang lại cho ý chí của mình, cái ý chí do các quan hệ nhất định đó quyết định, một biểu
hiện chung dưới hình thức ý chí của nhà nước, dưới hình thức luật, một biểu hiện mà nơng dân,
lực lượng bị những quan hệ giai cấp đó quyết định... biểu hiện của ý chí ấy, cái ý chí do lợi ích
chung của họ quyết định là luật”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cá nhân tồn tại một cách khách quan. Phạm trù lợi ích thể hiện với tư cách là nhân tố liên kết một
cách khách quan giữa ý chí và các điều kiện vật chất bởi vì lợi ích thể hiện trực tiếp địa vị vật
chất và địa vị xã hội của các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong xã hội.


Từ đây có thể khẳng định rằng ý chí của giai cấp đã được đưa lên thành luật được quyết định bởi
lợi ích tồn tại một cách khách quan đó khi đã được nhận thức trở thành cơ sở hình thành ý chí lập
pháp chung của giai cấp đó. Như vậy, ý chí là sự thể hiện của các lợi ích khách quan của giai cấp
thống trị, là kết quả của sự phản ánh có ý thức các lợi ích đó trong pháp luật. Do vậy, trong
thượng tầng pháp lý ý nghĩa của lợi ích khơng chỉ thể hiện ở chỗ là các lợi ích nhất định của giai
cấp là khách thể được pháp luật bảo vệ nói chung và của việc thực hiện quyền chủ thể nói riêng,
mà cịn ở chỗ các lợi ích đó quyết định ý chí giai cấp, ý chí xã hội, ý chí nhà nước, trong đó có


pháp luật.


Tuy nhiên, khi đề cập đến pháp luật tư sản K.Marx và F.Engels viết: “Pháp luật của các ơng chỉ
là ý chí của giai cấp các ông được đưa lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Như vậy, pháp luật tư sản chỉ là sự thể hiện
những ý chí, tư tưởng của lợi ích của giai cấp tư sản mà quên đi những điều kiện lợi ích khách
quan của xã hội làm cho cán cân phát triển của xã hội lệch đi một hướng đó là phát triển chủ
nghĩa bóc lột, phát triển của giai cấp tư sản.


Ví dụ: Pháp luật tư sản dùng từ “khách quan”, “cạnh tranh ngang nhau” để nói về sự xâm nhập,
giành nhau thương trường và điều này, tất nhiên những tập đoàn tư sản sẽ dễ dàng bóp chết các
cơ sở sản xuất nhỏ.


Tóm lại, cơ sở của việc hình thành pháp luật là:


 Sự hình thành pháp luật ban đầu từ những nhu cầu cơ bản của đại bộ phận dân cư, suy cho cùng


là do các quan hệ sản xuất trong quá trình sản xuất quyết định, là những nguyên nhân thúc đẩy
hoạt động có ý thức của giai cấp xây dựng pháp luật. Các nhu cầu và lợi ích tồn tại một cách
khách quan đa dạng đó được phản ánh trong ý thức của các giai cấp, của các nhóm xã hội, của
các cá nhân. Chúng tác động đến ý thức của họ xác định quá trình hình thành ý thức và sự thể
hiện ý chí của con người.


 Ý thức không quyết định nội dung pháp luật mà ý thức là hình thức tiếp nhận, sự phản ánh nhận


thức đó trong đầu của con người.


 Ý thức giai cấp tự mình khơng sinh ra pháp luật, mà chính nó bị quyết định bởi nguyên nhân


khác, đó là các quan hệ hiện thực khách quan.



 Biểu hiện của ý chí ấy, cái ý chí do lợi ích chung của họ quyết định là luật.


 Pháp luật được giai cấp thống trị sử dụng để khẳng định và bảo vệ các quan hệ xã hội phù hợp


với lợi ích cơ bản của giai cấp.


<b>2. Khái niệm xã hội học pháp luật</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Cũng như nhiều chuyên ngành khác của xã hội học, như xã hội học nông thôn, đô thị, gia đình...
thì xã hội học pháp luật cũng là một lĩnh vực chuyên biệt của xã hội học.


Ví dụ: Xã hội học nông thôn nghiên cứu những con người trong cộng đồng làng xã thì xã hội học
pháp luật nghiên cứu con người hoặc các nhóm người trong việc áp dụng, tuân theo pháp luật khi
xử sự trong xã hội.


Một bạn sinh viên trong lớp, nếu xét ở góc độ gia đình thì chúng ta xem xét bạn ấy là con thứ
mấy trong gia đình, bạn đã làm gì giúp đỡ gia đình chưa... cịn nếu xét bạn ấy ở góc độ xã hội
học pháp luật thì ta xét bạn ấy đã thành niên, được quyền đăng ký kết hơn, có phải thực hiện
nghĩa vụ qn sự khơng? Và có thể nhân rộng ra là các nhóm bạn.


 Xã hội học pháp luật nghiên cứu bản chất, chức năng và cơ chế hoạt động của pháp luật các vấn


đề này đều có mối liên hệ mật thiết với bản chất của nhà nước. Bản chất của nhà nước quyết định
bản chất của pháp luật. Nhưng xã hội học pháp luật không làm công tác nghiên cứu cụ thể bản
chất của pháp luật mà công việc này là của các ngành luật học. Xã hội học pháp luật chỉ nghiên
cứu bản chất pháp luật trong mối liên hệ với xã hội.


 Hiệu quả của tư pháp tức là hiệu lực thực tế của pháp luật trong xã hội, tức là sự phản hồi của



người dân đối với công tác quản lý của giai cấp thống trị. Đồng thời, nó cũng đánh giá năng lực
quản lý, năng lực lãnh đạo của giai cấp thống trị. Hiệu quả khi không đạt được như mong muốn
thì nó sẽ đem lại nhiều hậu quả tiêu cực như làm mất lòng tin, làm mất sự quyền uy đối với người
dân. Điều đó địi hỏi khi ban hành văn bản pháp luật cần phải xem xét mọi mặt, nhất là tính hiệu
lực của nó.


<b>3. Đối tượng của xã hội học pháp luật</b>



Xã hội học pháp luật xác định cho mình một đối tượng riêng, mang tính đặc thù để phân biệt với
các đối tượng của các ngành khoa học khác.


Về cơ bản, đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật là:


 Xã hội học pháp luật nghiên cứu cơ chế chuyển hóa các nhân tố xã hội thành những quy phạm


pháp luật.


o Nhân tố xã hội học pháp luật rất đa dạng và phức tạp. Đó có thể là nhân tố trong các lĩnh
vực khác nhau như: kinh tế, chính trị, văn hóa... và tính chất, bản chất của mỗi nhân tố
cũng khác nhau.


Ví dụ: Vấn đề cạnh tranh trong kinh doanh sẽ khác với vấn đề cạnh tranh về quyền lực
chính trị. Mục tiêu của kinh doanh chủ yếu là lợi nhuận, họ hướng đến thị trường có thể
mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Cịn mục tiêu của chính trị là vị thế chính trị, họ có thể sử
dụng kinh tế để làm phương tiện, nhưng mục đích khơng phải khi nào cũng là lợi nhuận.


o Chính sự đa dạng, phức tạp đặc thù của các nhân tố xã hội mà khi chuyển hóa chúng


thành quy phạm pháp luật (các quy tắc xử sự chung) thì cần phải xem xét đến bản chất,
quy luật của từng nhân tố xã hội đề ra những quy phạm phù hợp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

o Không phải mọi nhân tố xã hội đều được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật. Xã hội
học pháp luật cần xem xét những nhân tố nào có thể được chuyển hóa thành quy phạm
pháp luật và nhân tố nào khơng cần.


Ví dụ: Có những quy tắc lễ hội tại các làng xã thì sẽ do tập tục, hương ước của làng xã
quy định.


o Việc chuyển hoá các nhân tố xã hội thành pháp luật phụ thuộc vào quy mơ, tính phổ biến,
bản chất của nhân tố xã hội đó. Đối với những nhân tố mang tính phức tạp cao, cần phải
có những quy tắc xử sự chung thì nó cần phải được chuyển hoá thành quy phạm pháp luật
hoặc là tính phổ biến, tính quy mơ của nó. Ví dụ: Trong vấn đề hợp đồng thì nó rất phức
tạp do nhiều loại hợp đồng, hậu quả của hợp đồng cũng rất lớn nên cần phải có những
quy định về từng loại hợp đồng để mọi người đều thống nhất trong vấn đề ký kết hợp
đồng và giải quyết hậu quả của hợp đồng.


Việc chuyển hoá các nhân tố xã hội này cần phải tôn trọng bản chất của các nhân tố, tơn
trọng quy luật của các nhân tố. Ví dụ: Quy luật trong kinh doanh là hướng đến lợi nhuận.
Vì vậy, quy phạm pháp luật trong kinh doanh cần đảm bảo tính lợi nhuận (tiêu chí hàng
đầu).


o Đối tượng nghiên cứu thứ hai của xã hội học pháp luật là sự hoạt động của quy phạm
pháp luật ấy trong xã hội.


o Khi các nhân tố xã hội được chuyển hoá thành quy phạm pháp luật thì cũng cần phải có
những đảm bảo để quy phạm đó được vận hành. Các quy phạm pháp luật trong sự vận
hành thì cần phải có những biện pháp chế tài cưỡng chế để mọi người tuân theo. Nhưng
nếu lấy chế tài là tiêu chí tiên quyết trong quá trình hoạt động của quy phạm pháp luật thì
quy phạm pháp luật đó sẽ khơng tồn tại lâu dài được, nhất là trong chế độ xã hội chủ
nghĩa.



o Quy phạm pháp luật bản thân nó phải tự sống, tức là nó phải phù hợp với những quy luật


phát triển của xã hội. Nó phải được mọi người tự nguyên tuân theo. Nếu một lúc nào đó
quy phạm pháp luật khơng cịn phù hợp với thực tiễn nữa thì nó sẽ bị thay thế bằng một
quy phạm pháp luật khác.


Như vậy, đối tượng của xã hội học pháp luật là nghiên cứu các cơ chế chuyển hoá các nhân tố xã
hội thành những quy phạm pháp luật những sự hoạt động của những quy phạm pháp luật ấy
trong xã hội diễn ra như thế nào.


<b>4. Nội dung cơ bản của xã hội học pháp luật</b>


<b>4.1. Tính hiệu quả của pháp luật</b>


Tính hiệu quả của pháp luật có lẽ là vấn đề phức tạp nhất của khoa học pháp lý. Tính hiệu quả
của pháp luật về thực chất bao hàm toàn bộ các vấn đề từ xây dựng pháp luật, các chức năng của
pháp luật đến sự thực hiện pháp luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

giai cấp thống trị đưa ra sẽ không nhận được sự hưởng ứng của đa số nhân dân. Như vậy, trước
hết hiệu quả của pháp luật phụ thuộc vào bản chất của giai cấp thống trị.


Ví dụ: Giai cấp bóc lột thực dân và phong kiến tại Việt Nam đưa ra các qui định tăng sưu tăng
thuế nhằm trục lợi nhanh chóng đã bị quần chúng nhân dân phản kháng kịch liệt.


Hiệu quả của pháp luật còn phụ thuộc vào các điều kiện xã hội. Để đạt được hiệu quả thì các qui
định pháp luật phải phù hợp với các chuẩn mực văn hố, chính trị, đạo đức...


Ví dụ: Pháp luật về hơn nhân gia đình phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức về hơn nhân gia
đình trong xã hội phương Đơng.



Pháp luật là kiến trúc thượng tầng, do đó pháp luật sẽ do kinh tế (cơ sở hạ tầng) qui định. Pháp
luật hình thành phù hợp với các lợi ích kinh tế.


Tính hiệu quả của pháp luật phải mang tính lâu dài, bền vững, khi xây dựng pháp luật phải lường
trước những biến đổi của xã hội. Hay nói cách khác, pháp luật phải có tính dự liệu cao. Một qui
định pháp luật đưa ra không chỉ tồn tại, phù hợp với hiện tại mà nó phải mang tính ổn định cao,
phải điều chỉnh được vấn đề kể cả khi có biến động về kinh tế, chính trị... Hiệu quả của pháp luật
càng cao thì tính ổn định càng cao và ngược lại.


<b>4.2. Tính khơng hiệu quả của pháp luật</b>


Khi một qui phạm được đưa vào thực tế cuộc sống có khi nó sẽ nhận được những phản ứng tiêu
cực từ đại đa số nhân dân, đó là những phản kháng mạnh mẽ. Đó là những hậu quả tiêu cực của
pháp luật.


Tính không hiệu quả của pháp luật được qui định bởi những yếu tố ngược lại với tính hiệu quả
của pháp luật.


Các qui định pháp luật không được xây dựng trên những qui tắc xử sự chung của nhân dân mà
nó được xây dựng trên ý chí ích kỷ của giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích tư lợi của giai cấp thống
trị, trái với lợi ích của đơng đảo quần chúng nhân dân.


Lợi ích của pháp luật được xây dựng không xem xét đến các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội.
Khơng phù hợp với sự phát triển của xã hội. Khi đó các qui định pháp luật sẽ bị “chết đi” khi nó
được đưa vào áp dụng. Ở đây, xã hội đã đào thải nó. Nếu giai cấp thống trị trong trường hợp này
cố tình áp dụng các biện pháp cưỡng chế, đàn áp để cho qui định pháp luật được “sống” thì nó lại
càng bộc lộ rõ hơn các mặt tiêu cực của mình. Khi đó hậu quả lại càng nặng nề hơn.


<b>5. Một số vấn đề về xã hội học pháp luật</b>


<b>5.1. Ý thức pháp luật</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

 Lứa tuổi thanh thiếu niên là lứa tuổi có ý thức chấp hành pháp luật thấp nhất so với các lứa tuổi


khác. Ở lứa tuổi này do nhiều nguyên nhân như đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, do trình độ
nhận thức cịn non nớt khi lại tự mình tham gia các mối quan hệ trong xã hội.


 Nữ giới thì có ý thức pháp luật cao hơn nam giới.


 Những người có địa vị xã hội cao, điều kiện kinh tế khá giả, trình độ học vấn cao thì ý thức pháp


luật cao hơn so với nhóm ngược lại.


<b>5.2. Tăng cường pháp chế</b>


Đây là vấn đề mà mọi xã hội đều phải quan tâm trong quá trình phát triển của mình. Tăng cường
pháp chế tức là tăng tính hiệu lực của pháp luật. Đảm bảo pháp luật là công cụ của nhà nước
dùng để quản lý đất nước.


Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nước ta thì vấn đề tăng cường pháp chế là một vấn đề vô
cùng cấp bách và quan trọng. Chúng ta khơng thể chỉ quản lí bằng cách thuyết phục, nêu gương
mà phải có một khung pháp lý hồn chỉnh.


 Để tăng cường được pháp chế thì cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan, ban ngành


khác nhau trong quá trình xây dựng cũng như thực thi pháp luật.


 Cần kết hợp nghiên cứu xã hội bằng các biện pháp xã hội để biết được nhu cầu cũng như mong


muốn của đại bộ phận dân cư trước khi ban hành một qui định pháp luật. Đảm bảo được tính
chính xác của ngơn từ, đảm bảo được tính hiệu lực khi thực thi.



 Cần có sự thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các cấp, giữa các văn bản qui phạm pháp luật


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×