Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Truyện xuân hương của hàn quốc dưới góc nhìn thể loại và liên văn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
-------------

ĐINH LÊ MINH THƠNG

TRUYỆN XN HƯƠNG CỦA HÀN QUỐC
DƯỚI GĨC NHÌN THỂ LOẠI VÀ LIÊN VĂN BẢN

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN


2

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
-------------

TRUYỆN XN HƯƠNG CỦA HÀN QUỐC
DƯỚI GĨC NHÌN THỂ LOẠI VÀ LIÊN VĂN BẢN

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn:
TS. Nguyễn Phương Khánh

Người thực hiện:


ĐINH LÊ MINH THƠNG
(Khố 2016 - 2020)


3

LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Nguyễn Phương Khánh. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình
bày trong luận văn này hồn tồn trung thực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Thành phố Đà Nẵng, ngày 01 tháng 01 năm 2020
TÁC GIẢ KHOÁ LUẬN

Đinh Lê Minh Thông


4

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài “Truyện Xn Hương” của Hàn Quốc dưới
góc nhìn thể loại và liên văn bản tôi đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các
thầy, cơ giáo trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng để hồn thành luận văn này.
Với tình cảm chân thành, tơi bày tỏ lịng biết ơn đối với Khoa Ngữ văn – Trường Đại
học Sư phạm, các thầy/cô giáo đã tham gia giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt q trình
học tập, nghiên cứu.
Tơi xin bày tỏ sự biết ơn đặc biệt đến cô TS. Nguyễn Phương Khánh – người đã trực
tiếp hướng dẫn, giúp đỡ về kiến thức, tài liệu và phương pháp để tơi hồn thành đề tài
nghiên cứu khoa học này.

Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả!
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt q trình thực hiện đề tài, song có thể cịn có
những mặt hạn chế, thiếu sót. Tơi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sự chỉ dẫn
của các thầy/cơ giáo để ngày một hồn thiện hơn.


5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 7
1.Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 7
2.Lịch sử vấn đề

....................................................................................................... 8

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................... 14
3.1.Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 14
3.2.Phạm vi nghiên cứu............................................................................................. 14
4.Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 14
5.Bố cục đề tài

..................................................................................................... 14

NỘI DUNG ................................................................................................................. 15
CHƯƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT PANSORI VÀ TRUYỆN XUÂN
HƯƠNG ...................................................................................................................... 15
1.1.Bối cảnh văn học Joseon (조선) và dòng tiểu thuyết Hàn ngữ ....................... 15
1.2.Từ nghệ thuật diễn xướng dân gian Pansori (판소리) đến tiểu thuyết Pansori19
1.3.Truyện Xuân Hương (춘향전/春香傳/Chunhyang Jeon) – đoá hoa “bất tử” 25
CHƯƠNG 2. TRUYỆN XUÂN HƯƠNG TỪ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI ............. 33

2.1.Đề tài và cốt truyện của Truyện Xuân Hương .................................................. 33
2.1.1.Đề tài tình yêu giữa tài tử và giai nhân .......................................................... 33
2.1.2.Motif cốt truyện “gặp gỡ-đính ước-ly biệt-đồn viên” ................................. 37
2.2.Thế giới nhân vật và sự phản ánh hiện thực .................................................... 43
2.2.1.Nhân vật trung tâm và lý tưởng thẩm mỹ của thời đại ................................ 44
2.2.1.1.Thành Xuân Hương (成春香/성춘향/Sung Chunhyang) .......................... 44
2.2.1.2.Lý Mộng Long (李夢龍/이몽룡/Lee Mongryong) ...................................... 51
2.2.1.3.Biện Học Đồ (卞學徒/ Byun Hak-do) .......................................................... 56
2.2.2.Các nhân vật phụ - bức tranh hoàn thiện khát vọng nhân văn ................... 58
2.3.Truyện Xuân Hương – tiếp biến và sáng tạo ..................................................... 62
2.3.1.Yếu tố diễn xướng và sự cách tân văn phong cổ ........................................... 62
2.3.2.Các biểu tượng trong Truyện Xuân Hương ................................................... 76


6

CHƯƠNG 3. TRUYỆN XUÂN HƯƠNGTRONG DÒNG CHẢY NGHỆ THUẬT
TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI HÀN QUỐC ................................................... 80
3.1. Từ âm nhạc diễn xướng truyền thống đến âm hưởng Truyện Xuân Hương
trong âm nhạc hiện đại Hàn Quốc ........................................................................... 80
3.1.1.Xuân Hương ca và tiểu thuyết Truyện Xuân Hương ................................... 81
3.1.2.Truyện Xuân Hương và sự biến thể của âm nhạc đại chúng ........................ 84
3.2.Truyện Xuân Hương và sự chuyển thể điện ảnh .............................................. 88
3.2.1.Vấn đề chuyển thể văn học và điện ảnh ......................................................... 88
3.2.2.Cơ sở thực tiễn cho việc tiếp nhận Truyện Xuân Hương từ lăng kính điện
ảnh ............................................................................................................................... 93
3.2.3.Truyện Xuân Hương và bộ phim Chunhyang (춘향뎐/2000) ...................... 95
3.2.4.Truyện Xuân Hương và phim truyện The Servant (방자전/Bangja jeon/2010)
............................................................................................................................................................................... 102
3.3. Giá trị của Truyện Xn Hương trong dịng chảy văn hố nghệ thuật Hàn

Quốc

...................................................................................................................... 108

3.3.1.Giá trị văn học ................................................................................................ 108
3.3.2.Giá trị văn hoá đại chúng .............................................................................. 109
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 113


7

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vào những năm cuối của thế kỉ XVIII, trong lòng xã hội phong kiến phương Đông
mục ruỗng đang trên đà tan rã, kéo theo sự thay đổi về đời sống tinh thần, lại nảy nở
những nhu cầu thẩm mĩ mới về nghệ thuật. Thời ấy, đối với người cầm bút, viết văn như
một sứ mệnh giải phóng. Hàng loạt các sáng tác thơ văn tập trung thể hiện những tư tưởng
lớn thời đại như: phê phán đời sống xã hội phong kiến với đầy rẫy giáo điều cổ hủ ăn sâu
bén rễ hàng ngàn năm, cất cao quyền sống, tự do yêu đương, mưu cầu hạnh phúc, giải
phóng cá tính, khát vọng tự do bình đẳng, lý lưởng cuộc sống, …
So với nhiều thể văn thời trung đại Đông Á, tiểu thuyết/truyện/thơ “tài tử – giai nhân”
được xếp vào loại có khả năng truyền tải những tư tưởng thời đại nêu trên. Ở các quốc
gia đồng văn, số lượng tác phẩm viết theo thể thức ấy ngày càng nhiều, tạo được tiếng
vang không chỉ trong “nội vi” mà kể cả “ngoại vi” lãnh thổ như Hồng lâu mộng, Bình
Sơn Lãnh Yến, Hiệp nghĩa phong nguyệt truyện, … của Trung Quốc, Truyện Kiều, Lục
Vân Tiên, Sơ kính tân trang, … của Việt Nam. Hay Truyện Genji, Tịnh lưu ly thập nhị
đoàn thảo tử, Hiếu sắc ngũ nhân nữ, … của xứ hoa đào Nhật Bản. Nằm trong khu vực
chịu ảnh hưởng, Triều Tiên cổ đại cũng góp mặt vài cái tên như Truyện nàng You Rock,
Truyện về công tử Joo, Bi kịch Yeong Yeong, … đặc sắc nhất là Truyện Xuân Hương,

tác phẩm sáng tạo trên tinh thần nhân văn tập thể.
Nhắc đến văn chương bán đảo Korea (Triều Tiên – Hàn Quốc), tất yếu phải
biết/nghe/đọc đến chuyện tình nàng Xuân Hương. Nhiều năm qua, vấn đề đặt ra trong
tác phẩm được lật lại nhiều lần, dày công nghiên cứu không ngừng ở Hàn Quốc. Lâu
nay, việc nghiên cứu “quốc bảo” Truyện Xuân Hương tại Việt Nam như một đối tượng
so sánh, có nghiên cứu độc lập nhưng vẫn cịn khn rập khi tiếp cận thể loại, một vài
luận điểm chỉ nêu chứ chưa phân tích tỏ tường. Xuất phát từ sức hấp dẫn về nội dung
và những vấn đề có tính gợi mở, trong luận văn, người viết bên cạnh những nghiên cứu
đánh giá đi trước mong muốn bổ khuyết thêm một vài luận điểm khoa học nhằm củng
cố tầm vóc Truyện Xuân Hương đối với đời sống văn học và văn hoá Hàn Quốc truyền
thống đến hiện đại. Từ cơ sở thực tiễn trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Truyện
Xuân Hương của Hàn Quốc dưới góc nhìn thể loại và liên văn bản.


8

2. Lịch sử vấn đề
Tổng hợp tình hình nghiên cứu, chúng tơi nhận thấy có sự xuất hiện của hai hướng
nghiên cứu cơ bản. Hướng thứ nhất đi từ việc chỉ ra, gợi mở thế giới nghệ thuật trong
tiểu thuyết Truyện Xuân Hương gắn với đặc trưng thể loại và đánh giá sức ảnh hưởng
mà tác phẩm mang lại cho nền văn học xứ Hàn. Thứ đến là cách tiếp cận Truyện Xuân
Hương từ con đường so sánh, đối chiếu với một vài sáng tác cùng loại nằm trong khu
vực Đông Á qua một số phương diện nội dung và hình thức trình bày.
Trong tư liệu Văn học sử Hàn Quốc – Từ cổ điển đến cuối thế kỉ XIX của ba tác giả
người bản ngữ (Komisook – Jungmin – Jung Byung Sul) đã giới thiệu Xuân Hương
Truyện, mối tình kỹ nữ ở mục XXVI cuốn sách với tựa Pansori – câu chuyện được hát
trên sàn diễn. Chủ yếu ở đây người viết tập trung giải thích chủ đề xác đáng của tiểu
thuyết, và rút ra kết luận chủ đề của Truyện Xuân Hương là “sự chống đối của tầng lớp
dưới đối với quyền lực của tầng lớp trên”. Vì viết thiên về văn học sử cho nên tác phẩm
được trình bày chỉ mang tính giới thiệu mà thơi. [16,269]

Tập hợp những bài giảng về văn học Hàn Quốc của nhóm tác giả người Hàn do Trần
Thị Bích Phượng dịch có phần Văn xi cổ điển đã khái qt một vài đặc điểm căn bản
của dòng văn học này. Trong đó trình bày về đặc trưng loại hình tiểu thuyết Pansori lấy
Truyện Xuân Hương làm thí dụ minh hoạ. Theo tác giả, tâm huyết nghiên cứu về chuyện
tình Xuân Hương ở Hàn Quốc được gọi là “Xuân học”, không thua kém gì “Hồng học”
của Trung Quốc. Tác phẩm sẽ thiếu sót nếu chỉ quan tâm đến câu chuyện tình u, vì
chức năng phản biện lịch sử, bộc trực đối kháng với xã hội đương thời là bảy phần chìm
mà chủ thể sáng tạo muốn bạn đọc giải quyết. Chính yếu tố “chìm” của văn bản là tiêu
chuẩn phân biệt Truyện Xn Hương với những chuyện tình thơng tục thuần t khác,
thể hiện thế giới quan của dân chúng đương đại. Đồng thời, tác giả liên đới đến chuyện
“lột xác”, thay đổi tính cách nơi Lý Mộng Long từ cuộc gặp gỡ và tình yêu với Xuân
Hương. Bằng tất cả tinh tế, sự kí gởi qua vai nữ chính, nàng Xuân Hương và tác phẩm
cùng tên đối với Hàn Quốc như một con người đang sống và gần gũi lạ thường. [15]
Luận án Tiến sĩ So sánh Truyện Kiều và Truyện Xuân Hương của một học giả người
Hàn Quốc, Yang Soo Bae (chú giải cuốn Truyện Xuân Hương) đã tập trung nghiên cứu
vào phương diện đề tài cốt truyện, thể loại và phương thức phản ánh cuộc sống rồi đi


9

đến nhận diện thế giới hình tượng nhân vật qua nghệ thuật tự sự và cảm hứng sáng tác
từ hai tác phẩm đặt trên nền tảng của bối cảnh xã hội và văn hố thời đại mỗi quốc gia.
Trong cơng trình nghiên cứu so sánh cặp đơi quốc bảo văn chương Đông Á (Truyện
Kiều-Truyện Xuân Hương) này, học giả Yang Soo Bae đã dày cơng tìm kiếm những nghiên
cứu đi trước về Truyện Xuân Hương tại bản địa và xứ người để hoàn chỉnh phần lịch sử
vấn đề của riêng ông. Trong bài viết, tác giả đã kê khai một số cơng trình liên quan đến tác
phẩm như sau:
Theo tác giả, tại xứ kim chi, tính đến thời điểm tác giả viết luận án vào năm 2001
đã có hơn 350 cơng trình nghiên cứu về Truyện Xn Hương, bao gồm 280 chuyên luận
và tiểu luận, 8 luận án Tiến sĩ và 63 luận án Thạc sĩ trải dài qua 7 thời kì từ năm 1910 đến

1997. Yang Soo Bae đồng thời kể lại quá trình giới thiệu Truyện Xuân Hương ở Việt Nam
từ nhiều nguồn như các giảng viên người Pháp H.Tissot, nhà nghiên cứu truyện cổ dân gian
Nguyễn Đổng Chi, … Sau đó, tác giả nhắc đến sự tương đồng, khác biệt của truyện kể
Xuân Hương tại Việt Nam do sự dịch chuyển địa lí với Truyện Xuân Hương tại Hàn Quốc.
Điều đáng nói là ở phần lịch sử vấn đề, Yang Soo Bae đã tra cứu các đường dẫn từ nhiều
nguồn tư liệu khác nhau để kiểm chứng bài thơ do Lý Mộng Long thủ bút trong bữa tiệc
thọ của viên quan huyện đã áp chế Xuân Hương với nhiều dị bản.
Trước khi luận án được chấp bút hồn thiện, học giả Yang Soo Bae đã cơng bố
một số vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu dưới dạng bài báo, đăng trên tạp chí có
uy tín ở Việt Nam như: ““Bước đầu nghiên cứu so sánh Truyện Kiều và Truyện Xuân
Hương” (Văn học, 10/1995); Từ chức năng nhân vật đến không gian nghệ thuật trong
Truyện Xuân Hương” (Văn học, 8/1998) hay “Một vài điểm liên quan đến việc giới
thiệu cốt truyện Xuân Hương truyện ở Việt Nam (Văn học, 7/2000) …
Đối với người Việt, Truyện Xuân Hương được biết đến với tư cách một tác phẩm văn
học hải ngoại có nhiều nét tương đồng, xứng tầm đối chiếu với kiệt tác Truyện Kiều của
ta. Cho nên, việc giới thiệu Truyện Xuân Hương khá được chú trọng, trong vấn đề
nghiên cứu văn học so sánh.
Trần Thúc Việt với bài viết Nghiên cứu văn học Hàn Quốc tại Việt Nam đã tóm lược
khá tồn diện về diện mạo văn học Hàn Quốc. Tác giả đã chỉ ra hai nhóm tiếp cận văn
học Hàn Quốc tại Việt Nam là các học giả nước ngoài (học tại Việt Nam) và các nhà
nghiên cứu người Việt. Đối với người Hàn, họ có xu hướng tập trung vào khẳng định sức


10

lan toả của tác phẩm từ văn đàn đến cuộc sống văn hố bác học và bình dân ở Hàn Quốc.
Nghiên cứu đa phần là so sánh đối chiếu với kiệt tác Truyện Kiều của Việt Nam trên mối
thân tình, hữu nghị hai nước Việt-Hàn. Ví dụ một số cơng trình tiêu biểu được tác giả bài
viết liệt kê như: “Lalenti Lý “Truyện Xuân Hương của Hàn Quốc và Truyện Kiều của
Nguyễn Du” (Tạp chí văn học, số 3/1992); Kim Dea Yung “Nói về Xuân Hương truyện”

(Diễn đàn văn nghệ Việt Nam 12/1993); Lee Sang Boo “Giới thiệu Xuân Hương truyện”
(Tạp chí văn học, 5/1994) … [46] Cịn văn học Hàn trong tư duy của người Việt, Trần
Thúc Việt đã nêu ra một số bài viết liên quan đến tiểu thuyết lừng danh Hàn Quốc như:
“Giáo sư Đặng Thanh Lê với “Truyện Xuân Hương kiệt tác văn học Korea”, “Truyện
Kiều và Truyện Xuân Hương từ kiệt tác văn học đến sự kiện văn hoá trong đời sống 2
dân tộc Việt Nam – Hàn Quốc”; PGS Lê Huy Tiêu “Truyện Xuân Hương một kiệt tác văn
học Hàn quốc”; GS Nguyễn Xuân Kính “Tính chất dân gian trong truyện dân gian của
Hàn Quốc”; Trần Thúc Việt “Đánh giá giá trị kiệt tác văn học cổ điển qua trường hợp
Truyện Xuân Hương của Hàn Quốc” …” [46]
Cũng trong cuốn sách viết sâu về văn học Korea (Triều Tiên – Hàn Quốc), tác giả Trần
Thúc Việt chứng nhận Xuân Hương Truyện là kiệt tác văn học Korea, báu vật còn nguyên
vẹn giá trị từ đời sống đến nghệ thuật ngay từ mục đề. Tác giả đã trình bày bối cảnh thời
đại mang tính sử thi, “sản phẩm tất yếu của lịch sử dân tộc”; xuất phát điểm tác phẩm bắt
đầu từ 2 nguồn: “từ cội nguồn dân gian có tính ngun hợp về phương thức biểu đạt và
ảnh hưởng di sản văn học Trung Quốc”. Về chủ đề tư tưởng, tác giả cho rằng tác phẩm
mang “tính chất nhiều chủ đề”. Vì cho đến hơm nay, vài quốc gia, học giả nước ngồi,
kể cả tại Hàn đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về Truyện Xuân Hương.
Trần Thúc Việt cho rằng, Xuân Hương truyện làm nổi bật hai tính chất, được xem là
chìa khoá lĩnh hội cơ bản (chủ đề tư tưởng lớn) nằm ở sức mạnh tình yêu và tố cáo. Về
đặc điểm nghệ thuật, kết cấu tác phẩm vẫn mang tính dân gian; tính cách nhân vật được
người kể cài cắm từ sự “ngẫu nhiên” hoặc “thần kỳ”; “thủ pháp miêu tả nhân vật kiểu
ví von so sánh, dùng điển tích, sử dụng các biểu tượng dân gian, các yếu tố tín ngưỡng
dân gian, …”, chất pansori qua hình thức đối thoại, và chất trữ tình qua cách miêu tả
tình yêu, phong cảnh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng, … Tuy nhiên, tác giả cũng
đánh giá một số mặt hạn chế của tác phẩm như chi tiết, kết cấu, ngôn ngữ, cách sử dụng
điển cố Trung Quốc khá rườm rà, đôi chỗ làm dụng quá đà. [21]


11


Với bài viết Truyện nàng Xuân Hương và tiểu thuyết ái tình Hàn Quốc, TS. Lý Xn
Chung đã tóm lược cốt truyện và chỉ ra bốn vấn đề cơ bản của tác phẩm. Một là nêu cao
thứ tình yêu vượt qua mọi trào cản của xã hội Nho học để chạm đến cái gọi là tình u
trịn đầy, thứ đến, xem tác phẩm như một bản án chi tiết về thói xấu, bản chất nhơ nhuốc
của bọn tham quan phong kiến, ba là tác phẩm đã chạm đến giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc, cuối cùng là khẳng định sức sống xuyên không gian, vượt thời gian,
trở thành niềm tự hào của người dân Hàn Quốc. [31]
PGS.TS. Đồn Lê Giang trong bài viết mang tính chất văn học sử của mình đã đề
cập đến Sự tương đồng kỳ lạ giữa văn học cổ điển Việt Nam và văn học cổ điển Hàn
Quốc (Hay những gợi ý cho nghiên cứu văn học so sánh Việt – Hàn). Ở mục IV Văn
học Hàn Quốc, Việt Nam hậu kì trung đại, tác giả đã khẳng định sự thành công dòng
tiểu thuyết viết bằng chữ Hangul, tiêu biểu, chiếm trọn tình yêu mến của độc giả nước
nhà bằng tiểu thuyết kỹ nữ Xuân Hương Truyện. Nhưng phải đến hậu kỳ trung đại, văn
đàn Triều Tiên cổ mới chứng kiến sự thịnh vượng của thể loại văn học kết hợp với sân
khấu là thể Pansori, với nội dung hướng đến phê phán những mặt trái xã hội, đả kích
tầng lớp lưỡng ban, ca ngợi tự do, hạnh phúc lứa đôi, … [33]
Hồng Thị Yến nhà nghiên cứu bộ mơn Hàn Quốc tại Đại học Ngoại ngữ – ĐHQG
Hà Nội, đã chạm vào mảng văn học với tư cách thử nghiệm nghiên cứu nghệ thuật ngôn
từ của kiệt tác văn học cổ điển Hàn Quốc – Xuân Hương Truyện, cũng đưa ra một số
cách hiểu. Bài viết có tính tổng hợp, khái quát, như một bản kê khai đầy đủ về nội dung
và nghệ thuật từ góc nhìn của tác giả. Người viết đi từ việc giới thiệu hồn cảnh ra đời,
tóm lược tác phẩm và chỉ ra một số đặc điểm nội dung: “Xn Hương Truyện là khúc
ca tình u đơi lứa trong hành khúc chiến đấu bạo lực và áp bức phong kiến”, khẳng
định nhân vật nữ Xuân Hương là hình tượng điển hình cho kiểu người phụ nữ thuần
khiết, thuỷ chung, “tu thân tề gia”; Hoàng Thị Yến cho rằng giá trị cốt lõi tư tưởng khai
minh mà tác giả dân gian đề cập đến quyền làm người trong truyện là cách đánh giá,
nhìn nhận con người khơng phải căn cứ vào thành phần xuất thân. Về phương diện nghệ
thuật, khẳng định tính dân tộc qua ngơn ngữ trình bày, yếu tố dân gian đậm nét qua, lối
kết cấu, kết thúc có hậu mang phong vị cổ tích, đan xen các yếu tố kỳ ảo của tiểu thuyết
truyền kỳ nhưng dần thoát li đạt đến cách miêu tả đầy tính hiện thực chủ nghĩa, tính

cách nhân vật chính-phụ đều được miêu tả sắc nét qua hành động, thái độ, lời nói, …


12

Tuy nhiên, học giả trong q trình nghiên cứu có đối sánh sự phát triển của thể loại, dựa
trên các thuyết cho rằng Truyện Xuân Hương Hàn Quốc tựa theo vở tạp kịch Tây sương
kí của Vương Thực Phủ đời Nguyên nhưng khá nhiều dị biệt khi đem ra so sánh 1:1.
Chẳng hạn về đề tài: Quốc bảo Korea đã thoát khỏi kiểu truyền thống của lối viết tiểu
thuyết tài tử - giai nhân, đi sâu vào vấn đề mang tính xã hội, giới thiệu nhiều nét văn
hố thơng qua phong tục, tư tưởng, tình cảm, … của người dân Triều Tiên ở TK XVIII,
chủ đề tư tưởng, cốt truyện, nhân vật, xung đột, … [22]
Trong bài báo Đi tìm nguyên nhân tại sao “춘향전 – Xuân Hương Truyện” sống
trường tồn với thời gian của Th.S Trần Thị Lan Anh đã dựa trên những nghiên cứu đi
trước về tác phẩm để tìm và chỉ ra những nhận định cá nhân mới mẻ về sức hút độc giả
nằm ở 3 nội dung trọng tâm: tình u đơi lứa sâu sắc vượt lên trên sự khác biệt đẳng
cấp xã hội; hành trình chiến đấu chống lại bất công hướng đến một xã hội tốt đẹp; khát
vọng thay đổi “thân phận”. Về nghệ thuật: “chủ nghĩa lãng mạn và hiện thực được thể
hiện rất tài tình đan xen với nghệ thuật trào phúng dân gian Triều Tiên nhằm thể hiện ý
đồ của tác phẩm: lột tả số phận của nhân vật, phê phán xã hội phong kiến bất công
nhưng đồng thời thi vị hóa nhân vật lý tưởng, tình u lý tưởng.” [27]
Cuốn sách So sánh loại tiểu thuyết “Tài tử giai nhân” ở một số nước phương Đông
thời kỳ trung đại (Trung Quốc,Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên) của tác giả Hà Thanh
Vân được xem là chun luận có tính phổ qt về dịng tiểu thuyết ái tình Đơng Á (cả
tiểu thuyết danh giá và “thường thường bậc trung”). Tác giả đã trình bày vấn đề qua 3
chương, lần lượt khảo sát, đánh giá và nêu lên kết luận rằng: dẫu mang tính gơng kìm
của thể loại cổ điển, vẫn có những phá cách mới mẻ. Về mặt tương đồng, người viết đã
xét đến nội dung, hình thức biểu đạt, kết cấu, motif thường gặp, nghệ thuật xây dựng
nhân vật, ngôn ngữ, quan niệm nghệ thuật, những thể loại văn học khác, ảnh hưởng đối
với Việt Nam. Ở phần dị biệt, người viết lý giải trên một số bình diện như lịch sử – xã

hội, tâm lý dân tộc, người sáng tác, giai đoạn hình thành, một số tính chất mang cá tính
riêng và những cách tân độc đáo của từng thể loại.
Bàn về Tiểu thuyết chữ Hán của Triều Tiên, tác giả Trần Nghĩa khi diễn dẫn một số
nội dung tư tưởng điển hình mà tiểu thuyết thường gặp như nêu cao gương sáng “cần
chính ái dân”, biểu dương lối sống“đền ơn đáp nghĩa”, phơi bày chuyện mật “thâm
cung bí sử”, cuộc sống vô thường theo thuyết “bồ đề-tiên giới”, … Cách viết vận dụng


13

yếu tố “mộng ảo”, “mộng du” trong một số tác phẩm Cầm Sinh dị văn lục, Long cung
phó yến lục,… là cái cớ để người viết bộc lộ hoài bão, chính hướng của mình, đã “vơ
tình” nhắc đến Truyện Xn Hương – tiểu thuyết Hàn ngữ kinh điển Korea vẫn còn đâu
đấy kiểu cách của văn phong truyền kỳ. [37]
Bức tranh văn học Hàn Quốc gần đây được miêu tả đầy đủ hơn qua các dự án nghiên
cứu ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, biểu hiện
qua hàng loạt các cơng trình do GS. Phan Thị Thu Hiền chủ biên như Hợp tuyển văn
học cổ điển Hàn Quốc, Văn học cổ điển Hàn Quốc – Tiến trình và bản sắc, Dạo bước
vườn văn Hàn Quốc, Giáo trình văn học Hàn Quốc, hay một số tuyển tập truyện-thơ về
Đông Á, …
Trong cuốn Dạo bước vườn văn Hàn Quốc, tác giả Phan Thị Thu Hiền đã nhắc đến
Xuân Hương Truyện – tác phẩm “Quốc bảo” của nền văn học Korea ở phần II: “Khu
vườn văn học cổ điển”. Người viết đã đi từ lịch sử hình thành và phát triển của tiểu
thuyết, sau đó tóm tắt nội dung tác phẩm và chỉ ra một số thuyết khác nhau về chất liệu
của sáng tác. Đồng thời, người viết chỉ ra một vài yếu tố cấu thành nên nội dung và
nghệ thuật tác phẩm. Về nội dung, Truyện Xuân Hương có kết cấu quen thuộc của tiểu
thuyết tài tử giai nhân: “Gặp gỡ – Thề nguyền yêu đương – Chia tay, thử thách – Đoàn
viên” [5,275]; Chủ đề tình yêu kết hợp với chủ đề phê phán thế lực thù địch, có sự kết
hợp của nhiều truyện kể lưu truyền đương thời như truyện kể tình yêu, truyện kể liệt nữ,
truyện kể thân oan, truyện kể mật sứ. Khẳng định tác phẩm đạt đến cái gọi là chuẩn

mực của tiểu thuyết cổ điển khi có đủ năm yếu tố cấu tạo nên một tiểu thuyết xưa: “cuộc
sống, nhân quả, khuyến thiện trừng ác, kết thúc có hậu, số mệnh” [5,279] Chất trào tiếu
dân gian qua cảnh hò hẹn, thề nguyện yêu đương kết hợp với chất bi kịch đã góp phần
đưa tác phẩm đạt đến những giá trị thay cho tiếng nói đương thời. Về nghệ thuật, sáng
tác đã tạo ra thế giới nhân vật sống động, đa nghĩa, cùng với lối viết gần gũi, tự nhiên
đậm phong vị thơ.
Nhìn chung tổng thể các kiến giải xoay quanh kiệt tác Truyện Xuân Hương của văn
chương Hàn Quốc, ta nhận rõ sự quan tâm từ đông đảo giới học thuật trong nước lẫn
nước ngoài. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tơi nhìn thấy tình hình
trao đổi học thuật vẫn cần tiếp diễn để bổ sung thêm tầm vóc của tác phẩm này. Hầu hết
các cơng trình nghiên cứu đều mang tính đánh giá, khen ngợi, đối chiếu với một số tác


14

phẩm điển hình trong khu vực Đơng Á, một số bài có phân tích độc lập nhưng chưa sâu,
chưa bao quát được tầm vóc của sáng tác bước vào đời sống con người. Vì thế, chúng tơi
lựa chọn đề tài Truyện Xn Hương của Hàn Quốc dưới góc nhìn thể loại và liên văn
bản để giải quyết những vấn đề còn dang dở.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài Truyện Xuân Hương của Hàn Quốc dưới góc nhìn thể loại và liên văn bản tập
trung nghiên cứu các đặc điểm nổi bật trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm Truyện Xuân
Hương và sự dịch chuyển độc đáo của nguyên tác sang nhiều loại hình nghệ thuật (âm nhạc,
điện ảnh) từ truyền thống đến hiện đại.
3.2.
-


Phạm vi nghiên cứu

Truyện Xuân Hương, tác phẩm khuyết danh qua bản dịch của Yang Soo Bae, Lee
Sang Bo chú giải, Đặng Thanh Lê giới thiệu; truyện được in tại Pusan University of
Foreign Studies (PUFS) press. 1998.

-

Một số ca khúc, bộ phim chuyển thể như: ca khúc Chunhyangah, phim Chunghyang
(2000), phim Bangja Chronicles (Người hầu/2010), …

4. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp loại hình

-

Phương pháp phân tích

-

Phương pháp so sánh đối chiếu

-

Phương pháp nghiên cứu liên ngành

5. Bố cục đề tài

Bố cục của đề tài gồm các phần: mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục.
Phần nội dung được chia thành ba chương:
Ø Chương 1: Đặc điểm tiểu thuyết Pansori và Xuân Hương Truyện
Ø Chương 2: Truyện Xuân Hương từ đặc trưng thể loại
Ø Chương 3: Truyện Xuân Hương trong dòng chảy nghệ thuật truyền thống và
hiện đại Hàn Quốc


15

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT PANSORI VÀ TRUYỆN XUÂN HƯƠNG
1.1.

Bối cảnh văn học Joseon (조선) và dòng tiểu thuyết Hàn ngữ

Ở mục này, chúng tôi giới thiệu sơ lược các giai đoạn hình thành và phát triển của
văn học Hàn Quốc từ cổ đến cận đại bằng cách thức liệt kê triều đại/thời gian. Sau đó,
chúng tơi chỉ tập trung khái lược cụ thể sự hình thành và phát triển bối cảnh văn học
dưới triều Joseon, cụ thể là giai đoạn hậu kì Joeson về mặt lịch sử - xã hội, các thể
loại/trào lưu văn học ra đời, đóng góp trong giai đoạn này nhằm xác định vai trị và ý
nghĩa của dòng tiểu thuyết Hàn ngữ đối với văn học truyền thống Hàn Quốc so với tiểu
thuyết Hán ngữ phát triển song song cùng giai đoạn.
Trong phần lịch sử văn chương Hàn Quốc, chúng tôi đứng trên quan điểm phân chia của
hai chuyên gia nghiên cứu văn học Đông Á là GS. Phan Thị Thu Hiền và PGS.TS Đoàn
Lê Giang. Nhận thấy sự bất cập về cách phân chia thời kỳ văn học tại Hàn Quốc của một
số học giả đi trước, PGS.TS Đoàn Lê Giang đã thu thập cứ liệu và thống kê lại một mơ
hình cụ thể, rõ ràng hơn về văn học Hàn Quốc từ cổ đến cận đại, dễ dàng cho quá trình tiếp
cận các nghiên cứu về sau. Theo ơng có thể phân chia thành các mốc thời gian như sau:

*Bảng 1: Văn học Korea từ cổ đến cận đại:
THỜI KỲ
Cổ đại

Trung đại(*)

Cận đại

TRIỀU ĐẠI/THỜI GIAN
Triều Tiên cổ đại (고대 조선), Tam Quốc (삼국 시대)
Tân La/Silla thống nhất (통일 신라) (từ đầu – cuối TK X)
Từ đầu thời Cao Ly/Koryo (고려) cho đến cuối thời
Triều Tiên/Choson (조선) (TK X – cuối TK XIX)
Từ Phong trào Khai hoá cho đến Thế chiến II kết thúc
(cuối TK XIX – 1945)


16

*Bảng 2: Văn học Korea thời trung đại:(*)
THỜI TRUNG ĐẠI

GIAI ĐOẠN

Sơ kỳ

Thời Cao Ly (고려) (TK X – cuối TK XIV)
Năm 1392, Lý Thành Quế (이성겨) lên ngôi. Đặt tên nước là

Trung kỳ


Choson/Triều Tiên (고대조선) (theo tên cổ)

Hậu kỳ

Sự xuất hiện của giai tầng “Sĩ Lâm”, và tầng lớp “Cống dân”

Những năm trở lại đây, xu hướng nghiên cứu văn học Hàn Quốc có chiều hướng tích
cực, năm 2017, GS.TS Phan Thị Thu Hiền và các cộng sự của mình đã kì cơng nghiên
cứu lại văn học cổ điển Triều Tiên – Hàn Quốc. Trong cơng trình ấy, tác giả đã đưa ra
cách sắp xếp, phân loại tiến trình phát triển của văn học cổ trung đại Triều Tiên – Hàn
Quốc như sau:
Cách 1:
THỜI KỲ

GIAI ĐOẠN

Tam Quốc (삼국시대) và Silla thống nhất (통일신라)

57 TCN – 935

Goryeo (고려)

918 – 1392

Joseon (조선)

1392 – 1919

(Theo Hợp tuyển văn học cổ điển Hàn Quốc, NXB Tổng hợp TPHCM, 2017.)


Cách 2:
THỜI KỲ

GIAI ĐOẠN
Từ khoảng thế kỷ VI

Sơ kỳ trung đại

(thời Tam Quốc [삼국시대] đến hết thời Goryeo [고려, 1392])

Trung kỳ trung đại

Tiền kỳ Joseon (조선) – từ năm 1392 đến cuối thế kỷ XVI

Hậu kỳ trung đại

Hậu kỳ Joseon (조선) – từ thế kỷ XVII đến năm 1910

(Theo Văn học cổ điển Hàn Quốc – Tiến trình và bản sắc, NXB Khoa học xã hội, 2017.)

v Văn học thời Joseon:
THỜI KỲ

GIAI ĐOẠN

Joseon (조선)

1392 – 1919


Tiền kỳ Joseon

Từ năm 1392 đến năm 1598

Hậu kỳ Joseon

Từ năm 1598 đến năm 1894

Giai đoạn chuyển tiếp

Từ năm 1894 đến năm 1910

Vì phạm vi nghiên cứu hẹp, như đã giới thiệu từ đầu, chúng tơi chỉ tiếp xúc thời kỳ
có liên quan đến cuộc khảo cứu, tập trung vào thời điểm tác phẩm Truyện Xuân Hương


17

ra đời – giai đoạn cuối thời Joseon (hậu kỳ trung đại), từ thế kỷ XVII đến năm 1910 để
tìm hiểu sát sườn đặc trưng cấu thành thể loại và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành và phát triển của tác phẩm cần nghiên cứu.
Khép lại một triều đại Koryo với những biến sắc của văn học, một triều đại mới tiếp
tục mở ra – thời đại Joseon (1392 – 1598). Ở thời kỳ này chia ra làm hai giai đoạn phát
triển lấy chiến tranh Nhật Bản làm mốc, giai đoạn thơ ca trở thành thể loại chính và giai
đoạn văn xi chiếm vị thế. Có thể nói, văn học thời Choson đã từng bước đưa văn
chương Korea lên một tầm cao mới.
Thời điểm này là lúc lịch sử văn học Korea đánh dấu sự hạ sinh của chữ viết Hangul
(Chữ Hàn – dưới triều vua Sejong/세종). Chữ Hàn bước đầu gia nhập vào tiến trình chứng
minh giá trị biểu đạt văn học dân tộc. Hai thể thơ nổi tiếng có khả năng tạo một làn sóng
mang tên “khuynh hướng thơ” đầu tiên là Sijo (시조/Thời điệu) và Kasa (가사/Ca từ)

manh nha từ thời Koryo. “Sijo có cấu trúc đơn giản, gồm ba khổ: mở đầu, giữa và kết. Cấu
trúc này liên quan chặt chẽ với ý nghĩa thẩm mĩ của nó. Một đặc điểm làm nên nét riêng
của nó là hình thức nhẹ nhàng và tao nhã. Mặc dù có vẻ đơn giản, loại thơ này vẫn đạt được
những hiệu quả thẩm mỹ trọn vẹn.” [55] Sijo tìm ẩn một nội dung rất đa dạng: thể hiện mối
quan hệ lí tưởng giữa con người với thiên nhiên, những vấn đề mang tính người sâu sắc
nhất, … Ngồi Sijo theo hình thức có tính quy chuẩn là Pyeong Sijo (평시종/Bình thời
điệu) về sau, Sijo được cách điệu hố thêm một thể loại khác là saseol sijo (사설시조/Từ
thuyết thời điệu) với hình thức nghệ thuật độc đáo.
Một thể thơ trữ tình của văn chương Korea – Kasa cũng sánh bước phát triển cùng Sijo, là
không gian riêng để các văn sĩ biểu lộ tình cảm của mình đối với vẻ đẹp thiên nhiên. “Kasa là
một loại thơ có hình thức đơn giản, với những “cặp” thơ, mỗi câu gồm ba hoặc bốn âm tiết,
lặp lại bốn lần” Nội dung và chủ đề của thể thơ Kasa cũng vô cùng đa dạng.
Trong chuỗi sự kiện văn học trải dài của Korea, chữ viết dân tộc Hangul ra đời, đánh
dấu một bước phát triển của nền văn hoá “xứ đá”. Tuy nhiên, vì những ưu điểm của ngơn
ngữ Hán, nhiều tác phẩm văn xi vẫn dùng nó để sáng tác. Nổi lên giữ một vùng nở rộ
văn xuôi phải kể đến tập tiểu thuyết Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập, một tác phẩm
đại diện của thể loại truyện truyền kỳ được phát triển trong giai đoạn này.


18

Joseon bước vào những chặng cuối của triều đại lịch sử cũng là lúc xã hội Korea
vướng lấy những xung đột gay gắt của các hệ tư tưởng, từ học thuyết “Tân – Nho giáo”
đến sự chuyển đổi của Sirhak (Shilhak/실학/Học vấn thực tế – thực học) khiến Korea
bước vào con đường cải cách xã hội trong đó có văn học, tư tưởng. Những tác phẩm
mang tính chất hư cấu như tác phẩm điển hình Kim Ngao tiểu thuyết đã nhắc đến, thể
loại trình diễn như truyện hát (Pansori/판소리) thể hiện rõ nét những đặc thù của việc
truyền tải ý thức thẩm mĩ người nghệ sĩ; truyện ngụ ngôn mang tính phê phán, đả kích
sâu cay một vùng xã hội “biến chất”.
Song hành tồn tại trên một con đường là điều không hề dễ dàng, nhưng sự kết hợp

của truyện viết bằng Hangul và truyện viết chữ Hán đã mở ra một “tân đại lộ” cho bề
dày văn học tại xứ sở Korea.
Sự ra đời của chữ Hangul đã mở ra một cuộc cách mạng thay đổi việc sử dụng và
thay thế chữ Hán thành chữ Hàn trên mọi phương diện từ kinh tế-chính trị-xã hội đến
các lĩnh vực nghệ thuật, nếu có thể. Bắt nhịp tính thời sự, phát hiện chữ viết mẹ đẻ đã
có, một số thể loại nhanh chóng ra đời, ngày càng nhiều, khẳng định chất riêng.
Khơng như thơ, tiểu thuyết khơng có sự phân biệt rạch ròi khi phân loại thơ viết bằng
Hán ngữ và Hàn ngữ. Vì có trường hợp một tiểu thuyết có cả hai phiên bản ngữ, mà
không xác định rõ thời gian trước sau, đâu là bản gốc. Khoảng tầm một thế kỷ sau thời
điểm tiểu thuyết cổ điển bằng chữ Hán phát triển với tiếng tăm của tiểu thuyết truyền
kỳ Kim Ngao tân thoại (Kim Thời Tập), tiểu thuyết cổ điển chữ Hàn ra đời, mở ra một
kỷ nguyên mới cho văn học và xã hội Hàn Quốc.
Văn phong tiểu thuyết quốc ngữ là sự kế thừa thành tựu của tiểu thuyết chữ Hán. Cụ
thể là học hỏi một số nội dung, phương thức nghệ thuật đặc sắc của Truyện truyền kỳ
và thể cổ văn. Sử dụng chất liệu sáng tác thuần tính Hàn, bộ phận văn nghệ sĩ đã tận
dụng tính ưu của nó để đáp ứng nhu cầu cá nhân và tập thể. Chữ Hàn tối giản về nét
viết, thuận tiện trong sử dụng đã mở ra con đường thơ văn thu hút đông đảo lực lượng
sáng tác. Lực lượng sáng tác từ trí thức, quan lại, … giờ cả tầng lớp bình dân, nữ giới
cũng có thể đọc được, cũng như sáng tác văn học. Phong trào “chuyển ngữ” thời kỳ này
cũng phát triển khá mạnh mẽ khi hàng loạt các tiểu thuyết đình đám Trung Hoa như tứ
đại kỳ thư mang một phiên bản mới bằng ngơn ngữ. Về mặt chính trị-xã hội, sau chiến
Nhâm Thìn Oa loạn và Bính Tý Hồ loạn, “nền kinh tế hàng hoá ở Hàn bắt đầu manh


19

nha tạo ra tầng lớp thương nhân, trung lưu, thị dân có nhu cầu giải trí và địi hỏi thể loại
văn chương phản ánh những đề tài cuộc sống thường nhật” đã tác động một phần đến
sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết chữ Hàn.
Từ những năm đầu của thế kỉ XVII, cuốn tiểu thuyết Hồng Cát Đồng truyện (Hứa

Quân) ước đoán ra đời vào năm 1607 đã tạo bước đệm cho sự tiếp nối về sau của nhiều
tiểu thuyết ăn khách, có giá trị. Tiểu thuyết chữ Hàn đạt đến đỉnh cao, trở thành kỷ
nguyên là vào thế kỷ XVIII – XIX.
Tiểu thuyết quốc ngữ là sự hợp thành của bốn thể chính gồm: (1) tiểu thuyết anh
hùng và tiểu thuyết lịch sử, (2) tiểu thuyết mộng du, (3) tiểu thuyết gia tộc, (4) tiểu
thuyết pansori. Trong đó có vài thể loại chịu ảnh hướng lối viết Hoa ngữ, còn lại mang
cốt cách bản địa Korea.
1.2.

Từ nghệ thuật diễn xướng dân gian Pansori (판소리) đến tiểu thuyết Pansori

Pansori (판소리) là một loại hình diễn xướng dân gian truyền thống xuất hiện vào
triều đại Joseon thế kỷ XVII, và phát triển nở rộ vào thế kỷ XIX. Thuật ngữ Pansori có
nguồn gốc từ sự ghép từ pan (판) nghĩa là “một nơi mà nhiều người dân tụ tập” với từ
sori (소리) nghĩa là “âm thanh”. Pansori là hình thức kể chuyện bằng âm nhạc dưới sự
tham gia của một người hát (ca nương/kép hát) gọi là sorikkun (소리꾼) và một người
đánh trống gọi là gosu (고수), loại trống được sử dụng để diễn là trống buk (북). Đôi
lúc người biểu diễn thay đổi một số nhạc cụ khác như yết tranh (아쟁/ajaeng), đàn tranh
gayageum (가야금/kayagum), … Pansori được ví là vở Opera độc diễn của Hàn Quốc.
Đương thời có tất cả 12 tác phẩm Pansori. Nhưng trải dài theo những biến động
thăng trầm của lịch sử, cho đến ngày nay chỉ lưu truyền và giữ lại được 5 trong số 12
tác phẩm Pansori gốc là Xuân Hương ca (춘향가/Chunhyangga) kể về tình u của
chàng trai dịng dõi q tộc Lý Mộng Long và nàng Xuân Hương; Thẩm Thanh ca
(심청가/Simcheongga) kể về cô gái hiếu thảo, tự hy sinh làm vật tế thần cho đại dương
để đổi lại đôi mắt sáng cho người cha mù; Hưng Phu ca (흥부가/Heungbuga) là câu
chuyện về người anh Nolbo giàu có nhưng tâm địa xấu xa và người em Heungbo nghèo
khổ nhưng có tấm lòng bao dung, nhân ái; Thủy Cung ca (수긍가/ Sugungga) kể về
chuyến hành trình đi tìm lá gan thỏ của chú rùa biển, để cứu chữa căn bệnh nan y của



20

Long vương. Và Xích Bích ca (적벽가/ Jeokbyeokga, lấy chủ đề là trận chiến Xích Bích
trích từ tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung ở Trung Quốc làm cốt
truyện), trong đó 3 tác phẩm Xuân Hương ca, Thẩm Thanh ca và Hưng Phu ca là nổi
tiếng hơn cả. Khi mới ra đời, Pansori chủ yếu được các pháp sư sử dụng để truyền các
nghi lễ và phép thuật từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cho đến thế kỷ XIX, nó đặc biệt
phổ biến trong giới q tộc và một hình thức giải trí hồng gia tại toà án.
Một câu chuyện Pansori đầy đủ được gọi là Madang (마당). Dung lượng thường khá
dài vì vậy nó cũng mất khá nhiều thời gian để hồn thành, có thể kéo dài đến 8 giờ đồng
hồ. Ban đầu Pansori là những câu chuyện được các nghệ nhân hát cho dân làng nghe,
thường biểu diễn ngoài trời vào ban đêm. Mục đích của lối hát diễn nhằm khơi dậy nỗi
đau của những lớp người nhỏ bé dưới sự đày ải của giai cấp Yangban (quý tộc).
Nội dung chính của Pansori thường lấy bối cảnh cuộc sống của tầng lớp dân thường.
Nhân vật thường lấy nguyên mẫu con người thật ngoài đời hoặc hư cấu dựa trên quan
điểm thẩm mĩ, thực hiện hố ước mơ cao đẹp. Nhân vật ln được phân thành hai tuyến
chính và tà, thuộc nhiều đẳng cấp xã hội khác nhau. Nhân vật chính diện thường là các
người dân nghèo, phụ nữ xinh đẹp nhưng thuộc lớp tiện dân, … nhưng được miêu tả
một cách chân thực tính nhân văn phong phú và tình cảm đẹp đẽ mà họ mang đến.
Ngược lại, nhân vật phản diện thường là đẳng cấp quý tộc, những kẻ tham quan, … Với
hình thức nghệ thuật thơng qua những câu chuyện diễn đạt bằng lời hát đã quy nạp
những đặc điểm văn hoá người Hàn Quốc từ cách răn dạy, truyền thụ những đức hạnh
truyền thống. Vậy nên, đề tài các Pansori hướng đến chính là coi trọng những phẩm
chất mn đời như: lịng hiếu thảo, lịng kính trọng cha mẹ, tình huynh đệ, bằng hữu,
tình u đơi lứa, …
Hình thức trình diễn Pansori khơng cầu kì về sân khấu biểu diễn chủ yếu nặng về
khả năng biểu đạt của người diễn sao cho thật xuất sắc. Vì là loại hình nghệ thuật dân
gian phục vụ cho mọi tầng lớp trong xã hội, nên sân khấu diễn xuất Pansori không câu
nệ. Từ sân nhà dân thường cho đến sân quan trường hay vườn trong hồng cung đâu
đâu cũng có thể hố thành sân khấu hát kể. Có khi sân khấu là một tấm chiếu. Trong

một chương trình biểu diễn, chỉ có một nam hoặc một nữ kết hợp với tay trống thể hiện
nội dung câu chuyện bằng nhiều phương ngữ khác nhau, bao gồm tiếng địa phương
vùng nông thôn đến ngôn ngữ hàn lâm, giàu hình ảnh sử dụng trong văn chương nghệ


21

thuật. Một người diễn kiêm nhiều vai, cùng lúc phân thân thành nhiều nhân vật, nhiều
giới với các độ tuổi khác nhau lúc nam, lúc nữ rồi có thể vào vai già rồi quay lại vai trẻ,
… bất kỳ vai nào họ đều ứng biến đến độ tinh xảo. Thời hiện đại, khi diễn Pansori trên
các sân khấu ở các nhà hát lớn, tiết mục hát kể thường có đến hai diễn viên, một nam
và một nữ hố thành đơi nhân vật chính diễn cùng với dàn nhạc. Điển hình như vở diễn
chuyện tình nàng Xn Hương có đơi diễn viên nam-nữ hoá thân thành Xuân Hương
và Lý Mộng Long.
Nhiều vở diễn kéo dài vài giờ liền, đòi hỏi người diễn cực kỳ vững sân khấu, kinh
nghiệm diễn xuất, có sức khoẻ tốt, đặc biệt là chất giọng. Vì thế, trước khi tiết mục bắt đầu
người hát thường thử giọng bằng cách hát một đoạn “đoản ca”. Trang phục biểu diễn hết
sức đơn giản, đầy tính truyền thống, người hát thường mặc một chiếc hanbok màu trắng
bình thường. Ngày nay trang phục có phần sắc màu hơn khi trình diễn ở một số sân khấu
chuyên nghiệp, người nam thường mặc bộ hanbok bao gồm jeogori (áo jacket/저고리),
baji (quần/바지) và durumagi (áo choàng/두루마기) đi kèm với gat (mũ/갓), dây buộc
ngang lưng dalleyong. Nếu là nữ thì thường mặc hanbok bao gồm jeogori và chima kèm
với nơ otgoreum thắt ở eo. Bên cạnh đó cũng khơng thể thiếu tất trắng beoson. Người hát
thường một tay cầm quạt và một tay cầm chiếc khăn tay gấp một.
Trong một vở diễn, một sorikkun đảm nhiệm rất nhiều vai nên việc diễn xuất cực kỳ khó
khăn, địi hỏi sự ứng biến linh hoạt, đặc biệt là giọng hát sao cho ăn khớp với phong cách
nhân vật, từ thần thái, tâm trạng đến những chi tiết đặc trưng nhất giúp khán giả khi xem
xác định được phân khúc vở diễn, người hát đang hoá thân vào ai, phải diễn cho ra thần
thái, đặc trưng nhất của nhân vật. Về sau, sàn diễn thêm một sorikkun (thường là đơi nam
nữ) thì việc kể trở nên dễ dàng hơn, cảm xúc cũng trở nên hiệu quả hơn rất nhiều. Để hát

kể một câu chuyện dân gian là sự kết hợp thuần thục của nhiều yếu tố: sori (ca hát/소리),
aniri (ngâm thơ/아니리), và pallim (biểu hiện cơ thể/발림). Chiếc quạt trên tay người nghệ
sĩ là đạo cụ có chức năng như “đũa nhạc” chỉ duy dàn đồng ca của vị nhạc trưởng. Khi
chiếc quạt được vẫy lên cùng với động tác hất chân nhằm tạo điểm nhấn trong chuyển động,
đồng thời tăng sức biểu cảm cho quá trình diễn xuất. Đồng thời, việc vẫy chiếc quạt trên
tay cịn có tác dụng thông báo thay đổi cảnh vở diễn.


22

Người đánh trống (gosu/고수) là bạn diễn trung thành với các sorikkun, sự thành
công của một vở diễn, người đánh trống chiếm gần 50% hiệu suất. Gần như vai trò của
nhạc trưởng, Gosu cho nhịp điệu, không chỉ là nhịp trống mà cịn là tiếng hơ chuimsae
(추임새) tương tự như tiếng kakeegoe trong các buổi diễn cổ nhạc Nhật Bản hoặc các
tiếng la ó “Olé” trong buổi diễn flamenco. Vì đây là nghệ thuật hát kể, cần giai điệu để
diễn nên người đánh trống dùng tay/dùi đập vào mặt trống ngồi yếu tố tạo nhịp cịn
giúp ca khúc trở nên có tiết tấu hơn. Lối diễn này gần với cách chơi trống cajon (trống
thùng) ở các ban nhạc acoustic bây giờ. Tiếng hơ có thể là một ngun âm đơn giản vơ
nghĩa, khi là những từ ngắn để khuyến khích, thúc giục, khích lệ về phía người biểu
diễn, làm tăng phần sinh động.
Để buổi diễn trở nên hoàn hảo một cách tuyệt đối, khán giả khi xem ngoài chuyện
thưởng thức còn kết hợp cùng người đánh trống tạo nên một tổng thể hài hoà cho buổi
diễn pansori. Cũng như Gosu, khán giả đồng thanh hô vang những từ ngắn như Olsiku
(얼씨구) hay Chotha (좋다) để tạo nên tiết tấu khuyến khích nghệ sĩ biểu diễn thêm
phần hăng say.
Diễn pansori là diễn bằng trái tim và trí óc. Trái tim xuất phát từ sự trải đời, mang
linh hồn vở diễn truyền đến người xem. Cịn trí óc là sự tỉnh táo, ứng biến linh hoạt, …
để diễn mà như không diễn, ta khơng cịn là ta, mà là chính nhân vật. Thơng qua lời hơ
ứng của khán giả, có thể đồng thanh hoặc rời rạc, hô hay không hô mà người hát nắm
bắt được khơng khí khán phịng, hiểu được mực độ cảm thụ của người xem. Từ đó, tuỳ

vào đối tượng và tính cách khán giả mà người hát sẽ linh động tự điều chỉnh sai cho
phù hợp để kéo cảm xúc người thưởng thức, để vở diễn trở nên có nghĩa. Bên cạnh đó,
sự linh hoạt biến tấu nội dung đoạn diễn sao cho phù hợp với địa điểm diễn xướng cũng
là phần đáng quan tâm. Cho nên, sân khấu dành cho tầng lớp thượng lưu phải diễn khác
với tầng lớp thường dân.
Nhà văn Kim Hong-sin cho biết: “Pansori là hình thức nghệ thuật tái hiện lại những
câu chuyện, ví dụ như tiểu thuyết bằng lời ca. Ngồi “thanh âm” là tiếng ca của người
hát, Pansori còn được diễn tả bằng lời nói, điệu bộ, ngơn ngữ cơ thể … Nếu khơng
thường xun nghe Pansori thì rất khó để hiểu đồng thời không cảm nhận được hết cái
hay của loại hình nghệ thuật này. Phải tìm hiểu và nghiên cứu sâu mới thấy được sự
cộng hưởng vừa tinh tế, vừa hùng tráng trong lời ca truyền thống dân tộc. Tôi là người


23

viết tiểu thuyết nhưng cũng thấy “choáng ngợp” và nể phục trước những lời ca uyển
chuyển, mạch lạc với kết cấu chặt chẽ, khoa học.” [47]
Để trở thành nghệ sĩ hát Pansori chuẩn mực, danh ca Pansori Shin Yeong-hee từng
chia sẻ: “Cũng giống như nhà sư đắc đạo, người hát Pansori cũng luôn hướng tới khát
vọng “đắc âm”, phải luyện tập để lấy hơi và “nhại” các âm thanh trong tự nhiên như
tiếng chiêng, tiếng sấm sét, tiếng chim, tiếng nước, tiếng gió, tiếng lá rơi... Hiện nay chỉ
có ba danh ca Pansori còn sống trong 100 danh ca Pansori tiêu biểu của Hàn Quốc, cịn
chúng tơi khơng dám nhận mình đã được “đắc âm”, đó cịn là một hành trình dài cho
đến tận cuối đời.” [47] Để truyền đạt được đúng cái tình, cái lý và chất biếm họa ẩn
chứa trong từng lời ca Pansori phải dành cả đời người để suy nghiệm mới có thể trần
tình một cách thấu đáo.
Pansori vinh dự được bình chọn là di sản văn hóa phi vật thể quan trọng thứ 5 của
Hàn Quốc. Năm 2003, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
(UNESCO) đã cơng nhận hát kể chuyện Pansori là “Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi
vật thể của nhân loại”.

Dựa trên ngữ liệu dân gian chế tác, lời ca Pansori dịch chuyển nguyên vẹn sang
thành tiểu thuyết pansori, từ thế nghe/nhìn sang thế đọc để cảm. Đây có thể xem là việc
ghi chép lại, một hình thức của lưu giữ như văn học dân gian. Tiểu thuyết loại hình
Pansori được viết bằng thể văn vần, tạo thành bởi lời ăn tiếng nói của tầng lớp bình dân
đương đại nên văn phong đậm tính khẩu ngữ. Cho nên, cái đạt được chính là tiểu thuyết
Pansori có sự “tươi trẻ, tràn đầy sinh khí” [15]
Từ nguồn gốc diễn xướng hát – kể, tiểu thuyết Pansori mang đặc điểm tích hợp và
linh hoạt của loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống. Ở hình thức văn bản (một câu
chuyện), Pansori có sự kết hợp giữa xướng (Chang/창/những đoạn hát bằng thơ, xoay
quanh những cảnh, những sự kiện đơn) và nói (Aniri/안나리/những đoạn nói bằng văn
xi), khi dịch chuyển sang lối diễn đạt bằng ngôn từ vẫn không đánh mất tính chất căn
bản qua sự hồ trộn giữa văn xuôi và thơ. Tức là lúc kể người viết sẽ dùng văn xi
khơng có vần điệu gì (tản văn), nếu khai thác góc độ tâm lý nhân vật thì dùng loại văn
có vần điệu (chỉ chung cho các loại thơ/vận văn) để trình bày.
Đối với sự trình diễn, Pansori phải là sự tổng hoà của hai cặp quan hệ song song: ca
sĩ với nhạc công chơi trống và diễn viên với khán giả. Một vở diễn thành công không


24

thể thiếu một trong hai, vì thế Pansori tạo nên tính linh hoạt, mềm dẻo, ứng tác. Theo
GS. Cho Dong Il, cấu trúc tự sự Pansori gồm hai phần: lõi (khung cơ bản mang tính bất
biến) và ngoại biên (mở rộng biến đổi uyển chuyển). Về khả năng ứng tác, từ nội dung
cụ thể người ca có thể nới giãn đường biên của các sự kiện, gắn kết, ứng biến linh hoạt
để tạo nên tính hấp dẫn, thời sự, … Cũng chính từ các yếu tố trên khi chuyển sang hình
thái tiểu thuyết, mỗi câu chuyện nguyên bản sẽ được tạo nên nhiều dạng văn bản khác
cùng mẫu gốc nhờ độ mã hoá của tư duy cá biệt, một dạng dị bản của văn học dân gian.
Trên cơ sở các bài hát kể Pansori thành hình, có cốt truyện, nhóm tác giả khuyết
danh sẽ lưu lại dưới hình dạng của tiểu thuyết để truyền bá. Hiện nay còn lại bảy tiểu
thuyết Pansori phổ biến cho đến ngày nay: Chunhyang cheon (Xuân Hương truyện),

Simcheong cheon (Thẩm Thanh truyện), Heungbu cheon (Hưng Phu truyện), Tokki
cheon (Truyện Thỏ), Pae Pijang cheon (Bái bì tướng truyện), Changkki cheon (Truyện
gà lôi trống), Ong Kojip cheon (Truyện kẻ ngoan cố).
Phần lớn các tác phẩm dựa trên những cốt truyện trong văn học truyền thống, ngay cả
các nhân vật nhiều giả thuyết cho rằng lấy từ nguyên mẫu người thật, việc thật rồi sáng tạo
nên theo ước muốn của người viết, chẳng hạn như: Thẩm Thanh ca lấy từ những truyện cổ
tích về người con gái hiếu hạnh; Xích Bích ca dựa vào một trích đoạn của Tam Quốc diễn
nghĩa, Truyện Thỏ triển khai từ truyện ngụ ngôn động vật, … Về nhân vật Lý Mộng Long
trong Truyện Xuân Hương được cho là lấy nguyên mẫu từ một người thuộc gia tộc họ
Thành tên là Seong Y seong (1595 – 1664) [28,56], …
Ra đời và kế thừa từ văn hố bình dân, tiểu thuyết Pansori hướng đến những vấn đề
của người bình dân, suy nghiệm về các giá trị Chân – Thiện – Mỹ của hiện tại. Đề tài
và nhân vật của dạng tiểu thuyết này rất đa dạng và phong phú. Các sáng tác thường
gắn với những quan hệ xã hội, đạo đức Nho gia như tam cương, ngũ thường. Có tác
phẩm đề cập đến tình yêu hôn nhân bất đối xứng, tiện nữ/thường dân yêu nam quý tộc
và phê phán sự ngạo ngược, độc quyền của bọn tham quan (Xuân Hương truyện). Có
sáng tác dương cao tình yêu hiếu đạo, hi sinh vì cha mẹ (Thẩm Thanh ca); một số khác
thì đề cập đến sự phân hố giàu >< nghèo, lịng tham, giả dối của giai cấp thống trị,
…Xoay quanh các mối quan hệ như Vua – tôi, anh em họ hàng, bạn bè thân thích (Xích
Bích ca, Thuỷ cung ca), … Các nhân vật Pansori ngồi các yếu tố về đặc trưng, mục
đích văn bản hướng đến, nhân vật thường mang chung một điểm là có khả năng siêu


25

phàm, dám đương đầu với những nguy biến khi chúng diễn ra. Đây là đặc điểm nổi bật
nhất đề khu biệt kiểu nhân vật so với các thể loại khác.
Để tăng tính hiệu quả cho sự diễn đạt, yêu tố hài hước, mỉa mai trở thành một trong
những phương thức nghệ thuật chính của thể loại này. Cái thu hút bạn đọc với tiểu
thuyết pansori còn ở chỗ cấu trúc tự sự hai tầng và chủ đề kép. Kế thừa tính đáp ứng

nhu cầu thưởng thức của khán giả yêu thích nghệ thuật diễn xướng pansori, tiểu thuyết
loại hình dân gian này phải đáp ứng được tính đa tầng, cấp tiến về lớp nghĩa biểu đạt.
Nhà nghiên cứu Cho Dong Il đã chỉ ra sự tích hợp của cấu trúc tự sự trong văn bản như:
chức năng giáo huấn và giải trí, cảm hứng bị kịch song song với hài hước, tếu táo; ngôn
ngữ truyền thống, trau chuốt, hàn lâm, … với khẩu ngữ thô mộc, dâm tục. [7]
Tiểu thuyết Pansori ra đời là bước tiến đáng nhớ trong lịch sử tiểu thuyết, hình thành
nên dịng tiểu thuyết độc đáo từ ngôn ngữ, chủ đề/đề tài, thủ pháp, đến ý đồ biểu đạt đa
chiều của nó. Hiện nay, tiểu thuyết Pansori được nhắc đến nhiều và tiêu biểu nhất chính là
Chunhyang cheon (Xuân Hương truyện) – “Kim tự tháp vĩnh cửu của văn học Hàn Quốc”.
1.3.

Truyện Xuân Hương (춘향전/春香傳/Chunhyang Jeon) – đố hoa “bất tử”

Truyện Xn Hương thuộc dịng tiểu thuyết cổ điển Pansori. “Thuật ngữ “saseol”
trong tiếng Hàn cũng như “tiểu thuyết” trong tiếng Hán định danh cho tất cả những thể
loại chuyện kể (tự sự, narration) hư cấu (fiction), bất kể dung lượng ngắn dài. Bao gồm
đoản thiên tiểu thuyết, trung thiên tiểu thuyết, trường thiên tiểu thuyết.” [7,149-150]
Thoạt đầu, theo quan niệm trước đây, đặc biệt là quan niệm của Trung Quốc, tiểu thuyết
được hiểu là những sáng tác thoại bản, truyện ngắn (“vi hình tiểu thuyết”) như Tiễn
Đăng tân thoại (Trung Quốc), Truyền kỳ mạn lục, Việt Điện U Linh (Việt Nam)l, Kim
Ngao tân thoại (Hàn Quốc), … Tuy nhiên, con người của thế kỷ XVIII-XIX có nhu cầu
viết về những điều cao cả, quy mơ hơn, bao quát được toàn bộ “những điều trong thấy”
cho nên các sáng tác về sau đều có khuynh hướng viết theo kiểu truyện dài. Đối sánh
với nhan đề sẽ nhận thấy sự giãn nở của thể loại theo mục đích cá nhân khi tác giả cụ
thể hố thể loại bằng tên truyện: “Truyện Xuân Hương/춘향전/春香傳/Chunhyang
Jeon”. “Truyện/전/傳/Joen” nghĩa là văn kể chuyện, xác định tính “tự sự” khi viết về
cuộc đời của một nhân vật. Đối với bản dịch, người chuyển ngữ dịch sát nghĩa, không
biến đổi hay cải biên. Lối định danh bằng thể loại này được dùng khá nhiều như Hồng



×