1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
TRẦN THANH NHÀN
NHÂN VẬT LÃNG DU
TRONG TIỂU THUYẾT PATRICK MODIANO
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Đà Nẵng, tháng 01/2020
2
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
NHÂN VẬT LÃNG DU
TRONG TIỂU THUYẾT PATRICK MODIANO
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Người hướng dẫn:
GVC. Ts. Nguyễn Phương Khánh
Người thực hiện:
TRẦN THANH NHÀN
(Khoá 2016 – 2020)
1
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kì cơng
trình nào khác hoặc các nội dung do người khác thực hiện ngoại trừ những trích dẫn
được dẫn nguồn đầy đủ trong luận văn.
Tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi.
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, bên cạnh nỗ lực của bản thân, em còn nhận được
sự giúp đỡ, hướng dẫn quý báu từ nhiều cá nhân và tập thể. Em xin gửi đến đội ngũ
giảng viên khoa Ngữ Văn trường Đại học Đà Nẵng – Đại học Sư phạm lời cảm ơn sâu
sắc, bởi những kiến thức cũng như sự quan tâm giảng dạy tận tình của quý thầy cô
trong suốt bốn năm qua.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ts. Nguyễn Phương
Khánh, người đã nhiệt tình, sâu sát hướng dẫn em thực hiện luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong q trình nghiên cứu, song luận văn khơng
tránh khỏi những tồn tại, hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được nhận được sự
góp ý chân thành của quý thầy cô giáo.
3
LƯU Ý VỀ KÝ HIỆU PHỤ LỤC
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có dịch nghĩa một số trích dẫn
tiếng Anh, tuy nhiên nếu đưa nguyên tác vào phần chính để đối chiếu sẽ rất
rườm rà. Do vậy, chúng tôi quyết định tổng hợp thành bảng: NGUYÊN TÁC
TIẾNG ANH NHỮNG PHẦN DỊCH NGHĨA TRONG LUẬN VĂN, đính
kèm ở phần phụ lục cuối luận văn.
Các nguyên tác trích dẫn trong bảng phụ lục được đánh số thứ tự bằng chữ
số Ả-rập, được đặt trong dấu ngoặc đơn (...)
Ví dụ:
“Q khứ khơng bao giờ chết, bản thân q khứ thậm chí khơng phải là quá
khứ” (1) [52]
Đối chiếu với bảng phụ lục, thì nguyên tác là:
(1) “The past is never dead, it is not even past.”
4
MỤC LỤC
A - MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 5
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................... 5
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 6
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ...................................................................................... 21
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ......................................................................................... 22
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................................. 22
6. BỐ CỤC ..................................................................................................................... 22
B – NỘI DUNG ................................................................................................................. 24
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI LÃNG DU VÀ TRIẾT LÝ “TRÔI DẠT” 24
1.1. Khái quát về con người lãng du (The flâneur)..................................................... 24
1.2. Lý thuyết “trơi dạt” – một cái nhìn về kiểu con người lãng du ........................... 33
1.3. Patrick Modiano – nhà văn của ký ức và những con người lãng du ................... 41
CHƯƠNG 2. NHÂN VẬT LÃNG DU KIỂU PATRICK MODIANO......................... 47
2.1. Nhân vật lãng du mang đặc trưng Patrick Modiano ............................................ 47
2.2. Những không gian “trôi dạt” – Paris trong mắt kẻ lãng du ................................. 61
2.3 “Thời gian chết” và những điểm kí ức của kẻ lãng du ......................................... 66
CHƯƠNG 3. CON NGƯỜI VÀ HÀNH TRÌNH LÃNG DU TRONG HUYỀN ẢO... 71
3.1. Giấc mơ – Hành trình của tiềm thức và ẩn ức ..................................................... 71
3.2. Hành trình từ bóng tối đến “TÂM MÙA HÈ” ..................................................... 77
C - TỔNG KẾT ................................................................................................................. 92
D – TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 97
E - PHỤ LỤC .................................................................................................................. 101
5
A - MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Quá khứ khơng bao giờ chết, bản thân q khứ thậm chí khơng phải là q
khứ” (1) [52]
Câu nói ấy đã khiến “khúc cầu hồn” của William Faulkner còn vang vọng mãi
như một bài ca về sự bất tử của cái được gọi là quá khứ. Những điều tưởng đã khép lại
sau bước đi của thời gian mà vẫn vọng mãi đến hiện tại, dai dẳng và đôi khi thay đổi
cả cái đang hiện diện. Sự bất tử cùng sức mạnh của quá khứ chưa bao giờ khiến các
nhà văn ngừng trăn trở về nó. Câu hỏi đặt ra là: nếu quá khứ mạnh mẽ như thế, thì con
người đứng ở đâu trong mối quan hệ phức tạp này? Vai trò của con người là gì, khi
chính chúng ta là nơi xuất phát của cái gọi là quá khứ ấy? Đi qua thời gian con người
cịn lại gì? Chúng ta bước qua thời gian hay chính thời gian mới ở thế chủ động? Toàn
bộ văn nghiệp của nhà văn Pháp Patrick Modiano là đi tìm câu trả lời cho những băn
khoăn ấy. Nhưng các sáng tác của ông không khai thác đề tài quá khứ nói chung mà
tập trung sâu hơn vào một dạng thức đặc biệt của nó: hồi ức.
Nhà văn với những ám ảnh về Paris đau thương cô đơn từ chiến tranh, đã sáng
tạo những kí ức về một thời đại mà ông chưa từng trải qua nhưng tất thảy đều rất tinh
xảo. Với Modiano, kí ức khơng chỉ là những điều được con người ghi nhận và hồi
tưởng; nó rộng hơn thế, mạnh mẽ hơn nhận thức của con người. Khơng có kí ức, con
người chỉ cịn là những chiếc bóng nhạt màu. Đọc tác phẩm của ơng là đằm mình trong
những miền xa vắng, cảm nhận sự đi trong không gian và dãn cách thời gian trong câu
chữ. Lặp đi lặp lại xuyên suốt các sáng tác của ông là nỗi niềm trăn trở về sự lãng quên
quá khứ cùng ám ảnh câu hỏi “tôi là ai”. Các nhân vật của nhà văn luôn miệt mài
với hành trình tìm kiếm và xác tín q khứ, hồi ức của mình, như một cách định vị
bản thân trong cuộc sống hiện tồn. Những cuộc truy tìm khơng hồi kết ấy cộng
hưởng cùng nhau, tạo nên motif những nhân vật lãng du rất đặc trưng trong sáng
tác của Patrick Modiano.
Giới nghiên cứu phê bình văn chương, đặc biệt là trên trường quốc tế, mảnh đất
mang tên Modiano đã có gần 30 năm khai phá tìm hiểu, vốn đã triển khai rất nhiều
khía cạnh độc đáo trong tiểu thuyết của nhà văn. Song trong q trình tìm hiểu, chúng
tơi nhận thấy rằng, mặc dù lặp đi lặp lại, có thể sánh ngang với các vấn đề nổi bật khác
như: “căn cước” cá nhân, kí ức,…; nhưng kiểu con người lãng du lại ít được chạm đến
6
hơn cả. Bên cạnh đó, như chúng tơi sẽ trình bày ở phần lịch sử nghiên cứu tiếp
theo, giới nghiên cứu trong nước vẫn chưa dành cho “nghệ nhân kí ức” này một sự
quan tâm xứng đáng. Căn cứ vào các cơng trình nghiên cứu quốc tế và trong nước,
trong luận văn này, chúng tôi tập trung làm rõ đề tài: Nhân vật lãng du trong tiểu
thuyết Patrick Modiano.
Tất cả hành trình truy tìm một thời xa vắng của những kẻ lãng du ấy đều để
“tranh đấu không ngừng chống lại chứng mất trí nhớ và chống lại sự lãng quên” bởi
“ngày nay ký ức kém chắc chắn về mình hơn rất nhiều” và vì “người ta chỉ nắm bắt
được những phần mảnh của quá khứ, những dấu vết bị gián đoạn, những số phận con
người ln đào thốt và hầu như không thể nắm bắt được”. Các tác phẩm của Patrick
Modiano luôn hàm chứa những giá trị sâu sắc về tư tưởng và nội dung, luận văn này
mới chỉ đưa ra những tìm hiểu bề mặt của “tảng băng trơi” cịn khá mới mẻ ở Việt
Nam; ngõ hầu đem đến một con đường nghiên cứu và tiếp nhận các sáng tác của cây
bút Nobel 2014 này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Xuất hiện trên văn đàn ở độ tuổi 23 với sự dìu dắt của Raymond Queneau,
Patrick Modiano cùng tiểu thuyết đầu tay Quảng trường ngôi sao (1968) đã ngay lập
tức gây được tiếng vang với giải Roger Nimier và Fenéon. Tiếp tục khẳng định tên
tuổi trước công chúng, năm thứ 10 cầm bút, Phố của những cửa hiệu u tối (1978) đã
đem về cho nhà văn trẻ giải thưởng văn chương Goncourt quý giá của nước Pháp. Từ
đó, đều đặn mỗi năm ông cho ra một tác phẩm. Sức viết và tài năng ấy không chỉ được
công nhận bởi viện Hàn lâm Pháp vào năm 2000, Patrick Modiano đã trở thành nhà
văn Pháp thứ 15 nhận giải Nobel danh giá. Sự kiện quan trọng này, đồng thời, cũng
đưa tên tuổi của ơng vươn ra thế giới.
Khách quan mà nói, cho đến trước thời điểm đọc Diễn từ Nobel vào tháng
12/2014, Patrick Modiano đã khơng cịn là cái tên q xa lạ với giới nghiên cứu quốc
tế. “Hơn 35 năm trong sự nghiệp cầm bút với hàng loạt các giải thưởng quan trọng của
Pháp, các tác phẩm thường xuyên xuất hiện trong danh sách bestsellers, ngần ấy yếu tố
cũng đủ để biến Modiano trở thành một trong những gương mặt nổi bật của văn
chương thế giới giai đoạn cuối XX – đầu XXI” [10]. Tuy vậy, nhìn chung, cho đến nay
các cơng trình nghiên cứu về cây bút này, cơ bản có thể chia làm 2 xu hướng rõ rệt.
Một là, từ nền tảng tự sự học mở rộng khai thác các yếu tố liên quan như: tiểu sử
7
(biography), tự truyện (autobiography), giả tự truyện (autofiction), hư cấu (fiction),
(nhại) trinh thám. Hai là, đi vào làm rõ sự ám ảnh của thời kì Nazi, sự kiện Holocaust
cũng như sự kết hợp giữa các sự kiện lịch sử liên quan với yếu tố hư cấu trong các
sáng tác của Patrick Modiano.
1. Việc sử dụng lý thuyết tự sự học soi chiếu các tầng nghĩa trong tác phẩm
Modiano xuất hiện từ rất sớm và nhanh chóng đặt nền tảng cho vấn đề phê bình nghiên
cứu văn chương của cây bút Goncourt 1978. Năm 1986, tác phẩm Patrick Modiano:
Những mảnh vỡ nhân dạng (Patrick Modiano: pièces d’identité) [23] của Colin
Nettelbeck - Penelope Hueston; và bài viết trên tạp chí Substance (Vol.15) của Gerald
Prince: Hồi tưởng Patrick Modiano, hay là những điều đã xảy ra (Re-Membering
Patrick Modiano, or Something Happened) [30] được xem là những cơng trình tiên
phong cho con đường này. Dù dung lượng và phạm vi tác phẩm khảo sát có khác nhau
nhưng nội dung cơ bản của hai cơng trình này đều hướng đến phân tích đặc điểm
chung của nhân vật trên các phương diện tiêu biểu như: tên gọi, ngoại hình, hành
động,… Qua đó chỉ ra motif nhân vật trong sáng tác Modiano là “những đứa trẻ của
giấc mơ và sự vắng mặt” (Modiano’s protagonists are the children of dream and
absence). Một vài khía cạnh phong cách, ví dụ như tính nhạc trong cấu trúc của Sổ hộ
tịch (Livret de famille); chất châm biếm, mỉa mai (ironic), giễu nhại (parody) trong
giọng trần thuật của nhà văn,… bước đầu được chạm đến, tuy chỉ dừng lại ở những
nhận xét khái quát, xong cũng đã hé mở thêm nhiều hướng đi cho những người tiếp
bước. Tiếp nối Nettelbeck, Hueston và Prince, là Thierry Laurent với Sáng tác của
Patrick Modiano: một vấn đề giả tự truyện (L’Oeuvre de Patrick Modiano: une
autofiction [46] – 1997). Có một thực tế là, bước sang thế kỉ XX, văn chương thế giới
nói chung và văn đàn Pháp nói riêng, chứng kiến sự nảy nở mạnh mẽ của thể loại tự
truyện với các tên tuổi không thể lãng quên: Ch.Dicken, M.Gorky, L.Tolsoy, Claude
Simond, Hervé Guibert, Assia Djebar, Georges Perec,… Nhất là khi Serge
Doubrovsky, năm 1977 đã sáng tạo thuật ngữ “autofiction” (giả tự truyện) thì thể loại
này càng thu hút được nhiều sự quan tâm của giới phê bình nghiên cứu. Nhiều lý
thuyết xung quanh vấn đề tự sự (narration), yếu tố tiểu sử (biography), tự truyện
(autofiction – autobiography),…lần lượt được công bố. Bối cảnh ấy đã cung cấp cho
cơng trình nghiên cứu của Laurent cơ sở lý luận khá vững chắc. Tác giả tập trung làm
rõ sự ảnh hưởng của hồn cảnh gia đình cũng như thời thơ ấu, vốn dĩ là một trong
8
những đặc trưng cơ bản của một tác phẩm tư truyện, trong các sáng tác của Patrick
Modiano. Tên của công trình cũng chính là kết quả của q trình nghiên cứu đối chiếu
lý thuyết với tác phẩm. Laurent đã phát hiện sự vênh lệch nhất định giữa các tiểu
thuyết của Modiano với quan điểm về tự truyện truyền thống, và từ quan điểm của
Doubrovsky, bà khẳng định rằng: Các sáng tác của Patrick Modiano là những tự
truyện đã được hư cấu, nói cách khác, chúng nên được xếp vào kiểu giả tự sự hơn là
những “tiểu thuyết tự truyện đầy lãng mạn” (autobiographie romanceé), và rằng, thay
vì vẽ lại chân dung của mình, dường như tất thảy các tiểu thuyết của nhà văn đều đưa
tới một nỗ lực tìm kiếm nhân dạng (identity) cho chính mình.
Mặc cho những lý luận về tự sự học và các lý thuyết liên quan đã q “quen
mặt” trong những cơng trình khoa học về văn chương, thì bước sang thế kỉ XXI,
khuynh hướng nghiên cứu này vẫn tỏ ra đắc lực và hiệu quả trong việc nhìn nhận giá
trị các sáng tác của Patrick Modiano. Trong thập niên đầu tiên, các tác phẩm mang tính
chất tự truyện vẫn cịn được nhắc nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu và phê bình văn
học; bởi các sáng tác này cịn bao hàm vấn đề về cái tơi (The Self), về câu hỏi: Tôi là
ai? Từ tiền đề đó, sử dụng lý thuyết tự sự học của Genette và những lí luận văn học
hậu hiện đại, Akane Kawakami với Tiểu thuyết hậu hiện đại của Patrick Modiano.
Một nghệ thuật tự ý thức (A Self-conscious Art. Patrick Modiano’s postmodern
fictions– 2000) [17], có thể nói đã giải quyết vấn đề hành trình đi tìm căn cước được
thể hiện như thể nào qua các ngôi kể trong các trang viết của Modiano, cũng không
quên chỉ ra những điểm mới trong tài năng nghệ thuật của nhà văn. Cơng trình của
Akane Kawakami gồm 6 chương nhưng chia đều giải quyết 2 vấn đề chính: ba chương
đầu tập trung vào cơ sở lí thuyết cũng như phân tích vai trị của ngơi trần thuật, trật tự
trần thuật, giọng trần thuật, các thì và tính chân thực của các sự kiện. Phần cịn lại chú
trọng làm rõ sự độc đáo, mới mẻ trong việc chuyển tải các vấn đề tưởng như đã khơng
cịn q lạ qua một số tác phẩm tiêu biểu. Cũng ở 3 chương cuối này, Kawakami đã nỗ
lực lý giải nguyên nhân của “hiện tượng Modiano”. Sau Akane Kawakmi, có thể xếp
cơng trình của Dervila Cooke: Thì q khứ. Những (giả) tự truyện của Patrick
Modiano (Present Past. Patrick Modiano’s (Auto)Biographical Fictions) [26] vào dịng
chảy của hướng nghiên cứu này. Tính đến năm 2005, Patrick Modiano đã cho ra đời
24 tác phẩm, Dervila Cooke chọn lọc phân tích phân nửa số lượng các sáng tác ấy để
phục vụ cho công việc nghiên cứu của mình. Khoanh vùng khảo sát rộng như vậy, học
9
giả đã lấp đầy những khoảng trống mà Thierry Laurent chưa chạm tới trong Sáng tác
của Patrick Modiano: một vấn đề giả tự truyện (L’Oeuvre de Patrick Modiano: une
autofiction – 1997). Bên cạnh các chủ đề không thể thiếu: nhân vật, nơi chốn, ngôi trần
thuật, tự sự học, tự truyện, giả tự truyện,...; tiến xa hơn Laurent, Cooke sử các quan
điểm của Gerard Genette trong cuốn Paratexts: Những ngưỡng cửa của sự diễn giải
(Paratexts: Thresholds of interpretation - 1997) để làm rõ hơn các yếu tố làm nên thành
công cho các tiểu thuyết Modiano. Điển hình như việc chia cơng chúng đọc của
Patrick Modiano thành 4 dạng: độc giả đã đọc những văn bản liên quan (đến tác phẩm
hoặc tác giả) (paratextually informed readers) và độc giả chưa đọc những văn bản
liên quan (non-paratextually informed readers), độc giả đọc nhiều văn bản
(multiple-text readers) và độc giả chỉ đọc đơn lẻ một tác phẩm
(single-text
readers) [26, tr.25-28]; qua đó giải quyết thuyết phục hơn vai trò như là 1 thám tử
của người đọc khi dấn thân “điều tra” tác phẩm (Readers and Investigation). Thêm
vào đó, với mỗi luận điểm mà mình đưa ra, Cooke đều chứng minh rõ ràng qua các
tác phẩm hợp lí. Tuy vậy, khách quan mà nói, Cooke vẫn có khoảng hẫng nhất
định, một trong số đó là sự lặp lại không cần thiết của những vấn đề gần như đã
được giải quyết rốt ráo ở những cơng trình trước; việc chỉ ra các yếu tố giả tự
truyện (autofiction) trong Sổ hộ tịch (Livret de famille) và Những chàng trai tốt
biết mấy (De si braves garcons) là một ví dụ [26, tr.91-126].
Cơng trình nghiên cứu cuối cùng của khuynh hướng này mà chúng tôi muốn đề
cập đến là Những đối tượng lịch sử: Danh tính và Ký ức trong người kể chuyện ngôi
thứ nhất của Patrick Modiano, Assia Djebar, và Hervé Guibert (Subjects of History:
Identity and Memory in the First Person Narratives of Patrick Modiano, Assia Djebar,
and Hervé Guibert) [48] của Vanessa Doriott Anderson, công bố vào năm 2012. Dù
người kể chuyện ngôi thứ nhất không phải lần đầu tiên được nhắc đến (nếu khơng
muốn nói là đã trở nên quen thuộc), dẫu vậy, Anderson vẫn có những phát hiện đáng
được lưu tâm đến: Hành trình đi tìm danh tính của Modiano khơng chỉ là nỗ lực cho
chính bản thân ơng mà cịn cho cả người Pháp những năm 1941-1944. Cụ thể hóa nhận
định này có thể kể đến việc phân tích trở lại đặc điểm của tên gọi các nhân vật: Những
cái tên của cha (In the Name of the Father) [48, tr.33-38]. Anderson chỉ ra rằng,
Modiano ít khi cấp cho nhân vật một họ rõ ràng, bao giờ ông cũng lựa chọn những cái
tên, hoặc bút danh Pháp quen thuộc. Ví dụ: Guy Roland (Phố của những cửa hiệu u
10
tối), Guy và Roland đều là những cái tên không thể xác định rõ là tên riêng hay là họ ở
Pháp. Đây có thể xem là một dạng thức nặc danh, tên giả, một kỹ thuật nhằm làm nhòe
đi danh tính của nhân vật (assumed identity) Điều này đã thêm một lần chứng minh về
ảnh hưởng khơng nhỏ của hình ảnh người cha trong quá trình sáng tác của Modiano.
2. Bên cạnh tự sự học và các vấn đề liên quan vừa được trình bày, thì sự kết hợp
giữa yếu tố lịch sử, nhất là những sự kiện liên quan đến thời kì Đức tạm chiếm, cuộc
thảm sát người Do Thái (The Horocaust), với yếu tố hư cấu và các đặc trưng về phong
cách nghệ thuật cũng rơi vào “điểm vàng” của các nhà nghiên cứu văn học quốc tế.
Tiên phong cho khuynh hướng này phải kể đến Marja Warehime với Nguyên bản và
Tự sự về niềm luyến tiếc: Bóng tối trong Phố của những cửa hiệu u tối của Patrick
(Originality and Narrative Nostalgia: Shadows in Modiano’s Rue de boutiques
obscures) [34]. Trong phạm vi một bài báo, nhưng Warehime đã khai thác khác khá
nhiều vấn đề tiêu biểu trong sáng tác của Patrick Modiano: sự nhập nhằng giữa tính
chất truyền thống và cái mới trong tiểu thuyết (traditional and “New” Novelist);
ngôn ngữ kể chuyện và những ẩn dụ độc đáo. Khơng chỉ phân tích sự tương đồng
và sáng tạo trong việc vận dụng yếu tố trinh thám để tăng tính lơi cuốn cho cốt
truyện, Marja Warehime cịn chỉ ra những “âm vang” của Proust trong văn phong
của Modiano [34, tr.339-340]. Dẫu các phát hiện của tác giả khá sâu sắc; khách
quan mà nói, hướng khai thác của Warehime đã mang màu sắc hậu hiện đại (sự
phân mảnh mạch truyện, nhòe mờ lằn ranh thể loại,…), nhưng tiếc là tác giả lại
chưa gọi tên các lý thuyết ấy một cách cụ thể, mà chỉ dừng lại ở “tiểu thuyết (gia)
mới” (“New” Novelist) dẫn đến một số phân tích cịn mang tính sơ lược, liệt kê mà
cơ sở lý luận lại chưa thực sự vững chắc. Người tiếp theo bị hấp dẫn bởi phong
cách Modiano là Timothy H. Scherman với bài báo: Dịch lại từ Hồi ức: Patrick
Modiano trong bối cảnh Hậu hiện đại (Translating from Memory: Patrick Modiano in
Postmodern Context) [47]. Có thể nói, bài viết này là sự phát triển, mở rộng phân tích
yếu tố trinh thám trong tác phẩm Patrick Modiano từ những nhận định cịn mang tính
khái qt của Nettelback và Hueston [23]. Scherman, một mặt ủng hộ các quan điểm
của 2 học giả, nhưng đồng thời cũng khẳng định tính phiến diện của ý kiến: tác phẩm
Modiano là một “trò chơi” kể chuyện (a narrative “game”) mang màu sắc trinh thám
và ta có thể đọc chúng như là đọc một kiểu truyện trinh thám vậy. Scherman cho rằng
Nettlback và Hueston đã không đặt các sáng tác của nhà văn vào bối cảnh hậu hiện đại
11
để mà suy xét và nhìn nhận chính xác hơn. Nhằm minh xác cho nhận định của mình,
tác giả lấy Phố của những cửa hiệu u tối làm dẫn chứng chính cho bài viết. Scherman
đi từ cảm hứng chủ đạo là sự mất mát và ám ảnh quá khứ dẫn đến tính mờ nhịe, trống
rỗng của nhân vật người kể chuyện Guy Roland; qua đó tiến hành so sánh để độc giả
thấy được sự vênh lệnh nhất định giữa tác phẩm với thể loại trinh thám truyền thống.
Ví dụ như việc không thể xác định “động cơ” Guy Roland đi tìm q khứ của chính
mình: “thật khó để tưởng tượng được lý do Guy bắt đầu cuộc tìm kiếm tìm q khứ
của chính anh, tìm kiếm những điều anh đã hồn tồn qn đi sau khi bị mất trí
nhớ, khi mà anh ta thậm chí cịn khơng “cảm thấy” rằng mình đã mất cái gì” (2)
[47, tr.296]; hoặc đặc điểm kết thúc mở cũng là một yếu tố khiến Phố của những
cửa hiệu u tối nói riêng và tác phẩm Modiano nói chung, chưa mang đặc trưng trinh
thám trọn vẹn: “…chúng ta bắt đầu thấy được cách thức Phố của những cửa hiệu u
tối làm mờ đi những giới hạn, dù đã giảm đi nhưng vẫn rõ ràng, của thể loại trinh
thám bởi sức hút lịch sử được xây dựng trong tác phẩm” (3) [47, tr.297]. Từ đây,
Scherman nhận định, việc mượn yếu tố trinh thám hòa quyện với lịch sử đã đem lại
cho các sáng tác Modiano sức hấp dẫn nhất định, đồng thời cũng là một trong những
đặc điểm phong cách của nhà văn.
Do Thái là một trong những chủ đề nổi bật xuyên suốt tiểu thuyết của Patrick
Modiano, nhưng phải đến năm 1994, vấn đề này mới được “chỉ mặt đặt tên” trong
Patrick Modiano: Một người Do Thái Pháp? (Patrick Modiano: A French Jew?) [39]
của Ora Avni. Tác giả bài viết nhấn mạnh, vấn đề “Tôi là ai?” trong tiểu thuyết
Modiano không đơn thuần là câu hỏi chung chung, mang tính phổ biến; mà nhà văn đã
thể hiện tài năng cũng như tư tưởng sâu sắc của mình khi dấn thân, và đã dấn thân một
cách suất sắc, vào việc truyền tải thân phận, cuộc đời, sự hiện hữu của người Do Thái
– một trong những mảng gai góc, hóc búa nhất của vấn đề “identity” : “Những tác
phẩm của Patrick Modiano là mẫu mực… không chỉ bởi các tiểu thuyết của ông luôn
tập trung vào câu hỏi về danh tính con người; mà cịn bởi văn chương của ông xuất
hiện như một bậc thầy trong việc giải quyết những danh tính gai góc nhất của nhân
loại: danh tính người Do Thái.” (4) [39, tr.230]. Đồng thời, bằng việc so sánh đối
chiếu Quảng trường Ngôi sao (La Place de l’Étoile), Những đại lộ ngoại vi (Les
Boulevards de ceinture) với tác phẩm nổi tiếng Đi tìm thời gian đã mất của Marcel
Proust; Avni, trong tương quan với Marja Warehime trong bài báo năm 1987, đã có
12
những phân tích rõ nét hơn về sự riêng biệt, mới mẻ trong văn phong của Patrick
Modiano. Năm 1996, dựa trên những gợi mở từ kết quả nghiên cứu của Nettelback và
Hueston, Patrick Modian [14] của Alan Morris có thể xem là cơng trình nghiên cứu
hồn thiện đầu tiên bằng tiếng Anh về cây bút Pháp đầy tài năng này. Bằng việc khám
phá ra sự kết hợp giữa các sự kiện lịch sử có thật với các yếu tố hư cấu cũng như với
nỗ lực giải mã sự đa nghĩa trong các sáng tác của Modiano, Morris một lần nữa chứng
minh đầy thuyết phục về những giá trị độc đáo của chúng. Tiếp đến là chuyên luận về
Patrick Modiano do Martine Guyot-Bender chủ biên với tựa đề: Những bản mẫu điển
hình của kí ức, Thời kì Tạm chiếm và những câu chuyện (lịch sử) khác trong tiểu
thuyết Patrick Modiano (Paradigms of Memory, The Occupation and Other Hi/stories
in the Novels of Patrick Modiano) [36], được cho là một bước tiến so với chuyên luận
năm 1993 của Bedner. Thay vì dàn trải trên nhiều lí thuyết, phương diện, các bài viết
tập trung làm rõ quá trình hồi tưởng và tái hiện (recollection and representation) quá
khứ và cách nhà văn tái tạo lịch sử thông qua các chi tiết hư cấu với các chủ đề tiêu
biểu: sự chuyển đổi nhân dạng (shifting identities), những bức ảnh,… những yếu tố
làm nên sự hấp dẫn cho những hành trình bật tận, những cuộc truy đuổi, kiếm tìm kí
ức và q khứ khơng hồi kết của hầu hết các nhân vật.
Khía cạnh cá tính sáng tạo cũng như vấn đề lịch sử trong tác phẩm Modiano
tiếp tục trở thành đề tài cho Thời Tạm chiếm trong sáng tác của Patrick Modiano
(Figures de l’Occupation dans l’oeuvre de Patrick Modiano) [20] của Baptiste
Roux, xuất bản năm 1999. Không chỉ hướng đến các sự thật lịch sử đằng sau những
câu truyện của Modiano, Roux đã phân tích sự trở đi trở lại của các dạng thức nhân
vật, cách sử dụng các thì như một dấu ấn về nghệ thuật sáng tạo của nhà văn. Cũng
trong năm 1999, Martine Guyot-Bender quay trở lại với kết quả nghiên cứu đầy
mới mẻ: Hồi ức mơ hồ: Sự hòa quyện giữa chất thơ và tính chính trị ở Patrick
Modiano (Mémoire en dérive: Poétique et politique de l’ambiguit échez Patrick
Modiano [37] – 1999). Để đảm bảo tính khoa học, thuyết phục cho cơng trình này,
Bender đã dày công khảo sát 15 tác phẩm, từ Villa Triste (1976) cho đến Chien de
printemps (1993). Qua việc phân tích sự rời rạc, bất ổn và mơ hồ trong nỗ lực tái
hiện một cách chính xác một thời đã xa, cụ thể là những năm 1941-1944, bà đi đến
kết luận: Một trong những đặc điểm rất riêng của văn phong Patrick Modiano là sự
đứt đoạn, rời rạc của các trật tự chuyện kể. Sau đó, Gellings trong cơng trình của mình,
13
Chất thơ và thần thoại trong tác phẩm của Patrick Modiano:gánh nặng của những di
dân (Poét et mythe dans l’oevre de Patrick Modiano: le fardeau du nomade) [42], làm
rõ hơn sức vẫy gọi của những cái tên, địa điểm và ngôn từ. Đồng thời, Gellings cũng
phát hiện trong các tiểu thuyết những dấu vết của thần thoại (myth), một lần nữa củng
cố thêm về sự thiếu ổn định, mơ hồ trong thế giới của Patrick Modiano. Hòa vào
khuynh hướng nghiên cứu chủ đạo thứ hai này; chúng tôi muốn nhắc đến Chân dung
người nghệ sĩ trong sáng tác của Patrick Modiano (Portraits de l’artiste dans l’oeuvre
de Patrick Modiano [19] – 2000) của Annie Demeyère và Hình ảnh người cha trong
sáng tác của Patrick Modiano (Les Images paternelles dans l’œuvre de Patrick
Modiano [25] – 2000) – Denise Cima. Cả hai công trình có nội dung tương đối gần
gũi, trung tâm là vấn đề sự hiện hữu của con người giữa cuộc đời, quá khứ, hồi ức, lịch
sử trong nhận thức của cuộc đời cá nhân, và của cả nhân loại; sự tự ý thức và cảm thức
bên lề tách biệt của các nhân vật. Tuy nhiên, cơng trình của Cima, như tựa đề của nó,
có phạm vi khảo sát hẹp hơn so với Demeyère, chủ yếu là sự ám ảnh về người cha, qua
đó khẳng định một tư tưởng nhân văn gửi gắm trong những con chữ rằng: những nạn
nhân của chiến tranh sẽ không bao giờ bị lãng quên. Trong khi đó, Demere nới
đường biên vấn đề rộng hơn, khơng dừng lại ở quá trình kiếm tìm hình ảnh người cha
mà cịn là sự cố gắng tìm kiếm nhân dạng của mình (Tơi là ai?). Demere nhận ra,
Modiano xem người nghệ sĩ, và chính bản thân ơng, như mơt vị khách “ngoại quốc”
(the foreigner), những “người khác” (the Other) trong chính các tác phẩm của mình.
3. Như vậy, chúng tơi vừa trình bày một cách khái quát về hai xu hướng chủ
đạo trong vấn đề phê bình nghiên cứu giá trị các sáng tác Patrick Modiano, thế nhưng,
đó vẫn chưa phải là cái nhìn tồn diện nhất. Bên cạnh 2 dịng chủ lưu này, cịn có một
số những bài báo, những kết quả nghiên cứu khác rất đáng chú ý, chúng là những điểm
màu khác biệt; tuy chưa thật hệ thống nhưng cho thấy vẫn còn những hướng tiếp cận
khác, còn nhiều tầng ý nghĩa của tác phẩm cần được khai phá. Người “tách dịng” sớm
nhất có lẽ là Vitaly Chernetsky với việc vận dụng lý thuyết Heterotopia (tạm dịch:
Không gian dị biệt) trong bài báo Qua những không gian dị biệt: Những địa hạt văn
bản trong Phố của những cửa hiệu u tối của Patrick Modiano và Kapitan Dikshein
của Mikhail Kuraev (Travels Through Heterotopia: The Texual Realms of Patrick
Modiano’s Rue des Boutiques Obscures and Mikhail Kuraev’s Kapitan Dikshein) [49].
Heterotopia vốn là một thuật ngữ trong kiến trúc, về cơ bản, khái niệm này nhằm chỉ
14
những kiểu sắp xếp, những không gian khác biệt, dị biệt với xung quanh. Trong khi
giới thuyết về thuật ngữ này, Chernetsky đã khẳng định Heterotopia không chỉ phù
hợp để phân tích các “ẩn dụ về những thế giới khác trong các tiểu thuyết” mà sử dụng
nó để tìm hiểu cấu trúc của văn bản dường như cịn thích hợp hơn và hiệu quả hơn rất
nhiều. Tác giả bài báo cũng cho rằng, “không gian dị biệt” không chỉ quan tâm đến cái
được diễn đạt trong văn bản; mà hơn thế, nó đi tìm câu trả lời cho câu hỏi về bản chất
của chính văn bản nghệ thuật ấy: “Tuy vậy, McHale đã giới hạn cách sử dụng của ông
về thuật ngữ này là chỉ để diễn tả những thế giới ngụ ngôn khác được thể hiện trong
những tác phẩm hư cấu…Tơi tin là thuật ngữ này có thể được dùng với nghĩa rộng hơn
là sự tổ chức văn bản, rằng khơng gian dị biệt khơng chỉ là những gì mà văn bản miêu
tả mà bản thân văn bản cũng đã là một không gian dị biệt” (5) [49, tr.255]. Với quan
niệm đó, Chernetsky đã chứng minh tiểu thuyết Modiano tự thân nó là một “khơng
gian dị biệt” độc báo trong “vũ trụ tiểu thuyết”, thông qua việc chỉ ra những biểu hiện
của các không gian ấy trong Phố của những cửa hiệu u tối. Trong số đó, “nhóm lạ”, sự
nổi trội, ám ảnh của thời kì chiếm đóng và motif nhân vật nam chính là những dấu
hiệu tiêu biểu nhất, được xem như đặc điểm trong phong cách sáng tác của nhà văn.
Dẫu vậy, khách quan mà nói, nhận định nêu trên là điểm sáng duy nhất trong bài viết
của Vitaly Chernetsky. Ngoài việc sử dụng một lý thuyết khá lạ trong xu hướng nghiên
cứu Modiano lúc bấy giờ, thì học giả dường như vẫn trở lại hoặc sử dụng lại những
phân tích quen thuộc của các nhà nghiên cứu trước; trong khi đó một số phát hiện mới,
điển hình là tác động của yếu tố phơng nền (ánh sáng, sương mù, bóng tối, tiếng
ồn,…) như một ý đồ nghệ thuật, đáng tiếc lại không được đào sâu. Tài liệu nghiên cứu
tiếp theo mà chúng tôi muốn đề cập là sự trở lại của Marja Warehime với bài viết:
Paris và tự truyện của một kẻ lãng du: Patrick Modiano và Annie Ernaux (Paris and
the Autobiography of a flâneur: Patrick Modiano and Annie Ernaux) [35]. Từ phụ lục
tài liệu tham khảo của Warehime, có thể nói, học giả là người đầu tiên nhận ra và chú
đến motif nhân vật lang thang trong các sáng tác của Modiano; vào thời điểm ấy, đây
thực sự là một bài phê bình phân tích sáng giá. Sử dụng quan điểm của Baudelair và
Benjamin về kiểu người flâneur, nổi lên từ thế kỉ XVI – XVII, Marja Warehime làm rõ
sự sáng tạo của Patrick Modiano trong việc xây dựng hình tượng con người lãng du,
lang thang trong tác phẩm của mình. Như tiêu đề của nó, bài viết một mặt chỉ ra sự đan
xen giữa yếu tố tự truyện với hư cấu lịch sử trong Dora Bruder, trên nền tảng đó, tác
15
giả chỉ ra những điểm mới trong nhân vật “người lãng du”. Flâneur của Modiano
không chỉ là con người du lãng mà còn là những thân phận chạy trốn. Sự tách biệt với
đám đông, xã hội hiện tồn cùng cảm thức tuyệt vọng, đau buồn, luôn tiếc nuối ám ảnh
quá khứ ở hầu hết nhân vật gợi nhắc đến flâneur của Baudelair, thậm chí là khơi gợi cả
motif flâneur của những nhà siêu thực: “Dora Bruder gợi lên những kẻ lãng du mang
tính chất của Baudelaire và siêu thực bởi chuyện kể nhấn mạnh sự hiện diện của người
bộ hành trong thành phố, sự tách biệt của anh ta với đám đơng, chí ít là trong trường
hợp của người lãng du theo quan điểm Baudelaire, nỗi u buồn và luyến tiếc đã định
hình nhận thức của anh ta.”(6) [35, tr.111].
Thế nhưng, nếu Baudelair và Benjamin cho rằng mỗi một người lãng du sẽ là
một nhà sử học của thành phố, thì Patrick Modiano chỉ đơn thuần để nhân vật của
mình thả bộ trên những con đường Paris quen thuộc nhưng cũng thật xa lạ, không một
bức tranh xã hội nào phản chiếu qua ánh nhìn của anh ta, cái bạn đọc thấy là sự trống
rỗng, cảm xúc rối bời và khát vọng đi tìm bản thể. Khép lại những tranh luận sôi nổi
về Patrick Modiano ở thế kỉ XX là xuất hiện trở lại của Alan Morris với cuốn Patrick
Modiano [15]. Morris tiếp tục thể hiện năng lực nghiên cứu của mình khi chỉ ra được
những ý nghĩa nghệ thuật hàm ẩn đằng sau những cặp đối lập: thực tại/ hư cấu – hư ảo
(réalité/rêve), tuổi trẻ/người già (enfance/âge adulte), hồi ức/sự quên lãng
(mémoire/oubli), sự rõ ràng/mờ nhòe (clair/obscur),… Với phát hiện này, Allan Morris
gián tiếp củng cố kết luận của Kawakami về các giá trị của tiểu thuyết Patrick
Modiano: một trong những tiểu thuyết gia hậu hiện đại tiêu biểu của văn học đương
thời, một hiện tượng độc đáo và phức tạp. Bước sang thế kỉ XXI, tiếng nói đầu tiên
của giới nghiên cứu phê bình về Modiano là bài luận ngắn trên tạp chí French Studies
Vol. LIX của Johnnie Gratton với tựa: Hậu ký ức, Tiền ký ức, Cận ký ức: Phong cách
sáng tác của Patrick Modiano (Postmemory, Prememory, Paramemory: the Writing
Style of Patrick Modiano) [32]. Trong bài viết của mình, Gratton trình bày ngắn gọn
và tập trung vào vai trị, sự hiện diện của kí ức, sự ghi nhớ trong các sáng tác của
Patrick Modiano; chủ yếu qua tác phẩm Sổ hộ tịch (Livret de famille), Dora Bruder.
Đáng chú ý ở bài viết này là từ khái niệm “postmemory” của nhân vật Hirsh (Sổ hộ
tịch), Johnnie Gratton đã đề xuất hai thuật ngữ mới: “prememory” và “paramemory”
để gọi tên các dạng biểu hiện của hồi ức trong tiểu thuyết Modiano. Qua đó khẳng
định: bằng kĩ thuật độc đáo, Patrick Modiano không chỉ gia tăng dung lượng cho hồi
16
ức/ trí nhớ (an extended capacity of memory), mà cịn tạo nên những “ẩn dụ kí ức” của
cá nhân thơng qua kí ức của những người khác: “Kịch bản đó là tác giảng đang ẩn dụ
một cách sáng tạo ký ức cá nhân thông qua ký ức của những người khác” (7) [32, tr.5]
Tạp chí Faux Titre năm 2005 đã dành trọn vẹn số 255 cho cơng trình nghiên
cứu của Dervila Cooke, cơng trình đã được nhắc đến trong xu hướng nghiên cứu chủ
đạo thứ hai; hai năm sau, hiện tượng Modiano dường như vẫn chưa hạ nhiệt, trong ấn
phẩm số 305: Patrick Modiano [31]. John E. Flower đã tập hợp các bài viết bao gồm
cả tiếng Anh và tiếng Pháp mới nhất về tác giả này. Ngay từ Lời nói đầu
(Introduction) [30, tr.7-18] đã có thể thấy đây là một tài liệu tham khảo đáng giá cho
những ai muốn tìm hiểu về cây bút Paul-Morand 2000. John E. Flower, người viết Lời
nói đầu và cũng là chủ biên, đã có cái nhìn bao qt về những cơng trình nghiên cứu
nổi trội cho đến thời điểm hiện tại, giúp độc giả hệ thống lại những vấn đề, những khía
cạnh đã được giải quyết; từ đó so sánh đối chiếu với các bài viết sẽ đọc để thấy rõ hơn
điểm mới trong quá trình nghiên cứu đánh giá chặng đường gần 40 năm sáng tác của
Patrick Modiano. Thêm vào đó, trong Faux Titre Vol. 305 này, chúng ta gặp lại những
cái tên đã quen từ trước trong lĩnh vực nghiên cứu phê bình văn chương của Modiano
như: Collin Nettelbeck, Alan Morris, Akane Kawakami, Dervila Cooke,… Trở lại với
Modiano sau 5 năm, Alan Morris trong bài luận And the ‘Blande’ played on: An
intertext for Patrick Modiano: Les Boulevard de ceinture đã thực hiện một cuộc “khảo
cứu” liên văn bản giữa tác phẩm Những đại lộ ngoại vi (1972) với bài báo “La
“Bande” vue de près” của André Billy xuất bản tại Le Figaro vào tháng 10/1944. Bằng
hướng đi liên văn bản như thế, Morris phần nào trả lời câu hỏi mà đông đảo cơng
chúng đọc thắc mắc: Làm thế nào Patrick có thể vẽ nên một bức tranh Paris những
đêm đen tạm chiếm, khoảng thời gian mà ơng chưa từng có mặt, một cách chi tiết đến
thế? Những bông hoa của quỷ, những bông hoa của sự lụi tàn: Bước đi trong Paris
cùng Baudelaire và Modiano (Flowers of evil, flowers of ruin: Walking in Paris with
Baudelaire and Modiano) của Akane Kawakami là sự tiếp nối, phát triển những nhận
định của Marja Warehime. Với khái niệm “Flâneur”, Kawakami tiếp tục đưa độc giả
quay trở về Paris thế kỉ XIX, nhìn lại những suy ngẫm của Baudelaire và Walter
Benjamin trong những buổi lang thang vô định khắp thành phố để rồi trở thành những
họa sĩ, những điều tra viên thực tại. Từ khái niệm thuộc bối cảnh hiện đại đó,
Kawakami liên tưởng, so sánh với bước chân rong ruổi của các nhân vật trong tiểu
17
thuyết Patrick Modiano; nhằm hướng đến phác thảo cơ bản hành trình của những
flâneur hậu hiện đại qua các yếu tố: mục đích, mối bận tâm của anh ta, điểm khác biệt
giữa anh ta với những flâneur hiện đại và ngun do của sự khác biệt đó: “Mục
đích của tơi là đưa đến một phác thảo nhanh về con người lãng du hậu hiện đại:
những mối bận tâm và niềm yêu thích của anh ta, sự khác biệt giữa con người
lang thang hậu hiện đại với kiểu hình của Modiano và nguyên nhân của những
khác biệt đó” (8) [31, tr.257]
Trong năm 2007, ngồi Faux Titre, tạp chí Studies in 20th & 21st Century
Literature số 31 cũng lấy Patrick Modiano và tác phẩm Dora Bruder làm chủ đề chính.
Đáng chú ý trong ấn phẩm này, đầu tiên có thể kể đến “Bản ngã như là một người
khác”: Vấn đề danh tính và sự tang tóc trong Dora Bruder của Patrick Modiano
(“Oneself as Another”: Identidication and Mourning Patrick Modiano’s Dora Bruder)
[44] của Susan Rubin Suleiman. Tác giả bài viết cho rằng, những sự kiện trong cuộc
đời của Dora Bruder, nhất là những chi tiết liên quan đến sự hiện hữu, thân phận, sự
nhận diện (chữ “identification” nghĩa là đặc điểm nhận dạng, sự nhận dạng; tuy vậy,
trong ngữ cảnh toàn bài viết, chúng tơi cho rằng nó mang hàm ý chỉ cách Modiano xây
dựng nhân vật Dora Bruder, hay cách ông xây dựng những đặc điểm nhận dạng của
cô); được xây dựng trên 2 cách cơ bản. “Đồng hóa, đồng nhất” (assimilate) câu chuyện
của Dora để ngầm tái hiện câu chuyện của chính ơng, đặc biệt là hình ảnh người cha,
tức là Dora Bruder sẽ có phần nào những đặc điểm của chính Patrick Modiano; dù vậy,
nhà văn vẫn tạo dựng một Dora Bruder với những nét nhận diện khác biệt, xuất phát từ
sự đồng cảm và ham muốn đi tìm sự thật lịch sử về cuộc đời của cô, hay rộng hơn là
của người Do Thái tại Pháp, tại Paris trong những đêm dài đen tối thời Tạm chiếm.
Đồng thời, với việc sử dụng lý thuyết tâm lí học, phân tâm học của Ricoeur, Freud và
Lacan, Suleiman không chỉ đem đến cho độc giả một cái nhìn khác về cái tơi, về
những yếu tố làm nên sự hiện hữu một con người mà qua đó gián tiếp khẳng định một
tầng nghĩa mới hàm ẩn trong tiểu thuyết Patrick Modiano. Bài báo sáng giá tiếp theo là
của Mary Jean Green với tiêu đề Những con người không để lại dấu vết: Dora Bruder
và công đồng những người Pháp nhập cư (People Who Leave No Trace: Dora Bruder
and the French Immigrant Community) [38]. Bên cạnh một số vấn đề quen thuộc về
hình ảnh người cha, yếu tố tự truyện trong tác phẩm Dora Bruder, điểm mới của
Green là những bình luận, đánh giá về số phận những người nhập cư ở Pháp, những
18
người lính thuộc địa trong chiến tranh Algerian trong thời kì Nazi. Đọng lại sau bài
viết này khơng phải là sự khẳng định về tài năng, phong cách hay sự tiếc nuối quá khứ
mơ hồ, niềm khát khao tìm lại kí ức, thời gian; nhận định của Mary Jean Green đặc
biệt hơn thế, đó là sự hé mở một khía cạnh về tư tưởng, tâm niệm, trăn trở của nhà văn
về bức tranh thân phận u tối của những người nhập cư, những người lính đánh thuê ở
Pháp, đối lập với một Paris những tưởng lấp lánh đầy hoa lệ; một hàm ý tưởng nhớ
những cuộc đời vô danh nhỏ bé trước lịch sử nhân loại cao cả, to lớn đấy nhưng đôi
khi cũng thật bạc bẽo lạnh lùng.
Những công trình chúng tơi đề cập trên đây chủ yếu bằng tiếng Anh hoặc tiếng
Pháp, ngồi ra, trong q trình tìm kiếm thu thập tài liệu cịn có các kết quả nghiên cứu
bằng các ngôn ngữ khác, nhưng đáng tiếc lại khơng thể tiếp cận và tìm hiểu. Nói như
vậy để thấy rằng, đến trước năm 2014 tiểu thuyết Patrick Modiano và tên tuổi của nhà
văn đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong lịng cơng chúng độc giả nói riêng
cũng như các nhà phê bình nghiên cứu nói chung.
Có thể với học giả quốc tế, Modiano đã khơng cịn xa lạ nhưng ở Việt Nam,
khách quan mà nói, chủ nhân Nobel 2014 vẫn cịn là điều gì đó rất mới. Trước khi nói
về tình hình nghiên cứu trong nước, cần thiết phải nhìn vào vấn đề xuất bản tác phẩm
hiện nay. Kể từ tác phẩm đầu tay Quảng trường ngôi sao (1968) cho đến nay, Patrick
Modiano cống hiến cho văn chương Pháp 29 tiểu thuyết, tác phẩm gần đây nhất là
Souvenirs dormants (2017). Nhưng trong các nhà sách chỉ có thể tìm thấy 7 trong số
29 sáng tác đó: Quảng trường ngôi sao, Những đại lộ ngoại vi, Phố của những cửa
hiệu u tối, Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối, Một gánh xiếc qua, Để em khỏi lạc trong
khu phố, Từ thăm thẳm lãng quên. Từ những năm 80 của thế kỉ XX, tiểu thuyết của
Modiano đã được dịch giả Dương Tường giới thiệu với 2 tác phẩm: Những đại lộ
ngoại vi (1989) và Quảng trường Ngơi sao (2000). Tháng 5/2014, chương trình
“Những ngày Văn học châu Âu” tổ chức tại Hà Nội, cũng đã có buổi tọa đàm về
Patrick Modiano nhân dịp tái bản cuốn sách Phố của những cửa hiệu u tối, như là một
dấu hiệu cho sự trở lại của tên tuổi nhà văn với công chúng đọc Việt Nam. Nhưng sự
thật là phải đến khi tuần lễ trao giả Nobel diễn ra thì các tác phẩm của Modiano mới
thức sự phổ biến với đông đảo độc giả. Hơn nữa, dù các sáng tác của Modiano ít được
dịch sang tiếng Anh, nhưng trong tương quan so sánh vẫn nhiều con số 7. Với số
lượng tác phẩm ít ỏi như vậy, trong q trình tìm hiểu tài liệu, những học giả trong
19
nước ít nhiều sẽ gặp khó khăn trong việc nhận định những phân tích về các tác phẩm
chưa được xuất bản trong nước. Vì thế, dẫu sớm tiếp cận với văn bản tác phẩm, nhưng
trong nước, vấn đề nghiên cứu sáng tác của ơng vẫn cịn bỏ ngỏ. Cho đến nay, chưa có
một cơng trình hoặc một bài luận mang tính học thuật đáng tin cậy nào về tiểu thuyết
Patrick Modiano. Có chăng là nhưng bài báo, bài phân tích ngắn về tư tưởng tác giả
trên các trang mạng hoặc những trang review sách. Dẫu vậy, vẫn có thể kể đến một số
tài liệu sau đây. Ngay khi tin tức người đạt giải Nobel Văn học 2014 được công bố vào
đầu tháng 10, khắp các trang báo lập tức tràn ngập bài viết về Modiano. Trước hết phải
nói đến Dương Tường, người đã phải lòng câu chữ Modiano từ những dòng đầu tiên.
Trong buổi tọa đàm vào ngày 23/5/2014, khi chia sẻ về giá trị của tác phẩm, tư tưởng
nhà văn, ơng đã khẳng định nhiều lần: đi tìm cội nguồn, bản thể cũng như sự hiện hữu
của bản thân và của con người, ám ảnh quá khứ và kí ức là những vấn đề cơ bản trong
văn chương Patrick Modiano. Dịch giả đã đọc khá nhiều tiểu thuyết của Modiano, vì
thế, trong các bài viết của mình, Dương Tường không dừng lại ở việc nhắc lại những
nội dung chủ chơt đó, mà cịn đưa ra các dẫn chứng khá cụ thể. Tuy vậy, với khuôn
khổ bài báo và trả lời phỏng vấn, nên những phân tích của dịch giả chưa thật chi tiết,
cũng chưa thuyết phục bởi thiếu những cơ sở lí luận cần thiết. Trần Huyền Sâm tác giả
bài viết Nobel văn học 2014: Patrick Modiano hay là sự truy vấn bản thể - dòng máu
Do Thái? [13] trên Tạp chí Sơng Hương số 309, bên cạnh những thông tin cơ bản về
nhà văn và giải thưởng, người viết đã đề cập đến vấn đề sự ám ảnh nguồn gốc Do Thái
cũng như hơi hướng tiểu thuyết trinh thám trong tác phẩm của Patrick Modiano thơng
qua việc tóm tắt và nhận xét khái lược về cuốn Phố của những cửa hiệu u tối. Bên
cạnh những bài phân tích về giá trị tư tưởng nghệ thuật tác phẩm, còn có những bài
dịch phỏng vấn cũng có thể góp phần giúp bạn đọc Việt Nam hiểu thêm về tài năng,
phong cách của nhà văn.
Nhìn lại chặng đường hơn 30 năm nghiên cứu phê bình văn chương Modiano,
chúng tơi rút ra kết luận như sau:
Thứ nhất, về xu hướng nghiên cứu, như đã khái quát trước đó, giới nghiên cứu
quốc tế chủ yếu đi theo hai con đường: hoặc tập trung vào nhân vật, vấn đề thể loại
hoặc khai thác đặc trưng phong cách sáng tạo và yếu tố lịch sử trong tiểu thuyết
Modiano. Các cơng trình thường có điểm gặp gỡ nhất định, những vấn đề về nội dung
tư tưởng trong tác tiểu thuyết Patrick Modiano đã được đào sâu, nghiên cứu kĩ càng và
20
chiếm ưu thế hơn những cơng trình về phong cách nghệ thuật. Đối tượng thường xoay
quanh nhân vật, sự ám ảnh thời gian, quá khứ, ý thức đi tìm bản thể, sự hiện hữu của
con người. Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy ảnh hưởng của khơng khí Paris thời
tạm chiếm, nguồn gốc Do Thái cùng tuổi thơ không hạnh phúc thiếu vắng tình thương
của nhà văn lên việc xây dựng nhân vật cũng như tồn bộ q trình sáng tác của
Modiano. Các học giả chủ yếu sử dụng những lí thuyết lí luận gần giống nhau, tập
trung vào tự sự học, giả tự sự, chủ nghĩa cấu trúc, tính chất trinh thám,… Khuynh
hướng nghiên cứu thứ 2 thường tập trung ở các khía cạnh: ngơi trần thuật, sử dụng các
dạng thì quá khứ, cấp bậc thời gian, sự tương phản giữa kí ức và sự lãng quên, chất thơ
và sự hư cấu tiểu sử qua những ẩn dụ kí ức. Một số cơng trình cũng đã chỉ ra được sự
gặp gỡ giữa văn phong Patrick Modiano với những nhà văn mà ơng ngưỡng mộ. Từ đó
đi đến trả lời cho hiện tượng Modiano, sự ra đời của tính từ “modianieen” như là một
biểu hiện cho một hồn văn thực sự độc đáo.
Thứ hai, mặc dù số lượng công trình nghiên cứu khá nhiều, nội dung tương đối
đa dạng nhưng tập trung chủ yếu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Trong tương quan hai
ngơn ngữ này cũng có sự phân hóa rõ rệt. Các cơng trình về chất thơ, chất huyền
thoại,… thường thuộc về các học giả người Pháp, rõ ràng là, các kết quả nghiên
cứu bằng tiếng Pháp có lợi thế hơn trong việc phân tích những vấn đề thuộc về văn
phong, nghệ thuật ngôn từ của nhà văn; trong khi đó các cơng trình bằng tiếng Anh
thường chủ yếu khai thác nhân vật, thời gian, tư tưởng. Đây cũng là điều dễ hiểu
nếu chúng ta nhìn lại niên biểu nghiên cứu Patrick Modiano cũng như hiện trạng
sáng tác của chính ơng. Dẫu xuất hiện như một hiện tượng trên văn đàn Pháp nhưng
20 năm sau mới có một cơng trình nghiên cứu về sáng tác của ơng, dù giá trị của
chúng là không thể phủ nhận. Tiểu thuyết Modiano, nói cho cùng, rất kén người
đọc, ngay trên đất Pháp tác phẩm của ông cũng chỉ phổ biến với một nhóm nhỏ;
sáng tác rất nhiều nhưng rất ít trong số đó được dịch sang tiếng Anh, cũng như các
ngôn ngữ khác. Điều này làm hạn hẹp đi phạm vi khảo sát tác phẩm của các cơng
trình ngồi tiếng Pháp, đồng thời việc nghiên cứu tác phẩm qua bản dịch rất khó để
có bàn đến ngơn từ, diễn đạt, ẩn dụ, vốn là những yếu tố cơ bản của đặc trưng
phong cách sáng tạo, một cách thấu đáo. Một hệ quả khác của vấn đề xuất bản và
rào cản ngôn ngữ là sự sử dụng tập trung một vài tiểu thuyết lặp đi lặp lại ở phần
lớn các công trình nghiên cứu, có thể kể đến: Quảng trường ngơi sao, Tuần tra
21
đêm, Những đại lộ ngoại vi, Sổ gia đình, Phố của những cửa hiệu u tối, Dora
Bruder,… Càng về sau các sáng tác mới dường như ít được chạm đến.
Thứ ba, về tình hình nghiên cứu trong nước, nhìn chung Patrick Modiano vẫn là
một mảnh đất khá thô sơ, chưa mấy người khai phá. Cho đến nay nước ta vẫn chưa
cơng bố cơng trình nào liên quan đến người được mệnh danh là “nghệ sĩ kí ức” này.
Những nội dung sơ lược trong những tài liệu nhắc đến ở trên thực chất vẫn chỉ là
những nhận định chưa được chứng minh rốt ráo, hơn thế, chúng cũng chưa hẳn là
những phát hiện mới mẻ nếu đặt vào lịch sử nghiên cứu tác giả Modiano. Nếu nhìn sơ
qua lịch sử nghiên cứu quốc tế thì có vẻ cây bút Nobel 2014 đã được khai thác rốt ráo,
rất nhiều vấn đề và chi chit dấu chân học giả nghiên cứu, dường như mọi yếu tố, nội
dung nối bật hầu như đều đã được đề cập. Nhưng tác phẩm văn học chưa bao giờ một
khn khổ cứng nhắc, các tầng nghĩa của nó là mê cung mở rộng khơng ngừng. Bên
cạnh đó, khách quan mà nói, tuy số lượng tác phẩm của Patrick Modiano được dịch
sang tiếng Việt không nhiều nhưng cả thảy 7 cuốn đều là những tiểu thuyết đắt giá
trong văn nghiệp của ông; đủ sức nặng để khẳng định không chỉ giá trị của bản thân
chúng mà còn thể hiện tài năng của người cầm bút.
Nhìn lại những gì đã đạt được trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng như các
tác phẩm, không chỉ giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về giá trị ẩn chứa trong tầng bậc con
chữ mà cịn định hướng cho việc tìm kiếm con đường tiếp cận, khám phá thêm những
khoảng trống chưa được chạm đến trong những sáng tác của Patrick Modiano.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu chưa mấy sôi nổi về Modiano trong nước, và
lịch sử khai thác còn khá mỏng đối với vấn đề nhân vật lãng du trong tác phẩm, luận
văn hướng đến 2 mục đích chính:
Thứ nhất, đi vào phân tích làm rõ những đặc điểm riêng biệt của kiểu nhân vật
lãng du mang đặc trưng Modiano trong sự so sánh đối chiếu với các quan niệm của
Baudelaire, Benjamin và các triết lý liên quan, tiêu biểu là lý thuyết của Guy Debord.
Trên hành trình lãng du của các nhân vật, dẫu mù mờ nhưng Patrick Modiano
bao giờ cũng sử dụng những dấu chỉ nghệ thuật độc đáo. Chính vì thế, mục đích thứ
hai của luận văn là chỉ ra và làm rõ vai trò của những dấu chỉ ấy trong tác phẩm, qua
đó cho thấy, đây cũng là một trong các yếu tố thể hiện tài năng và dấu ấn sáng tạo của
nhà văn.
22
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về mặt ngữ liệu, với hơn 30 cuốn tiểu thuyết và nhiều giải thưởng danh giá,
ngần ấy cũng đã đủ nói lên phần nào tài năng cùng giá trị các tác phẩm của Patrick
Modiano. Tuy vậy, như chúng tơi đã trình bày ở trên, các tác phẩm ra đời vào đoạn sau
trên con đường sáng tác của ơng ít được giới phê bình nghiên cứu khai thác, trong khi
rõ ràng, chúng khơng chỉ có giá trị tự thân mà còn cộng hưởng với một vài tác phẩm
nhất định khác. Chính vì vậy, chúng tơi lựa chọn khảo sát bộ ba tiểu thuyết sau đây:
1. Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối (Trần Bạch Lan dịch), NXB Văn học, 2014.
2. Một gánh xiếc qua (Cao Việt Dũng dịch), NXB Văn học, 2017.
3. Từ thăm thẳm lãng quên (Trần Bạch Lan dịch), NXB Văn học, 2015.
Bộ ba tác phẩm này thể hiện một mối liên kết độc đáo hệt như bộ ba tiểu thuyết
Tạm chiếm; cuộc đời của các nhân vật, bằng cách nào đó, ln có những điểm giao
nhất định: những cái tên, những góc phố, đặc điểm nhận dạng,... Nhưng lý do chính
mà chúng tôi lựa chọn các tiểu thuyết này là bởi hệ thống nhân vật của chúng là một
trong những nơi biểu hiện rõ nhất cho kiểu nhân vật lãng du đậm chất Modiano; đi
kèm với đó là một thế giới nghệ thuật cũng đầy nét riêng của tác giả.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn vận dụng kết hợp các phương pháp chính như: phương pháp nghiên
cứu ký hiệu học; phương pháp nghiên cứu hệ thống và phương pháp nghiên cứu tâm lý
học.
6. BỐ CỤC
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm các phần cơ bản như sau:
CHƯƠNG 1. VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI LÃNG DU VÀ TRIẾT LÝ “TRÔI DẠT”
1.1. Khát quát về con người lãng du (The Flâneur)
1.1.1. Quan niệm của Baudelaire – Người nghệ sĩ lang thang
1.1.2. Quan niệm của Benjamin – Kẻ lãng du trong thế giới hiện đại
1.2. Lý thuyết “trôi dạt” – một cái nhìn về kiểu con người lãng du
1.2.1. Phong trào Quốc tế Tình huống – Cơ sở ra đời của triết lý “trôi dạt”
1.2.2. “Trôi dạt” – Triết lý của sự đi và trải nghiệm.
1.3. Patrick Modiano – Nhà văn của ký ức và con người lãng du
1.3.1. Nhà văn của những ký ức Paris thời Đức chiếm đóng
1.3.2. Nhà văn của những con người lãng du
23
CHƯƠNG 2. NHÂN VẬT LÃNG DU KIỂU PATRICK MODIANO
2.1. Chân dung những con người lãng du
2.1.1. Cảm thức bên lề và cô đơn giữa đám đông
2.1.2. Trốn chạy và trôi dạt
2.1.3. Lạc giữa hư vô
2.2. Những không gian “trôi dạt” – Paris trong mắt kẻ lãng du
2.3. “Thời gian chết” và những điểm ký ức của kẻ lãng du
CHƯƠNG 3. CON NGƯỜI VÀ HÀNH TRÌNH TRƠI DẠT TRONG HƯ VƠ
3.1. Giấc mơ – Hành trình của tiềm thức và ẩn ức
3.2. Từ bóng tối đến “TÂM MÙA HÈ” – Kiếm tìm sự vượt thốt
3.2.1. Bóng tối như một người đồng hành
3.2.2. Quy hồi vĩnh cửu – Ta đi vào “TÂM MÙA HÈ”