ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHAN TRẦN CÔNG
VỊ TRÍ CỦA TIẾNG TÀ MUN
TRONG NHĨM NAM BAHNAR
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHAN TRẦN CÔNG
VỊ TRÍ CỦA TIẾNG TÀ MUN
TRONG NHĨM NAM BAHNAR
Chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 06.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN VĂN HUỆ
Thành phố Hồ Chí Minh -2015
LỜI CẢM ƠN
Quyển luận văn này được hình thành là nhờ cơng ơn của biết bao người đã giúp đỡ,
dìu dắt tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Văn Huệ, người thầy đã
nhiệt tình truyền đạt kinh nghiệm, tri thức và tình u đối với ngơn ngữ các dân tộc thiểu
số, trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn GS. TS. Bùi Khánh Thế. Thầy đã nhiệt tình gợi mở và
khích lệ tơi chọn đề tài cho luận văn này.
Tơi xin chân thành cám ơn PGS. TS. Đinh Lê Thư và PGS. TS. Lê Khắc Cường. Các
thầy cô đã tạo điều kiện cho tôi cùng tham gia các đề tài nghiên cứu, cùng trao đổi kinh
nghiệm, ngữ liệu cho các cơng trình liên quan cũng như trực tiếp vào luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn các cộng tác viên, bà con các dân tộc Tà Mun, Kơho,
Mnông, Mạ, Châu Ro, Stiêng ở khắp các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam bộ. Quý vị đã nhiệt
tình cộng tác, tin tưởng ủng hộ tơi.
Và cịn nhiều người nữa khơng trực tiếp nhưng cũng góp phần để quyển luận văn này
ra đời.
Một lần nữa xin chân thành cám ơn tất cả.
MỤC LỤC
trang
Dẫn nhập .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................................ 2
3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu ...................................................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .......................................................................................... 8
7. Quy ước trình bày ............................................................................................................. 8
8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................................ 13
Chương 1: Tổng quan về người Tà Mun và tiếng Tà Mun........................................... 15
1.1. Vài nét về người Tà Mun ............................................................................................. 15
1.1.1. Địa bàn cư trú và quá trình định cư .................................................................... 15
1.1.2. Về hoạt động kinh tế .......................................................................................... 19
1.1.3. Đời sống tinh thần .............................................................................................. 20
1.1.4. Nghi lễ vòng đời ................................................................................................. 21
1.1.5. Các lễ trong năm................................................................................................. 22
1.2. Những thảo luận về nguồn gốc và tộc danh của người Tà Mun .................................. 23
1.3. Khái quát về hệ thống ngữ âm tiếng Tà Mun .............................................................. 32
1.3.1. Mơ hình cấu trúc từ ngữ âm tiếng Tà Mun ........................................................ 32
1.3.2. Hệ thống ngữ âm tiếng Tà Mun ......................................................................... 34
1.3.2.1. Hệ thống phụ âm ....................................................................................... 34
1.3.2.2 Hệ thống nguyên âm .................................................................................. 43
Chương 2: Tương ứng ngữ âm giữa tiếng Tà Mun với các ngơn ngữ trong nhóm
Nam Bahnar ................................................................................................. 46
2.1. Mục đích và cơ sở ngữ liệu .......................................................................................... 46
2.2. Tiền âm tiết .................................................................................................................. 48
2.2.1. Đặc điểm của tiền âm tiết ................................................................................... 48
2.2.2. Tương ứng ngữ âm đối với tiền âm tiết .............................................................. 49
2.2.2.1. Tiền âm tiết mũi ........................................................................................ 49
2.2.2.2. Tiền âm tiết có cấu trúc CV ...................................................................... 50
2.2.2.3. Tiền âm tiết có cấu trúc CCV ................................................................... 52
2.2.2.4. Tiền âm tiết có cấu trúc CVC ................................................................... 53
2.3. Âm tiết chính ............................................................................................................... 56
2.3.1. Đặc điểm của âm tiết chính ................................................................................ 56
2.3.2. Tương ứng ngữ âm đối với âm tiết chính ........................................................... 57
2.3.2.1. Phụ âm đầu của âm tiết chính ................................................................... 57
2.3.2.2. Nguyên âm của âm tiết chính ................................................................... 63
2.3.2.3. Phụ âm cuối của âm tiết chính .................................................................. 70
3.4 Tiểu kết ......................................................................................................................... 73
Chương 3: Vị trí của tiếng Tà Mun trong nhóm Nam Bahnar .................................... 75
3.1. Phương pháp xác định niên đại cho các ngôn ngữ cùng ngữ hệ .................................. 75
3.2. Tỷ lệ từ cùng gốc giữa các ngôn ngữ trong nhóm Nam Bahnar .................................. 77
3.3. Thời gian chia tách giữa các ngơn ngữ trong nhóm Nam Bahnar ............................... 85
3.4. Tiểu kết ........................................................................................................................ 93
Kết luận .............................................................................................................................. 94
Tài liệu tham khảo .............................................................................................................. 97
Phụ lục 1: Danh sách cộng tác viên .................................................................................. 104
Phụ lục 2: Bảng đồi chiếu từ cơ bản Việt-Tà Mun-Châu Ro ............................................ 105
Phụ lục 3: Bảng đồi chiếu từ cơ bản Việt-Stiêng-Kơho ................................................... 117
Phụ lục 4: Bảng đồi chiếu từ cơ bản Việt-Mạ-Mnông ...................................................... 128
Phự lục 5: Tương ứng từ vựng giữa các ngôn ngữ Nam Bahnar ...................................... 140
1
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Tại hai tỉnh Tây Ninh và Bình Phước hiện có một cộng đồng tộc người được
gọi là người Tà Mun. Trong khi đó trong danh mục các thành phần dân tộc trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam (quyết định số 121 TCTK của Tổng cục Thống kê,
ngày 02/3/1979), cũng như trong số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê khơng có
tộc danh Tà Mun [57, tr.58-63]. Năm 2009, tỉnh Bình Phước đã đưa tộc người này
vào nhánh của dân tộc S’tiêng. Tuy nhiên, trên thực tế trong thời gian qua, theo quy
định của nhà nước, tỉnh Bình Phước vẫn giải quyết cho tộc người Tà Mun là dân tộc
Tà Mun trong các giấy tờ như hộ khẩu, chứng minh nhân dân, giấy khai sinh.
Theo số liệu thống kê tại địa phương, tính đến năm 2009, dân số người Tà
Mun là 2.823 người phân bố trên 2 tỉnh Tây Ninh và Bình Phước. Trong đó, trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh có khoảng 1.680 người Tà Mun cư trú. Họ tập trung chủ yếu ở
các huyện Tân Biên, Tân Châu, Dương Minh Châu và thị xã Tây Ninh. Tại tỉnh
Bình Phước có 234 hộ, 1.143 người Tà Mun sinh sống chủ yếu ở xã Tân Hiệp,
huyện Hớn Quản.
Ngày 08/10/2012, tại tỉnh Bình Phước, một cuộc hội thảo do Viện Dân tộc
học thuộc Ủy ban Dân tộc trung ương tổ chức mang tên “Nghiên cứu thành phần
tên gọi người Tà Mun”. Nhiều ý kiến tại hội thảo đề cập vấn đề có hay khơng một
dân tộc Tà Mun và đề nghị Viện Dân tộc cần nghiên cứu rất thận trọng về truyền
thống lịch sử và văn hóa của họ bởi trải qua nhiều biến cố như: chiến tranh, loạn
lạc…sẽ rất khó để kết luận một cách chính xác.
Trên cơ sở tổng hợp những ý kiến phát biểu tại hội thảo, Viện trưởng Viện
Dân tộc học cho rằng còn rất nhiều điều cần đưa ra bàn bạc trước khi có quyết định
chính thức về thành phần, tên gọi cho tộc người Tà Mun. Bốn tiêu chí quan trọng để
nhận diện tộc người được nêu ra là lịch sử, ý thức tộc người, ngơn ngữ và văn hóa.
Với tình hình nêu trên, chúng ta đều thấy việc cơng nhận tộc danh Tà Mun
trên giấy tờ tùy thân chỉ là giải pháp tình thế vì áp lực của ý thức tộc người là có
2
thật, họ đang khao khát được công nhận là thành phần dân tộc thứ 55 trong gia đình
các dân tộc Việt Nam. Về hai lĩnh vực lịch sử và văn hóa, mặc dù chưa nhiều để có
thể nói là đủ nhưng dù sao thì cũng đã được tiến hành và có nhiều cơng trình về hai
lĩnh vực này. Cịn lĩnh vực ngôn ngữ hầu như gần đây mới được chú ý nghiên cứu
và đã xuất hiện vài cơng trình đi vào cấu trúc tiếng Tà Mun và ít nhiều liên quan
đến quan hệ họ hàng giữa tiếng Tà Mun với các ngơn ngữ khác. Với mong muốn
đóng góp thêm cứ liệu khoa học từ góc độ ngơn ngữ học, đặc biệt là mối quan hệ
giữa tiếng Tà Mun với các ngôn ngữ khác trong ngữ hệ, chúng tôi chọn đề tài này
nhằm góp phần giải đáp câu hỏi về người Tà Mun.
2. Mục đích nghiên cứu
Những địa bàn cư trú của người Tà Mun có nơi lân cận, có nơi xen lẫn với nơi
cư trú của người Stiêng và người Khmer. Quá trình tiếp xúc, cộng cư lâu dài dẫn
đến hiện tượng giao thoa tất yếu thể hiện trong đời sống văn hóa và ngơn ngữ. Tùy
góc độ nghiên cứu, tùy địa bàn khảo sát khác nhau mà ta thấy người Tà Mun có
quan hệ thân tộc với các dân tộc khác nhau chặt hay lỏng. Mà cụ thể ở đây là với
Stiêng hay Khmer. Từ đó đặt ra giả thuyết là người Tà Mun có quan hệ thân tộc với
người Stiêng hay với người Khmer? Cũng có nghĩa là thuộc tiểu nhóm Khmer hay
nhóm Nam Bahnar?
Dựa trên các cơng trình hiện có và được nhiều người ủng hộ, cùng với những
khảo sát cũng như một cơng trình đã cơng bố của mình (thành viên), chúng tơi ủng
hộ cũng như đã khẳng định qua tên luận văn là tiếng Tà Mun thuộc nhóm Nam
Bahnar. Như vậy, theo chúng tơi, tiếng Tà Mun và tiếng Khmer chỉ có quan hệ
nguồn gốc xa xưa ở cấp độ nhánh Môn-Khmer nhưng đến cấp độ nhóm thì tiếng Tà
Mun thuộc nhánh Bahnar, nhóm Nam Bahnar.
Khi đặt tiếng Tà Mun vào tiểu nhóm Nam Bahnar thì nhiệm vụ và mục đích
của luận văn là xác định vị trí của tiếng Tà Mun nằm ở đâu và tương quan thế nào
với năm ngôn ngữ khác là Stiêng, Châu Ro, Kơho, Mạ, Mnông.
Với ý thức dân tộc của mình, người Tà Mun ln ý thức mình là một dân tộc
riêng, độc lập với những dân tộc gần gũi xung quanh như Stiêng, Khmer, Châu Ro
3
nên người Tà Mun luôn mong mỏi được công nhận là dân tộc thứ 55 ở Việt Nam
chứ không muốn nhận mình là người Stiêng. Nhu cầu có những nghiên cứu về tiếng
Tà Mun là rất cần thiết hiện nay nhằm mục đích “dù kết quả xác định Tà Mun là
một thành phần dân tộc hay chỉ là một nhánh nhỏ trong một dân tộc nào đó, thì cũng
có được câu trả lời thích đáng cho người Tà Mun” như phát biểu của TS. Huỳnh Thị
Hồng Hạnh (Đi tìm cội nguồn dân tộc Tà Mun, Báo Tây Ninh online, ngày 18/4).
Như vậy, mục đích của luận văn khơng nhằm đưa ra kết luận về việc công nhận
hay không một dân tộc Tà Mun, mà chỉ vẽ nên bức tranh tổng thể về vị trí của tiếng
Tà Mun, đóng góp mảng cứ liệu ngôn ngữ học cho vấn đề đang bàn. Trên cơ sở đó,
kết hợp với các lĩnh vực khác, các cơ quan chức năng hữu quan có cơ sở để đưa ra
câu trả lời vĩ mơ hơn, ngồi phạm vi của luận văn này.
3. Lịch sử vấn đề
Cho đến thời điểm chúng tôi làm đề cương để đăng ký đề tài này, tháng 7/2014,
thì nguồn tư liệu thuộc lĩnh vực ngơn ngữ học mà chúng tơi có được vẫn chưa có
cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp tiếng Tà Mun. Gần đây, có 2 cơng trình nghiên
cứu tiếng Tà Mun đã được công bố là:
- Lê Khắc Cường, Phan Trần Công, 2013, Ghi nhận bước đầu về ngữ âm tiếng
Tà Mun ở Tây Ninh, Tạp chí Phát triển khoa học và công nghệ, tập 16, Đại học
Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh [10].
- Nguyễn Trần Quý, 2014, Hệ thống ngữ âm tiếng Tà Mun (có so sánh với ngữ
âm tiếng Châu Ro), Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn (ĐHQG. TP. HCM) [17].
Về nhóm các ngơn ngữ Nam Bahnar, ban đầu, có hai tác giả đáng chú ý là
Henry F. Blood và David Thomas.
Henry F. Blood có xuất phát điểm từ tiếng Mnơng và David Thomas từ tiếng
Châu Ro (Chrau) và cả hai nhà ngôn ngữ học này hướng đến những khái quát chung
cho cả nhóm Nam Bahnar. Cả hai cùng thống nhất quan điểm về nhóm Nam Bahnar
bao gồm các thứ tiếng Mnông, Stiêng, Kơho và Châu Ro [64, tr.7]. Quan điểm này
sau đó được nhiều tác giả chia sẻ.
4
Năm 1966, Henry F. Blood cơng bố cơng trình A Reconstruction of ProtoMnong [64] trên cơ sở so sánh các phương ngữ Mnơng và các tiếng khác trong
nhóm để phục nguyên ngôn ngữ Tiền Mnông và Tiền Nam Bahnar. Đây là cơng
trình sử dụng phương pháp so sánh lịch sử có giá trị đối với nhóm Nam Bahnar.
David Thomas có những cơng trình về tiếng Việt và tiếng Châu Ro từ những
năm 1950, và sau đó là nhiều cơng trình về tiếng Châu Ro. Mãi đến năm 1980,
trong bài Note on Chrau Ethnogeography [77], David Thomas mới nhắc đến người
Tà Mun (Tamun). Theo hồi tưởng của người Châu Ro thì đây là nhóm người Châu
Ro trốn chạy (hoặc bị bắt buộc tái định cư) đến khu vực của người Stiêng ở Bình
Long – Bình Dương hơn 100 năm trước, và trong tiếng Châu Ro “tamun” có nghĩa
là “người” [77, tr.221]. Đây là cơng trình ngơn ngữ học hiếm hoi có nhắc đến người
Tà Mun.
Đến năm 2000, Paul J. Sidwell công bố cơng trình Proto South Bahnaric – A
reconstruction of a Mon-Khmer languange of Indo-China [77]. Đây là một cơng
trình nghiên cứu gián tiếp – dựa trên cứ liệu của các cơng trình đã cơng bố - cơng
phu, giúp người đọc có cái nhìn tổng qt và hệ thống về các ngơn ngữ trong nhóm
này. Ngồi ra cơng trình cịn là nguồn cung cấp tư liệu quý giá qua các bảng từ phục
nguyên, đối chiếu của tác giả cũng như tổng hợp tư liệu của các tác giả đi trước
trong cả phần chính văn và phụ lục với dung lượng 167 trang/ 219 trang (không kể
phần tài liệu tham khảo). Đây là nguồn ngữ liệu đồ sộ và có hệ thống.
Ngồi ra những cơng trình thuộc lĩnh vực nhân học cũng có nhiều quan điểm
khác nhau. Có tác giả cho người Tà Mun là một nhánh của người Stiêng, có tác giả
xếp vào Khmer. Và dĩ nhiên, cũng có những lý do, cơ sở nhất định để có thể đưa ra
những kết luận về quan hệ tộc họ của người Tà Mun như trên. Cũng có quan điểm
chứng minh ngược lại như GS. TS. M.V. Kriukov cùng GS. Đặng Tất Chủng [27].
Trên cơ sở so sánh nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc theo phương pháp nghiên cứu nhân
học, hai tác giả này khẳng định người Tà Mun có quan hệ mật thiết với người Châu
Ro hơn người Stiêng.
5
Gần đây, sinh viên và cán bộ Khoa Văn học – Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG – TP. HCM) đã tiến hành hai đợt điền dã vào
tháng 3/2011 và tháng 3-4/2013 khảo sát tiếng Tà Mun ở Tây Ninh. Từ hai đợt điền
dã này, nhiều báo cáo được sinh viên thực hiện cho thấy bức tranh tổng quát các
phương diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của tiếng Tà Mun. Có cơ hội cùng tham
gia, bản thân chúng tôi cũng chỉ mới tiếp xúc với tiếng Tà Mun từ đợt điền dã đầu
tiên (3/2011). Từ những ghi nhận ban đầu, kết hợp với những cứ liệu ngơn ngữ mà
chúng tơi có dịp khảo sát trước đây cùng với những tranh luận gần đây về tộc người
Tà Mun đã gợi mở cho chúng tôi tiến hành nghiên cứu sâu về đề tài này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như nhiệm vụ mà mục đích nghiên cứu của đề tài đặt ra, đối tượng chính của
đề tài là tiếng Tà Mun theo hướng so sánh với các ngơn ngữ trong nhóm Nam
Bahnar. Cụ thể ở đây là so sánh từ vựng với các ngôn ngữ: Kơho, Stiêng, Mnơng,
Mạ, Châu Ro. Như vậy, ngồi tiếng Tà Mun là trọng tâm thì việc thu thập ngữ liệu
phải được tiến hành đối với tất cả các ngôn ngữ nói trên.
Về từ vựng cần thu thập, để phục vụ cho việc xác định quan hệ thân tộc, ngữ
hệ, đối tượng từ vựng chúng tôi chú ý thu thập và cũng là cơ sở khảo sát, tính tốn
là bảng 281 từ, là bảng từ được xây dựng trên cơ sở bổ sung danh sách 200 từ của
Swadesh. Đây là bảng từ vựng cơ bản được nhiều nhà ngôn ngữ học sử dụng để
nghiên cứu theo hướng nghiên cứu này.
Bảng từ cùng với phương pháp so sánh lịch sử, ngữ thời học đã được sử dụng,
củng cố qua lịch sử ngơn ngữ học nên có độ tin cậy cao. Ngồi ra, chúng tơi cũng
điều tra mở rộng ngồi bảng từ 281 mà chủ yếu theo bảng từ gồm 1.000 từ mà Đồn
Văn Phúc sử dụng trong cơng trình về phương ngữ tiếng Êđê [35] để phục vụ mục
đích hỗ trợ khác.
Về đối tượng công tác viên, đối với tiếng Tà Mun, đối tượng công tác viên
của chúng tôi tương đối đa dạng về độ tuổi và giới tính và số lượng. Cịn đối với các
ngơn ngữ khác, do qui mơ đề tài mà khối lượng ngữ liệu cần thu thập trải đều trên
cả năm thứ tiếng nên khơng có điều kiện để khảo sát nhiều đối tượng. Vì vậy tiêu
6
chí tuyển chọn cơng tác tác viên chỉ cần họ là người trưởng thành với bộ máy cấu
âm không bị dị tật. Đây là đối tượng hệ thống tiếng mẹ đẻ đã hình thành ổn định,
quá trình tiếp xúc, giao thoa khơng cịn ảnh hưởng đáng kể nữa. Đối tượng này có
tuổi đời khoảng trên dưới 40.
Đối tượng ngữ liệu và cộng tác viên được khoanh vùng như trên vừa vì mục
đích nghiên cứu của đề tài, vừa vì hạn chế của đề tài. Như trên đã trình bày, đề tài
hướng vào việc so sánh từ vựng nên chỉ tập trung vào nhóm từ vựng cơ bản, đây là
nhóm từ ít vay mượn nhất. Bên cạnh đó, vấn đề giao thoa, tiếp xúc, biến đổi ngơn
ngữ giữa các nhóm tuổi, nghề nghiệp, giới tính đối với từng thứ tiếng khơng phải là
mục đích nghiên cứu của đề tài nên khơng cần thiết mở rộng đối tượng ngữ liệu và
cộng tác viên.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi áp dụng các phương pháp nghiên cứu với
mục đích và tiến trình như sau:
- Phương pháp nghiên cứu điền dã ngôn ngữ học: thu thập ngữ liệu trực tiếp
từ cộng tác viên đối với bảng từ cơ bản 281. Ngồi ra có thể thu thập thêm từ vựng
ngoài bảng từ, điều tra thêm về các điểm ngữ pháp, phỏng vấn sâu về ý thức tộc
người. Việc điền dã được thực hiện tại các địa bàn Tây Ninh, Bình Phước (Tà Mun,
Stiêng), Đăk Nơng (Mạ, Kơho), Đăk Lăk (Mnông), Lâm Đồng (Kơho, Mạ), Đồng
Nai (Mạ, Châu Ro), Bà Rịa (Châu Ro). Quá trình điền dã được tập trung chủ yếu
trong thời gian thực hiện luận văn này. Có những chuyến điền dã thực hiện trước đó
cho những đề tài nghiên cứu khác mà ngữ liệu cũng được sử dụng ở đây. Ngồi ra,
cũng có trường hợp phỏng vấn và ghi âm tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp so sánh-lịch sử: Phương pháp này dùng để xác định mối quan
hệ về nguồn gốc giữa các ngôn ngữ và mức độ thân thuộc giữa các ngôn ngữ cùng
gốc. Xác định tương ứng ngữ âm trên cơ sở các quy luật biết đổi ngữ âm: So sánh
bảng từ cơ bản và bảng từ mở rộng để xác định những biến đổi đồng loạt, tương
ứng giữa các thứ tiếng về mặt ngữ âm, có thể lý giải trên cơ sở các quy luật biết đổi
ngữ âm. Từ đó có thể xác định mỗi từ giữa các ngơn ngữ có chung nguồn gốc hay
7
không. Công việc này được áp dụng chủ yếu ở chương 2 của luận văn. Đây là bước
cơ sở cho việc tính tốn ngữ thời học.
- Phương pháp ngữ thời học (phương pháp Swadesh/ glottochronologie) [4,
tr.261]: Đây là phương pháp áp dụng cho chương 3. Trên cơ sở những tương ứng
ngữ âm, chúng ta có thể xác định tương đồng/ tương đương từ vựng. Thống kê tỷ lệ
tương đồng từ vựng chúng ta có bức tranh tổng thể về mối quan hệ giữa các ngơn
ngữ. Từ đó, có thể tính tốn thời gian chia tách của từng ngơn ngữ trong nhóm.
Theo Nguyễn Tài Cẩn, phương pháp Swadesh có một số mặt hạn chế đã bị nhiều
nhà ngôn ngữ học nêu lên, chỉ trích. Nhưng dầu sao, khi chưa có phương pháp khác
tốt hơn, phương pháp này vẫn được dùng trên thế giới, trong một chừng mực nhất
định, những con số vẫn có ý nghĩa [4, tr.319].
Với mục đích xác định quan hệ thân tộc, chúng tôi làm việc chủ yếu với lớp từ
vựng cơ bản, là lớp từ ít vay mượn nhất. Điều đó khơng có nghĩa là khơng cần quan
tâm đến các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, các thông tin về từ vựng vẫn quan trọng nhất
[31, tr.12]. Trong ngơn ngữ học so sánh lịch sử hiện đại có hai phương pháp cơ bản
để xác định mức độ thân thuộc ngôn ngữ: phương pháp xác định cách tân
(innovation) và phương pháp thống kê từ vựng (lexicostatistics) [31, tr.13]. Mỗi
phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm và đối tượng ngữ liệu khác nhau,
và để phù hợp với mục đích của luận văn này, chúng tơi chọn phương pháp thống
kê từ vựng.
Ngoài ngữ liệu trực tiếp thu thập, chúng tơi cũng sử dụng ngữ liệu từ các cơng
trình nghiên cứu trong và ngồi nước đã cơng bố đối với các ngôn ngữ đang xét.
Chúng tôi cũng sử dụng các file ghi âm của sinh viên thu thập trong những chuyến
thực tập điền dã gần đây. Về phương pháp và lý thuyết, ngồi các vấn đề lý thuyết
chung về ngơn ngữ học, chúng tôi quan tâm đặc biệt tham khảo các cơng trình
nghiên cứu về mối quan hệ thân tộc giữa các ngôn ngữ, giữa tiếng Việt với các ngôn
ngữ bà con và đặc biệt là các ngôn ngữ Nam Bahnar.
8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Cần phải nói ngay từ đầu là hướng nghiên cứu của luận văn này là nghiên cứu
ứng dụng chứ không phải lý thuyết. Vận dụng các lý thuyết, phương pháp, thủ pháp
ngôn ngữ học so sánh đồng đại và lịch đại, mục đích của chúng tơi là đi tìm một vị
thế thích hợp cho tiếng Tà Mun, ngôn ngữ của một tộc người đang trong vịng nghi
vấn. Kế thừa hai cơng trình đã công bố về bản thân tiếng Tà Mun, cụ thể là ngữ âm
tiếng Tà Mun, mong muốn của chúng tôi là vẽ nên bức tranh vĩ mơ hơn, đó là
những mối quan hệ tộc họ ngôn ngữ cho tiếng Tà Mun. Đó là một trong những cơ
sở khoa học quan trọng bên cạnh văn hóa học, sử học và ý thức tộc người để có một
câu trả lời thích đáng cho người Tà Mun. Đó là đóng góp thực tiễn mà luận văn này
mong muốn vươn tới.
Về mặt khoa học, những so sánh, đối chiếu về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp còn
cung cấp thêm tư liệu nghiên cứu về sự chuyển đổi giữa các ngơn ngữ trong nhóm
các ngơn ngữ thân tộc mà cụ thể ở đây là nhóm Nam Bahnar. Các cơng trình phục
ngun cho một số ngơn ngữ trong nhóm Nam Bahnar và cơng trình phục ngun
cho cả nhóm Nam Bahnar từ trước đến nay đều vắng bóng tiếng Tà Mun. Bức tranh
về nhóm ngơn ngữ này có vài nét thay đổi khi có sự tham gia của tiếng Tà Mun theo
hai hướng: bổ sung thêm những vấn đề mới, củng cố thêm những vấn đề đã được
kết luận. Cụ thể ở đây là những hiện tượng chuyển đổi ngữ âm. Những phát hiện
này có thể là những gợi ý, có thể áp dụng, góp phần lý giải cho các ngơn ngữ khác
ngồi nhóm Nam Bahnar. Đó là đóng góp cơ sở cho ngữ âm học đại cương của luận
văn.
7. Qui ước trình bày và phiên âm
- Quy ước trình bày: Quy cách trình bày luận văn này tuân thủ theo hướng dẫn
cuốn Cẩm nang sau đại học (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh, TP. HCM – 2012) từ trang 217 đến trang 221.
Đó là những quy định về: trình bày, soạn thảo văn bản; tiểu mục; bảng biểu, hình
vẽ; viết tắt; tài liệu tham khảo và trích dẫn; phụ lục; sắp xếp danh mục tài liệu tham
khảo.
9
Ví dụ: Chỉ mục tài liệu tham khảo: đặt trong dấu ngoặc vng theo mơ hình
[số thứ tự của tài liệu trong phụ lục Tài liệu tham khảo, số trang].
- Tên các dân tộc thiểu số: Chúng tôi ghi theo cách ghi của Tổng cục Thống
kê. Nếu trích dẫn nguyên văn từ tài liệu khác, phần trích dẫn nguyên văn được đặt
trong dấu ngoặc kép và cách ghi tộc danh được giữ nguyên theo nguyên tác. Nếu là
trích dẫn ý/ nội dung thì tộc danh được ghi theo Tổng cục Thống kê và cách ghi
theo nguyên tác được đặt trong dấu ngoặc đơn.
Ví dụ:
Trích nguyên văn: “dù kết quả xác định Tà Mun là một thành phần dân tộc
hay chỉ là một nhánh nhỏ trong một dân tộc nào đó, thì cũng có được câu trả lời
thích đáng cho người Tà Mun”
Trích ý: Mãi đến năm 1980 David Thomas mới nhắc đến người Tà Mun
(Tamun).
- Quy ước viết tắt:
Một số ký hiệu quy ước thống nhất trong ngôn ngữ học:
Phiên âm ngữ âm học
[ ]
Phiên âm âm vị học
/ /
Chuyển đổi luân phiên
Chuyển từ
Chuyển thành
Yếu tố phục nguyên
*
Quy ước viết tắt tên các dân tộc:
Mn.
Mnông
Mn.l.
Mnông-Lâm
Mn.p.
Mnông-Preh
Mn.K.
Mnông ở Kiến Đức
Mn.Q.
Mnông ở Quảng Tín
C.
Châu Ro
C.B.
Châu Ro ở Bà Rịa
10
C.Đ.
Châu Ro ở Đồng Nai
M.
Mạ
S.
Stiêng
K.
Kơho
K.s.
Kơho Srê
K.l.
Kơho Lạch
K.c.
Kơho Chil
T.
Tà Mun
Kh.
Khmer
SB.
các ngôn ngữ Nam Bahnar
PSB.
Tiền Nam Bahnar (Proto South Banaric)
PM.
Tiền Mnông (Proto Mnong)
- Quy ước ghi âm tiếng dân tộc: Những mô tả sâu, cụ thể về ngữ âm thì chúng
tơi sử dụng hệ thống ký tự phiên âm quốc tế của IPA. Cịn lại chúng tơi sử dụng hệ
thống ghi âm Latin hóa được kế thừa và chỉnh sửa theo đặc trưng của nhóm ngơn
ngữ đang xét. Đây là hệ thống được sử dụng khởi phát từ các cơng trình nghiên cứu
từ nhóm SIL. Sau đó được kế thừa, chỉnh sửa trong các cơng trình nghiên cứu ngơn
ngữ dân tộc ở Việt Nam. Hệ thống ghi âm mà chúng tôi quy ước sau đây được
chỉnh sửa và áp dụng cho các ngơn ngữ đang xét dựa trên ba tiêu chí: thống nhất,
khu biệt và tiết kiệm.
Quy ước phiên âm dùng trong luận văn:
- Phụ âm đầu/ cuối:
Phiên
Phiên âm
âm theo
dùng trong
IPA
luận văn
[p]
p
đầu/ cuối, tắc môi-môi, vô thanh, không bật hơi,
[t]
t
đầu/ cuối, tắc, đầu lưỡi-lợi, vô thanh, không bật hơi
[c]
c
đầu/ cuối, tắc, mặt lưỡi giữa, vô thanh, không bật hơi
[k]
k
đầu/ cuối, tắc, mặt lưỡi sau, vô thanh, không bật hơi
Mô tả
11
[/]
zero/ q
[pʻ]
ph
đầu, tắc, vô thanh, bật hơi, môi-môi
[tʻ]
th
đầu, tắc, bật hơi, đầu lưỡi, vô thanh
[cʻ]
ch
đầu, tắc, bật hơi, mặt lưỡi giữa, vô thanh
[kʻ]
kh
đầu, tắc, mặt lưỡi sau, vô thanh, bật hơi
[b]
b
đầu, tắc, môi-môi, hữu thanh, không bật hơi
[d]
d
đầu, tắc, đầu lưỡi-lợi, hữu thanh, không bật hơi
[j]
j
đầu, tắc, mặt lưỡi giữa, hữu thanh, không bật hơi
[/b]
ƀ
đầu, tắc, môi-môi, hữu thanh, tiền thanh hầu hóa
[/d]
đ
đầu, tắc, đầu lưỡi, hữu thanh, tiền thanh hầu hóa
[/j]
ɟ
đầu, tắc, mặt lưỡi giữa, hữu thanh, tiền thanh hầu hóa
[g]
g
đầu, tắc, gốc lưỡi, hữu thanh, tiền thanh hầu hóa
[m]
m
đầu/ cuối, mũi, mơi-mơi
[n]
n
đầu/ cuối, mũi, đầu lưỡi-lợi
[ɲ]
nh
đầu/ cuối, mũi, mặt lưỡi giữa
[ŋ]
ng
đầu/ cuối, mũi, mặt lưỡi sau
[v]
v
đầu, xát, môi-răng
[l]
l
đầu/ cuối, xát bên, đầu lưỡi, vang
[r]
r
đầu/ cuối, rung, đầu lưỡi, vang
[s]
s
đầu, xát, đầu lưỡi, vô thanh
[y]
y
đầu, xát, mặt lưỡi giữa, hữu thanh
[h]
h
đầu/ cuối, xát thanh hầu, vô thanh
đầu: zero/ cuối: q, tắc thanh hầu, vô thanh, không bật hơi
12
[-i]
-i
bán phụ âm cuối, khép dần – bẹt môi
[-u]
-u
bán phụ âm cuối, khép dần – trịn mơi
- Ngun âm
Mơ tả
Phiên
Phiên âm
âm theo
dùng trong
IPA
luận văn
[i]
i
dòng trước, độ mở hẹp
[e]
ê
dòng trước, độ mở trung bình
[ɛ]
e
dịng trước, độ mở rộng
[ɯ]
ư
dịng sau, độ mở hẹp, khơng trịn mơi
[ɤ]
ơ
dịng sau, độ mở trung bình, khơng trịn mơi
[a]
a
dịng sau, độ mở rộng, khơng trịn mơi
[u]
u
dịng sau, độ mở hẹp, trịn mơi
[o]
ơ
dịng sau, độ mở trung bình, trịn mơi
[ɔ]
o
dịng sau, độ mở rộng, trịn mơi
[i‿e]
ia/ iê-
chuyển sắc từ độ mở hẹp đến trung bình, dịng trước, phụ âm cuối: ia; + phụ âm cuối: iê
[ɯ‿ɤ]
ưa/ ươ-
chuyển sắc từ độ mở hẹp đến trung bình, dịng sau, khơng
trịn môi, -phụ âm cuối: ưa; +phụ âm cuối: ươ
[u‿o]
ua/ uô-
chuyển sắc từ độ mở hẹp đến trung bình, dịng sau, trịn
mơi, -phụ âm cuối: ua; +phụ âm cuối:
13
- Dấu phụ
Dấu
Ý nghĩa
̆
ghi trên nguyên âm thể hiện trường độ ngắn
̯
ghi dưới chữ u (u̯), âm lướt nằm giữa phụ âm đầu và nguyên âm
8. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn bao gồm các chương và phần được trình bày theo thứ tự và
nội dung tổng quát như sau:
Phần Dẫn nhập (từ trang 1 đến trang 14): Nêu lý do chọn đề tài, mục đích
nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, nguồn tư
liệu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Chương 1(từ trang 15 đến trang 45): Tổng quan về người Tà Mun và tiếng Tà
Mun. Chương này gồm hai phần: (1) Giới thiệu tổng quan về người Tà Mun, địa
bàn cư trú, quá trình di dân, nguồn gốc tộc danh, đời sống kinh tế, tinh thần; (2)
Khái qt về mơ hình từ ngữ âm và hệ thống ngữ âm tiếng Tà Mun, những thảo
luận về nguồn gốc tiếng Tà Mun.
Chương 2 (từ trang 46 đến trang 73): Tương ứng ngữ âm giữa tiếng Tà Mun
với các ngôn ngữ trong nhóm Nam Bahnar. Chương này tìm kiếm những từ cùng
nguồn gốc với các ngôn ngữ Nam Bahnar thông qua sự tương ứng ngữ âm giữa các
thứ tiếng. Đối tượng đối chiếu là các thành phần trong cấu trúc từ ngữ âm của tiếng
Tà Mun, bao gồm: tiền âm tiết, phụ âm đầu của âm tiết chính, nguyên âm của âm
tiết chính và phụ âm cuối của âm tiết chính.
Chương 3 (từ trang 74 đến trang 92): Vị trí của tiếng Tà Mun trong nhóm
Nam Bahnar. Chương này giới thiệu về phương pháp ngữ thời học và việc xây dựng
tộc hệ ngôn ngữ, thống kê tỷ lệ từ cùng nguồn gốc giữa tiếng Tà Mun và các ngôn
ngữ Nam Bahnar, áp dụng ngữ thời học để tính tốn thời gian chia tách giữa các
ngơn ngữ, xác định vị trí của tiếng Tà Mun trong cây phả hệ của nhóm Nam
Bahnar.
14
Phần kết luận (từ trang 93 đến trang 95): Tổng kết những kết quả đạt được của
luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo.
Tài liệu tham khảo: Những tài liệu tham khảo để phục vụ việc thực hiện luận
văn, được trích dẫn trong luận văn.
Phần phụ lục:
- Danh sách cộng tác viên
- Các bảng từ đối chiếu tiếng Việt và các thứ tiếng Tà Mun, Châu Ro, Stiêng,
Mnong, Kơho, Mạ
- Các bảng từ từ cùng gốc giữa các thứ tiếng Nam Bahnar.
15
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI TÀ MUN VÀ TIẾNG TÀ MUN
1.1. Vài nét về người Tà Mun
1.1.1. Địa bàn và quá trình định cư
Cộng đồng tộc người được gọi là người Tà Mun hiện cư trú tại hai tỉnh Tây
Ninh và Bình Phước. Trong khi đó, quyết định số 121 TCTK của Tổng cục thống kê
ngày 02/3/1979 công bố danh sách các thành phần dân tộc trong cộng đồng các dân
tộc ở Việt Nam có 54 dân tộc và khơng có tộc danh Tà Mun trong danh sách này
[54, tr.15-16]. Vì vậy, người Tà Mun được chính quyền địa phương xếp vào nhóm
Stiêng. Vấn đề tộc danh của nhóm người này cho đến nay vẫn chưa được xác định
và giải quyết một cách thỏa đáng. Điều đó có những lý do xuất phát từ q trình tộc
người của nhóm người này và cả những nhóm người khác cư trú xen kẽ trên cũng
địa bàn, diễn ra một cách phức tạp dưới tác động của nhiều q trình. Đó là sự di
chuyển tìm đất sống do khơng cịn đất canh tác khi thực dân Pháp chiếm đất làm
đồn điền cao su (sau khi chiếm Nam Bộ, từ đầu thế kỷ XX thực dân Pháp bắt đầu
thử nghiệm và sau đó đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa bằng cách lập các
đồn điền cao su ở miền Đông Nam Bộ mà trước nhất là vùng đất đỏ thuộc các tỉnh
Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh), bởi tác động của chiến tranh, bởi tác động
của các tộc người lân cận nhất là các tộc người cùng nhóm ngơn ngữ Mon-Khmer,
đặc biệt là người Stiêng, Khmer, Châu Ro. Người Tà Mun đã theo đạo Cao Đài,
chuyển cư về sinh sống gần Tòa thánh Tây Ninh và điều này cũng tác động đến quá
trình tộc người của họ, làm cho vấn đề này trở nên phức tạp hơn. Nhiều địa phương
có người Tà Mun sinh sống đều lúng túng khi xác định tộc danh của nhóm người
này bởi vì họ được xem là một nhóm địa phương của người Stiêng. Nhưng khi xếp
họ vào nhóm người Stiêng thì nhiều người trong số họ đã phản đối [2, tr.116].
Điều đáng nói ở đây là do chưa xác định tộc danh nên cho đến nay chúng ta
chưa có những số liệu thống kê chính thức về dân số người Tà Mun ở cả hai tỉnh
Bình Phước và Tây Ninh. Vì vậy cũng khơng có văn bản, tài liệu xác định địa bàn
166
cư
ư trú của họ.
h Về quảản lý hànhh chính tại địa phươnng, mặc dùù có chủ trương
t
xếp
p
nggười Tà Mun
M vào nhhóm Stiêng
g nhưng gặp khơng ít khó khăăn vì khơnng được sự
ự
đồồng thuận của cộng đồng
đ
Tà Mun.
M
Vì vậậy vẫn có trường
t
hợp
p thành phầần dân tộcc
trên giấy tờ tùy thân của
c họ vẫn
n được thể hiện là Tàà Mun hayy Tà Mung.. Điều này
y
gâây khơng ít
í kho khăăn cho việcc quản lý hành
h
chính
h cũng như
ư việc thực hiện cácc
chhính sách xã
x hội ưu đãi
đ cho ngư
ười dân tộc thiểu số.
H
Hình 1.1: Giấy
G
chứngg minh nhâân dân củaa một cộngg tác viên được
đ
cấp năm
n
1979..
Trrong đó, thhơng tin thàành phần dân
d tộc đượ
ợc ghi là “T
Tà Mung”.
Trong q trình điền dã, chúng tơi đã
đ gặp khơnng ít ngườ
ời vốn gốc Khmer đãã
cộộng cư lâu
u đời và cũũng từ lâu đã
đ nhận mình
m
là ngư
ười Tà Munn. Những giấy
g
tờ tùyy
thhân của họ được chínnh quyền miền
m
Nam cấp trước 1975 vẫn được họ lư
ưu giữ đến
n
naay và thànhh phần dânn tộc được ghi trên đóó là “Tà Mun”.
M
Số người gốc Khmer
K
này
y
chhiếm một số lượng rất
r lớn. Khhi điền dã tại ấp Sóc 5, xã Tâân Hiệp, huyện
h
Hớn
n
Q
Quản, tỉnh Bình
B
Phướ
ớc, qua giớ
ới thiệu củaa bà con tro
ong cộng đồng
đ
tại địịa phương,,
chhúng tơi đư
ược biết chhỉ cịn ba hộ
h được chho là ngườii Tà Mun gốc,
g
còn lạại là ngườii
K
Khmer tự xưng là ngư
ười Tà Mu
un, những hộ
h có quann hệ hôn nhân
n
với các dân tộcc
khhác trên địaa bàn là Kiinh, Khmerr và Stiêngg.
Hiện tượng
t
ngườ
ời Khmer chuyển saang tự xưng là ngườii Tà Mun có nguyên
n
nhhân lịch sử
ử và làm chho tình hìnnh xác địnhh hiện nay
y càng thêm
m phức tạpp hơn. Dấu
u
ấnn của ngườ
ời Khmer thể
t hiện hầầu hết trênn các địa bàn
b được cho là ngườ
ời Tà Munn
đaang sinh số
ống hiện nay
n với mứ
ức độ đậm - nhạt kháác nhau thểể hiện quaa ngôn ngữ
ữ
17
của họ. Trường hợp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh chẳng hạn, cộng đồng ở ấp Tân
Định 2, xã Suối Đá, huyện Dương Minh Châu mang đậm dấu ấn của người Khmer.
Mặc dù tự nhận là người Tà Mun nhưng khi chúng tơi điều tra sâu vào ngơn ngữ thì
họ thừa nhận gốc Khmer và phần lớn ngôn ngữ sử dụng hàng ngày là tiếng Khmer.
Do đó, khi khảo sát điền dã ở đây, việc tìm cộng tác viên rất khó khăn. Thời gian
chúng tơi làm việc ở đây cũng có một nhóm sinh viên ngơn ngữ học (Khoa Văn học
– Ngôn ngữ, Trường ĐH. KH. XH&NV, ĐHQG TP. HCM) đang điền dã ở đây và
cũng gặp cùng vấn đề cộng tác viên. Vấn đề này chúng tôi không gặp phải ở những
địa bàn khác. Những nơi đó chúng tơi cũng gặp nhiều người gốc Khmer nhưng họ
cho biết là đang sử dụng tiếng Tà Mun và được các cộng tác viên khác xác nhận
(khi điều tra ngôn ngữ, chúng tôi luôn làm việc đồng thời với số lượng cộng tác
viên từ 2 người trở lên) và việc cung cấp ngữ liệu được họ thực hiện một cách dễ
dàng.
Ở Bình Phước, người Tà Mun hiện sinh sống chủ yếu ở ấp Sóc 5, xã Tân
Hiệp, huyện Hớn Quản. Theo thống kê năm 2012, tại tỉnh Bình Phước có 234 hộ
với 1.143 người tự nhận là người Tà Mun. Trong đó, tại xã Tân Hiệp, huyện Hớn
Quản chiếm 218 hộ người Tà Mun với 1.015 nhân khẩu. Đây được cho là vùng cư
trú lâu đời của người Tà Mun, rồi từ đó chuyển đi nhiều nơi rồi định cư ở Tây Ninh.
Như vậy, người Tà Mun ở Tây Ninh có nguồn gốc di cư từ Bình Phước, mà cụ thể
là từ ấp Sóc 5. Thực tế thì phần lớn người Tà Mun ở Tây Ninh đều có bà con ở Bình
Phước và họ có quan hệ, qua lại chặt chẽ với nhau. Q trình tiếp cận người Tà
Mun của chúng tơi bắt đầu từ Tây Ninh. Ở đây, người ta đều nói về nguồn gốc của
mình từ Sóc 5. Qua sự giới thiệu từ các cộng tác viên ở Tây Ninh, chúng tơi mới tìm
đến các cộng tác viên ở Sóc 5 dễ dàng.
Ngoài bộ phận người Tà Mun chuyển sang định cư ở Tây Ninh, bộ phận cịn
lại ở Bình Phước cũng có sự dịch chuyển nhưng khơng q xa địa điểm hiện tại.
Theo già làng thì “hồi trước ở trong kia” rồi dịch chuyển dần ra đây. Còn vị trí
trong kia thì chỉ mất 10 phút đi bộ. Điểm đáng chú ý là điểm cư trú của người Tà
Mun cũng là vùng cư trú của người Stiêng (nhóm Budeh). Khu vực này cũng có
18
những phum sóc của người Khmer. Cư trú lân cận nhau nên diễn ra q trình giao
lưu văn hóa, ngơn ngữ, quan hệ hôn nhân… khá mạnh mẽ giữa người Tà Mun với
người Stiêng, Khmer, mà đặc biệt là với người Stiêng. Phần lớn người Tà Mun ở
Sóc 5 cũng mang họ Điểu như người Stiêng. Điều đó góp phần giải thích vì sao
người Tà Mun được xếp vào tộc người Stiêng [2, tr.119].
Người Tà Mun ở Tây Ninh, tất cả đều cho rằng họ vốn từ xã Tân Hiệp, huyện
Hớn Quản của tỉnh Bình Phước chuyển sang. Khu vực này được họ nói đến với tên
Sóc 5. Nguyên nhân khiến họ di chuyển ra khỏi địa bàn cư trú là do tính chất du
canh du cư của người Tà Mun trước đây, do mất đất vì thực dân Pháp làm đồn điền
cao su, do tình hình chiến tranh trong những năm 1945-1954 và việc di cư sang Tây
Ninh còn do quá trình theo đạo Cao Đài của người Tà Mun.
Khi chuyển đến Tây Ninh, sự tiếp xúc mới người Khmer có cơ hội diễn ra
mạnh mẽ hơn. Nhiều nơi quan hệ giữa người Tà Mun và người Khmer trở nên rất
chặt chẽ qua q trình chung sống, kết hơn,… khiến cộng đồng người Tà Mun chịu
ảnh hưởng nhiều về ngôn ngữ và phong tục tập quán của người Khmer.
Hiện nay địa bàn cư trú của người Tà Mun ở Tây Ninh tập trung ở những nơi
như sau:
- Thị xã Tây Ninh: ấp Ninh Đức (xã Ninh Thạnh), ấp Thạnh Hiệp (xã Thạnh
Tân), ấp Tân Lập (xã Tân Bình).
- Huyện Tân Châu: ấp Tân Đông (xã Tân Thạnh)
- Huyện Tân Biên: ấp Suối Ơng Đình (xã Trà Vong), ấp Mới (xã Tân Phong)
- Huyện Dương Minh Châu: ấp Tân Định 2 (xã Suối Đá). Theo Phan An thì
“cư dân ở đây tuyệt đại đa số là người Khmer chứ không phải là người Tà Mun” [2,
tr.121].
Như trên đã nói, hiện nay khơng có một con số chính thức về dân số tộc người
Tà Mun từ Tổng cục Thống kê. Những con số về dân số tộc người Tà Mun trong
luận văn này được dẫn từ các nguồn báo chí, hoặc được cung cấp từ chính quyền
địa phương, già làng qua các đợt điền dã và từ các nguồn tài liệu khác. Vì vậy
những con số này chỉ mang tính tương đối và thay đổi tùy thời điểm. Ước tính của
19
Phan An cho rằng cuối năm 2008 thì số người Tà Mun nói chung có hơn 3.000
người và hơn 50% sinh sống tại tỉnh Tây Ninh [2, tr.121].
Bên dưới là cứ liệu về mặt hành chính liên quan đến tộc danh Tà Mun.
Hình 1.2: Khu sinh hoạt văn hóa dân tộc Tà Mun tại xã Tân Bình, thị xã Tây Ninh,
trong chuyến điền dã cùng sinh viên ngôn ngữ học tháng 02/2011.
1.1.2. Về hoạt động kinh tế
Theo Phan An, trước năm 1975, người Tà Mun làm nơng nghiệp theo hình
thức quảng canh: chặt cây, đốt, chọt lỗ, trỉa hạt. Cây trồng chính là lúa rẫy hoặc bắp
tuỳ vào loại đất. Mỗi năm chỉ canh tác một vụ lúa. Có nơi xen canh một vụ lúa một
vụ bắp. Năng suất lúa rẫy thấp, chỉ khoảng 2-3 tấn/hecta. Sau khi học tập cách trồng
lúa nước từ người Kinh và người Khmer họ vẫn chưa thể cải thiện đời sống kinh tế.
Thời gian canh tác trên một rẫy mới khai phá là 2-3 năm, tối đa là 5 năm. Khi rẫy
bạc màu thì họ lại tìm một cánh rừng khác để phát rẫy mới. Họ cũng săn bắn và hái
lượm trái cây, rau củ để góp thêm lương thực cho bữa ăn hằng ngày. Mặt khác, họ
làm thêm các đồ thủ công đan lát để sử dụng trong gia đình. Tóm lại, hoạt động
kinh tế của người Tà Mun cịn mang tính tự cấp tự túc.
Từ sau năm 1975, khi được nhà nước cấp đất định cư, ổn định sản xuất, người
Tà Mun chuyển sang định canh và bắt đầu thâm canh tăng vụ, trồng thêm các loại
cây lâu năm như xồi, mít… Cây hàng năm thường là lúa nước và mì. Phần lớn các
20
hộ Tà Mun trồng mì do ít đầu tư phân bón, thuốc trừ sâu. Tuy nhiên, do việc tăng
dân số ở đây và do đời sống cịn nhiều khó khăn nên nhiều hộ đã bán đất dẫn đến
tình trạng thiếu đất sản xuất.
Hiện nay đại bộ phận người lao động Tà Mun làm thuê nông nghiệp ở các xã
mà họ sinh sống hay vùng lân cận. Công việc của họ là làm cỏ, trồng mì, nhổ mì,
trồng mía, chặt mía, cạo mủ cao su…
1.1.3. Đời sống tinh thần
Đời sống tinh thần của người Tà Mun đã có chuyển biến lớn từ đầu thế kỉ 20,
sự kiện này được đánh dấu bằng việc họ theo đạo Cao Đài. Cho đến nay, ở hầu hết
các điểm cư trú của họ đã có thánh thất Cao Đài. Quá trình thực hiện các đức tin của
đạo tạo cơ hội cho người Tà Mun tiếp xúc mạnh mẽ với người Việt. Các nghi lễ của
đạo Cao Đài của người Tà Mun ngày càng chịu ảnh hưởng của phong tục người dân
Nam bộ. Ảnh hưởng rõ nét nhất là trong phong tục cưới hỏi, tang ma.
Mặc dù theo đạo Cao Đài nhưng tín ngưỡng vốn có của người Tà Mun vẫn
được giữ gìn. Tín ngưỡng của người Tà Mun là bái vật giáo. Họ tin rằng có thần
linh nói chung và được gọi là un cơ. Un cô nghĩa là “bà ông” (un = bà, cô = ơng).
Theo nghĩa thơng dụng thì un cơ để chỉ những người thuộc thế hệ cha chú của cha
mẹ mình, nhưng ở đây nó được dùng như một ẩn dụ để chỉ thần linh: un cô he (thần
đất), un cô mir (thần rẫy), un cô panâm (thần núi), un cô lê (thần sông) [2, tr.136].
Người Tà Mun tin rằng con người và các lồi vật đều có linh hồn. Bởi lẽ con
người có linh hồn nên cũng có một thế giới của người chết. Linh hồn của người chết
được gọi là “un ta”. Trong từ “un ta” thì “un” nghĩa là bà, “ta” có nghĩa là ơng.
Nghĩa ẩn dụ của “un ta” là tổ tiên. Cũng như “un cô” nghĩa đen là ông bà, nghĩa ẩn
dụ là thần linh, “un ta” nghĩa đen là ông bà, nghĩa ẩn dụ là tổ tiên. Dựa vào hệ thống
thuật ngữ thân tộc của người Tà Mun hiện nay, ta thấy người Tà Mun chịu ảnh
hưởng của người Khmer qua hai thuật ngữ âu (cha), ta (ơng), trong khi thuật ngữ
vốn có của họ là vap (cha), cô (ông).