Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.66 KB, 60 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỀ TÀI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG NĂM 2008

LỆCH LẠC NGÔN NGỮ TRONG GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp của sinh viên ĐHQG HCM)

Sinh viên thực hiện:
Trần Thị Thủy (CN)
Đoàn Trung Hiếu
Lê Vũ Dụ
Lương Thị Vinh

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Trương Văn Vỹ

Tp. Hồ Chí Minh, 2008


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN .......................................................................... 8
1. 1 Lý thuyết áp dụng ...................................................................................... 8
1. 2 Một số khái niệm ...................................................................................... 10
1. 3 Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................. 13
1. 4. Khung lý thuyết. ...................................................................................... 14
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN............................................................................... 15


2. 1 Nét truyền thống trong giao tiếp ngôn ngữ của người Việt .................... 15
2. 2 Tổng quan về thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên
hiện nay. .......................................................................................................... 17
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 22
3. 1 Khái niệm về lệch lạc ngôn ngữ của sinh viên......................................... 23
3. 2 Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc nghiên cứu hiện tượng lệch lạc ngôn
ngữ trong giao tiếp của sinh viên.................................................................... 24
3. 3 Thực trạng sử dụng ngôn ngữ lệch lạc trong giao tiếp của sinh viên hiện
nay.................................................................................................................... 27
3. 4 Nguyên nhân sử dụng ngôn ngữ lệch lạc trong giao tiếp của sinh viên
hiện nay ........................................................................................................... 33
3. 5 Những ảnh hưởng của việc sử dụng ngôn ngữ lệch lạc tới sự trong sáng
của tiếng Việt. .................................................................................................. 48
CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ ................................................................................. 50
4. 1 Đối với xã hội. ........................................................................................... 50
4. 2 Đối với nhà trường ................................................................................... 51
4. 3 Đối với sinh viên. ...................................................................................... 51
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 54
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 55


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.

C

húng ta ln tự hào Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa đậm đà bản

sắc dân tộc. Với tư cách là một đặc điểm, đặc thù của nền văn hóa dân tộc

- ngơn ngữ tiếng Việt đang đóng một vai trị chính thống, là yếu tố quan trọng hàng
đầu mang sắc thái truyền thống riêng nhất. Ngôn ngữ giao tiếp cũng góp phần nói
lên những đặc trưng vốn có của bản sắc Việt Nam. Bên cạnh đó thì ngơn ngữ giao
tiếp đang ngày càng phát huy được lợi thế và tầm quan trọng của mình trong các
mối quan hệ. Thế hệ trẻ được xem là những tầng lớp tri thức, những người phục vụ
cho đất nước sau này thì việc trau dồi ngôn ngữ giao tiếp cũng là việc hết sức cần
thiết. Do đó, tìm hiểu về ngơn ngữ giao tiếp của người Việt Nam nói chung và sinh
viên nói riêng cũng là nhu cầu của nhiều người.
Mặt khác, xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, trong sự tiếp xúc ngơn ngữ
và tiếp xúc văn hố ngày càng rộng mở, một cách sinh động hơn, phong phú hơn
với thế giới, thì ngơn ngữ giao tiếp có những biến động, thay đổi mạnh mẽ. Bên
cạnh những biến động, thay đổi theo hướng tích cực của ngơn ngữ trong giao tiếp
thì cũng có những mặt tiêu cực của nó. Trong số đó thì một bộ phận lớn sinh viên
đang có xu hướng sử dụng ngày càng nhiều những lời ăn tiếng nói “lệch lạc”, làm
biến thể, mất đi sự trong sáng của tiếng Việt.
Trong truyền thống, ông bà ta vẫn thường răn dạy con cháu phải “học ăn,
học nói, học gói, học mở”. Chính là ơng bà ta đã một phần nhấn mạnh tới nghi thức
lời nói giao tiếp hàng ngày giữa mọi người với nhau. Cách sử dụng ngôn ngữ giao
tiếp, xưng hô của con người với nhau không đơn thuần chỉ là một hành vi ngơn ngữ
mà cịn là hành vi xã hội học và đạo đức, nó cũng thể hiện trình độ, nhân cách văn
hóa của một con người. Vậy thì, sinh viên – những người của tri thức, những người
chủ tương lai của đất nước sao không tô đẹp cho mình, cho xã hội bằng những ngơn
ngữ giao tiếp “đẹp”. Nguyên nhân từ đâu? Làm thế nào để trong giao tiếp hàng
ngày, sinh viên vẫn có thể nói thoải mái, dễ hiểu mà vẫn lịch sự và không gây ảnh
hưởng hay làm “xấu” đi ngôn ngữ của tiếng Việt ? Làm thế nào để mỗi chúng ta
luôn giữ gìn, bảo tồn và phát huy nét đẹp truyền thống trong ngôn ngữ giao tiếp ?



2

Hiện nay, trong giao tiếp hàng ngày cách xưng hô, sử dụng ngôn ngữ trong giao
tiếp như thế nào được coi là chuẩn mực ? Đây là vấn đề đang gây tranh luận không
chỉ trong giới ngôn ngữ học, quản lý giáo dục mà cả trong dư luận xã hội.
Cũng từ những băn khoăn và suy nghĩ đó mà chúng tơi muốn nghiên cứu, đi
sâu tìm hiểu về đề tài “Lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên Việt Nam
hiện nay” (Trường hợp Đại học Quốc gia Tp. Hcm). Hơn nữa, qua việc nghiên cứu
đề tài này, chúng tơi một lần nữa nhìn lại chính tác phong, cách sử dụng ngơn ngữ
giao tiếp của mình sao cho xứng là những người Việt trẻ thanh lịch.
2. Đối tượng - khách thể - phạm vi nghiên cứu của đề tài
2. 1 Đối tượng
Trong giao tiếp bằng ngơn ngữ nói thì giữa hình thức giao tiếp nói ở phạm vi
sinh hoạt và hình thức giao tiếp nói ở hội nghị hoặc giảng đường, lớp học đều có sự
phân biệt và khác nhau cơ bản. Với đề tài này, chúng tôi đi tìm hiểu cách sử dụng
những từ ngữ, lời nói trong giao tiếp hằng ngày của sinh viên nhưng đối tượng
chính mà đề tài hướng đến là lệch lạc ngôn ngữ nói trong giao tiếp của sinh viên
(ĐH Quốc gia TP. HCM) hiện nay.
2. 2 Khách thể nghiên cứu
Với đề tài này, khách thể nghiên cứu của đề tài là sinh viên nam nữ thuộc ba
trường ĐHQG TP. HCM (ĐH KHXH & Nhân Văn, ĐH Tự Nhiên, ĐH Bách
Khoa).
2. 3 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài sẽ được áp dụng nghiên cứu tại ĐHQG Tp HCM. Và trong điều kiện
cho phép chúng tôi sẽ áp dụng với 3 trường đại diện của ĐHQG Tp HCM. Đó là :
Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn, Đại học Khoa Học Tự Nhiên và Đại Học
Bách Khoa.
3. Mục tiêu của đề tài:
Thông qua việc nghiên cứu về ngôn ngữ giao tiếp của sinh viên Việt Nam
hiện nay, mục tiêu mà chúng tơi đặt ra trong q trình nghiên cứu là :

3. 1 Mục tiêu chung
Đưa ra cái nhìn chung khái quát, cụ thể về hiện trạng sử dụng ngôn ngữ
trong giao tiếp của sinh viên hiện nay.


3

3. 2 Mục tiêu cụ thể.
- Nêu ra thực trạng việc sử dụng ngôn ngữ lệch lạc trong giao tiếp của sinh
viên ĐHQG Tp HCM hiện nay.
- Tìm hiểu về nguyên nhân của thực trạng đó.
- Góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy nét đẹp trong ngơn ngữ giao tiếp.
- Đóng góp những giải pháp nhằm cải thiện thực trạng sử dụng ngôn ngữ
giao tiếp trong sinh viên ĐHQG Tp HCM nói riêng và sinh viên Việt Nam nói
chung, trong xã hội ngày nay.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài này, chúng tơi xác định nhiệm vụ chính
của đề tài là:
- Nêu ra thực trạng việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên
ĐHQG Tp HCM hiện nay. Từ đó, đưa ra nhận cái nhìn về thực trạng chung của
sinh viên trong vấn đề này.
- Phân tích tài liệu và các số liệu đã được xử lý và tìm hiểu về nguyên nhân
của thực trạng, thực trạng này bắt nguồn từ nguyên nhân nào, vì sao mà sinh viên
lại sử dụng ngôn ngữ lệch lạc trong hoạt động giao tiếp của mình.
- Nghiên cứu một số lý luận liên quan trực tiếp đến đề tài.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa nét truyền thống trong việc sử dụng ngôn ngữ
giao tiếp của người việt và sinh viên
- Đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện thực trạng sử dụng ngôn ngữ giao
tiếp trong sinh viên ĐHQG Tp HCM nói riêng và sinh viên Việt Nam nói chung,
trong xã hội ngày nay.


5. Ý nghĩa của đề tài
5. 1 Ý nghĩa lý luận.
Thông qua hoạt động nghiên cứu của đề tài này, chúng tơi có cơ hội được
kiểm chứng lại những lý thuyết xã hội học đã được học. Hơn thế nữa, chúng tơi hy
vọng thơng qua cơng trình nghiên cứu của mình sẽ góp phần minh họa rõ nét hơn
những lý thuyết đó.


4

5. 2 Ý nghĩa thực tiễn.
Tham gia nghiên cứu đề tài này, đây là cơ hội rất tốt cho cả nhóm chúng tơi
thực hành kỹ năng nghiên cứu khoa học. Đặc biệt là bộ môn phương pháp nghiên
cứu xã hội học. Và đề tài này cũng là kết quả đánh giá kỹ năng nghiên cứu, và khả
năng áp dụng lý thuyết vào q trình thực hành của chúng tơi. Thơng qua đó chúng
tơi sẽ rút ra được những kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết cho hoạt động thực tế sau
này.
Kết quả của cơng trình nghiên cứu này sẽ đóng góp vào nguồn tài liệu khoa
học. Nó sẽ là những tài liệu cần thiết cho các hoạt động nghiên cứu khoa học có
chung đối tượng với đề tài của chúng tôi.

6. Mô tả mẫu nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất thuận tiện. Nghĩa là
nhóm đề tài chọn những sinh viên thuộc ba trường ĐHQG TP. HCM (Đại Học
Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn, Đại học Khoa Học Tự Nhiên và Đại Học Bách
Khoa) khơng phân biệt số năm học, học khoa nào… nhóm đã sử dụng bảng hỏi để
khảo sát 150 bạn sinh viên nam, nũ thuộc 3 trường trên, mỗi trường là 50 bản.

7. Tình hình nghiên cứu

Bàn về vấn đề ngơn ngữ giao tiếp của người Việt đã được rất nhiều người
quan tâm, trong đó có cả những nhà ngơn ngữ học và quản lý giáo dục. Tuy nhiên,
xã hội Việt nam ngày càng phát triển, trong sự tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc văn
hoá ngày càng rộng mở, một cách sinh động hơn, phong phú hơn với thế giới thì
ngơn ngữ giao tiếp cũng có nhiều biến động. Thiết nghĩ, hiện tượng lệch lạc ngôn
ngữ trong giao tiếp của sinh viên hiện nay là điều dễ hiểu nhưng nó lại có ảnh
hưởng tiêu cực tới nền văn hố Việt nói chung và sự trong sáng của tiếng Việt nói
riêng. Cũng có những tổ chức, cá nhân nhận ra tính chưa hợp lý trong ngôn ngữ
giao tiếp của giới trẻ hiện nay nhưng họ chưa thực sự bắt tay vào nghiên cứu và làm
sáng tỏ vấn đề này. Đây cũng chính là một trong những rào cản, khó khăn của
nhóm chúng tơi trong q trình sưu tầm tài liệu và nghiên cứu đề tài này.


5

Trước hết, bàn về ngôn ngữ với tư cách là một yếu tố của văn hoá. Trong
cuốn “Văn hoá và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt” của Hữu Đạt (2000), ngơn
ngữ đóng vai trị là nơi lưu trữ và bảo tồn văn hố, lại vừa có vai trị sáng tạo và
phát triển văn hoá. Tiếng Việt và văn hoá giao tiếp (trong đó có giao tiếp bằng ngơn
ngữ) của người Việt Nam được hình thành trong quá trình tiếp xúc ngơn ngữ, tiếp
xúc văn hố nhưng lại mang nét đặc trưng riêng của nền văn hoá dân tộc. Cũng bàn
về vấn đề này phải kể đến “Bản sắc văn hố- tiếp cận từ ngơn ngữ học” của Bùi
Khánh Thế (1999) hay “Đi tìm ngơn ngữ của văn hố và đặc trưng văn hố của
ngơn ngữ” của Trần Ngọc Thêm (1993). Trong quá trình đổi mới và phát triển của
đất nước thì ngơn ngữ quốc gia nói chung, ngơn ngữ tiếng Việt nói riêng chịu nhiều
tác động và có sự thay đổi. Trong bối cảnh đó thì cơng cuộc giữ gìn sự trong sáng
và chuẩn hố tiếng Việt lại càng quan trọng và cấp bách, đó là nội dung được nói
đến trong “Tiếng Việt trong tiến trình văn hố Việt Nam” của Bùi Khánh Thế
(2001), “Ngôn ngữ- vấn đề văn hố đương đại” của Huỳnh Khánh Vinh (2001). Và
chúng tơi còn tham khảo luận văn thạc sĩ bàn về “Một số vấn đề ngơn ngữ trong

thời kì tồn cầu hố” của Nguyễn Thị Quỳnh Như, luận văn nhấn mạnh mối quan
hệ giũa ngơn ngữ và văn hố, đồng thời khẳng định vai trị của ngơn ngữ đối với
việc lưu trữ, bảo vệ văn hoá dân tộc. Luận văn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu tiếng
Indonesia ở Indonesia và tiếng Việt ở Việt Nam, qua đó nêu rõ những thành tựu đạt
được của hai ngơn ngữ này trong q trình biến đổi và phát triển, đồng thời nhấn
mạnh những thách thức mà tồn cầu hố mang lại đối với ngơn ngữ quốc gia nói
chung, ngơn ngữ tiếng Việt nói riêng và luận văn của Tạ Thị Thanh Tâm với đề tài :
“Lịch sự ngôn ngữ trong một số nghi thức giao tiếp tiếng Việt”. Ngồi ra, cịn có
nhiều bài viết đăng tải trên các tạp chí như: “Việt hố tiếng nước ngồi hay quốc tế
hố tiếng Việt”, Nguyễn Ngọc Lam (2000), số 7, TC ngơn ngữ, “Vị trí ngơn ngữ
quốc gia – ngơn ngữ dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hoá nền kinh tế” của Nguyễn
Huy Cẩn (1993), số 10, TC TTKHXH, “Gìn giữ và phát triển tiếng Việt- ngơn ngữ
chung của các dân tộc Việt Nam” của Nguyễn Quang Hồng, số 1+2, TC ngơn ngữ
và Đời sống.
Vị trí ngơn ngữ trong giao tiếp. Giao tiếp là một trong những tiêu chuẩn
quan trọng để phân biệt loài người và loài vật. Chúng ta có thể diễn đạt rất nhiều
điều bằng rất nhiều cách: bằng khuôn mặt, bàn tay, thân thể… và đặc biệt quan


6

trọng là ngơn ngữ nói. Có thể nói rằng giao tiếp thành công sẽ dẫn đến tất cả những
thành công khác. Nhưng làm sao để giao tiếp thành công, làm sao để sử dụng ngơn
ngữ một cách có hiệu quả trong cuộc sống là một câu hỏi khó. Chúng ta khơng thể
chỉ giao tiếp theo thói quen mà phải có khoa học dẫn đường, đó là nội dung được
nói đến trong cuốn “Giáo trình kĩ năng giao tiếp” của Chu Văn Đức (2005), trong
“Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp” của Như Ý, (1990), TC ngôn ngữ,
“Vấn đề ngôn ngữ giao tiếp và giao tiếp lịch sự” của Thuỳ Hương trong TC KHXH
số 9+10, và “Về việc nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp” của Nguyễn Văn Độ,
(1995), Số 1, TC ngôn ngữ, “giao tiếp ngôn ngữ trong các tình huống giao tiếp xã

hội” của Đặng Quang Hồng, số 4, tạp chí KHXH.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến việc gìn giữ sự trong
sáng của tiếng Việt, tiếp bước tấm gương đó của Người, các vị lãnh tụ của Đảng và
Nhà nước cũng quan tâm và trực tiếp phát biểu về những vấn đề của tiếng Việt.
Tiêu biểu là những bài phát biểu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Bài “Thủ tướng
Phạm Văn Đồng với cơng tác : giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” của Phạm Văn
Hảo, số 9, TC ngôn ngữ và Đời sống (2007) đã điểm qua về nội dung chính và các
vấn đề có liên quan trong các bài nói và viết của Thủ tướng Phạm Văn Đồng về
cơng tác giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Ngoài ra, các bài viết trên các báo điện tử cũng là tài liệu mà chúng tơi tham
khảo, đó là “Lại nói về sự trong sáng của tiếng Việt” bài viết của Nhật Quang trong
http://www. vovnews. vn, ra ngày 31/03/2006, “Sự trong sáng của tiếng Việt”,
trong http://vietbao. vn/Trang-ban-doc/Can-giu-su-trong-sang-cua-tiengViet/10990377/484/, “Ngôn ngữ là niềm tự hào dân tộc” bài viết trong báo Vietbao.
“Teen Việt: Nói tục, chửi thề, hành xử giang hồ” ra ngày 06/12/2007-Vietnamnet…

8. Phương pháp nghiên cứu.
 Phương pháp phân tích tư liệu sẵn có.
Trong q trình sưu tầm tài liệu, nhóm chúng tơi nhận thấy có nhiều tài liệu,
cơng trình nghiên cứu về vấn đề ngơn ngữ, giao tiếp và ngôn ngữ giao tiếp. Tuy
nhiên, những tài liệu thuộc chuyên ngành xã hội học bàn về vấn đề mà chúng tơi
đang nghiên cứu lại rất ít ỏi. Bởi vậy, ngoài những tư liệu chuyên ngành làm cơ sở
lý luận, chúng tơi cịn sưu tầm những tài liệu của các chuyên ngành khác và những


7

tài liệu trên báo, tạp chí, internet để làm cơ sở cho những phân tích, đánh giá phục
vụ cho đề tài.
 Phương pháp quan sát tham dự
Kỹ năng giao tiếp là môn học về lối sống, cuộc sống đời thường đang diễn ra

hàng ngày xung quanh chúng ta về quan hệ người với người, về ứng xử con người
với nhau. Chính vì vậy, việc quan sát lời ăn, tiếng nói, cách sử dụng ngôn ngữ trong
giao tiếp hàng ngày của sinh viên cũng chính là một trong những cơ sở để nhóm
hồn thành đề tài này.
 Phương pháp thu thập thơng tin định lượng
Nhóm tiến hành phỏng vấn bằng bảng hỏi, được thực hiện với 150 bạn sinh
viên nam nữ tại ba trường ĐHKHXH và Nhân Văn, ĐH Bách Khoa và ĐHKH Tự
Nhiên, mỗi trường là 50 phiếu.


8

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. 1 Lý thuyết áp dụng
1. 1. 1 Lý thuyết hành vi lựa chọn hợp lý
Lý thuyết này được các nhà xã hội học Mỹ xây dựng và áp dụng khá rộng
rãi. Người đại diện tiêu biểu cho lý thuyết này là Homans. Điểm xuất phát để đi vào
xã hội rộng lớn của lý thuyết là từ các cá nhân. Các cá nhân ở đây được xem xét
chủ yếu trên phương diện hành vi. Theo quan điểm này thì muốn giải thích một
hiện tượng xã hội nào thì điều trước tiên là phải quy về những hành vi cá nhân và
coi đó là một sự kiện.
Các nhà lý thuyết hành vi cho rằng phần lớn hay tất cả các hành động của
con người đều có thể giái thích bằng cơng thức : từ kích thích đến phản ứng. Điều
đó có nghĩa là : con người sẽ có những phản ứng nhất định khi có sự kích thích.
Lý thuyết này là sự biến thái từ lý thuyết hành vi của Colenan khởi xướng.
Lý thuyết này cũng dựa trên nguyên tắc hộp đen nhưng Coleman lại không quan
tâm lắm đến đầu vào và đầu ra mà ông lại đi tìm hiểu cơ chế bên trong điều khiển
các quá trình diễn ra bên trong hộp đen. Cơ chế đó chính là sự lựa chọn hợp lý. Và
cơ chế này thì đều giống nhau ở mọi người. Khi một cá nhân nhận được một loạt

các kích thích từ bên ngồi thì khơng phải cá nhân ngay lập tức sẽ phản ứng lại tất
cả mà tiến hành lựa chọn những kích thích nào phù hợp với bản thân, cịn những
kích thích nào cảm thấy khơng phù hợp, khơng mang lai lợi ích thì sẽ bị khước từ,
loại bỏ.
Trên thực tế thì lý thuyết này được áp dụng khá rộng rãi. Và trường hợp
nghiên cứu về lệch lạc ngôn ngữ giao tiếp của sinh viên cũng vậy. Từ sự phát triển
của kinh tế, biến đổi văn hố, xã hội, mơi trường sống xung quanh thực sự là những
kích thích rất mạnh đối với sinh viên chúng ta. Rõ ràng, trong những kích thích đó
sẽ có những kích thích tích cực nhưng cũng có những kích thích tiêu cực.
Với những kích thích đó thì sinh viên đã phản ứng như thế nào? Với những
kích thích đó cũng có những sinh viên phản ứng lại theo chiều hướng tích cực đó
thực sự là sự lựa chọn hợp lý. Thế nhưng, cũng có một bộ phận không nhỏ sinh


9

viên đang lâm vào tình trạng lựa chọn phản ứng lại kích thích đó nhưng khơng hợp
lý chút nào cả. Đó là hiện tượng sinh viên sử dụng ngơn ngữ lệch lạc trong hoạt
động giao tiếp đơn giản của mình và cho đó là phù hợp với thời đại, được xem là
“mốt”. Sự lựa chọn của họ đã và đang có những ảnh hưởng khơng tốt đến xã hội,
văn hố và con người…

1. 1. 2 Lý thuyết hành động hợp mục đích
Lý thuyết hành động được Max. Weber nhà xã hội học Đức khởi xướng vào
đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở xem xét cá nhân thông qua các hành động của họ. Ông
cho rằng trong hành động của con người luôn mang ý nghĩa chủ quan và khi hành
động bao giờ cũng bao giờ cũng hành động theo một quyết định nội tại. Ơng có
chia hành động ra nhiều dạng khác nhau : hành động mang tính cảm xúc, hành động
mang tính truyền thống, hành động mang tính định hướng giá trị. Trong vấn đề của
mình chúng tơi lựa chọn hành động hợp mục đích để là cơ sở lý luận cho đề tài.

Đây là loại hành động mà khi thực hiện người ta sẽ hướng tới mục đích nào
đó và cần phải quyết định xem nên dùng phương tiện nào để đạt tới mục đích đó.
Trong xã hội hiện đại khơng phải bao giờ mục đích và phương tiện cũng thuận
chiều nhau mà không it những trường hợp nghịch nhau. Có thể mục đích rất tốt đẹp
nhưng phương tiện để đạt đến chúng thì khơng hẳn là tốt đẹp, và ngược lại. Trong
trường hợp nghiên cứu về hiện tượng lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh
viên. Mặc dù sinh viên sử dụng ngôn ngữ giao tiếp trong những trường hợp nhằm
đạt đến mục đích hồn tồn tươi sáng. Thế nhưng họ lại vẫn sử dụng những phương
tiện là ngôn ngữ lệch lạc, lệch chuẩn. Sinh viên đã lựa chọn phương tiện đó để phục
vụ cho hành động hợp mục đích của mình.

1. 1. 3 Lý thuyết về hành vi lệch lạc
Có rất nhiều lý thuyết giải thích cho hành vi lệch lạc. Và trong trường hợp
vấn đề của chúng tôi đã lựa chọn lý thuyết môi trường xã hội để giải thích cho hành
vi lệch lạc ngôn ngữ của sinh viên.
Các nhà xã hội học, tâm lý học, luật học có khá nhiều những quan đểim khác
nhau về lệch lạc xã hội. Nhưng họ lại thống nhất với nhau khi cho rằng môi trường
xã hội là một tác nhân đóng vai trị quan trọng đưa đến các hành vi lệch lạc.


10

Lệch lạc xã hội là hiện tượng phổ biến cả ở nơng thơn, thành thị, nhưng có
một điều khơng ai có thể phủ nhận được là tỉ lệ phạm pháp, bị lệch lạc ở đô thị bao
giờ cũng cao hơn ở nông thôn. Đây là một vấn đề dễ hiểu, vì trên thực tế thì đơ thị
chính là nơi tập trung kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố. Là một nơi đông đúc dân
cư sẽ dẫn đến nhiều mối quan hệ, có quan hệ tốt và quan hệ xấu. Một mối quan hệ
xấu sẽ có nguy cơ đi đến hành vi lệch lạc là rất cao.
Sinh viên cũng vậy, sinh viên được sinh sống học tập và làm việc tại các đơ
thị lớn, chính điếu này đã có rất nhiều tác động đến sinh viên: tác động của kinh tế,

xã hội, văn hoá, mội trường xung quanh đã rễ ràng làm cho sinh viên rơi vào tình
trạng lệch lạc. Một thể hiện cho sự lệch lạc của sinh viên chính là việc sinh viên
đang sử dụng các ngơn ngữ lệch lạc, lệch chuẩn vào trong hoạt động giao tiếp
thường ngày của mình…
1. 2 Một số khái niệm
1. 2. 1 Tiếng Việt
Tiếng Việt là ngơn ngữ thuộc nhóm nhơn ngữ Việt – Mường, họ ngơn ngữ
Nam Á. Trước đây, có ý kiến cho rằng tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ Thái. Tiếng
Việt là ngơn ngữ chính thức và ngơn ngữ giao tiếp giữa các dân tộc của Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt nam. Tiếng việt còn sử dụng trong cộng đồng người Việt nam
ở các nước Cămpuchia, Lào, Thái lan, Pháp, Hoa kỳ, có lẽ hơn 70 triệu người sử
dụng. (Từ điển Bách khoa, Hà Nội – 2005)

1. 2. 2 Ngơn ngữ
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu quan trọng và độc đáo nhất trong giao tiếp của
loài người; là phương tiện biểu hiện và phát triển tư duy, bảo lưu và chuyển giao có
hiệu lực nhất các truyền thống lịch sử – văn hố của một dân tộc.
Ngơn ngữ là vốn tri thức, tầm hiểu biết về tiếng mẹ đẻ và sự am hiểu văn hoá
của một cá nhân thể hiện qua cách dùng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày và
trong tác phẩm văn học
Ngôn ngữ lời nói là phương tiện giao tiếp trong các cảnh huống, môi trường
sống. (Từ điển Bách khoa, Hà Nội – 2005)
Lênin cho rằng: “Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao
động là ngơn ngữ, đó là hai động lực chủ yếu trong sự phát triển của loài người


11

nguyên thuỷ. Cùng với sự phát triển của tư duy, của ý thức, ngơn ngữ đã góp phần
hồn thiện con người… và “ngôn ngữ là một phương tiện quan trọng nhất trong sự

giao thiệp giữa người với người”.
Ngôn ngữ được tổ chức UNESCO đánh giá “là văn hoá của mỗi cá nhân,
cộng đồng và là tài nguyên của mỗi quốc gia”.
Trong mối quan hệ với văn hố, ngơn ngữ vừa có vai trị lưu trữ và bảo tồn
văn hố, lại vừa có vai trị sáng tạo và phát triển văn hoá.

1. 2. 3 Giao tiếp
Giao tiếp là sự trao đổi, truyền đạt giữa con người với con người các nội
dung tư tưởng, tình cảm, kinh nghiệm và các tri thức, thông tin khác nhờ ngôn ngữ
và các quy tắc, quy ước hay một hệ thống tín hiệu nào đó.
 Mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người có thể xảy ra với các
hình thức khác nhau :
- Giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân
- Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm
- Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng.
 Có nhiều cách để phân loại giao tiếp, theo phương diện giao tiếp, có thể
chia giao tiếp thành 3 loại sau:
- Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động với vật thể
- Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngơn ngữ như giao tiếp bằng cử chỉ, điệu bộ, nét
mặt…
- Giao tiếp bằng ngơn ngữ (tiếng nói, chữ viết): đây là hình thức giao tiếp
đặc trưng cho con người, xác lập và vận hành mối quan hệ người – người trong xã
hội. Dựa trên sự phân loại này, chúng tôi xác định trong phạm vi của đề tài này
chúng tôi tập trung nghiên cứu ngơn ngữ nói- ngơn ngữ được sử dụng trong hoạt
động giao tiếp bằng lời nói.

1. 2. 4 Ngơn ngữ giao tiếp
Về một phương diện nào đó, có thể xem giao tiếp là một q trình phát và
nhận thơng tin giữa những người giao tiếp với nhau. Và ngôn ngữ giao tiếp chính là
một cơng cụ trong hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ được sử dụng trong hoạt động



12

giao tiếp được chia thành ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết. (Trích theo “giao tiếp
tình huống trong các tình huống giao tiếp xã hội” của Đặng Quang Hoàng, tr 42,
tạp chí văn hố xã hội số 04-2007).

1. 2. 5 Lệch lạc
Sự lệch lạc, hay còn gọi là Sự lầm lạc, Hành vi lệch lạc, (tiếng Anh :
deviance hoặc deviant behavior) là một khái niệm của xã hội học được định nghĩa
là sự vi phạm có nhận thức các tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng của một nhóm hay của xã
hội.
Các tiêu chuẩn văn hóa và kỳ vọng định dạng một dải rộng các hoạt động
của con người nên khái niệm sự lệch lạc cũng mang nghĩa rộng tương ứng. Một
dạng hiển nhiên của lệch lạc là tội phạm, sự vi phạm các quy phạm được ban hành
chính thức thành luật pháp. Ngồi ra nó cịn là rất nhiều những dạng không tuân thủ
tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng khác ở rất nhiều mức độ từ ơn hịa đến cực đoan như thuận
tay trái, tính khoe khoang, kiểu tóc kỳ dị cho đến tình dục đồng giới, bệnh tâm
thần... Sự lệch lạc thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực tuy nhiên những cá thể bị
tách riêng ra khỏi nhóm do sự tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn văn hóa lý tưởng
trong một chừng mực nào đó cũng là một dạng của lệch lạc. Điều này là do sự khác
nhau giữa văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế, trên thực tế, hầu như tất cả mọi cá
nhân đều không hội đủ các tiêu chuẩn của văn hóa lý tưởng và nếu một cá nhân
trong nhóm trở nên vượt trội trong việc đó thì anh ta sẽ thnh 'người lên mặt đạo
đức', ít nhất cũng có phần lệch lạc". Người có hành vi lệch lạc là đối tượng kiểm
soát của xã hội, qua đó xã hội cố gắng đưa họ trở lại theo đúng tiêu chuẩn.
Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu này, chúng tôi tập chung nghiên cứu về
lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp. Và lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp cũng là một
dạng của sự lệch lạc xã hội. Theo chúng tôi, mọi ngôn ngữ sử dụng mà khơng được

định hướng chính quy từ trước, khơng nằm trong một quy định nào thì nó đều bị coi
là ngơn ngữ lệch lạc. Có thể đưa ra một số dạng ngôn ngữ lệch lạc không đúng
chuẩn mực : nói tục chửi thề, tiếng lóng, pha trộn ngơn ngữ, sử dụng từ lệch chuẩn,
sử dụng ngoại ngữ khi tham gia giao tiếp bình thường của người Việt.


13

1. 2. 6 Lệch lạc ngôn ngữ
Lệch lạc ngôn ngữ là một hiện tượng lệch lạc trong xã hội con người. Và ở
trong đề tài này chúng tôi hiểu lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp là hành vi vi phạm
những tiêu chuẩn trong việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của con người như: việc
lạm dụng tiếng nước ngoài, sử dụng tiếng lóng, những từ lệch chuẩn, pha trộn ngơn
ngữ, nói tục chửi thề…
1. 3 Giả thuyết nghiên cứu
- Hiện tượng lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên hiện nay có
mối quan hệ với tình hình kinh tế, văn hố, xã hội. Cách sử dụng ngơn ngữ giao tiếp
của sinh viên hiện nay có sự thay đổi và diễn ra với nhiều xu hướng khác với trước
kia.
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng ngôn ngữ lệch lạc trong giao
tiếp của sinh viên nhưng ngun nhân chính là do sự tác động của mơi trường xung
quanh (đó là sự phát triển của xã hội, sự tiếp xúc văn hoá, sự biến đổi hệ thống giá
trị chuẩn mực và những ảnh hưởng của bạn bè) và do thói quen.
- Nếu thực trạng sử dụng ngơn ngữ lệch lạc trong sinh viên kéo dài có thể
dẫn tới những hậu quả khơng tốt : có thể làm mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt,
ảnh hưởng lớn tới nét đẹp trong văn hóa giao tiếp truyền thống của người Việt
Nam.


14


1. 4. Khung lý thuyết.

Đặc điểm kinh tế- văn
hoá – xã hội

Biến đổi hệ thống
giá trị chuẩn mực

Các tác nhân xã hội
hố (xã hội, bạn bè),
thói quen

Nhận thức của sinh viên

Quá trình giao tiếp của
sinh viên

Lệch lạc ngôn ngữ
trong giao tiếp của sinh
viên


15

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN

2. 1 Nét truyền thống trong giao tiếp ngơn ngữ của người Việt
Đúng như Lênin nói, ngơn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con
người. Khi ngơn ngữ lồi người phát triển thì nó khơng chỉ cịn là cơng cụ để trao

đổi thơng tin thuần t mà nó cịn là sự phản những thói quen, tập quán, những đặc
trưng thẩm mỹ của mỗi cộng đồng cùng những cách thức hoạt động giao tiếp ở
những hồn cảnh nhất định. Nói một cách khái qt thì ngơn ngữ khi thực hành
chức năng giao tiếp nó cịn là biểu hiện cụ thể của đặc trưng văn hoá và trình độ của
phát triển văn hố. Khi văn hố càng phát triển thì ngơn ngữ giao tiếp càng trở nên
tinh tế và mang tính loại biệt cao. Bởi vậy mà văn hố giao tiếp là yếu tố quy định
ngơn ngữ giao tiếp. Việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của người Việt cũng khơng
nằm ngồi quy luật đó.
Nước ta vốn là một nước nông nghiệp với nền văn minh lúa nước xuất hiện
khá sớm, lại chịu sự tiếp xúc, ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác trên thế giới,
cùng với một hệ thống chữ viết được sáng tạo trong q trình lịch sử, nên ngơn ngữ
giao tiếp của người Việt rất phong phú và đa dạng. Nhờ vậy mà trong các mối quan
hệ giao tiếp người Việt sử dụng được nhiều vốn từ, diễn đạt được nhiều tâm tình, ý
tưởng và việc diễn đạt cũng rất uyển chuyển, linh hoạt. Cách sử dụng ngôn ngữ
giao tiếp của người Việt mang nét đặc trưng trong văn hoá giao tiếp của người Việt,
điều này thể hiện rất cụ thể qua nhiều câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao…
+ Người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc mở
rộng và giữ gìn các mối quan hệ: “Dao năng liếc thì sắc, người năng chào thì quen”
hay “lời chào cao hơn mâm cỗ”. Sự giao tiếp củng cố tình thân : “Ao năng may thì
mới, người năng tới thì thân”.
+ Về cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ nên có thói quen giao
tiếp “vịng vo tam quốc”, khơng bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như
người phương Tây. Truyền thống giao tiếp của người Việt Nam khi bắt đầu giao
tiếp là phải “Vấn xá cầu điền”, để tạo khơng khí giao tiếp. Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý
tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy coi trọng các mối quan hệ. Nó


16

tạo nên một thói quen suy nghĩ cân nhắc, kỹ càng trước khi nói năng, tránh kiểu nói

văng mạnh làm ảnh hưởng đến người khác.
“An phải nhai, nói phải nghĩ”
“Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”
“Trượt chân thì dẽ, trượt miệng thì khó”
Trong các mối quan hệ, người Việt rất coi trọng sự đồn kết, nhất trí, cho
cuộc sống hồ thuận, vui vẻ nên luôn giáo dục con cháu phải:
“Một điều nhịn chín sự lành”
(Thành ngữ)
“Lời nói khơng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”
(Ca dao)
Hơn nữa, năng lực giao tiếp, cách sử dụng lời ăn, tiếng nói được người Việt
Nam xem là tiêu chuẩn để đánh giá con người : “Vàng thì thử lửa thử than, chuông
kêu thử tiếng, người ngoan thử lời”.
+ Người Việt Nam có một hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú, thể hiện trong
hệ thống xưng hô bằng các từ chỉ quan hệ họ hàng. Hệ thống xưng hô này có đặc
điểm:
* Có tính chất thân mật hóa coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ
hàng trong một gia đình.
* Có tính xã hội hóa, cộng đồng hóa cao. Trong hệ thống xưng hơ này có cái
“Tơi” chung chung. Quan hệ xưng hô phụ thuộc vàn tuổi tác, địa vị xã hội, thời
gian và không gian giao tiếp.
* Thể hiện tính tơn ti kỹ lưỡng: Người Việt Nam xưng hơ theo ngun tắc
“xưng khiêm hơ tốt”, gọi mình thì khiêm nhường, đối tượng giao tiếp thì tơn kính
Tiếng Việt của chúng ta trong sáng và vô cùng phong phú. Nghi thức lời nói
trong cách nói cũng rất phong phú. Đó là cách vận dụng linh hoạt vốn tục ngữ, ca
dao và thành ngữ vào trong hoạt động giao tiếp.
Như vậy cách xưng hô, sử dụng ngôn từ, lời nói trong giao tiếp của người
Việt rất đa dạng, phong phú. Nó vừa thể hiện nét đẹp truyền thống trong tâm hồn
người việt vừa thể hiện phép lịch sự tôn trọng giữa mỗi người với nhau.



17

Tuy nhiên trong xã hội ngày nay người Việt đã phần nào làm mai một đi
những nét đẹp truyền thống đó. Mà thay vào là những lối nói thực dụng, thiếu sự
trau chuốt mang đậm nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Đó là sự xuất hiện
hiện tượng sính ngoại ngữ qua cách sử dụng tiếng lóng, nửa tây nửa ta, sự pha trộn
ngôn ngữ và những cách nói năng làm cho ngơn ngữ bị biến tướng, méo mó, giảm
đi sự trong sáng vốn có của tiếng Việt.
2. 2 Tổng quan về thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên
hiện nay.
Trong sự phát triển của mình, xã hội đã và đang đưa con người vào vịng
xốy của nó. Có thể đó là những tác động rất tích cực, nhưng cũng sẽ là những tiêu
cực khơng đáng có nếu con người khơng vận động để phù hợp với sự phát triển đó.
Và trong thực tế, thì đối tượng khá nhạy cảm với những biến động này chính là giới
trẻ. Có thể nói rằng: giới trẻ chính là bộ mặt của một xã hội. Trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài, chúng tôi lựa chọn sinh viên là khách thể nghiên cứu. Vì sinh viên
cũng là một đại diện tiêu biểu của giới trẻ.
Từ lâu, trở thành sinh viên đã là ước mơ và mục tiêu phấn đấu của nhiều
người trẻ. Trong mắt của mọi người, sinh viên là những người học cao, biết rộng,
ăn nói lịch sự, có văn hóa. Mọi người xung quanh ln nhìn sinh viên với ánh mắt
coi trọng và đầy tin tưởng, vì sinh viên là tầng lớp trí thức của đất nước. Thế nhưng
trên thực tế thì sao, sinh viên đã và đang làm những gì để nâng cao tầm vóc, vị thế
của mình? Đây thực sự là một câu hỏi khó cho rất nhiều người, và kể cả chúng tôi –
những sinh viên đương đại.
Một vấn đề mà được rất nhiều người quan tâm, đó chính là ngơn ngữ sử
dụng của sinh viên trong hoạt động giao tiếp. Một đại diện của xã hội, tầng lớp tri
thức, đối tượng nhạy cảm, họ nói với nhau như thế nào? Và họ làm gì để giữ gìn sự
trong sáng của Tiếng Việt?

Một thứ ngôn ngữ khác hẳn được phát ra từ những cái miệng xinh xinh của
những cô cậu sinh viên, khiến khơng ít người phải ái ngại. Đã có rất nhiều ý kiến
cho rằng: có phải sinh viên đang “cài số lùi” trong mơn học văn hóa giao tiếp hay
cụ thể hơn là ngôn ngữ giao tiếp. Trong bản tin Đại Học Quốc Gia Hà Nội có nêu
một ví dụ về ngôn ngữ giao tiếp của sinh viên. Xin được dẫn ra: “Em ơi! Anh bảo
này…Trời ơi xinh thế mà vừa câm vừa điếc”. Đó là lời của mấy bạn sinh viên nói


18

với một bạn gái chưa hề quen biết. Và họ cho đó chỉ là: “Đùa cho vui ấy mà”. Sinh
viên bây giờ, nói tục, chửi bậy khá phổ biến. Các sinh viên nam không ngại lôi tên
ông bà, cha mẹ của nhau ra để mà giao tiếp. Một lần đến xóm trọ của sinh viên, tơi
thấy mọi người tồn gọi nhau bằng tên húy của bố mẹ, nhất là khi tên chữ của các
cụ có gì đó đặc biệt. Ngay cả phái được coi là ăn nói dịu dàng thì cũng nói bậy thả
phanh chẳng chút ngượng miệng: “Mẹ … con ấy “chim lợn” thế không biết, dám
cắm xe của bạn thân tao chứ!” Nói tục chửi bậy, thậm chí đã nói là đệm văng mạng
những từ rất tục đã trở thành thói quen xấu và khơng thể sửa của một bộ phận sinh
viên. Và họ vô tư cho rằng: “Phải ăn nói vơ tư thì sống với nhau mới thoải mái
được”.
Nhìn từ góc độ khác, vấn đề ngơn ngữ giao tiếp của sinh viên cần phải bàn
đó là tình trạng “sinh viên hóa từ ngữ”. Những kiểu ăn nói tiếng lóng mà rất nhiều
“ét-vê” hay dùng đó là: “ổn áp”- thi qua, “tắt đèn”- “vào vòng hai”- “thi trượt”. Khi
“ca phê” hay “sunsilk bồ kết” em nào thì phải “kiểm tra hàng” để rồi “shut down”
luôn. Nếu nàng thuộc dạng “cành cao” thì phải “đầu tư” và “nạp điện”. Cịn lúc bị
người u cho “leo cây” thì đích thị là “seven love”- “thất tình”… kiểu ngơn ngữ
đó của sinh viên đã khiến khơng ít ơng bố, bà mẹ cũng như rất nhiều người phải lắc
đầu: “chịu chẳng biết chúng ăn nói thứ ngơn ngữ gì ?!” Phải chăng đang có “một
thứ ngơn ngữ thời @” đang xâm nhập vào những người trẻ hiện nay.
Ngôn ngữ tồn tại và phát triển trong xã hội loài người với tư cách là vỏ vật

chất của tư duy. Nó mang chức năng quan trọng là giao tiếp và phản ánh tư duy của
con người. Xã hội càng phát triển thì ngơn ngữ cũng cần phải hoàn thiện hơn để
phục vụ cho nhu cầu xã hội. Ngày nay, mặc dù người ta có thể thông tin cho nhau
bằng các loại phương tiện, dưới mọi hình thức nhưng vẫn khơng thể tách rời ngơn
ngữ. Ngơn ngữ như một yếu tố gắn kết để xã hội có thể tồn tại và phát triển.
Tầm quan trọng của ngơn ngữ là như thế, nhưng việc sử dụng nó như thế nào
cho đúng chuẩn mực ngữ pháp, đúng phong cách tiếng Việt và phù hợp với thuần
phong mỹ tục của người Việt Nam là vấn đề không đơn giản. Xét ngơn ngữ trong
tầng lớp sinh viên – lớp trí thức tiêu biểu, tươg lai của đất nước để có thể đưa ra
một chuẩn mực về Tiếng Việt. Một yêu cầu hàng đầu đặt ra đối với ngôn ngữ của
sinh viên đó là sự trong sáng, lành mạnh, giàu tính giáo dục và tri thức.


19

Trong môi trường giáo dục như ở trường đại học, việc giao tiếp được thực
hiện giữa sinh viên với nhau và giữa sinh viên với thầy cô phải đảm bảo được sự
gần gũi, thân thiện thân mật nhưng giới hạn trong một khuôn khổ nhất định và luôn
giữ được bản chất tôn sư trọng đạo của sinh viên Việt Nam. Nên tránh những hiện
tượng giao tiếp có tính chất suồng sã, trong cách sử dụng ngôn ngữ. Hiện nay, các
sinh viên đều xưng hô với nhau bằng các đại từ nhân xưng: tao, mày, mi, … Theo
một điều tra về xã hội học, có đến 75% sinh viên sử dụng cách xưng hô này. Đúng
là rất thân mật, rất suồng xã và trong một phạm vi nào đấy như là trong căn tin,
qn giải khát thì có thể chấp nhận được. Nhưng nếu mà trong giảng đường, trong
lớp học thì sự thân mật, suồng xã đó cần phải cân nhắc…
Một hiện tượng cũng hay gặp trong giao tiếp của sinh viên, mặc dù khơng
nhiều nhưng khơng phải là hiếm, đó là hiện tượng nói tục, chửi thề, khơng thể chấp
nhận được ngôn ngữ của sinh viên lại như ngôn ngữ của những người đầu đườngxó chợ. Có thể nói đó là những lỗi nhạc trong bản giao hưởng ngôn ngữ. Chúng ta
cần phải kiên quyết loại trừ nó ra khỏi ngơn ngữ của sinh viên nói riêng và của tồn
xã hội nói chung.

Những năm gần đây, nhờ chính sách mở cửa, thanh niên Việt Nam có điều
kiện hội nhập với thế giới. Nhu cầu sử dụng ngoại ngữ là tất yếu và tình trạng sinh
viên sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp với nhau là phổ biến. Phải nói rằng đó là
một cách học ngoại ngữ nhanh và hiệu quả. Nhưng nếu chúng ta khơng sử dụng nó
một cách đúng lúc, đúng chỗ thì nó sẽ gây ra khá nhiều hậu quả phiền phức. Một ví
dụ: nếu chúng ta sử dụng ngoại ngữ nói chuyện với nhau trước mặt một người thứ 3
khơng biết ngoại ngữ thì chắc hẳn sẽ khơng tránh khỏi những suy nghĩ mình là
người ngồi cuộc và tất nhiên họ sẽ nghĩ mình khơng được tơn trọng. Dù là vơ tình
hay cố ý thì bạn vẫn bị coi là người mất lịch sự trong giao tiếp.
Cũng là ngoại ngữ, nhưng trong một trường hợp khác: sự lệch lạc về sử dụng
ngôn ngữ lại càng đươc biểu hiện rõ nét. Đó là trong trường hợp giao tiếp bình
thường giũa sinh viên Việt Nam với nhau, nhưng thỉnh thoảng lại thấy pha thêm
một vài từ ngoại ngữ vào nhằm thể hiện một cái gì đó rất sinh viên. Chính đó, đơi
khi làm cho việc giao tiếp khơng cịn đạt được hiệu quả như ta mong đợi do người
nói chuyện với mình khơng hiểu mình nói gì.


20

Luồng văn hóa thế giới có ảnh hưởng rất nhiều tới thanh niên Việt Nam, đặc
biệt là sinh viên. Nhưng dường như chúng ta chưa có sự chọn lọc để biết tiếp thu
những cái mới, cái tiến bộ và đào thải, không tiếp nhận những cái không tốt.
Gần đây, người ta đã thấy được tầm quan trọng của những giá trị văn hóa
truyền thống và có xu hướng tìm về cuội nguồn. Đó là dấu hiệu đáng mừng cho văn
hóa Việt Nam nói chung và ngơn ngữ nói riêng. Vì ngơn ngữ suy cho cùng cũng là
một khía cạnh của văn hóa dân tộc. Văn hóa biểu hiện trong ngơn ngữ và ngơn ngữ
là mặt biểu hiện của văn hóa. Đó chính là mối quan hệ biện chứng.
Là những sinh viên thời đại mới, chủ nhân tương lai của nước nhà, ngoài
những hành trang, kiến thức để tiến vào thế kỷ 21 như tin học ngoại ngữ…thì mỗi
người trong chúng ta phải trang bị cho mình một vốn ngơn ngữ, vốn ngơn ngữ đó

phải được lựa chọn, chắt lọc. Và nó khơng phải là thứ ngơn ngữ xa lạ mà chính là
tiếng Việt- ngơn ngữ mẹ đẻ của chúng ta, ngôn ngữ là tài sản chung, là kho báu vô
giá của dân tộc. Nó cần được bảo tồn, giữ gìn và phát huy vẻ đẹp vốn có. Làm thế
nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt – như lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng
căn dặn là trách nhiệm lớn lao, vinh quang đối với mỗi sinh viên chúng ta.
- Tích cực:
+ Sự ra đời, hình thành của những từ và ngữ mới tạo ra sự phong phú, đa dạng
trong ngôn ngữ giao tiếp.
+ Thúc đẩy sinh viên tích cực tiếp thu có định hướng các ngơn ngữ khác trên thế
giới, trong xu thế hịa nhập tồn cầu.
+ Một bộ phận sinh viên ln có ý thức bảo vệ, giữ gìn và phát huy nét đẹp trong
ngơn ngữ giao tiếp.
+ Với xu thế mở cửa, hội nhập và tồn cầu hóa như hiện nay, trong giao tiếp sinh
viên khơng chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình mà cịn có khả năng sử dụng nhiều
ngơn ngữ khác trên thế giới.
- Tiêu cực:
+ Một bộ phận không nhỏ trong giới sinh viên đã và đang làm biến thể ngôn ngữ
giao tiếp, và sự biến thể này thể hiện trên cả hai mặt ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết
+ Ngơn ngữ nói trong giao tiếp


21

* Trong ngôn ngữ giao tiếp của sinh viên hiện nay sử dụng ngày càng nhiều
và phổ biến các ngôn từ “xấu” phi văn hóa (văng tục, chửi thề…) và dường như nó
đã trở thành một căn bệnh truyền nhiễm
* Một sự thật đáng buồn đang diễn ra hàng ngày mà xã hội phải chịu đựng
đó là việc văng tục chửi bậy đã đi quá xa giới hạn của việc giải tỏa những bức xúc.
Một bộ phận sinh viên xem đó là phong cách để thể hiện mình
* Pha trộn ngôn ngữ trong giao tiếp đã trở thành “Mốt” trong cách nói của

sinh viên. Việc lạm dụng ngơn ngữ nước ngoài vào trong hoạt động giao tiếp đã gây
nến sự phản cảm và làm giảm sự trong sáng của tiếng Việt, những cách nói này
đang làm cho tiếng Việt của chúng ta méo mó, đáng thương hơn bao giờ hết.
* Việc “chèn”, “chêm” một vài tiếng lóng, ngơn ngữ địa phương đã trở nên
phổ biến trong hoạt động giao tiếp của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng.
Điều này đã phần nào làm cho ngôn ngữ giao tiếp bị biến tướng gây sự khó hiểu
cho người nghe và làm giảm hiệu quả giao tiếp.
* Ngoài ra, việc sử dụng ngôn ngữ địa phương, phát âm sai cũng là một trở
ngại không nhỏ trong giao tiếp của sinh viên. Nhận ra điều đó nhưng nhiều sinh
viên vẫn bảo thủ, cố hữu cái sai của mình.


22

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Không phải bất cứ mỗi dân tộc tồn tại trên thế giới đều có thứ ngơn ngữ
riêng của mình. Việc tạo nên một ngơn ngữ đều phải trải qua quá trình hình thành,
phát triển và biến đổi lâu dài, và để trở thành ngôn ngữ chính thống của dân tộc
cũng phải mất bao nhiêu cơng sức xây dựng, phát triển và gìn giữ của bao thế hệ.
Trong nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học người Đức-W. V. Humboldt đã
khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là nơi bảo tồn tinh thần, văn hoá, sức mạnh liên minh
của dân tộc- tất cả đều để lại dấu ấn một cách tài tình trong từng âm thanh” (Trích
dẫn theo Nguyễn Thị Quỳnh Như, 2004). May mắn và biết ơn thay, ông bà ta cũng
đã để lại cho chúng ta tiếng Việt- một ngôn ngữ giàu và đẹp, mang bản sắc rất riêng
của người Việt và ngôn ngữ tiếng Việt cũng đã lưu giữ, lưu truyền được những giá
trị tinh thần và văn hoá của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, việc gìn giữ và phát huy nét
đẹp của ngơn ngữ tiếng Việt là một thiết yếu.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ln chú trọng
việc gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân ta phải làm cho tiếng
nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Đây cũng là nhiệm vụ,

trách nhiệm không chỉ riêng ai.
Trong xu thế hiện nay, việc sử dụng ngơn ngữ nói trong giao tiếp của sinh
viên cũng trở nên phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó cũng có nhiều điều phải bàn
cãi. Thiết nghĩ nghiên cứu về “lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên hiện
nay” là hết sức cần thiết và rất có ý nghĩa trong thực tế. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề
không phải ai cũng quân tâm.
Để tìm hiểu về nhận thức và thái độ của sinh viên về vấn đề này, nhóm dề tài
đã tiến hành khảo sát 150 bạn sinh viên nam, nữ thuộc ba trường ĐH Quốc gia TP.


23

HCM (ĐH KHXH & Nhân văn, ĐH Tự nhiên, ĐH Bách khoa) để đưa ra những kết
quả nhận định và đánh giá.
3. 1 Khái niệm về lệch lạc ngôn ngữ của sinh viên.
Lệch lạc ngôn ngữ là một khái niệm khá trừu tượng. Trước khi đi vào nghiên
cứu, nhóm đề tài cũng tham khảo một số ý kiến của các bạn sinh viên, cũng có
những ý kiến khác nhau được đưa ra, tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp thắc mắc
“lệch lạc ngơn ngữ” là gì? Khơng hiểu? Trong phiếu điều tra của mình, chúng tơi
cũng khơng tiện đưa ra định nghĩa về : lệch lạc ngơn ngữ là gì? Thế nhưng với câu
hỏi: Bạn hiểu thế nào về lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên? Chúng
tôi muốn chính những bạn sinh viên bày tỏ những suy nghĩ, cách hiểu của mình về
khái niệm này, đây cũng là cơ sở để chúng tơi có những nhận xét, đánh giá việc
sinh viên lựa chọn những ngôn từ, lời nói trong giao tiếp hàng ngày.

Bảng 1: Bạn hiểu lệch lạc ngơn ngữ là gì?

Valid

Frequency


Percent

18

12. 0

26

17. 3

31

20. 7

30

20. 0

tất cả ý kiến trên

45

30. 0

Total

150

100. 0


lạm dụng ngoại ngữ
trong giao tiếp
nói tục, chửi thề
sử dụng từ lệch chuẩn
tiếng việt
sử dụng tiếng lóng, pha
trộn ngơn ngữ

Kết quả cho thấy, có 18/150 ý kiến của các bạn sinh viên cho rằng: lệch lạc
ngôn ngữ là lạm dụng ngoại ngữ trong giao tiếp. Đây chính là hiện tượng sinh viên
pha, chêm một số từ nước ngồi vào câu chuyện của mình khi đang nói chuyện với
nhau bằng Tiếng Việt. Theo nhìn nhận của chúng tơi thì hiện tượng này đang ngày
càng trở lên phổ biến trong sinh viên nói riêng và giới trẻ nói chung. Và nếu chúng
ta thực sự am hiếu ngoại ngữ thì hãy nói chun vói nhau bằng ngoại ngữ. Cịn
khơng thì hãy nói chuyện bằng 100% Tiếng Việt, để người nghe hiểu và Tiếng Việt


×