Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.36 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Đọc là một trong bốn kĩ năng ( nghe, nói, đọc, viết ) yêu cầu học sinh phải đạt
được trong môn học tiếng Việt, một môn học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngơn ngữ cho học sinh. Tập đọc là một phân môn có vị trí hết sức quan trọng
trong mơn Tiếng Việt nhất là trong giai đoạn bùng nổ thông tin như hiện nay. Đọc
thông, viết thạo là yêu cầu đặt ra với bất cứ học sinh tiều học nào.
Ngay những ngày đầu tiên đến trường các em phải học đọc mặc dù ở giai đoạn này
việc đọc của các em mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận diện kí hiệu chữ viết và giải
mã bằng âm thanh. Song đây là một giai đoạn rất quan trọng bởi đó là giai đoạn
học sinh phải học để đọc và làm nền tảng cho những giai đoạn tiếp theo, giai đoạn
đọc để học. Càng về sau yêu cầu đặt ra trong việc đọc càng được nâng cao, từ việc
đọc để hiểu được nội dung văn bản đến việc phát triển kĩ năng đọc diễn cảm.
Dạy học ở tiểu học là một việc làm hết sức có ý nghĩa trong việc trong việc hình
thành và phát triển kĩ năng đọc cho tất cả các em học sinh, nó khẳn định sự cần
thiết cho việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng
lực đọc cho học sinh. Tuy nhiên việc dạy tập đọc như hiện nay ở tiểu học vẫn cịn
gặp khơng ít khó khăn từ cả hai phía học sinh và giáo viên:
-Đối với học sinh, có nhiều em chưa đạt được yêu cầu đặt ra trong việc phát triển
kĩ năng đọc.
Theo tôi, trong một bài tập đọc, đọc đúng chỗ ngắt giọng và diễn cảm là một yêu
cầu cần được rèn luyện vì thơng qua đọc sẽ giáo dục cho học sinh tính thẫm mĩ,
làm tăng thêm cảm xúc, cảm thụ sâu sắc bài văn, bài thơ, bộc lộ được nội dung bài
văn, bài thơ nhằm truyền cảm đến người nghe và từ đó làm cho học sinh thêm yêu
thích văn học.
Để nâng cao hiệu quả dạy học tập đọc, yêu cầu đặt ra đối với bản thân tôi là không
chỉ giúp học sinh biết giải mã các kí hiệu chữ viết thành âm thanh mà cịn phải giúp
học sinh có khả năng nhận thức, thông hiểu những gì được đọc.
Một trong những kĩ năng quan trọng trong quá trình hình thành kĩ năng đọc cho
học sinh đó là kĩ năng “ ngắt giọng” trong khi đọc.
Đó cũng chính là lí do mà tôi chọn đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4A1
“ Đọc đúng chỗ ngắt giọng” trong phân môn Tập đọc của năm học 2009 – 2010.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt ( nghe, nói,
đọc, viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thơng qua việc dạy học tập đọc góp phần rèn luyện cho các em các thao tác tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết
sơ giản về xã hội, tự nhiên – con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngồi.
-Bồi dưỡng tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
- Biết cách đọc các loại văn bản hành chính, khoa học, báo chí văn học phù hợp
với thể loại và nội dung văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ của tác giả, giọng
điệu của nhân vật.
- Biết cách xác định đại ý, chia đoạn văn bản, nhận ra mối quan hệ giữa các nhân
vật, sự kiện, tình tiết trong bài, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật trong các
bài tập đọc có giá trị văn chương.
- Mức độ đọc của học sinh có thể tiến hành rèn luyện từ thấp đến cao như: đọc
diễn tả đúng ngữ điệu từng loại câu, biết hạ giọng hoặc cao giọng theo câu kể, câu
hỏi, câu cảm, câu khiến.
- Biết nhấn mạnh các từ quan trọng trong câu, nhấn mạnh các tiếng gieo vần trong
thơ ( thường là các từ gợi tả, gợi cảm, từ dùng để hỏi…) làm nổi bật ý nghĩa của
câu văn, câu thơ.
- Biết ngắt nhịp đúng các vế ( ở giữa câu và nhịp thơ) và diễn tả đúng tình cảm của
từng đoạn văn thơ ( giọng vui, buồn, phấn khởi, hào hứng hoặc trang nghiêm…).
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
- Qua tìm hiểu cách đọc của học sinh, sau đó nghiên cứu kĩ tính chất, nhiệm vụ của
phân mơn Tập đọc và cụ thể từng bài tập đọc. Tôi thấy rằng mỗi bài đều có một nét
riêng, một cách đọc khác nhau cần khai thác triệt để, để từ đó giúp các em từng
bước kịp thời sửa chữa và đi đến đọc đúng, diễn cảm và đồng thời cảm thụ tốt bài
tập đọc.
- Muốn vậy, trước tiện bản thân tôi phải cố gắng trau dồi nghiệp vụ chuyên môn ở
các đồng nghiệp, dự giờ, thao giảng, nghiên cứu sách giao khoa, sách tham khảo về
phân môn tiếng Việt. Tạo cho bản thân nhiều phương pháp dạy tốt và tơi cịn ra sức
phấn đấu rèn cho mình thực hiện bài văn, bài thơ đọc đọc chỗ ngắt giọng và thật là
diễn cảm.
- Việc giúp học sinh đọc đúng chỗ ngắt giọng và diễn cảm cũng góp phần giúp các
em cảm thụ tốt bài văn vì khi đọc bài học sinh có ít nhiều cảm thụ, các em đọc
đúng, diễn cảm càng hay thì mức độ cảm thụ bài văn của các em càng sâu sắc và
phong phú.
IV. ĐỐI TƯỢNG NHIÊN CỨU.
-Dạy học tập đọc ở lớp 4, thông qua “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4a1,
trường tiểu học Mỹ Tú A, đọc đúng chỗ ngắt giọng”.
B.PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Cơ Sở Lí Luận.
Đổi mới phương pháp dạy học đã và đang là vấn đề then chốt trong công cuộc đổi
mới giáo dục của nước ta hiện. Thực chất của đổi mới phương pháp dạy học là “
nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh”. Mục tiêu
hiện nay trong việc đổi mới phương pháp dạy học là khắc phục lối truyền thụ một
chiều, từng bước thực hiện tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, vận dụng
phù hợp với tình hình thực tế của lớp học, phù hợp với nội dung bài học. Vì vậy
trong phương pháp giảng dạy tơi ln coi trọng nguyên tắc: “ học sinh là chủ thể
hoạt động là nhân vật trung tâm của quá trình giáo dục”, để từ đó phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi cá nhân học sinh, phân loại đối tượng học
sinh trong lớp để việc giảng dạy sát đối tượng hơn, phát huy được khả năng của học
sinh khá, giỏi mà khơng ảnh hưởng đến trình độ tiếp thu lĩnh hội của học sinh trung
bình, yếu.
trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp 1,2 3,…tăng cường tốc độ đọc, biết
đọc lướt để chọn thông tin nhanh, nâng lên mức độ cao hơn: nắm và vận dụng được
một số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách,…
Thơng qua 62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, báo chí khoa
học,trong đó có 45 bài văn xuôi, vở kịch, 17 bài thơ. Học sinh được củng cố, nâng
cao kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành và phát triển từ các lớp dưới,
đồng thời tôi luôn chú trọng khâu luyện đọc đúng chỗ ngắt giọng ở mỗi bài tập đọc
trên lớp theo kiểu “ ngắt giọng lơgic và ngắt giọng theo tính biểu cảm”.
Học sinh tiểu học là lứa tuổi mà nhận thức cảm tính chiếm ưu thế, các em tiếp xúc
với thế giới bên ngoài và thế giới bên ngồi đi vào trong các em thơng qua các giác
quan. Cái hay, cái đẹp của những bài văn, bài thơ mà các em đọc và cảm nhận sẽ
giúp các em mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần
hình thành nhân cách con người mới.
Do đó, việc nâng cao chất lượng dạy học là điều cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu
đổi mới và hiện đại hóa phương tiện giáo dục giúp cho giáo viên thành công hơn
trong cộng tác giảng dạy với nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ ( những mầm non tương
lai của đất nước ). Bên cạnh đó trình độ nhận thức và năng lực học tập của học sinh
phải đuộc ngày càng nâng cao theo sự phát triển của xã hội, những tiến bộ của khoa
học kĩ thuật và cơng nghệ, địi hỏi học sinh phải tích cực phát huy tinh thần học tập
tích cực theo hướng đổi mới “ học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình giáo
dục”, vì vậy giáo giữ vai trò chủ đạo, hướng dẫn còn học sinh là chủ thể, tích cực,
chủ động, sáng tạo, phát hiện và nắm vững tri thức.
đoán, biết lập kế hoạch tự luyện tập để có thể luyện đọc thật tốt khi gặp những bài
đọc trên lớp học.
Chương II. Thực Trạng Của Vấn Đề Nghiên Cứu.
Môn Tiếng việt cùng với mơn Tốn ở trường phổ thơng có một vị trí, chức năng
nhiệm vụ quan trọng trong việc giáo dục-đào tạo học sinh. Điều đó đã được thực tế
khẳng định, nhưng trong nền kinh tế thị trường đang phát triển của đất nước ta hiện
nay, tình hình học tập của học sinh trở nên sa sút. Điều đó tất nhiên do nhiều
nguyên nhân gây ra, chủ quan có, khách quan có nhưng do các em quan niệm
khơng đúng về cách học môn tập đọc, mục tiêu các em đặt ra là chỉ cần đọc trôi
chảy là được.
Phần lớn các câu văn, đoạn văn hay bài văn học sinh đa số chưa biết cách ngắt
Các em chưa biết tách danh từ ra khỏi định ngữ, tách tính từ hoặc động từ ra khỏi
bổ ngữ. ngắt giọng tùy tiện trong lúc đọc nên ảnh hưởng đến nội dung câu văn.
Giọng đọc sai do tách từ chỉ loại ra khỏi danh từ, tách một từ ra làm hai, không
nắm được các quan hệ ngữ pháp giữa các từ trong câu nên câu văn trở thành câu
cụt hoặc hiều sai về nghĩa.
Khi đọc một số câu thơ học sinh thường đọc sai, ngắt nhịp sau “hư từ” khi đọc
Đối với những bài có tác dụng truyền cảm thiên về cảm xúc, chỗ ngừng, chỗ lắng,
sự im lăng…
Học sinh chưa thể hiện được như bài mẹ ốm, bè xi sơng La…
Từ đó dẫn đến tình trang học sinh đến lớp xem giờ học chiều lệ, qua loa .
Nhưng cũng phải thừa nhận một điều là học sinh đọc chưa tốt là do chính bản thân
của các em và hình thức tổ chức chính của giáo viên.
nắm kiến thức và tốc độ đọc của từng em và phân loại, kết quả khảo sát đầu năm
học 2009-2010 như sau :
Tổng số : 27 em
Giỏi : 2 em Tỷ lệ : 7,40%
Khá : 8 em Tỷ lệ : 29,62%
TB: 10 em Tỷ lệ : 37,03%
Yếu : 7 em Tỷ lệ : 25,12%
Trước tình hình và kết quả như thế nếu như giáo viên không nổ lực và cố gắng
đưa ra những biện pháp tối ưu để giúp đỡ học sinh thì chất lượng sẽ khơng thể cao .
Chương 3 : Giải pháp
Một số biện pháp giúp học sinh đọcđúng chỗ ngắt giọng trong phân môn tập đọc
.
Qua tìm hiểu cách đọc của học sinh, sau đó Mỹ, tính chất, nhiệm vụ của phân
mơn Tập đọc và cụ thể từng bài tập đọc. Tôi thấy rằng mỗi bài đều có một nét
riêng, một cách đọc khác nhau, cần khai thác triệt để từ đó giúp các em từng bước
kịp thời sữa chữa và đi đến đọc đúng, diễn cảm và đồng thời cảm thụ tốt bài đọc.
Để khắc phục tình trạng ấy tơi suy nghĩ, phải làm cách nào để phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh qua giờ học mơn tập đọc. Từ đó giúp học sinh u
thích mơn học, từng bước nâng cao chất lượng học sinh và những biện pháp sau
đây mà tơi từng áp dụng khi dạy mơn tập đọc. Có hai kiểu ngắt giọng cơ bản đó là
“ngắt giọng lơgic” và “ngắt giọng biểu cảm”. Ngắt giọng lo6gic là những chỗ dùng
để tách các nhóm từ trong câu, ngắt giọng lôgic phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ
giữa các từ trong câu.
Ngắt giọng biểu cảm đối lặp với ngắt giọng lơgic đó những chỗ ngừng lâu hơn
bình thường hoặc chỗ ngừng không lôgic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc
nhằm tạo ra một ấn tượng về cảm xác. Sau đây là một số ví dụ minh họa và những
biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng chỗ ngắt giọng cho học sinh .
Khi đọc một văn bản nào đó, nếu gặp những dấu câu ta cần phải phải ngắt, nghỉ
đó chính là việc ngắt giọng. Sau dấu chấm xuống dòng phải nghỉ lâu hơn sau dấu
phẩy, sau chấm lại phải nghỉ lâu hơn sau dấu phẩy. Sau dấu phẩy cũng phải có lúc
lại phải nghỉ khác nhau : Dấu phẩy ngăn cách giữa các vế câu phải nghỉ lâu hơn
dấu phẩy sau trạng ngữ, dấu phẩy sau trạng ngữ phải nghỉ lâu hơn dấu phẩy ngăn
Trong thực tế, do không nắm được các quan hệ ngữ pháp, do sự ngắt nhịp theo
cảm tính để tạo sự cân bằng về âm thanh hoặc đôi khi do những nhịp điệu của các
vần thơ mà dẫn đến việc học sinh đọc sai chỗ ngắt giọng làm ảnh hưởng đến việc
hiểu văn bản. Một số lỗi thường gặp ở học sinh khi đọc đó là : tách một danh từ ra
khỏi định ngữ đi kèm, tách động từ chỉ loại ra khỏi danh từ, tách một từ ra làm đôi,
ngắt giọng sau hư từ .
1.1 Ngắt giọng sai do tách danh từ ra khỏi định ngữ, tách tính từ hao85c động từ
ra khỏi bổ ngữ .
Khi đọc một số bài văn xi có những câu văn dài với cấu trúc ngữ pháp phức
tạp, học sinh thường ngắt giọng một cách tùy tiện làm ảnh hưởng đến nội dung câu
văn .
- Trăng sáng mùa thu / vằng vặc chiếu khắp thành phố, làng mạc… ( Trung thu
độc lập – TV4 tập 1, trang 66) .
Trong ví dụ trên, học sinh đã ngắt giọng sai do tách “vằng vặc” ra khỏi “ trăng
sáng mùa thu” là chủ ngữ và vị ngữ là “ vằng vặc chiếu khắp thành phố, làng
mạc..”. Do đó cần hướng dẫn học sinh ngắt giọng đúng như sau :
“ Trăng sáng mùa thu vằng vặc / chiếu khăp thành phố, làng mạc…”
Nếu ngắt giọng như trên thì câu văn sẽ bị hiểu sai thành : Cương vừa nhớ đến ba
người thợ nhễ nhại mồ hôi và Cương vừa cảm thấy vui vẻ bên tiếng bể thổi “phì
“ Bất giác, em lại nhớ đến ba người thợ nhễ nhại mồ hôi mà vui vẻ bên tiếng
bể thổi “phì phào” …
- Chú đậu trên một cành lộc vừng / ngả dài trên mặt hồ . ( Con chuồn chuồn
nước – TV4, tập 2, trang 127) .
Ở đây học sinh cũng đã sai khi tách “ngả dài” ra khỏi “cành lộc vừng”, do đó
câu văn bị hiểu thành : chú chuồn chuồn nằm ngả dài trên mặt hồ chứ không phải
cành lộc vừng ! ? vì vậy cần hướng dẫn học sinh đọc đúng như sau :
“ Chú đậu trên một cành lộc vừng ngả dài trên mặt hồ”.
Khi đọc một số câu thơ, do không chú ý đến quan hệ ngữ pháp mà chỉ chú ý đến
sự cân đối về âm thanh mà học sinh đã đọc chỗ ngắt nhịp sai làm sai ý nghĩa của
câu thơ .
Ví dụ :
- Những thằng cu / áo đỏ chạy lon xon .
- Con bò vàng / ngộ nghĩnh đuổi theo sau (Chợ tết – TV4, tập 2, trang 38) .
Rõ ràng theo cảm tính mà học sinh đã ngắt nhịp sai do tách “áo đỏ” ra khỏi “
Những thằng cu”, tách “ ngộ nghĩnh” ra khỏi “ con bò vàng” làm cho câu thơ bị
tách thành hai câu cụt. Do đó cần hướng dẫn học sinh đọc đúng như sau :
“ Những thằng cu áo đỏ / chạy lon xon” .
“ Con bò vàng nghộ nghĩnh / đuổi theo sau” .
Để khắc phục các lỗi trên, khi hướng dẫn học sinh đọc giáo viên cần lưu ý học
sinh cách phân tích quan hệ ngữ pháp giữa các từ trong câu, cần giúp học sinh nắm
được quan hệ giữa định ngữ với danh từ, định ngữ bổ nghĩa cho danh từ và chúng
liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một cụm danh từ. Do đó khi đọc khơng được
ngắt giọng ở những chỗ ngăn cách giữa danh từ với định ngữ đi kèm .
Do không nắm được các quan hệ ngữ pháp giữa các từ trong câu văn mà học
sinh cũng dễ đọc sai chỗ ngắt giọng làm cho câu văn trở thành những câu cụt hoặc
bị hiểu sai về nghĩa .
Ví dụ :
- Nổi bật trên hoa văn / trống đồng là hình ảnh con người hịa với thiên nhiên.
( Trống đồng Đông Sơn – TV4, tập 2, trang 17) .
Do ngắt giọng sai, tách cụm từ “ hoa văn trống đồng làm hai như trên nên câu
văn sẽ bị sai về nghĩa bởi theo cách ngắt giọng đó thì “ nổi bật trên hoa văn” sẽ làm
trạng ngữ và “ trống đồng” trở thành chủ ngữ. Vì vậy cần hướng dẫn học sinh đọc
đúng như sau .
-“Nổi bật trên hoa văn trống đống / là hình ảnh con người hịa với thiên nhiên”
Ví dụ :
- Tôi lim dim / mắt ngắm mấy con ngựa đang ăn cỏ .
Sa Pa quả là một món quà / tặng kì diệu mà thiên nhiên dành cho đất nước ta
( Đường đi Sa Pa – TV4, tập 2, trang 102) .
Ở đây, học sinh cũng đã mắc sai lầm khi tách “ lim dim mắt”, “ quà tặng” ra làm
đôi và làm cho câu văn cũng bị sai về nghĩa. Hướng dẫn học sinh đọc đúng là :
- Sa Pa quả là một món quà tặng kì diệu / mà thiên nhiên dành cho đất nước ta .
- Tôi lim dim mắt / ngắm mấy con ngựa đang ăn cỏ .
Chẳng hạn :
- Mặt trời lặn, ánh sáng chiếu / soi vào bóng tối cửa đền .(Ăng – co – vát –
TV4, tập 2, trang 123) .
Mỗi đứa trẻ trung bình / mỗi ngày cười 400 lần (Tiếng cười là liều thuốc bổ
-TV4, tập 2, trang 153) .
- Mặt trời lặn, ánh sáng chiếu soi / vào bóng tối cửa đền .
- Mỗi đứa trẻ / trung bình mỗi ngày cười 400 lần .
Khi đọc một số câu thơ mất đi ý nghĩa thực .
Ví dụ :
- Chuyện ngày xưa /đã có bờ tre xanh (Tre Việt Nam – TV4, tập 1 trang 41).
- Anh tràng gà trống / tính nhanh lõi đời. (Gà trống và Cáo- TV4, tập 1, trang
51).
- Hai triệu vì sao / xuống cùng.
Đúc thành ông / mặt trời mới.
- Mãi mãi khơng / cịn mùa đơng.
Trong ruột khơng / cịn thuốc nổ.
(Nếu chúng mình có phép lạ TV4, tập 1, trang 76)
- Qua bao / nhiêu ngọn gió.
Trên những / cánh đồng hoa.
Lóa màu / trắng hoa mơ.
Mùi hoa / huệ ngọt ngào.( Tuổi ngựa- TV4, tập 1, trang 149).
Ở các câu trên, học sinh đã ngắt nhịp sai do tách các từ “ bờ tre xanh”, “Anh
chàng Gà Trống”, “Vì sao”, “ Ơng mặt trời”, “khơng cịn”, “bao nhiêu”, “những
cánh đồng”, “ màu trắng”, “hoa huệ” thành hai từ làm cho các câu đó trở thành
những câu khơng có nghĩa. Do đó cần giúp các em đọc đúng như sau :
- Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh .
- Anh chàng gà trống tính nhanh lỗi đời .
- Hái triệu vì sao xuống cùng .
Đúc thành / ông mặt trời mới .
Mãi mãi không cịn / mùa đơng .
Trong ruột khơng cịn / thuốc nổ
- Qua bao nhiêu ngọn gió.
Lóa màu trắng hoa mơ .
Mùi hoa huệ ngọt ngào .
Để khắc phục những lỗi trên, cần lưu ý học sinh ngoài việc nắm được các quan
hệ ngữ pháp giữa các từ trong câu còn cần phải có thói quen khơng đọc các câu thơ
theo một nhịp điệu nhất định mà phải thường xuyên thay đổi nhịp điệu tùy vào các
quan hệ giữa các từ trong câu đó. Đặc biệt, cần phải giúp học sinh hiểu được không
thể tách một từ ra làm hai một cách ùy tiện như trên .
1.3 Ngắt giọng sau hư từ .
Khi đọc một số câu thơ, do chỉ chú ý đến việc cân đối âm thanh mà không chú ý
đến nghĩa của các từ trong câu nên học sinh thường đọc sai, ngắt nhịp sau hư từ ở
các câu thơ đó. Sau đây là một vài ví dụ :
- Bây giờ mẹ lại / lần giường tập đi (Mẹ ốm – TV4, tập 1, trang 10) .
- Vừa nhân hậu lại / tuyệt vời sâu xa .
Người ngay thì / được phật tiên độ trì .
Con sơng chảy có / rặng dừa nghiêng soi
Vừa độ lượng lại / đa tình đa mang .
Chăm làm thì được / áo cơm cửa nhà
( truyện cổ nước mình – TV4, tập 1, trang 19) .
Trong các câu trên, học sinh đã ngắt nhịp sai do tách hư từ, vốn có quan hệ rất
chặt chẽ với bộ phận đi theo sau nó, làm câu thơ trở nên rất khó nghe. Do đó cần
hướng dẫn học sinh đọc đúng các câu thơ trên như sau :
Để khắc phục các lỗi trên, giáo viên cần cho học sinh nắm được quan hệ chặt
chẽ giữa hư từ với bộ phận đi kèm theo sau nó . Từ đó, giúp học sinh có thói quen
đọc liền hư từ với bộ phận đi kèm .
2. Về kĩ năng ngắt giọng biểu cảm
Bên cạnh việc dạy cho học sinh nắm được kĩ năng ngắt giọng lo6gic, giáo viên
còn cần phải dạy cho học sinh biết ngắt giọng biểu cảm, đó là một phương tiện tác
động đến người nghe, giúp cho người nghe thấy được giá trị nghệ thuật của tác
phẩm, cảm nhân được tác phẩm đó hay hơn. Nếu như ngắt giọng lơgic thiên về trí
tuệ thì ngắt giọng biểu cảm lại thiên về cảm xúc. Do đó những chỗ ngừng, chỗ
lắng, sự im lặng… có tác dụng truyền cảm, tập trung sự chú ý đối với người nghe
- Khi đọc một câu thơ cuối trong bài thơ “ Mẹ ốm” TV4, tập 1, trang 10, tôi
hướng dẫn cho học sinh đọc ngắt nhịp như sau :
- Mẹ là đất nước tháng ngày của con .
Rõ ràng với cách ngắt nhịp như trên sẽ giúp cho người nghe thấy hết được tình
cảm yêu thương sâu sắc của tác giả đối với người mẹ đã từng vất vả nuôi con khôn
lớn thành người .
- Cũng cần lưu ý học sinh, trong một số trường hợp có thể cần phải phá vở các
quan hệ ngữ pháp để tạo ra một cách ngắt nhịp đem đến cho người nghe sự nhẹ
nhàng êm ái trong giai điệu của những vần thơ chứa đầy chất nhạc .
tạo được một sự kết hợp bất thường “ chiều thì thầm” làm cho thời gian như được
nhân hóa cất lên thành lời .
Qua quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện những biện pháp nêu trên tôi thấy
chất lượng của học sinh ngày càng tiến bộ, tốc độ đọc được nâng lên so với đầu
năm hầu hết, các em biết ngắt nghỉ đúng theo dấu phẩy dấu chấm, biết ngừng đúng
chỗ ở câu văn dài và đúng theo nhịp điệu của từng câu thơ. Tuy kết quả không cao
lắm nhưng tôi cảm thấy rất hài lòng so với đầu năm là :
- Tổng số học sinh đầu năm : 27/15
- Tổng số học sinh hiện nay (cuối tháng 3) 26/14 (chuyển đi 1)
+ Giỏi : 10 em đạt 38,46%
+ Khá : 12 em đạt 46,15%
+ TB : 4 em đạt 15,38%
+ Yếu : /
C. KẾT LUẬN :
1. Như vậy đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngắt giọng hay là mục đích của việc dạy
học tập đọc, đó là một trong những phương tiện để phát triển ngôn ngữ tiếp nhân
cho học sinh. Việc đọc đúng chỗ ngắt giọng còn là một yếu tố quan trọng trong
việc đọc diễn cảm, là cơ sở đầu tiên giúp học sinh cảm thụ các tác phẩm văn học.
Do đó yêu cầu đặt ra đối với mỗi giáo viên là phải giúp học sinh nắm được cách
ngắt, nghỉ trong khi đọc để giúp người nghe hiểu được văn bản một cách chính xác
và hay nhất. Trên đây là một số ví dụ minh họa mà học sinh thường hay nhằm lẫn
và tôi đưa ra các biện pháp để giúp học sinh khắc phục những lỗi đó khơng phải là
việc làm đơn giản, tuy nhiên nếu nhiệt tình và có phương pháp chắc chắn mỗi giáo
viên sẽ giúp được học sinh có kĩ năng đọc diễn cảm tốt hơn .
2. Bài học kinh nghiệm :
- Tham khảo tài liệu, nghiên cứu sách giáo khoa, báo chí, nắm vững cấu trúc
chương trình mơn Tập đọc, tính chất nhiệm vụ của mơn Tập đọc .
- Phân loại từng đối tượng học sinh, để có biện pháp giúp đỡ từng em cụ thể,
tránh giảng dạy chung chung .
- Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí, để có thể giúp đỡ kiểm tra lẫn nhau trong học tập
( Học sinh khá giúp đỡ học sinh yếu…)
- Tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình, phát
huy sở trường của mơn học .
- Xây dựng một bầu khơng khí lành mạnh (đầy lịng thương u, tin cậy, an
tồn) trong trường và ở ngồi lớp. Động viên khen ngợi, khuyến khích kịp thời
trước mỗi thành công của học sinh .
- kết hợp chặt chẽ mối quan hệ gia đình – nhà trường, nhằm nâng cao chất lượng
học tập cho học sinh. Hướng dẫn, kế hoạch cho học sinh đọc thêm báo nhi đồng,
truyện thiếu nhi… ở thư viện .
- Giáo viên phải có tấm lịng u nghề mến trẻ. Có tinh thần trách nhiệm cao,
năng nổ với công tác giảng dạy, không coi nhẹ việc giảng dạy ở bất cứ bộ mơn nào
trong tiếng việt … Từ đó giúp các em cảm thụ được cái giàu đẹp trong ngôn ngữ
của Việt Nam ta .
3. Một số biện pháp nêu trên chắc chắn cịn nhiều điểm khiếm khuyết vì bản
thân có giới hạn. Mong rằng q thầy, cơ và lãnh đạo góp ý. Nếu như đạt đến điểm
quy định xếp loại tốt. Xin quý thầy, cô xét đề tài này được triển khai trong tồn
trường cùng với các đề tài có chất lượng khác .
Mỹ Tú A,…tháng 03 năm 2010.
Người thực hiện