Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.59 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Trần Hữu Dũng</b>
Được hiểu như sự dịch chuyển (người, vật phẩm, thông tin) giữa các quốc gia,
thậm chí liên lục địa, ngày càng nhanh chóng, thơng thống, “tồn cầu hố” vừa là
một tiến trình kinh tế, vừa là một sự hịa nhập văn hố. Nó đặt ra nhiều vấn đề mới
cho những suy nghĩ về tương quan giữa cá nhân và quốc gia, dân tộc.
Tồn cầu hóa tác động đến tư duy và trách nhiệm của trí thức, đặc biệt là trí thức
Việt Nam, ra sao? Câu hỏi này khơng hàm ý rằng trí thức là quan trọng hơn những
thành phần khác trong xã hội (một người trí thức chân chính sẽ khơng có cái vĩ cuồng
kênh kiệu ấy). Trí thức chỉ là một thuộc tính, một tác phong, của nhiều ngành nghề
thực tế (nhà giáo, nhà văn, nhà báo, v.v.) và có thể trong những nhân thân khác mà
trách nhiệm của họ là quan trọng hơn (xem Sen (2006)). Chỉ bàn về vấn đề của trí
thức ở đây chỉ là để giới hạn đề tài trong khuôn khổ một bài viết.
Ngồi ảnh hưởng đến mọi người, trong đó có trí thức, về thu nhập, việc làm, lối
sống… toàn cầu hóa ảnh hưởng đến sinh họat trí thức nhiều cách khác, sâu vào bản
chất, bởi tiến trình này tác động đến hai thành tố định hình sinh hoạt ấy, đó là khung
tư duy và đề tài suy nghĩ. Hơn nữa, trong chừng mực mà người trí thức có trách
nhiệm đặc biệt với xã hội (ở vai trị thuyết phục và hướng dẫn), tồn cầu hóa sẽ uốn
nắn trách nhiệm ấy, từ những kỳ vọng mà xã hội đặt ở họ trong bối cảnh mới này.
<b>■ TƯ DUY</b>
giới đã trở thành nhanh chóng và rộng rãi đến mức độ mà, chỉ vài thập kỉ trước đây,
khó thể tưởng tượng nổi. Đứng đầu hiển nhiên là cuộc cách mạng thông tin và truyền
thông do internet, nhưng cũng không nên quên là với giá phí du hành ngày càng hạ,
các cơ hội tham quan, trao đổi với trí thức quốc tế ngày càng dày đặc, dễ dàng.
Mở rộng cửa với toàn thế giới, người trí thức khơng chỉ có thêm cơng cụ và
nguyên liệu để học hỏi, nghiên cứu, nhưng còn bị đặt nhiều vấn đề đương đại để suy
nghĩ, chia sẻ với đồng nghiệp tồn cầu. Đó khơng những là những vấn đề chính trị, xã
hội, kinh tế, mà cịn là văn hóa và nghệ thuật. Tin tức sốt dẽo về những phát minh, lý
thuyết mới về khoa học, kỹ thuật (không chỉ trong ngành của mỗi người mà còn trong
các ngành lân cận) sẽ gợi cho trí thức những cảm hứng mới, và giúp họ kịp thời nhận
ra những sai lầm của mình. Ngược lại, diễn biến ở mỗi quốc gia cũng được khắp nơi
theo dõi hàng ngày, trở thành đề tài bàn bạc của trí thức quốc tế. Tồn cầu hố là một
sự hòa nhập đa phương: học giả mỗi nước sẽ có nhiều thơng tin hơn về các nước
khác, do đó tư duy thế giới sẽ bị ảnh huởng bởi văn hoá, kinh tế, và kinh nghiệm lịch
sử của mọi quốc gia, trong đó có ta.
Khi luồng trí thức Việt Nam nhập vào đại dương trí thức thế giới thì kiến thức và
khả năng của chúng ta cũng sẽ được đánh giá theo những tiêu chuẩn khắc khe hơn,
nhất là trong những lãnh vực mà chúng ta đương nhiên là “chủ nhà”. Có một cái gì
“lấn cấn”, chẳng hạn, khi các nghiên cứu về kinh tế hay văn hố Việt Nam của người
nước ngịai lại chi tiết hơn, sâu sắc hơn, các nghiên cứu của học giả Việt Nam.
Một mảng quan trọng trong giao diện giữa trí thức Việt Nam và trí thức quốc tế
là thành phần trí thức Việt Nam đang sống ở nước ngoài.<b> </b>Thử thách của thành phần
này là làm sao hòa hợp tinh thần quốc tế và bản sắc dân tộc. Sống ở nước ngoài, họ
không thể không tiêm nhiễm lối làm việc, cách nghĩ suy, thậm chí óc khơi hài của
một nền văn hố khác. Đó là những bức tường vơ hình (khơng như bức tường văn
hố đương nhiên giữa trí thức ngoại quốc và trí thức Việt Nam), cần được ý thức và
đòi hỏi một cố gắng đặc biệt để vượt qua.
Nhìn xa hơn, như một số học giả Tây phương nhận xét gần đây, tồn cầu hố
cũng sản sinh một giai cấp mới: đó là những người<i> ít gắn bó </i>với bất cứ một quốc gia
nào. Họ là những nhà khoa học thường xuyên dự hội nghị, đi thuyết giảng khắp thế
giới, những đại điện các công ty đa quốc gia, những nhà ngọai giao, những nhân viên
các tổ chức quốc tế… Họ thông thạo nhiều ngôn ngữ, hôm nay ở nước này, ngày mai
ở nước khác, khắp các châu lục… Hầu như họ sống trên trên những chuyến bay dài,
ngồi ở phi trường, ngủ ở khách sạn.. nhiều hơn ở chính “nhà” họ. Tinh thần địa
phương, quốc gia của những ngưòi này ngày càng lạt phai. Đó cũng một xu thế khó
cưỡng của tồn cầu hố.
■ <b>KỲ VỌNG </b>
Tuy mỗi xã hội có một kỳ vọng khác nhau về vai trị của trí thức trong xã hội ấy,
và dù rằng gần đây, nhiều người cho rằng vai trò này ngày càng lu mờ (xem, ví dụ,
Cross (1969) Posner (2002)) vẫn có một sự đồng thuận ít nhiều rằng người trí thức có
trách nhiệm lãnh đạo đời sống tinh thần của xã hội. Nói theo Collini (2006), người trí
thức khơng bao giờ mất vai trị của họ, chừng nào mà nhân loại còn muốn được
hướng dẫn “sống như thế nào”.
Và dường như nhân lọai ngày càng có nhiều vần đề cần sự hường dẫn của trí
thức. Thế giới khơng ngừng bị xâu xé bởi các bất hịa chủng tộc, xung đột tơn giáo,
đang đối diện với nguy cơ cạn kiệt tài ngun, thay đổi khí hậu… cần những bộ óc
lớn chung sức tìm giải pháp. Gẩn gũi hơn với đời sống hàng ngày là sự ô nhiễm và
phàm tục hóa văn hố do chính làn sóng tồn cầu hóa thương mại và truyền thơng.
Người trí thức phải mạnh dạn hướng dẫn và gạn lọc (qua thuyết phục) các trào lưu
văn hoá đại chúng. Song, cần nhấn mạnh, sự “hướng dẫn” này phải được vạch ra từ
góc nhìn tồn cầu của chính người trí thức. Nó phải xuất phát từ một trình độ lý luận
cao, đượm tính nhân bản, tơn trọng dị biệt. Nó khơng thể là một “phản xạ” có tính
giáo điều, hoặc mù qng bảo lưu những tư duy lỗi thời, khơng cịn thích hợp với thế
góp của họ cho đất nước, nhưng cịn ở đóng góp của họ cho nhân lọai. Ngược lại,
chúng ta cũng kỳ vọng trí thức quốc tế góp phần tìm hiểu và phát triển nước ta. Sự
thật là, người trí thức có thể có nhiều liên hệ với nhiều quốc gia, nhiều chủng tộc
khác nhau (ngay trong phạm vi gia đình), bổn phận người trí thức là trung thực với
luơng tâm mình, trong đó có thể là việc phục vụ cả nhân loại, hay ít ra là phục vụ cho
một văn hoá phi quốc gia.
Mỗi dân tộc cần một cái nhìn cởi mở hơn về trách nhiệm của trí thức của mình,
đặc biệt là các mong mỏi về những trí thức xuất thân từ một quốc gia chậm tiến
nhưng hiện sống ở nước đã phát triển. Kwame Anthony Appiah, một triết gia nổi
tiếng gốc Ghana hiện sống ở Mỹ, lý luận rằng ngưịi trí thức đóng góp nhiều hơn cả
khơng phải bằng cách hi sinh những thú vui tinh thần có vẻ trưởng giả (như xem
opera) nhưng qua những suy nghĩ thấu đáo về các vấn đề chung của nhân loại và tác
động của xã hội đến chính sách.
Đã lỗi thời rồi quan niệm cho rằng trí thức người Việt phải hồi hương mới phục
vụ đất nước, cũng chẳng công bằng, nếu khơng là vơ lý, nếu địi hỏi họ ln luôn lấy
Việt Nam làm trọng tâm nghiên cứu và đối tượng suy nghĩ. Đóng góp của họ cho đất
nước này, trong chừng mực họ muốn, có thể thực hiện từ bất cứ nơi nào trên thế giới
(một tiện lợi của tồn cầu hố). Phải “thơng cảm” rằng một người trí thức trong thời
đại này, ngay những người nặng lịng với q hương, có rất nhiều trăn trở về sự
nghiệp, về vị trí của họ trên bản đồ trí thức nhân loại. Hãy cho họ tự do theo đuổi
hồi bảo chân chính của họ.
■ <b>TRÁCH NHIỆM</b>
Người trí thức Việt Nam phải ý thức vai trị của mình trong cộng đồng nhân lọai
và tích cực dấn thân vào sinh họat trí thức quốc tế, trong đó có trách nhiệm quảng bá
dõi mọi mặt diễn biến của quốc gia, đắm mình trong mạch văn hố của đất nước, đủ
tự tin để “phóng lên” từ căn bản ấy đến khám phá và phân tích những vấn đề mới,
trong chuẩn mực học thuật. Xây dựng quốc gia, đóng góp vào tiến bộ, cơng bình
nhân lọai, trong tinh thần nhân bản. Ý thức tự do phải là căn bản của cốt cách trí
thức, và người trí thức chân chính phải có can đảm thực hiện sự tự do đó trong suy
nghĩ của mình.
Song người trí thức phải thực tế, sáng suốt chấp nhận vai trị của mình trong một
thế giới khơng ngừng thay đổi. Thực vậy, với tồn cầu hố, sinh hoạt kinh tế, khoa
học, công nghệ càng nhộn nhịp, tinh thần thực dụng càng được tơn sùng, thì người trí
thức<i> “</i>chuyên nghiệp” sẽ phải chia sân với các nhà quản lý, các nhà khoa học, các