Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

CHUYEN VE COI VI DO CANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.1 KB, 22 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Lời giới thiệu</b>



<i>Côi Vị và Đồ Càng là hai nhân tài của xã Liên Minh huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Trong quá</i>
<i>trình khảo cứu viết “Địa chí văn hố xã Liên Minh”, người viết đã sưu tầm được một số tư liệu về hai</i>
<i>ơng. Xin trích một số giai thoại về con người và tác phẩm của hai ông tới bạn đọc để hiểu thêm về</i>
<i>mảnh đất và con người nơi đây.</i>


<i>I. <b>Thần đồng Phạm Nhật Cờng (</b> đồ Càng</i>)


Tục gọi là ông đồ Càng, tên thật là Phạm Mĩ Càng, tên chữ là Phạm Nhật Cờng, tên hiệu là Trang
Kính, tên thuỵ là Dĩnh Ngộ.


Ông sinh năm 1897, nhà ở ngõ Trớc làng Tiền, là con trai của cụ đồ Phạm Mĩ Cảng. Ông thiên t
rất thông minh: 5 tuổi đã biết đọc, 6 tuổi biết làm thơ, câu đối. Năm lên 9 tuổi, ông học cụ cử
Khanh-ngời làng Giữa( Trung nghĩa) dạy ở Gôi( Côi sơn). Khi về qua đờng cái gặp mấy Khanh-ngời lính tập trêu đùa,
ơng làm câu đối:


<i>" Kìa mấy vạn qn ong, Hồng Hoa ngời ấy đã khơng sợ;</i>
<i>Huống dăm ba lính kiến, bạch diện ta đây nọ có kinh"</i>


Năm 10 tuổi, nhân có ơng bạn của bố đến chơi, ra một vế đối bảo ông đối thử:" <i>Ao thanh trì, nớc</i>
<i>trong leo lẻo, cá lội ngất ngơ" ( ngơ = ng = cá). Ông đối lại:" Đá bạch thạch, gợn trắng</i>
<i>phau phau, chim ngồi lểu đểu" ( đểu = điểu = chim) ( Một ngời khác đối :" Sông Ngân hà, sao</i>
<i>bạc chan chan, vịt nằm ấm áp")</i>


Năm 12 tuổi, ông đi thi tuyển sinh( cả Hán văn và Quốc văn) đỗ cao đợc ngời Pháp chụp ảnh kỷ
niệm. Khi thi xong ra ngồi nghỉ có một ngời ngồi 50 tuổi cũng đi thi đã mừng ông một vế đối:


" Âu á tri danh, đích thị kì nam dĩnh ngộ"
Ơng liền đối lại vừa khiêm nhờng vừa lễ độ :



" Càn khơn định phận, quả nhiên đại lão vãn thành"


<i>(ý nói: Âu </i>– Á<i> biết tên, chính đây là ngời thơng minh kì tài nớc Nam. Vế dới:</i>
<i>Trời đất đã định, tất yếu ngời cao tuổi sẽ thành công.)</i>


Cũng năm này, một hôm, ông xuống chơi nhà ngời thân với gia đình , làm nghề bật bơng ở Hào
kiệt. Trớc khi ăn cơm tra, chủ nhà bảo:


<i>" Nghe tiếng cháu học giỏi, ăn cơm xong, cháu làm cho bác một bài thơ khuyên con và</i>
<i>đôi câu đối để bác treo Tết nhé!"</i>


Ông đáp:


" Bác đa giấy bút đây ,cháu viết rồi hãy ăn cơm!".
Không đầy nửa tiếng, ông đã làm xong bài thơ nh sau:
<i> "Này này ta bảo các con ta:</i>


<i> </i> <i>¡n ë s ao cho khéo đ ạo nhà</i>


<i> </i> <i>Phi hc Trơng công trăm chữ nhẫn</i>
<i> </i> <i>Nên nghe Khổng thánh một câu hoà</i>
<i> </i> <i> Giàu sang bởi đó xinh hơn vẽ</i>


Non nớc rồi ra đẹp tựa hoa
Son sắt mấy lời khuyên nhủ đó


<i> Tuổi xanh nên phải học ơng già!"</i>
Ơng cịn kèm theo một ụi cõu i tng gia ch:


"Mẫn cán ra tay, thiên hạ ấm;


<i> Chuyên cần dốc sức , cả nhà no</i>


("cán" và" cần" là dụng cụ đồ nghề để bật bông làm chăn, làm áo bông).
Chủ nhà cứ xuýt xoa, tấm tắc:, khenlấy khen để:


" Quả là thần ng! thn ng!"


Năm 15 tuổi, đi học về, nghe ông khách kể chuyện Sơn tây lại lụt lần nữa, sau một lúc ,ông làm
bài thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Bởi đất nớc tràn non Bắc nọ</i>
<i>Há trời mây giận nớc Nam tơi</i>
<i>Xin ơng Tạo hố thơng dân với</i>
<i>Cứ lụt thế này khổ lắm thôi!"</i>


Cũng năm này ơng đỗ khố sinh (Cao đẳng tiểu học).


Năm 17 tuổi, ông đi dạy chữ Hán ở Tứ giáp (Hào kiệt). Năm 18 tuổi, ông làm h ơng s dạy ở
tr-ờng Phú Lại. Học trß gåm 10 x· trong tỉng MËt VËt, hun ThiƯu Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Năm 21 tuổi
ông làm lễ khao väng trong x· L¬ng kiƯt.


Năm1918(ơng 22 tuổi), nhân lúc vua Khải Định đi tuần thú tại Thanh Hố, ơng làm bài sớ bằng
chữ Hán đón đờng, dâng lên nhà vua khi vua đi qua. Nội dung bài sớ nh sau:


1. Nhất viết đại nhất thống( xin các giấy tờ, đề niên hiệu Việt Nam trớc ngày tháng dơng
<i>lịch)</i>


2. Nhị viết tồn thánh đạo( xin dịch các chuyện sách cũ, hay đem dạy ở trờng công)
<i>3. Tam viết lệ hiếu phong (xin ra luật trị tội những kẻ không hiếu hạnh với cha mẹ)</i>



4. Tø viÕt trõ PhËt h¹i(xin bít các tợng Phật, lấy chùa làm nơi hội họp hoặc làm trờng
<i>dạy học)</i>


Mc dự cú nhng iu quỏ t. song với lời lẽ đấu tranh uyển chuyển, hợp lý, nên triều đình khơng
những khơng bắt tội, mà cịn ra thơng t hành chính chấp thuận và năm sau tăng lơng cho ông từ 7,5
đồng lên 9 đồng một tháng( tơng đơng với 2 tạ gạo). Trong những năm này( 18 đến 23 tuổi) ông thờng
xuyên viết bài cho báo Nam phong. Năm 1919 ông chuyển về dạy học ở làng Ninh xá, xã Yên
ninh,huyện ý Yên ,tỉnh Nam Định rồi mất tại đó, giữa lúc tuổi đời cịn rất trẻ!...


Đơi bài thơ của ơng do cụ Quỳnh, xóm Tiền cung cấp:
"Khách đến chơi đây xin biết cho


<i>Tuổi tôi mời bốn, nghiệp tôi nho</i>
<i>Thay thầy dạy bảo hai anh nhỏ</i>
<i>Nhờ chủ toan trang một nợ to</i>
<i>Kí chửa làm nên cịn phải két</i>
<i>Cử cha đỗ nổi vn nờn cũ</i>


<i>Bút nghiên sách vở ngày nên thú</i>
<i>Chẳng phải rằng tôi dạy học trò (1</i>


1) Năm 14 tuổi, ông theo cha đi dạy học ở xóm Bốn nhà cố phó Cờng


Cố phó Cờng bị vợ mắng vì mải chơi tổ tôm, ông liền làm bài thơ "Chừa tổ tôm"tặng cố nh sau :
"Tổ tôm tôi nghĩ cũng nên chừa


<i>Cúc đợc bao giờ chỉ có thua</i>
<i>Suốt tối khơng ù, chong mắt ếch</i>
<i>Cả ngày nằm ngủ ,chỏng càng cua</i>
<i>Nghĩ rằng đời chẳng bao thân tép</i>


<i>Nên cũng chơi cho thoả chí rùa</i>
<i>Bó buộc làm chi tuồng dạ cá</i>
<i>Tổ tơm tơi nghĩ cng nờn cha!"</i>


<i>(1911)</i>


<i>Bài thơ dí dỏm với toàn những "tôm, tép, cóc, ếch, cua, rùa, cá"</i>


<i>khiến ngời nghe cảm thấy bật cời mà vui vẻ tiếp thu, sửa chữa., không câu nệ tuổi tác, thế hệ</i>
<i>cách xa nhau...</i>


(# )
<i><b>1-Nhà thơ Côi Vị:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nm 1945, Cỏch mng thỏng Tỏm, ông giúp việc Chính phủ. Kháng chiến chống Pháp cùng gia
đình tản c vào n định (Thanh hố) tham gia cơng tác văn hố, rồi về Nga sơn. Ơng mất ở quê năm
1960.


Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ở Sơn tây hay đến chơi với ông.


Theo gơng nhà thơ Tản Đà, lấy núi Tản , sông Đà làm bút danh, ông Thừa Tộ lấy non Côi sông
Vị làm bút danh của mình. Trong cuộc đời ngắn ngủi hơn 60 năm, ông đã để lại hơn 300 bài thơ đ ợc
tập hợp trong cuốn "Sợi tơ lịng" nói về đủ các khía cạnh tâm hồn tình cảm của ơng trong cuộc sống
mà ông đã trải qua, đã chứng kiến. Từ những việc rất nhỏ trong đời thờng nh "hút thuốc lào", " vợ than
Tết" đến những việc động trời nh " chiến tranh thế giới", " kháng chiến", " tản c" đều có mặt trong thơ
ơng. Xuất phát t quan nim:


" Chỉ có thú yêu thơ là tuyệt
<i>Hỡi ai ai quen biết nàng thơ</i>
<i>Đi tìm cái thú lơ m¬</i>



<i>Đi tìm cái đẹp khơng bờ bến kia"</i>
(1932)
Ơng khẳng định:" Non Cơi khơng có thơ,


<i>Non Cơi cũng lu mờ.</i>
<i>Sơng Vị khơng có thơ,</i>
<i>Sơng Vị cũng lờ đờ."</i>


Sinh ra và lớn lên giữa Non Côi - Sông Vị, không chỉ mợn tên núi, tên sơng làm bút danh của
mình, đồng thời ơng cũng thể hiện lịng u q hơng tha thiết, yêu sông, yêu núi dạt dào- Một phần
của quê hơng bao la, vĩnh cửu- mà ông muốn gửi hồn vào đó. Trong lời đề tựa cuốn "Sợi tơ lịng", viết
vào năm 1924 , ông cứ băn khoăn:


<i>Cuốn "Sợi tơ lòng" tớ viết chơi</i>
<i>Chẳng lẽ tan theo gió bụi đời</i>
<i>Man mác nguồn thơ gieo Bến Vị</i>
<i>Mơ màng mây trắng tít Non Cơi!</i>


Quả vậy, ơng ln ln mơ màng và man mác. Ông mơ màng những nơi thanh cao, tinh khiết,
những tuỵêt thú mà ông cho là lơ mơ, nh say, nh tỉnh do thơ đem lại. Theo ông, đó mới là cái đẹp vô
cùng. Sự mơ màng đó, đã đa ơng lên tận Cung Quảng, gặp chị Hằng Nga và các thi sĩ nổi tiếng trong
"<b>giấc mơ th</b>":


<i>Đêm qua ta mơ màng</i>
<i>Thấy ở trong cung Hằng</i>
<i>Mùi hoa đa thoang thoảng</i>
<i>Túi thơ bày ngổn ngang</i>
<i>Tản Đà, Trần Tế Xơng</i>



<i>Thanh Quan, Hồ Xuân Hơng</i>
<i>Với bà Đoàn Thị Điểm</i>
<i>Cùng nhau ngåi mét giêng</i>


Ơng hình dung ra cảnh ba nữ sĩ đang thay nhau ngâm thơ, hai nam thi sĩ đang gảy đàn ... mồm;
còn Hằng Nga đang uyển chuyển thớt tha đi lại, pha trà, gọt đào tiên đãi khách thơ. ông liền đẩy cửa
vào., các thi sĩ bắt tay chào. Tản Đà hỏi vồn vã; " Có thơ đa xem nào". Ơng dâng cuốn " <b>Sợi tơ lịng</b>"
để xin ý kiến, thì:


<i>Tú Xơng gật đầu mãi</i>
<i>Tản Đà lại rung ựi</i>


<i>Thị Điểm chê : "Ngông quá"</i>
<i>Thanh Quan rằng: "Khinh ngời"</i>
Và ông ngâm lại bài " <b>Con muỗi</b> "


<i>Xuõn Hng khen: "Lỡm đời</i>
"Tài bắt chớc thơ chị
"Côi Vị, em của tơi !"


Trong khơng khí cởi mở, thân tình ấy, <i>Cơi Vị </i>đợc dịp bày tỏ quan điểm:
"Tha các chị, các anh


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Rồi ông đề đạt nguyện vọng:


<i>Em ổ dới trần ai</i>
<i>Tục luỵ lắm, trời ơi!</i>
<i>Em muốn lên đây để</i>
<i>Xin làm một chân "Bồi"</i>
Và ơng lại mơ màng tiếp:



<i>S¸u chúng ta</i>


<i>Bồng Lai tiên cảnh</i>
<i>Mây nớc bao la</i>
<i>Gió vàng, sao b¹c</i>


<i>Cung thiền lấp lánh gơng Nga</i>
<i>Khi trẩy đào Vơng Mẫu</i>


<i>Khi tắm mát Ngân Hà...</i>


Nhng tic thay, cuc vui no ri cũng đến lúc tàn, kể cả những cuộc vui trong mơ. Đã đến lúc
phải chia tay Hằng Nga, chia tay các thi sĩ. Ơng bàng hồng chợt tỉnh và li man mỏc bun:


<i>Non Côi ám cỏ</i>
<i>Sông Vị lầy sa</i>


<i>Chia li, dòng lệ sơng sa</i>


<i>Canh khuya tâm sự, trăng tà, bãng soi!</i>


Phải chăng, đây cũng là nõi u hoài man mác chung của cả một thế hệ nhà thơ lúc bấy giờ, của
cả một dân tộc lúc bấy giờ, trớc cảnh nớc mất nhà tan, nhân dân lầm than, nơ lệ. Bởi lẽ, Ơng sinh vào
buổi giao thời, cái buổi mà nhà thơ Tú Xơng đã từng than vón:


"Nào có ra gì cái chữ nho


<i>Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co</i>
<i>Chi bằng đi học làm thầy phán</i>


<i>Tối rợu sâm panh, sáng sữa bò."</i>


Cho nờn, tõm trng ca ụng cũng giống tâm trạng của một số nhà thơ đơng thời. Ta hãy lắng
nghe nỗi buồn của ơng:


<i>Bn nµy, buồn vẩn lại buồn vơ</i>
<i>Ai có mua buồn, tớ bán cho</i>


<i>Buồn ngắm thuyền nan, cơn sóng vỗ</i>
<i>Buồn trông gió táp cánh hoa xơ.</i>
<i>Buồn khi sơng phủ non đầu bạc</i>
<i>Buồn lúc mây che bóng nguyệt mờ.</i>
<i>Thợ trời khéo vẽ tranh buồn tẻ</i>
<i>Để khách đa sầu dạ ngẩn ngơ.</i>


( 1935 )
Và cùng «ng "c¶m thu " :


<i>Bao nÐt thu buån lÈn khuÊt đây</i>
<i>Trải bao thu trớc lại thu này</i>
<i>Sơng thu pha lẫn màu thu nhạt</i>
<i>Núi úa chen thêm lớp cỏ gầy</i>
<i>Bên dậu ủ ê, cây trút lá</i>


<i>Lng trời vơ vẩn, nhạn tìm mây</i>
<i>Ma thu rơi xuống lòng thu lạnh</i>
<i>Phảng phất hồn quê ngän giã may!</i>


( 1940 )



Thậm chí giữa mùa xuân mà ông vẫn thấy: "<i>Bông hoa sớt mớt dòng châu đọng", </i>thì thật là
một sự man mác triền miên, một sự u hồi vơ tận! Chao ơi, với ơng " Cảnh nào, cảnh chẳng đeo
<i>sầu", </i>vì trong ơng lịng buồn quỏ i !


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

khắc hoạ chân dung cđa "vÞ tỉ s chiÕn tranh thÕ giíi thø hai":
<i>" Nhớ ông xa:</i>


<i>Tóc chém vát xanh rì trớc trán</i>
<i>Râu con sò đen kịt trên môi"</i>


Và miêu tả ngắn gọn tính cách của y:
<i>" Tính khí hung hăng, nói năng táo tợn</i>
<i> Chẳng con, chẳng vợ</i>


<i> Vị giang san mải sớm mê chiều</i>


<i> Không học, không hành, mà thao lợc vá trời lấp biển</i>
<i>" Thơng" dân khổ sở, "xót" nứơc lầm than</i>


<i> Nuụi chớ phc thự, hm hở làm bom, đúc súng</i>
<i> Tài độc đoán, cậy khụng ai ngn cn</i>


Lăm le phá cũi xổ lång,
<i> thÐt m¸y trun thanh.</i>


<i>" Đảng áo nâu" khoe có đủ oai quyền,</i>
<i> xé tờ hiệp ớc</i>


<i> TiÕn binh nh th¸o níc vì bê</i>



"Cê thËp ngoặc" phất phơ bay bốn phía
<i>"Khúc khải hoàn" lừng lẫy hát ba quân...</i>
<i> Rắp làm ma làm gió, làm chúa tể Châu Âu</i>
<i> Toan nuốt Mĩ, nuốt Anh,nuốt khổng lồ Xô Viết</i>
<i> Nào ngờ!</i>


<i> Mt cõy lm chẳng nên non</i>
<i>" bẻ đũa đợc sao cả nắm</i>


<i> Trận Bá Linh sụp đổ hết cơ đồ</i>


<i> Thân bách chiến tan hoang cùng khói đạn!...</i>
<i>Thế mới biết:</i>


<i> Hoá nhi hay ghét mặt phi thờng</i>
<i>" Thời thế vẫn căm tay xuất chúng</i>


<i>" Mới hay, gian hùng tạo thời thế, Ghê cha!</i>
<i>" Thời thế hại gian hùng, ngán nhỉ!</i>


Và ông kết thúc:
"Côi Vị muốn :


<i>" mợn tất thẩy núi xơng, sông máu thay làm vật lễ thành dâng</i>
<i>" Tát bao nhiêu bể thảm, nguồn thơng vào văn kính viếng!"</i>


Trong những nõi sầu thảm của con ngời, có lẽ nỗi sầu thảm lớn nhất là chiến tranh. Thoát đợc nỗi
sầu này, ngời ta cảm thấy nhẹ nhõm đi nhiều. Côi Vị cùng mọi ngời Việt Nam đi vào cuộc kháng
chiến 9 năm chống Pháp với những câu thơ lạc quan hẳn lên, bởi ông ý thức đợc rằng, đây là cuộc
chiến tranh giữ lấy những gì mà cách mạng vừa giành đợc, Ông thay lời ngời mẹ động viờn con:



<i>Con ra tiền tuyến phen này</i>


<i>Mẹ mong máu giặc thấm đầy áo con</i>
<i>Đời con là của nớc non</i>


<i>Nc non trơng cả vào con mọi bề</i>
Ơng thay lời ngời chồng ng viờn v:


<i> Mẹ cò là vợ dân quân</i>


<i>Thi dua phải chiếm lấy phần cao hơn</i>
<i>I- tờ, phải học luôn lu«n</i>


<i>Viết nhanh thoăn thoắt, đọc trơn làu làu</i>
<i>Chăn nn , trồng trọt, hoa màu</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Cã tiỊn, cã g¹o trong tay</i>


<i>Thì nên đem giúp những ngày lạc qun</i>
<i>ích nhà, ích nớc, đơi bên</i>


<i>Mẹ cị làm đợc, tơi khen mẹ cị</i>
(Mẹ cị ơi- 1947)
Và chính ngời chồng ấy, cũng rất hng hỏi:


<i>Còn trời, còn nứớc, còn non</i>
<i>Tôi còn ái quốc, tôi còn thi đua</i>
<i>Thi đua cùng với mẹ cò</i>



<i>Tụi khụng nói khốc, nói đùa bỡn mơ</i>
<i>Giặc vơ tơi cũng thi ua</i>


<i>Thi đua giết giặc, không thua mẹ cò!</i>


Thi gian ny, ơng tản c ở n Định, tỉnh Thanh Hố. Ơng hoà nhập vào cuộc sống của vùng tự
do, vui với niềm vui hạnh phúc lứa đôi của thế hệ trẻ, nhng khụng quờn nhc nh h:


<i>Tiện đây xin cã lêi khuyªn</i>


<i>Dẫu vui ân ái, đừng quên nớc nhà</i>


( Thơ mừng đám cới 1947)


Bản thân ông dù trút đợc nỗi buồn man mác, nhng không lúc nào, ông khuây khoả nỗi nhớ quê
cha đất tổ, nhớ quê hơng xóm làng, nơi có Non Cơi- Sơng Vị của ơng:


<i>Ba năm ăn tết ở ba nơi</i>


<i>Ngh n quõn thự, git lệ rơi</i>
<i>Phần mộ lạnh lùng hơng khói vắng</i>
<i>Từ đờng tan vỡ, nắng ma phơi</i>
<i>Ruộng ao, đất cát thành hoang cả</i>
<i>Sách c ụng cha b t ri</i>


<i>Mỏi mắt trông về nơi cố lí</i>
<i>Ven trời ẩn hiện bóng Non Côi!</i>


( Nhớ quê- 1946)



Ơi Non Cơi! Cái tên ấy, đã thấm vào máu thịt nhà thơ. Hình ảnh ấy, đã in đậm trong tâm hồn nhà
thơ, khơng gì có thể làm phai mờ và khơng hồn cảnh nào có thể làm nhạt nhồ đi đợc.


Với tâm hồn ấy, trong cuộc sống dù gặp mn vàn khó khăn, ơng nhìn cái gì cũng nên thơ, cũng
thành thơ. Xin trích một số bài mà chúng tơi đã su tầm đợc:


<b>1. Hót thc lµo</b>:


<b> </b> Sáng dậy thanh tâm hút thuốc lào
<i>Hút vào một điếu dạ nôn nao</i>
<i>Chân trời bốn phía nh quay tít</i>
<i>Mặt đất hai chân muốn lộn nhào</i>
<i>Tanh tách nớc reo to lại nhỏ</i>


<i>Loanh quanh khãi toả thấp rồi cao</i>
<i>Tơng t chẳng rõ ai ngày trớc</i>


<i>iu ó chụn i li phi o.</i>


<b>2. Đi thi</b>


<i>Thi cử năm nay sắp tới kì</i>


<i>Chỉnh,* Bình, Nam hỡi có lo thi</i>
<i>Bảng vàng thiên hạ ham mê lắm</i>
<i>Mặt trắng ngời ta quý trọng gì</i>
<i>Con chửa làm nên thày chán quá</i>
<i>Cháu mà hỏng mÃi chú vui chi</i>
<i>Phen này chiến bút cho oanh liệt</i>
<i>Đè bẹp bao nhiêu sĩ tử đi.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Lm ụi câu đối viếng đồng tông,</i>
<i>Kiểm Vạn đem cho một đĩa lịng</i>
<i>Họ móc can tràng ra tạ lễ</i>


<i>Mình moi tim óc để làm công</i>
<i>Học hành năm trớc chừng bao của</i>
<i>Chữ nghĩa ngày nay đáng mấy đồng</i>
<i>Giá chữ đã hời hơn giỏ tht</i>


<i>Hỏi còn lông bút viết ra không?</i>


(1938)


<b>4. Tản c</b>


<i>Ba năm ăn Tết ở ba nơi</i>
<i>Căm uất quân thù giọt lƯ r¬i</i>


<i>Phần mộ lạnh lùng hơng khói vắng</i>
<i>Từ đờng tan nát nắng ma phơi</i>
<i>Ruộng ao đất cát thành hoang cả</i>
<i>Sách c ụng cha b t ri</i>


<i>Mỏi mắt trông về nơi cè lÝ</i>
<i>Ven trêi Èn hiƯn bãng non C«i.</i>


<b>5- Con muỗi:</b>


<i>Hut mỏu ngi ta chng bit ờ</i>


<i>ự cha con mui cứ vo ve</i>
<i>Cái vòi châm xuống đau đau lạ</i>
<i>Chất độc truyền sang ngứa ngứa ghê</i>
<i>Hễ đến ban đêm là nó tỉnh</i>


<i>Làm tan giấc ngủ của mình mê</i>
<i>Hở hang là chực lăm le đốt</i>
<i>Bà phải bng màn kín để che!</i>


(1935)
6-<b>Cua chơi trăng</b>:


<i>Mò mẫm đi đâu gọng với càng</i>
<i>Hay là cua cũng thích chơi trăng</i>
<i>Cung Thiềm ý hẳn ghen con cóc</i>


<i>Hang tối chừng đơng khát ánh trăng ?</i>
<i>Hai mắt láo lơ nhỡn to hoỏ</i>


<i>Tám chân quờ quạng với hào quang</i>
<i>Đời ngời vẫn bảo cua ngang ngạnh</i>
<i>Có giỏi bò lên cắp chị Hằng</i>


(1937)
7-<b>Hồng gai</b>:


<i>Hồng nào hồng chẳng có gai,</i>
<i>Phải chăng gai ấy là trời phú cho</i>


<i>Bảo cho những khách tò mò</i>


<i>Hái hoa chạm phải thì co tay vào!</i>
8- <b>Ngày xuân:</b>


<i>Ngy xuõn ta cũng thử bơng đùa </i>
<i>Ta thử cời xem có chát chua</i>
<i>Hoa thấy ta cời hoa cũng cảm</i>
<i>Trên cành nhăn nhở gió đu đa!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Khen cho con tạo khéo ti rõy</i>
<i>Bt nc lan ra khp ú õy</i>


<i>Nghếch mặt lên chơi càng mát mặt</i>
<i>Thò tay hứng thử lại êm tay</i>


<i>Bụng hoa sớt mớt dòng châu đọng</i>
<i>Lới nhện long lanh mảnh ngc y</i>
<i>Nh quỏ i thụi m nh quỏ</i>


<i>Không nhờ hơi gió cũng bay bay</i>
10<b>.Đón xuân</b>:


<i>Kỡa xuõn ó n</i>


<i>ún xuõn vo ta nói chuyện xuân chơi</i>
<i>Vắng xuân lâu,ta những nhớ xuân hồi</i>
<i>Trải xn, hạ, thu, đơng vừa chín tháng</i>
<i>Hai trăm bảy mơi đêm đằng đẵng</i>
<i>Lại hai trăm bảy chục ngày thờng</i>
<i>Khi giú may, la lu</i>



<i>Lúc lá rụng, rơi sơng</i>


<i>Nhìn cảnh vật tang thơng sầu bát ngát</i>
<i>Vun vút oanh vàng bay lại hãt</i>


<i>Tơi tơi hoa đỏ bật lên cời</i>


<i>Xuân đến đây cho cả thế nhân vui</i>
<i>Cho CôiVị quãng đời tơi thắm lại</i>
<i>Xuân đến mừng xuân ta lại viết</i>
<i>Một trời xuân, vơ vét cả vào thơ</i>
<i>Yêu xuân không bến , không bờ !...</i>
11-<b>Tết đến</b>:


<i>Hoa đào hớn hở đón xuân sang</i>
<i>Tết đã mon men đến cổng làng</i>
<i>Câu đối đỏ loè hai vế chữ</i>


<i>Cành nêu cao vót mấy tầng thang</i>
<i>Tranh tranh, pháo pháo, con cời nói</i>
<i>áo áo, khăn khăn, vợ rộn ràng</i>
<i>Tớ đã già nua, cịn thích tết</i>


<i>Ai r»ng "lo " TÕt, tí r»ng " ngang"!</i>


Vì thích tết, nên khi thấy cháu Vũ Cao của ông cứ mải ngủ, ông đã phải lay gọi, đánh thức cháu
dậy:


"Hoa đào khoe sắc đón xn sang
<i>Mà cháu tơi sao vẫn ngủ tràn</i>


<i>Gãi ghẻ xuân ? ồ trái thói !</i>
<i>"Ơ hờ tết hở ?" Gớm bền gan!</i>
<i>Toan vơ cảnh tết vào trong mộng,</i>
<i>Hay ấp nàng thơ ở cái chăn</i>


<i>Pháo nói đang rung hồi đánh thức</i>
<i>Hoa cời tự dục trống canh tan!"</i>


Côi Vị rất yêu hoa, ông thờng mua hoa tháng (hoa tơi) do cô gái bán hoa theo lịch đem hoa đến
để ông cắm vào lọ hoa nơi ông làm việc. Cô bán hoa xinh đẹp, thi nhân li a tỡnh, nờn ụng cú bi th:"


<b>Cô bán hoa</b>:"


"Ch hàng hoa ,chị hàng hoa!
<i>Tôi mong sáng sáng chị qua ng ny.</i>


<i>Cho tôi nhờ chút thơm lây</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Cho tôi mua một vài bông</i>


<i>Bông lan, bông cúc, bông hồng xinh tơi</i>
<i>Bao nhiêu một cái nụ cời</i>


<i>Của bông hoa ,với cđa ngêi b¸n hoa ?"</i>
(1936)


Vì u hoa nh thế, nên khi phải chia li với hoa, ông cảm thấy nh hoa cũng không cầm đợc nớc
mắt:


"Ta cúi xuống hôn hoa


<i>Đầm đìa ớt mơi ta</i>
<i>Nhớ ta, hoa nhỏ lệ</i>
<i>Hay sơng đọng đêm qua</i>


(1936)


Vì đa cảm nh vậy, nên ơng hay" lo vơ lo vẩn, lo bò trắng răng" nh bài "<b>Xuân với má hồng</b>":
<i>Xuân về trên má đào ai,</i>


<i>Xuân đi, trên má đã phai nhạt dần</i>
<i>Má mà mơn mởn thanh tân</i>
<i>Hỏi ai không muốn đến gần hôn ai!</i>


<i>Má mà thắm nhạt ,hồng phai</i>
<i>Cái hơn khơng thể dằng dai đến già</i>


<i>B¶o cho những khách quần thoa</i>
<i>Thấy hây hây má liệu mà chồng con</i>


<i>Ngày xanh nó chạy bon bon</i>
<i>Nó đi trên má, má mòn mỏi đi...</i>


<i>Tô son, xuân sẽ bôi chì</i>


<i>Má hồng tô điểm riêng thì xuân xanh!...</i>
<i>...Có ai xe chỉ cho bền,</i>


<i>Trúi chân xn lại,ở liền mãi đâu?</i>
<i>...Trời cịn có hạ , thu, đơng</i>
<i>Hồng nhan có lúc cũng khơng cịn hồng</i>



<i>Khi nao mỏ ó khụng hng</i>


<i>Đừng mong mắt liếc ,chớ hòng môi hôn!...</i>
<i>...Thế mà Côi Vị nhà nho,</i>


<i>Lo v lo vn, lo bũ trng rng</i>
<i>Lo khi ụi mỏ bng,</i>


<i>Đôi môi Côi Vị ý chừng muốn hôn!..."</i>


(1932)


Mấy năm sau, ông lại viết :"<b>Thu víi m¸ hång</b>" nh tá ý sèt rt thay cho ngời con gái cha chồng:
"Thu sang, núi cũng bạc đầu,


<i>Mặt sông xanh ngắt , nữa màu tóc da</i>
<i>Mà ai cha, vẫn hoàn cha,</i>
<i>Đêm thu, vừa gió, vừa ma, lạnh lùng!</i>


<i>Heo may, gió lọt căn phòng,</i>
<i>Heo may gió "dục" lấy chồng ,ai ơi!...</i>


<i>Heo may,lạnh cả tâm hồn,</i>
<i>Không ai ấp ủ, có buồn chăng ai?..."</i>


(1941)


Tỡnh cm dt do, ụng mn hỡnh ảnh" <b>thuyền và bến</b>"để gửi gắm nỗi lịng:
"Thuyền khơng bến lờnh ờnh bn bin,



<i>Bến không thuyền bến lẻ loi duyên</i>
<i>Vui thay, trªn bÕn díi thun</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i> §i víi thun cho khái thê ¬</i>
<i>Thun ¬i, m¶i thó giang hå</i>


<i>Để cho bến đợi , sông chờ, thuyền ơi!</i>
<i>Bến, bến hỡi, thuyền rời đi tạm</i>


<i>Nghĩa nơng sâu, thuyền dám qn đâu</i>
<i>Ba đào, phong vũ có nhau</i>


<i>Thuận buồm, xuôi gió, lâu lâu lại về</i>
<i>Thuyền coi bến là quê là quán</i>
<i>Bến coi thuyền là bạn cố tri</i>
<i>Hợp tan, tan hợp bao kì</i>


<i>Khứ lu, lu khứ ,nặng về nớc non</i>
<i>Bến cha lở ,thuyền còn qua lại</i>
<i>`</i> <i>Bến xa thuyền, bến hÃy còn trơ</i>


<i>Thuyn khụng bn b v</i>


<i>Bn không nỡ để thuyền lơ lửng thuyền!...</i>
(1930)


Lãng mạn là thế, bay bổng là thế, song trong cuộc sống đời thờng, ông lại rất thực tế, ngày tết
ngồi vào mâm là ông"chén" thoải mái, tự nhiên:



"Ăn sao cho thích khẩu thì thơi
<i>Lại uống cho say thật lử ngời</i>
<i>Măng, nấm đem ninh gà mái ghẹ</i>
<i>Tơng ,gừng chấm với thịt bò thui</i>
<i>Chai to ,cứ việc mà nghiêng mãi</i>
<i>Miếng nhỏ ,can gì chẳng gắp đôi</i>
<i>Những kẻ rau da là kẻ dại</i>


<i>ở đời chén đã ,mợ mày ơi !</i>


Kết thúc cuôc đời viên chứcthừa phái "sáng cắp ô đi, tối cắp về", ông đợc" thăng "chức "quản
"trong gia đình, ơng làm bài thơ "<b>T thỏn</b>":


<i>Mời tám năm qua một chức "thừa" *</i>
<i>Ngày nay thăng chức "quản gia nô"</i>
<i>Bạn cùng bếp núc, râu mày nhọ</i>
<i>Quẩn với màn chăn, chí khí co,</i>
<i>Thơ phú phải lòng chi tớ nữa</i>
<i>áo cơm làm bộ với ta ?</i>
<i>Đời ngời quá nửa còn nh thế</i>
<i>Chẳng rõ về sau có khác xa ?</i>


Về già, nhớ lại thời thơ ấu, ông thấy nuối tiếc, nhớ nhung và càng cảm thấy quí thời gian đã trôi
qua, ông viết bài "<b>Sống với thời gian</b>":


<i>Håi ta còn bé</i>
<i>Ăn khoẻ, ngủ khoẻ</i>


<i>Bt co co, do hang dế</i>
<i>Phá tổ chim, tìm trứng sẻ</i>


<i>Bỏ đom đóm vào mũi nhau</i>
<i>Nhét thuốc lào vào miệng ngoé</i>
<i>Mong cho chóng đến ngày ba mơi tết</i>
<i>Xin mẹ tiền mua bánh pháo kêu</i>
<i>Đốt vào sau chú</i>


<i>Đốt vào sau mèo</i>
<i>Nó chạy là ta thích</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Ngày xanh trơi veo veo,</i>
<i>Bóng xn đã xế chiều.</i>
<i>Tóc h lm m</i>


<i>Da hồ nhăn nheo</i>


<i>Tic quỏ ! tri i! ta tiếc quá!...</i>
<i>Thời kì sung sớng đợc bao nhiêu?</i>


<i>Năm 1960, tập thơ ông gấp lại, ông đã đi vào cõi vĩnh hằng, để lại niềm tiếc thơng vô han</i>
<i>cho gia đình và bà con họ hàng lối xóm Tập thơ"Sợi tơ lịng" của ơng với trên 300 bài thơ chép</i>
<i>tay cha ra mắt bạn đọc thì bị thất lạcdo chiến tranh. Trong lời đề tựa ở đầu tập thơ, có lẽ cụ đã</i>
<i>tiên đốn phần nào số phận của nó:</i>


<i>Cuốn "Sợi tơ lịng" tớ viết chơi,</i>
<i>Chẳng nhẽ tan theo gió bụi đời?</i>
<i>Man mác nguồn thơ gieo bến Vị</i>
<i>Mơ màng mây trắng đỉnh non Côi!"</i>


<i>Chúng tôi, lớp con cháu hậu sinh,thấy tiếc q,tiếc q , nên cố cơng lục tìm trong lớp bụi</i>
<i>thời gian, qua trí nhớ của ngời con trai duy nhất của cụ là ông Vũ Quang Tuyên, mỗi ngày một</i>


<i>ít, chắp nối lại suốt 5-6 năm qua, đến nay cũng chỉ mới đợc một số bài đem ra trình làng. Hi</i>
<i>vọng rằng sẽ cịn đợc bổ xung tip!...</i>


<b>MộT Số BàI THƠ TRàO PHúNG</b>:
a <b>-Nói chuyện với ngời điếc</b>:


<i>Buồn xem sách, sách không một quyển.</i>
<i>Gọi Tiềm sang nói chuyện cho vui</i>
<i>Hai tai Tiềm lại điếc lòi</i>


<i>.Thế là ta nói ra lời ta nghe</i>
<i>Bảo" đi mợn cùi dìa thợ cạo</i>
<i>Đem ngay về mà nạo tai đi!"</i>
<i>Tiềm nghe Tiềm chỉ cêi kh×</i>


<i>Ngẩn tị te hỏi :" Cái gì , hở ơng?</i>
<i>Mai ơng có ăn lịng khơng á?</i>
<i>Ơng ăn gì,cháu dở món ăn!"</i>
<i>Làm ta đợc bữa cời lăn</i>


<i>ThÊy cêi, TiỊm cịng nhăn răng ra cời.</i>
<i>Trời ơi! Đất hỡi ! Tai ơi !...</i>


b <b>- Dm i</b>:


<i>Chuyến tàu Hà nội đi Nam</i>
<i>Một chàng áo đoạn gấm lam chỉnh tề</i>


<i>Nm trờn ging gỏc ng khì</i>
<i>Mê man đến nỗi" dấm tè" khơng hay</i>



<i>Mét bµ ngåi dới nguy thay</i>
<i>Bị chàng công tử "dấm" ngay vào đầu</i>


<i>Cả cô bán bánh trên tàu</i>
<i>Chả giò, diêm thuốc, trầu cau ớt đầm</i>


<i>Bao nhiêu hành khách cời ầm.</i>
<i>Anh chàng xấu hổ , vÉn n»m cß khoeo.</i>


<i>"Dấm đài" cái mặt lêu lêu,</i>
<i>Tu mi nam t m bờu riu i</i>


<i>Làm cho ta phải phì cời,</i>
<i>Lại càng hú vía: không ngồi chỗ kia!</i>


c -Trái kho¸y:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Có bao nhiêu" thuốc thánh" đành quăng</i>
<i>Dao cầu kia để nhện chăng,</i>


<i>Cho lang chết đói nhăn răng há mồm!...</i>
<i>Anh hàng sũ chúc ngời ta thọ,</i>


<i>Quan tài kia xếp xó ,ai mua.</i>
<i>Khơng mua là hết ăn thua</i>
<i>Quan tài lại để bán cho nhà hàng !...</i>


(1940)
d -<b>Thi sÜ víi cá may</b>:



<i>Thi sĩ buổi đời này</i>
<i>Ai coi ra gì đây</i>
<i>Le te dới mặt đất </i>
<i>Nh là đám cỏ may.</i>
<i>Cỏ may thấp lại nhỏ,</i>
<i>Nhng cỏ may hay xỏ</i>
<i>Thi sĩ giống cỏ may</i>
<i>Coi ai cng nh c!</i>


(1939)
đ-Trách bộ râu:


Lỳc tr, Cụi V thờng lui tới xóm Bình Khang, vì mê tiếng hát ả đào. Ông hay làm những bài hát ca trù để
các cô hát.Đổi lại, chủ cô đầu cũng không bao giờ lấy tiền của ơng.Vì hay thức đêm, nên râu mọc nhiều, ông
liền làm bài thơ trên nh sau:


"Bôi nhọ ta chi thế hỡi râu
<i>Ta đơng mê mải thú cô đầu</i>
<i>Nay mai nó thấy cằm ta ráp,</i>
<i>Nó đếch nhân tình với nữa đâu!</i>
<i>Nó đếch nhân tình với nữa đâu</i>
<i>Hơn vào má nó , nó kêu đau.</i>
<i>Từ nay ta phải chăm chăm cạo</i>
<i>Trớc lúc ta đi đập trống chầu</i>


(1940)
Nhng sau đó , không hiểu nghĩ thế nào, ông lại chủ trơng


" §Ĩ r©u":



<i>"Thiết tởng khơng nên cạo nhẵn mà</i>
<i>Để buồn ngồi nhổ với trăng hoa</i>
<i>Đã bôi bộ mép cho già lại</i>
<i>Phải véo từng chân dứt nó ra</i>
<i>Họ Từ * râu dữ nên vô địch</i>
<i>Tào Tháo râu ria giáo mác qua</i>
<i>Đã chẳng tu mi cùng vũ trụ</i>
<i>Còn trơ cái mặt với sơn hà!"</i>


<i>Chủ trơng này đợc Vũ Cao đồng tình hởng ứng:</i>
<i>"Già ri, co mt,nh rõu chi</i>


<i>Tiền tốn, ngời ta lại bảo si</i>


<i>Nhẵn hói chỉ thành trơ diện mạo</i>
<i>Xồm xoàm thêm lộ vẻ tu mi!...</i>
<i>...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Và Côi Vị cũng không quên tặng cô đầu mấy vần :
"Em ngâm thơ của chÞ Thanh Quan


<i>Thánh thót em pha mấy tiếng đàn</i>
<i>Nh dắt anh vào trong cõi mộng</i>
<i>Canh trờng nao núng cả tâm can!"</i>
* Một số giai thoại về nhà thơ Cơi Vị:


Cơi -Vị có hai ngời bạn chữ Hán, một ngời Việt nam và một ngời Trung quốc buôn thuốc bắc ở
Thanh hoá lấy vợ Việt, chơi thân với nhau. Chín giờ tối hơm trớc cịn đàm đạo văn chơng với nhau.
Năm giờ sáng hôm sau, bà vợ đã chay đến than khóc, nhờ ơng Cơi Vị làm câu đối viếng nói rõ hồn


cảnh mình : hai chị em lấy chung một chồng, lại trong tình cảnh đất nớc lúc bấy giờ:Việt nam quê
mình thì đang đánh Pháp ; Trung quốc quê chồng thì đang nội chiến Mao-Tởng. Nghe xong , ông Côi
Vị liền viết:


"Phu quân đà quá cố, con cái lại xa xôi, nhớ nhớ thơng thơng, ngán nỗi chị cùng em goá
<i>bụa.</i>


<i>Trung quốc rối can qua, Việt nam đầy gió bụi, về về ở ở, than ơi chàng để thiếp bơ vơ!"</i>
Cơi Vị có ngời cháu gọi mình là cậu ruột, hi sinh ở núi Non nớc- Ninh bình, nghe tin, ơng làm
đơi câu đối viếng cháu:


"Trận Ninh bình phút chốc phơi thây, Non nớc đa tin, lịng cậu nơn nao nguồn lệ chảy.
<i>Đài kỉ niệm mai sau có cháu, tinh thần chẳng chết, hơng trầm nghi ngút khói hơng bay!"</i>
Sau khi nghe đồng đội của cháu tờng thuật lại trờng hợp hi sinh của cháu mình, ông làm tiếp:
"Phút cuối cùng còn giữ súng liên thanh, đạn nổ, máu càng sôi, cháu chết biết bao thù
<i>địch chết.</i>


<i>Giờ quyết liệt phải cần tay chiến sĩ, đầu xanh, xơng đã trắng, cậu thơng, tất cả nớc nhà </i>
<i>th-ơng!"</i>


Ngồi nhìn con đạp máy khâu , ơng ứng khẩu đọc ln:
"Hạt thóc nảy theo đờng chỉ lợn.


<i>§ång tiỊn chui ë lỗ kim ra!"</i>


Hi tn c Yờn nh-Thanh hoỏ, hai gia đình thơng gia là ơng Tú Lễ và ơng Hồ á Ngọc cũng ở
gần đấy. Côi Vị thờng sang chơi. Ơng Ngọc muốn có thơ của Cơi Vị, nghĩ ra cách tặng hoa q vì biết
Cơi Vị rất u hoa.Ơng liền tặng ơng Ngọc bốn câu thơ:


"Kh«ng trång hoa cũng có hoa ?


<i>Hoa có duyên gì với khách thơ?</i>
<i>Nhờ chút thơm lây nên nhớ mÃi,</i>
<i>Nhớ lòng thơm thảo cơ Hµn cho!"</i>


Ơng Ngọc đợc thơ đem về lồng trong khung kính treo trong phịng khách tỏ ý trân trọng, không
hiểu ý ngầm của Côi Vị là chê ông A Ngọc chỉ thích "thơm lây", háo danh bởi tớc Hàn lõm gi.


Ông Ngọc về rồi, Côi Vị nói với anh ruột là ông Tú Lễ:"Ngọc là quý, nhng "á Ngọc"thì cũng
không toàn bích, mà là "ghé"thôi!"(1)


_________________________________


(1)B H ỏ Ngc l quan Ngự y thời Khải Định, chuyên chữa thuốc cho Triều đình, cậu
<i>ấm Ngọc nhờ thế mà đợc phong tớc Hàn lâm,tuy học hành khơng giỏi giang lắm.</i>


Hồi cịn làm thừa phái ở Từ sơn-Bắc ninh, một lần đi hát cơ đầủ n viên, Cơi Vị bị ả đào móc
túi mất 4 đồng, về nhà, ông làm bài thơ:


"Một hôm đi hát Yên viên,
<i>Chị em giữ lại cả đêm, sáng v.</i>


<i>Sáng về, sờ túi gi-lê</i>


<i>Bn ng bc giy ó i đằng nào.</i>
<i>Phải chăng mang tiếng cơ" đào "</i>
<i>Thì cơ phải" khoét" xu,hào quan viên.</i>


<i>Trăm năm dù chẳng thành duyên,</i>
<i>Nâng khăn "sa tỳi" mt ờm cng tỡnh!"</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

CôiVị làm thừa phái ở Chiêm hoá -Tuyên quang khoảng 5năm. Khi về xuôi, ông vẫn nhớ nàng
Đào, ông làm bài "<b>Nhớ tình nhân</b>":


"Dòng sông Gâm nao nao nớc chảy
<i>Đỉnh non Thần hây hẩy gió đa</i>
<i>Non sông kia khéo hẹn hò</i>


<i>Chõu Chiờm 19 năm xa gặp nàng</i>
<i>Nàng độ ấy hàm răng trắng muốt</i>
<i>Đôi mắt trong, trong suốt mùa thu</i>
<i>Môi nàng thắm tựa son tụ</i>


<i>Má Đào mơn mởn ,tóc tơ mợt mà</i>
<i>...</i>


<i>Ba nm hơi tiếng đã quen</i>
<i>Yêu nhau vì nết ,vì duyên, vì tài</i>
<i>Nào những lúc lên đồi hóng mát</i>
<i>Xuống ao sen cùng ngắt bơng hoa</i>
<i>Nhởn nhơ dới bóng Hằng Nga,</i>
<i>Nhìn nàng ta nói ,trơng ta nàng cời</i>
<i>Nào những lúc thuyền trơi đủng đỉnh</i>
<i>Nàng cùng ta ngoạn cảnh trên sông</i>
<i>Trời mây man mác xa trơng</i>


<i>Nớc non nặng một tấm lịng vì ai!</i>
<i>Đã thề thốt đinh ninh sơn hải,</i>
<i>Có ngờ đâu vật đổi sao dời</i>
<i>Xa nhau mời sáu năm trời</i>



<i>Tin th im bặt,bóng ngởi vắng teo</i>
<i>Gặp chi ở đèo heo hút gió</i>


<i>Để ngày nay đây đó chia li</i>
<i>Mong mơ , mơ chẳng thấy gì</i>


<i>B©ng khuâng ngắm ảnh, ảnh thì nhạt phai</i>
<i>Hồi năm ngoái nghe nơi Chiêm hoá</i>


<i>B bom ri n nh ũi cn</i>
<i>Xa xụi xit ni bn chn</i>


<i>Xa xôi, chẳng biết nàng còn hay không</i>
<i>Nàng còn giữ hình dung óng ả?</i>


<i>Hay l nay nng đã tang thơng?</i>
<i>Hoa rừng dầu dãi nắng sơng</i>


<i>Dễ thờng nhạt phấn, phai hơng đã nhiều!</i>
...


<i>Có hai cánh thì bay lên đấy</i>
<i>Ta thấy nàng , nàng thấy ta luôn,</i>
<i>Cùng nhau kể ni hn ụn</i>


<i>Cho nhau nghìn vạn cái hôn nồng nàn!...</i>
( 1940)


ở thôn Mai trang có cơ Lê thị Liễu ,thích thơ Cơi Vị, đã hai lần gửi th cho ơng:
" Nghe nói thi nhân tận góc trời



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Sống ở lều tranh một mái rèm!</i>
<i>Là cô thôn nữ vừa đôi tám</i>
<i>Sống ở đồng quê mộng với thơ</i>
<i>Xa xôi, thi sĩ buồn chăng tá</i>
<i>Gỡ giúp lịng em một mối tơ!"</i>
Cơi vị đáp lại:


"Hai lần Côi Vị tiếp th cô,
<i>Chẳng phải th mà chỉ những thơ</i>
<i>Lê Liễu là ai? Ai đó nhỉ?</i>


<i>Mai trang non níc ở đâu cơ ?</i>
<i>Làm thơ, tôi chẳng dám làm thơ</i>
<i>Cô cứ cho là bác hủ nho</i>


<i>Ch cú vi ba cõu mách q</i>
<i>Ra gì mong ớc để cơ mơ!</i>
<i>Lời cơ thỏ thẻ nhẹ nh ru</i>
<i> Chẳng rõ ngời cơ có đợc nh</i>
<i>Tài sắc nếu cơ tồn vẹn cả</i>
<i>Trời ơi. sung sớng vị hôn phu!</i>
<i>Cái kiếp văn chơng chán đủ điều</i>
<i>Hao dầu, tốn bấc , chẳng xu tiêu</i>
<i>Sao cô cứ gảy đàn thơ mãi</i>


<i>Ríc lÊy mai sau mét tiÕng nghÌo!"</i>
(1941)


Cũng thời gian ở Chiêm hố , Cơi Vị kết bạn với Lâm tuyền Khách- một nhà văn chuyên viết


chuyện rừng núi, dạy Tiểu học.Tri châu Chiêm hố là Ma Dỗn Khơn, khơng biết chữ, có ba ngời con:
hai gái đầu, một trai rốt. Côi Vị yêu cô chị, Lâm tuyền khách yêu cô em. Một thời gian sau, Khôn
nghiện thuốc phiện chết,Côi Vị làm bài văn tế " nhạc phụ bất lai"(tiếc rằng ơng Tun nhớ khơng đầy
đủ):


"Nhí B¸c xa, vai so, cỉ rơt.


<i>Tính vốn lành, đời cứ gọi xiên thằng mắt trắng</i>
<i>Tình khơng bạc, khách cịn moi móc đứa mơi thâm</i>
<i>Cằm phụ mẫu nhô ra quá mép, nhai chẳng cần răng</i>
<i>Tai trợng phu dính bệt vào đầu, nằm khơng sợ vớng</i>
<i>...Co ro cái cẳng để chờ khi về gió đi mây là sung sớng</i>


<i>Chúng tôi , hai thằng rể hụt, nghe tin nớc mắt vắn dài Đã toan đa linh cữu v th, tỡm</i>
<i>khụng c hng!...</i>


<i>...Đầu lòng hai ả tố nga... nổi tiếng giai nhân</i>
<i>Rốt ổ một trang công tử ,cha truyÒn con nèi.</i>


<i>Chúc cậu ấm ở trên trần thế, nghìn thu hơng khói đốt dài lâu</i>


<i>Cầu tơn ơng lên cõi Nát bàn, tĩnh độ siêu sinh, không ả phù dung theo ngất ngởng </i>
<i>Ơ hơ, thợng hởng!"</i>


Trong gia đình, Cơi Vị là một ngời cha mẫu mực, hiền từ, hết lịng thơng u con cháu, rất
thơng cảm và tâm lí với các con.


Một hơm, nhận đợc lá th của nàng dâu tơng lai, mở ra thấy có bài thơ "Lòng con" với 4 câu thơ:
"Con nhớ nhà ta chỉ muốn lên,



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Côi Vị liền làm bài thơ "<b>Nhớ con dâu</b>" đáp lại:
" <i>Hôm nay lại nhớ con rồi,</i>
<i>Nhớ con, cha viết mấy lời thăm con.</i>


<i>Xa con, cha nhớ, cha buồn</i>
<i>Thơng con đi bán về buôn dÃi dầu!...</i>


<i>Rồi Nhung(2) thử nghĩ về sau</i>
<i>Xem cha ở với nàng dâu thế nào.</i>


<i>Nhung tuy khụng phi mỏ o</i>
<i>Coi Nhung cng chng khỏc no nh Tuyờn</i>


<i>Nay mai vui thú đoàn viên,</i>
<i>Thì cha khuây bớt nỗi phiền mẹ xa!"</i>


n ngy ci con, ông làm bài thơ "Lòng chị vu quy"dài hơn 60 câu, ơng tự đặt mình là
con dâu , nói lên tâm sự của ngời chị gái với ngời em, căn dặn em ở lại săn sóc cha mẹ già:


" <i>ở nhà định tỉnh thần hôn,</i>
<i>Chị đi gánh vác giang sn nh chng!"</i>


(20 là ngày giỗ. Tuyên là con trai Côi Vị-Nhung là con dâu)


Tâm trạng bổi hổi bồi hồi, bịn rịn cha muốn bớc chân ra khỏi


ngụi nhà thân yêu trong đó có cha mẹ ,có em với bao nhiêu kỉ niệm tuổi ấu thơ. Buồn vui lẫn
lộn, nhà trai sắp đến đón dâu, pháo sắp nổ ngồi cổng rồi ,chị phải làm ngay cơng việc khơng
thể thiếu là trang điểm:trớc khi về nhà chồng, mặc dầu ch khụng mun:



<i>"à quên, chị chải cái đầu,</i>
<i>Tô môi, điểm má cho mầu da tơi.</i>


<i>Để cho em chị cời cời,</i>
<i>Để cho anh ấy ngắm ngời chị đây.</i>


<i>Để cho vui vẻ mĐ thÇy</i>


<i>Tng bừng hai họ trong ngày đón đa!</i>
<i>Hay cha, tri li ma ma,</i>


<i>Nhân duyên càng mát, dây tơ càng bỊn!..."</i>


Bài thơ trên đợc ơng Cơi Vị chép vào tờ giấy hồng điều, rồi đem trao tận tay con dâu, khi con
dâu về đến cửa nhà mình.


Sau ngày cới, tối tối CôiVị thờng ngâm thơ cho cả nhà nghe và dạy thêm cách làm thơ cho con
dâu vốn cũng rất yêu thơ. Tiếc rằng ngời con dâu ấy lại ra đi trớc ông, để lại ba ngời con, ngời con gái
là cháu Vũ Thị Hải cũng nối đợc phần nào chí ơng,cháu cũng làm đợc một tập thơ lấy tên là "Tuổi trẻ
và ớc mơ",với gần 50 bài thơ thuộc nhiều thể loại, một số bài đã đợc đăng trên báo"Phụ nữ"., tạp chí
Văn Nhân- Nam định...


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

___________________________


<b>*Nghe chuyện bên Trung quốc có một nhà thơ nghèo quá, phải đi ăn trộm gạo, vào nhà chủ</b>
<b>thấy sách hay quá, mải mê đọc đến nỗi quên cả việc đi ăn trộm. Đến sáng ,bị chủ nhà bắt đợc,</b>
<b>hỏi lí do, anh ta thực thà kể lại.Chủ nhà liền ra đề, anh ta làm đợc, hai bên kết nghĩa tơng giao.</b>
<b>Nhân tích này, Cơi Vị làm bài thơ:</b>


"Chú chích làm sao cũng biết thơ.


<i>Nào nào ta thử mấy vần cho</i>
<i>Than ôi ,thơ thế, nghèo nh thế</i>
<i>Ngán nỗi tài to, phận chẳng to</i>
<i>Có lẽ thế nhân tồn thị dốt</i>
<i>Nên đời thi sĩ mới không no</i>
<i>Tiền đây, bác lấy mà tiờu nhộ</i>
<i>Tri k ụi ta tht chng ng!"</i>


<i><b>Côi Vị</b></i>

<b> </b>

<b>với một số </b>

<i><b>nhân vật lịch sử</b></i>

<b>.</b>



Tâm sự Chiêu Quân:


<i>"Phự kiều thiếp đứng cheo leo</i>
<i>Dới sông nớc chảy nh reo hói hựng</i>
<i>Ny thụi n phỳt cui cựng</i>


<i>Đem thân phó thác cho dòng Trờng giang</i>
(1940)
Mỵ châu -Trọng Thuỷ


<i>Mỵ Châu em có hay</i>


<i>Giờ phút này anh đắng cay</i>
<i>Cha con em bỏ mạng</i>
<i>Đoạn trng y ai hay!...</i>


<i>Thôi anh nhảy xuống giếng vàng</i>
<i>Hỡi nớc reo lên mà kết tội</i>


<i>Xin ng x t bc tỡnh lang!..."</i>


Vnh Trn Hng o:


"Anh hùng chỉ có Đại vơng thôi,
<i>Giúp nớc yên dân, trải mấy hồi</i>
<i>Văn võ tài cao thiên hạ hiếm</i>
<i>Nghĩa trunggơng sáng thế gian soi</i>
<i>Lá cờ xà tắc §«ng A phÈy</i>


<i>Dịng máu quan qn Bắc quốc trơi</i>
<i>Mn thủa oai linh cịn chấn động</i>
<i>Sơng Đằng ngọn nớc thuỷ triều sôi!"</i>


(1936)


Với những ngời nông dân quê ông,quanh năm lam lũ, “Bán mặt cho đất, bán lng cho trời",
một nắng hai sơng, vất vả khó nhọc tởng nh khơng biết gì đến văn hố, văn nghệ. Nhng với cái
nhìn của ơng , họ hồn tồn khơng phải nh vậy. Ta hãy nghe bài "Lịng em" của ơng đăng trên
báo "Ngày nay" của nhóm "Tự lực văn đồn"ra năm 1938:


Lßng em


<i>Anh ơi, trời đã rạng đông,</i>
<i>Dậy đi, rửa mặt ra đồng kẻo tra</i>


<i>Dậy đi, cơm nớc thì vừa</i>
<i>Anh nên quí cái thì giờ làm ăn!...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>ỏo ti khụng tn my ng,</i>


<i>Phòng khi ma nắng bÃo bùng che thân!...</i>


<i>...Lo mùa rồi lại lo chiêm,</i>


<i>Lo ma, lo giú, lo ờm, lo ngy</i>
<i>Bao giờ hạt thóc lên qy,</i>
<i>Cái rơm lên đống, lịng này lo!...</i>


<i>...Ngời ta quần lĩnh áo the,</i>
<i>Chúng em đây chỉ nhà quê nhà mùa</i>


<i>Quanh năm vất vả cày bừa,</i>
<i>Rỗi đâu mà có thì giờ điểm trang!...</i>


<i>...Em đây nắng dÃi ma dầu,</i>


<i>Chân tay nhem nhuốc,mái đầu bòng bong.</i>
<i>Ai không muốn giữ m¸ hång</i>


<i>Nớc da trăng trắng cho chồng yêu đơng...</i>
<i>... Còn dăm luống na thỡ xong</i>


<i> Anh oi! anh cố ra công cày bừa</i>
<i>Em về sắp sửa cơm tra</i>
<i>Nấu canh cho ngọt cho võa lßng anh...</i>


<i>Nớc thì thấp, ruộng thì cao</i>
<i>Mình em tát mãi đến bao giờ đầy</i>
<i> Em về lấy cái gầu dây</i>
<i>Để anh tát đỡ mt tay vi no!...</i>


<i> Hát đi em ... hát đi em</i>



<i>Hát đi, nghe hát cho quên nhọc nhằn</i>
<i> Hát cho di dỡng tinh thần</i>


<i>Hát cho quên lúc phong trần này đi!..."</i>
:


Nm 1940, Nht kéo vào Lạng sơn đánh Pháp.Trong ba ngày tết, chúng thờng cho máy
bay ném bom xuống những nơi có quân Pháp đóng.Vì vậy thờng xun có báo động, đang ăn
cỗ vui vẻ phải bỏ dở chạy xuống hầm tránh máy bay. Côi Vị liền làm bài thơ:


"Báo động ngày tết":
<i>Luôn ba hơm tết có tàu bay</i>


<i>Báo động ban đêm, báo động ngày.</i>
<i>Họ mải tầng mây man mác rộng</i>
<i>Mình mê bữa chén bét be say.</i>
<i>Thôi van các tớng về nơi khác</i>
<i>Đừng bắt hai chân chạy tết này</i>
<i>Hay thấy trời Nam khan tiếng pháo </i>
<i>Toan cho mấy quả vỡ trời đây</i>


:


Năm 1945, dân hai tỉnh Nam Định -Thái Bình có 2 triệu ngời thì 1/2 triệu ngời chết vì đói,
Cơi Vị ghi lại sự kiện này:trong bài " <b>Chết đói</b>":


"V« phóc thay Nam -Định - Thái Bình
<i>Ai làm cơ cận ,giÕt sinh linh</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Vũ Cao thờng nói với Cơi Vị : "Con có hai ngời chú, một ngời chú ruột là Vũ Văn Tộ và một ngời
chú thơ là Côi Vị!" TuyVũ Cao chỉ sống bên chú 6-7 năm thôi, nhng ông đã học đợc nhiều ở ngời chú
của mình về t cách đạo đức, về lối sống, về vốn chữ Hán và đặc biệt là nghệ thuật làm thơ. Tất nhiên
Côi Vị cũng học lại ở ngời cháu của mình về vốn chữ Pháp. Mỗi khi có dịp, hai chú cháu thờng trao
đổi, xớng hoạ thơ với nhau rt tõm c.


- Hoạ thơ "<i><b>Ngày giỗ song thân</b></i>":


<i><b>Côi Vị</b></i>:


"Ngh n hai thõn di sui vng
<i> Lòng con nh thể nấm mồ hoang</i>


<i>Cù lao nghĩa cả tầy non biển</i>
<i>Báo đáp ơn sâu chẳng tấc gang</i>
<i>Mộng mị khó tìm ra bóng vía</i>
<i>Thời gian cịn xố cả dong quang</i>
<i>Mỗi năm tháng chạp bày ra cúng</i>
<i>Ngơ ngác con nhìn ngọn khói nhang!"</i>


(1943)


<i><b>Vị Cao</b></i>:


<i>Hơm nọ trên ni cũng đốt vàng,</i>
<i>Cỗ làm to lắm,chén tan hoang</i>
<i>Gà non một mái hầm niêu đất</i>
<i>Lợn nhỡ đơi giị luộc chảo gang</i>
<i>Hơng mới loe loe vừa cháy hết</i>
<i>Miệng đà lem lém sắp xơi quang</i>


<i>Cịn dăm hơm nữa chiều hai tám</i>
<i>Lại thy trờn bn ỏnh la nhang!"</i>


(1943)
Hoạ thơ "Mắng khỉ":


<i><b>Côi Vị</b></i>:


<i>"Ai bảo rằng mi tổ giống ngời,</i>
<i>Tổ mi là khỉ đó tiều ơi!...</i>
<i>Nỡ đem màu đỏ tơ sau đít</i>
<i>Dốu mỏ, nhe răng đến nực cời</i>
<i>Con nỡm kêu gì, kêu khẹc khẹc</i>
<i>Bú dù hay nhảy nhảy choi choi</i>
<i>Lại cịn dở thói trăng hoa na</i>
<i>Gói dỏi lõu ngy tht xu chi!"</i>


(Thái Bình- 1942)


<i><b>Vũ Cao</b></i>:


<i>"Ta quyết rằng ta tổ giống ngời</i>
<i>Hỡi loài con cháu của ta ơi!...</i>
<i>Ngời bơi mơi má ,ta bơi đít</i>
<i>Họ vểnh râu mày, tớ vểnh đuôi.</i>
<i>Hễ đợc mồi ngon là phải nhảy</i>
<i>Cịn hơn đồ nhãi lại hay choi.</i>
<i>Ơng khơng lịch sự lm chi ht,</i>
<i>ễng nga thỡ ụng gói gói chi!"</i>



(Hà Đông- 1942)


<i><b>Vợ than Tết</b></i> <b>: </b>Tết sắp đến, xung quanh nhộn nhịp chuẩn bịđón Tết. Riêng Cơi Vị chỉ
loay hoay tìm lời, tìm ý cho thơ, chẳng để ý gì cả. Thấy vậy, bà vợ phàn nàn,ơng liền làm
bài này :


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i>Tết đến sau lng đã biết cha?</i>
<i>Vất cái nghiên đi tìm chĩnh gạo</i>
<i>Thu ngịi bút lại kiếm đồng xu</i>
<i>Câu thơ đã dẻo đâu bằng bánh</i>
<i>Thịt mỡ còn thơm gấp mấy thơ</i>
<i>Chữ nghĩa chẳng mài ra Tết đợc </i>
<i>Trời ơi! Tôi chán cảnh nhà thơ</i>


Làm xong, ông bỏ phongbì gửi cho cháu ruột của mình là nhà thơ Vũ Cao, lúc đó đang ở Hà
đơng. Một tuần sau, ơng nhận đợc th phúc đap. Đầu th có mấy lời phi lộ :"Tha thím, ngồi đời, cháu rất
kính trọng thím , nhng trong thơ, cháu xin phép đợc "cãi"lại thím giúp chú:


<i>Tơi cứ lơ mơ, cứ lơ mơ</i>
<i>Tết đến thì sao ,rõ chán cha</i>
<i>Nghiên vẫn đeo đai thì ứa gạo</i>
<i>Bút cịn dan díu chẳng vơi xu</i>
<i>Thịt ăn nặng xác, thêm lòng tục</i>
<i>Pháo nổ ran trời rực ý thơ</i>


<i>Rõ chỉ loanh quanh rồi lắm chuyện</i>
<i>Cũng đòi mang tiếng vợ nh th!</i>


Ông Côi Vị cời tủm tỉm :" "Thằng Chỉnh hãm thËt!"


(Vị Cao ë nhµ thêng gäi lµ ChØnh)


Cũng nhân ngày Tết ,Vũ Cao về thăm chú. Để thử tài chú, Vũ Cao đề nghị:"Th a chú, sấm,chớp,
gió, ma là cơng việc của Tạo hố. Mỗi hiện tợng thiên nhiên kì diệu này, xin chú làm cho một câu thơ,
nhng khơng đợc dùng chữ "sấm, chớp, gió, ma", song đọc lên ngời đọc vẫn hiểu đợc, mà hiểu đúng.
Với điều kiện: cháu đánh một que diêm, lửa cháy hết trên ngón tay, chú phải làm xong một câu. ..đợc
khơng chú?". Ơng Cơi Vị nhíu đơi lơng mày :" Đố chi mà khó vậy!" rồi ơng gật đầu chấp nhận. Vũ
Cao cầm diêm đánh xoè một cái, lửa bắt đầu cháy, anh giơ lên trớc mặt chú nói :" chớp". Ơng Cơi Vị
nhìn ánh lửa cháy trên chiếc que diêm cứ ngắn dần và sắp hết. Mặt ông đanh lại, thần kinh nh căng ra,
hai thái dơng giật giật. Vũ Cao vất mẩu diêm xuống đất vì nóng tay. Anh đắc chí vì tởng chắc chắn
phen này chú thua cuộc thì vừa lúc ơng Cơi Vị đọc:


"Ch©n trêi vơt loÐ bao tia s¸ng"


Vũ Cao ngạc nhiên, sửng sốt. Anh đánh que diêm thứ hai và giục:" Sấm! Chú đọc đi!" Ngọn lửa
sắp cháy hết, ông tập trung t tởng. Không đợi Vũ Cao vất que diêm xuống đất, ông đọc:


"Mặt đất ầm vang mấy tiếng rền"


Vũ Cao gật đầu tán thởng và bật tiếp que diêm thứ ba, nói to:" gió". Lần này thì khơng lâu, Cơi
Vị đã đọc:


"Cây muốn lặng thinh nào có đợc"


Vũ Cao vui vẻ bật que diêm cuối cùng, nói :"ma"
CơiVị nh dịng nớc đã khai thông, đọc luôn:
"<i><b>Biển đà ăm ắp lại đầy thêm</b></i>"


Vũ Cao chắp tay:" Cháu xin bái phục chú!" và kính cẩn rót một chén r ợu đầy bng đến trớc mặt
ơng Cơi Vị:" Ngày xn, cháu xin kính chúc chú :, sức khoẻ dồi dào , nguồn thơ lai láng nh chén rợu


nồng này.!" Côi Vị vốn không a rợu, từ chối. Vũ Cao phải khích chú:


"Sơng Vị nơn nao dịng chảy ngợc,
<i>Non Cơi chuếnh chống nhọn quay đờ</i>
<i>Ngời ta tục thế còn ham nốc</i>


<i>Bụng chú thơ đầy , vẫn phải pha</i>
<i> Thi tửu nên danh, đời mấy kẻ</i>
<i>Thơ xuông, thơ cũng quạnh hiu mà!</i>


Nể cháu, ông Côi Vị đỡ lấy chén rợu " khà" một cách khoan khối! Cả hai chú cháu cùng cời...
Một đêm đơng, khoảng giữa tháng chạp, hai chú cháu nằm đắp chung một chăn. Trăng đã lên
một con sào, ánh trăng chiếu qua cửa sổ vào tận giờng nằm của hai chú cháu. Cơi Vị quay sang phía
cháu, lay Vũ Cao lúc ấy đã thiu thiu ngủ và bảo :"Này cháu, từ trớc đến nay, các nhà thơ đều cảm hứng về
trăng thu, nên đã có nhiều bài thơ hay để lại, ví nh câu thơ của Hàn Mặc Tử:


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Cha thấy ai nói đến trăng đơng. Đêm nay, nằm ngắm trăng đơng, cháu hãy làm bốn câu thơ nói
về trăng đông , nhng tuyệt đối không đợc dùng tiếng "đông" đấy nhé! Suy nghĩ một lúc, Vũ Cao nói :
"Con xin đọc":


"Trăng ơi, nàng đứng ở khơng trung
<i>Riêng một mình ta ở góc phịng</i>
<i>Hãy xuống đây nằm cho đỡ lạnh</i>
<i>Xem nào, xem có thú hơn khơng!"</i>


<i>Hai chú cháu rì rầm suốt đêm không ngủ.Sáng hôm sau, bà Côi Vị tra hỏi lí do. Ơng</i>
<i>trình bày và xin lỗi vì q yêu chị Nguyệt- Hằng ở trên cung Quảng nên thơng chị lẻ loi cơ đơn,</i>
<i>cháu thì rủ nàng xuống" ngủ chung", chú thì khuyên:</i>


<i>"Chị Nguyệt ngủ đi, đừng thức nữa,</i>


<i>Cùng nhau tri kỉ đợi sang thu!"</i>


<i>Nghe xong, bà Côi Vị nguýt một cái rõ dài rồi trách:"Chú cháu ông chỉ đợc cái bộ </i>
<i>th-ơng vay, khóc mớn là giỏi thơi! Cịn tơi, ơng có thth-ơng khơng đấy?" Ơng Cơi V ch ci xo!</i>


<i>Một lần khác, ông Côi Vị khuyên Vũ Cao lấy vợ. Vũ Cao xin khất và làm bài "Cha lấy</i>
<i>vợ":</i>


<i> "</i> <i>Ly v, tri i!... Ly vợ ?</i>
<i>Xem nào râu mép có hay cha?</i>
<i>Tiền đâu kiếm nổi nuôi thân xác</i>
<i>Bút chỉ đào xuông mấy cẳng thơ</i>
<i>Vả phờng quỉ cái xem vơ số</i>
<i>Mà món tiên nga chẳng có thừa</i>
<i>Nguyệt lão thơng ai thì cứ việc.</i>
<i>Phanh dùm cho cháu chuyện xe tơ!"</i>


<i>Xem xong, ông Côi Vị bảo :"Cháu học tiếng Pháp nhiều quá ,nên trong thơ Việt lại có cả</i>
<i>tiếng Tây. Chữ "phanh"theo chú hiểu có nghĩa là hãm lại, dừng lại. Cháu định cha lấy hay định</i>
<i>không lấy?Nếu định "cha lấy" thì nên thay chữ "phanh dùm" bằng chữ "màn màn"có sát ý hơn</i>
<i>khơng? mà lại rất Việt nam nữa!". Vũ Cao phải chịu là chú giỏi.</i>


<i>Cho nên, mỗi khi phải xa chú, Vũ Cao thờng bổi hổi, bồi hồi;</i>
<i>"Nhớ lắm, chiều nay lại nhớ rồi,</i>


<i>Nh nh thơ ấy ở xa xôi,</i>
<i>Tơ vơng man mác bầu tâm sự.</i>
<i>Bút nhặt say sa mớ chuyện đời</i>
<i>Sóng bạc lung linh dịng nớc Vị</i>
<i>Mây vàng thấp thống ngọn non Cơi</i>


<i>Ai thơng, ai nhớ lịng tơi nhỉ,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<i><b>M </b><b>Ụ</b><b>C L </b><b></b><b>C</b></i>


<b>Thn ng Phm Nht Cng (ễNG cNG)</b>


<b>Nhà thơ Côi Vị</b>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×