Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

khéo tay môn công nghệ-6.4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.54 KB, 99 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
<b>VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ</b>


<b>CHUYÊN ĐỀ </b>



<b>NĂNG LƯỢNG</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>MỤC LỤC</b>


<b>PHẦN I: </b>


<b>TIÊU THỤ NĂNG LƯỢNG ĐẾN NĂM 2050</b>...2


<b>1.1. Tiêu thụ năng lượng</b>...2


<b>1.2. Dự báo tiêu thụ năng lượng đến năm 2050</b>...8


<b>PHẦN II: CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG ĐẾN NĂM 2050</b>...12


<b>2.1. Năng lượng không tái sinh</b>...12


<b>2.2. Năng lượng tái sinh</b>...19


<b>2.3. Xu hướng các công nghệ năng lượng</b>...37


<b>PHẦN III: CHIẾN LƯỢC – CHÍNH SÁCH NĂNG LƯỢNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC</b>...45


<b>3.1. Chiến lược năng lượng của Mỹ</b>...45


<b>3.2. Chiến lược năng lượng của Nga</b>...54



<b>3.3. Chiến lược năng lượng của Trung Quốc</b>...57


<b>3.4. Chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng mới của Nhật Bản</b>...65


<b>3.5. Chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn 2004-2010 và định hướng đến 2020</b>70
<i><b>3.5.1. Quan điểm phát triển</b></i>...70


<i><b>3.5.2. Mục tiêu phát triển</b></i>...71


<i><b>3.5.3. Chiến lược phát triển</b></i>...71


<i><b>3.5.4. Giải pháp thực hiện</b></i>...75


<b>3.6. Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hồ bình đến năm 2020 của Việt </b>
<b>Nam</b>...77


<i><b>3.6.1. Quan điểm chỉ đạo</b></i>...77


<i><b>3.6.2. Mục tiêu</b></i>...78


<i><b>3.6.3. Nhiệm vụ</b></i>...82


<i><b>3.6.4. Giải pháp thực hiện Chiến lược</b></i>...89


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>PHẦN I</b>


<b>TIÊU THỤ NĂNG LƯỢNG ĐẾN NĂM 2050</b>
<b>1.1. Tiêu thụ năng lượng</b>


Trong hơn bốn năm, từ 2002 cho đến 2006, giá dầu đã tăng từ 20 cho đến gần 80


USD một thùng. Giá dầu thế giới lại có xu hướng tăng và đã vượt ngưỡng 61 USD/thùng
hôm 23/03/2007. Việc gia tăng vượt mức này đã gây nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển,
đặc biệt đối với cho các nước đang phát triển.


Năm 1999, giá dầu thơ trung bình 10 USD/thùng. Đến năm 2006, giá dầu lên đến quá
75 USD/thùng. Tương tự, giá khí đốt tăng từ 1 USD lên quá 15USD. Tuy nhiên, nếu kể
lạm phát thì giá dầu trong thập niên 80 cịn cao hơn hiện nay. Tính theo đồng USD năm
2003 thì giá dầu năm 1980 có lúc lên q 100 USD/thùng. Tuy vậy, nếu so sánh với giá
bình quân hai năm cao điểm 1980-1981 (65 USD/thùng tính theo giá năm 2004), thì giá
dầu hiện nay là khá cao. Theo đà này, khả năng 100 USD/thùng dầu sẽ không xa và nó sẽ
tác động lớn đến nền kinh tế thế giới. Thiếu năng lượng sẽ là một trong những quan tâm
hàng đầu đối với các nhà lãnh đạo của các quốc gia và các chuyên gia kinh tế trong thời
gian tới.


Mặc dù giá cao sẽ làm giảm tiêu dùng, điều này đã thể hiện rõ ở Mỹ. Nếu tính dựa
theo việc tiêu dùng dầu để tạo ra một đồng USD cố định, thì việc dùng ở Mỹ đã giảm
xuống một nửa tính từ năm 1960 đến nay và giảm mạnh nhất từ năm 1980 khi giá dầu
tăng. Tuy nhiên, do phát triển kinh tế, tổng lượng dầu cần cho nhu cầu vẫn tăng. So với
năm 1980, hiện nay tổng lượng dầu dùng ở Mỹ tăng 17%, không đáng kể so với GDP
tăng gấp đôi. Các nước khác đặc biệt là Ấn Độ và Trung Quốc, do chính sách bù lỗ trực
tiếp vào tiêu thụ dầu hoặc gián tiếp qua giá điện, hoặc do tốc độ phát triển kinh tế cao,
nhu cầu dầu tăng lên nhanh chóng. Trung Quốc tăng lượng tiêu thụ dầu từ 6% tổng sử
dụng dầu của thế giới lên 8% trong 3 năm từ năm 2001 đến 2004. Mỹ hiện nay dùng
khoảng 25% tổng nhu cầu dầu mỏ của thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

lượng dùng kể cả than đá cũng đã tăng trong thời gian qua. Gần 50% số lượng dầu thô là
dùng vào việc chuyên chở như xe, máy bay... 50% là dùng trong công nghiệp hóa học.
Cho đến nay, cơn sốt dầu vẫn khơng có lối thốt. Nước Mỹ, với tổng số dân chưa quá
5% tổng số dân của thế giới lại đang dùng tới 25% số lượng dầu thô sản xuất của thế
giới. Trong khi đó, hiện tại lượng dầu nước Mỹ sản xuất chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu


nội địa.


Giá dầu tăng theo cái gọi là “Vượt quá năng lực sản xuất” (Excess Production
Capacity). Đây là sự sai biệt giữa khả năng sản xuất và số lượng tiêu thụ. Giữa thập niên
80 thì khoảng cách này khoảng 10 triệu thùng mỗi ngày. Đến cuối thập niên 90 thì cịn
khoảng 2 triệu thùng. Khoảng cách này đến nay thì hầu như khơng cịn nữa. Với tính
cách hàng hóa của nó, giá dầu và khí sẽ theo thị trường để lên xuống.


Năm 2005, sự vượt quá khả năng sản xuất còn dưới 2%. Thế giới hiện nay sản xuất
khoảng 84 triệu thùng mỗi ngày. Thông thường các chuyên gia chia lực lượng sản xuất
dầu làm hai khối: các nước OPEC, các nước khơng thuộc OPEC. Trong các nước khơng
thuộc OPEC lại cịn có thể chia làm hai: Các nước thuộc Liên Xơ cũ (FSU – Former
Soviet Union) và các nước còn lại.


Đặc điểm sản xuất của các nước không thuộc OPEC là khơng có khả năng tăng sản
xuất dầu nhiều. Hiện nay sản lượng của các nước này khoảng 46 triệu thùng mỗi ngày.
Đến năm 2010, mức này sẽ tăng lên 52 triệu thùng. Mức tăng trưởng dưới 1% mỗi năm.
Trong thời gian tới, các nước OPEC sẽ phải tăng sản xuất khoảng 2,7% mỗi năm để đáp
ứng nhu cầu cho toàn thế giới. Sự tăng sản xuất này là một thách thức lớn đối với các
nước OPEC cũng như sức mạnh của các nước này đối với thị trường dầu mỏ nói chung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

20% sản luợng của thế giới tập trung ở 14 mỏ. Rộng hơn, sản lượng của 114 mỏ, tuy chỉ
là 3% trong số các mỏ lớn nhưng cung cấp gần 50% tổng số.


Với sức sản xuất như vậy, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng dầu mỏ sẽ là một vấn đề nan
giải cho lãnh đạo của các quốc gia. Với cung không đáp ứng được cầu, giá dầu sẽ cịn lên
cao hơn nữa. Cũng vì thế, giải quyết vấn đề năng lượng hay đúng hơn bảo đảm cho quốc
gia mình có đủ năng lượng để phát triển sẽ là một mục tiêu quan trọng trong chính sách
đối ngoại của các nước lớn đang phải nhập khẩu dầu; cụ thể là Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản… Dù có công bố hay không, chiến tranh tại Iraq cũng như chính sách của Mỹ ở


Trung Đơng, chính sách của Trung Quốc tại châu Phi… cũng khơng nằm ngồi mục tiêu
này.


Trên tồn thế giới, trữ lượng dầu có thể khai thác (Recoverable Reserve) là khoảng
1200 tỷ thùng. Với mức tiêu dùng như hiện nay, trữ lượng này dùng được khoảng 40
năm. Trong thập niên 50, Nhà địa chất học Mỹ M. King Hubbert đưa ra quan điểm
“Đỉnh Sản Xuất” (Peak Oil) của dầu. Sau khi đạt tới đỉnh sản xuất, mức sản xuất sẽ giảm
dần và sẽ ngưng trong vòng 20-30 năm sau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Điều làm cho bài toán tính trữ lượng thêm khó khăn là dù muốn hay không, trữ lượng,
tuy dựa trên nhiều dữ liệu khoa học nhưng vẫn có nhiều tính chất “đốn mị”. Gần đây,
một bê bối lớn nổ tung trong làng dầu khí. Trữ lượng thật sự của Công ty Shell bị đánh
giá thấp hơn giá trị trong sổ sách. Trong khi đó, tuy các cơng ty dầu đầu tư cho cơng tác
tìm kiếm có tăng nhưng trong 3 năm gần đây, cũng khơng tìm được vỉa dầu nào thật lớn.
Những vỉa lớn tìm được ở Angola, Nigeria, Brazil... trữ lượng đều dưới 1 tỷ thùng. Ngay
cả vùng bảo tồn sinh thái ở Bắc Cực ANWR trên Alaska, trữ lượng tiên đoán cũng chỉ từ
6-11 tỷ thùng, nghĩa là cũng chỉ đủ cho mình nước Mỹ dùng trong vịng một hai năm
tính theo độ tiêu dùng hiện thời. Mỗi năm, nhu cầu tiêu dùng dầu tăng độ 2%, cộng với
số lượng tiêu dùng khoảng 2% của tổng số dự trữ. Để tiến đến tình trạng cân bằng cho
cung và cầu, mỗi năm ngành dầu khí của thế giới phải khám phá ra 48 tỷ thùng dầu mới,
tức là 4-8 lần số dầu tại ANWR. Đây có thể là một chuyện khơng tưởng.


Tương lai giá dầu sẽ đi về đâu? Đến năm 2025, các chuyên gia tính rằng sức tiêu dung
của thế giới sẽ lên đến 118 triệu thùng mỗi ngày. Đây thật sự sẽ là một cơn sóng thần cho
cả nhân loại. Cơn sóng thần này sẽ đến làm 3 đợt. Chúng ta đang ở trên đỉnh của đợt đầu.
Đây là đợt nhỏ nhất, làn sóng báo nguy. Đợt hai sẽ mạnh hơn, đến quãng năm
2009-2010. Đây là lúc các nước không thuộc OPEC đạt đến đỉnh sản xuất dầu. Sau thời điểm
này, sức sản xuất của họ sẽ giảm dần. Tuy nhiên các nước này sẽ tiếp tục sản xuất trong
một thời gian nữa. Sau đó nữa là đợt cuối cùng. Đây cũng là đợt mãnh liệt nhất. Lúc đó
các nước OPEC sẽ đạt đến đỉnh sản xuất của chính họ. Sau năm 2020, sản lượng dầu sẽ


giảm dần. Dĩ nhiên viễn cảnh thiếu dầu sẽ là một nỗi kinh hoàng đối với nhân loại. Chiến
tranh, nạn đói, bệnh tật… sẽ lan tràn. Nhưng có lẽ đây là điều mà nhân loại khó tránh
khỏi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

tiến bộ của khoa học, tin học, Internet, Quả đất thay vì trịn đã trở thành phẳng (Flat Earth).
Trên 6 tỷ người, ai cũng muốn cuộc sống văn minh với đủ những tiện nghi hiện dại. Hiện
nay mỗi năm bình quân, một người Mỹ dùng 30 thùng dầu, mỗi người Trung Quốc dùng
1,7 thùng, người Ấn Độ dùng 0,7 thùng. Với số xe hơi mà dân Trung Quốc và dân các
nước đang phát triển mua, thì liệu chúng ta có thể sản xuất năng lượng đủ cho hơn sáu tỷ
người muốn dùng 100 triệu TV, 600 triệu xe hơi, 350 triệu máy vi tính khơng. Số lượng
tiêu dùng ở các nước đang phát triển tăng rất nhanh. Trong 10 năm qua, trong khi sự tiêu
dùng của các nước châu Âu chỉ tăng 18%, các nước đang phát triển tăng gấp đôi. Trường
hợp cụ thể của Trung Quốc, trước khi hiện đại hóa, năm 1965, mỗi ngày Trung Quốc dùng
200.000 thùng dầu. Đến thập niên 80, mức tiêu dùng lên đến hơn 10 lần, 2 triệu thùng.
Năm 2025, dự tính mức này sẽ lên đến 20 triệu thùng mỗi ngày. Tình trạng tiêu thụ của
các nước đang phát triển khác như Ấn Độ cũng tương tự (Bảng 1).


Ngồi tương phản giữa giầu và nghèo, dầu khí cịn mang sự tương phản giữa mới và
cũ. Nhu cầu thì mới, mỗi năm có bao nhiêu triệu người mới mua xe hơi lần đầu, mới gia
nhập đẳng cấp những dân sử dụng năng lượng nhiều. Trong khi đó, những mỏ dầu thật
xưa, như mỏ Ghawar ở Saudi, như chiếc xe bò già, tuy đã hơn 50 tuổi, nhưng vẫn cọc
cạch sản xuất cho thế giới. 95% tổng sản lượng đến từ những mỏ 25 tuổi hay già hơn.


Năm 2005, trong cơn sốt dầu khí, khi giá dầu lên quá 58USD một thùng, một nhà
phân tích làm việc ở cơng ty Goldman Sachs tuyên bố là giá này sẽ lên quá 105 USD
một thùng. Nhiều nhà nghiên cứu dự đoán đến năm 2015, giá dầu sẽ lên đến 380USD
một thùng.


Bảng 1. Tiêu thụ dầu trên thế giới (Triệu thùng/ngày)



<b>2002</b> <b>2020</b>


OECD Bắc Mỹ 22.6 28.7


Mỹ & Canada 20.6 25.8


Mexico 2.0 2.9


OECD châu Âu 14.5 16.3


OECD Thái Bình Dương 8.4 9.4


OECD châu Á 7.5 8.3


Ôxtrâylia 0.9 1.1


Các nước OECD 45.4 54.4


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nga 2.7 3.6


Các nước khác 2.0 3.0


Trung Quốc 5.2 10.6


Inđônêxia 1.2 2.1


Ấn Độ 2.5 4.5


Các nước châu Á khác 3.9 7.0



Mỹ Latinh 4.5 6.8


Brazil 1.8 2.9


Các nước khác 2.7 3.9


Châu Phi 2.4 4.4


Trung Đông 4.3 6.8


Các nước không thuộc OECD 28.6 48.8


Các nước Linh tinh khác 3.0 3.5


Thế giới 77.0 106.7


EU 13.6 15.3


60% trữ lượng dầu của thế giới nằm ở một số mỏ lớn nhất đã được phát hiện trước
năm 1970. Hiện nay, người ta chỉ phát hiện thêm được khoảng 10 tỷ thùng dầu/năm.
Ước tính, tốc độ gia tăng nhu cầu dầu thô hàng năm ở mức khiêm tốn: chỉ 1%/năm.
Như vậy, dữ liệu và dự báo nói trên cho thấy, dầu mỏ có khả năng đáp ứng được nhu cầu
của nhân loại không quá 50 năm. Riêng khí đốt triển vọng cịn khá hơn và vai trò ngày
càng tăng trong cán cân năng lượng thế giới.


Tỷ trọng điện nguyên tử trong cân bằng năng lượng quốc gia ở các nước châu Âu và
Mỹ, trước đây chiếm tỷ trọng khá lớn, nhưng gần đây do đòi hỏi về bảo vệ sinh thái và
chính trị, tỷ trọng này đã khơng tăng thêm. Chính phủ Thụy Điển đã có dự kiến đến năm
2010 sẽ đóng cửa các nhà máy điện ngun tử. Đức cũng đã có chương trình đình chỉ
phát triển năng lượng hạt nhân. Tại Mỹ, từ năm 1978 đã khơng có một đơn đặt hàng nào


về xây dựng nhà máy điện nguyên tử. Đối với hầu hết các nước có nhà máy điện nguyên
tử, vấn đề lớn, nghiêm trọng là bảo quản an toàn nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng và
chất thải phóng xạ, có hoạt tính kéo dài 1.000 năm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>1.2. Dự báo tiêu thụ năng lượng đến năm 2050</b>


<i>Bảng 2. Dự báo của IEA về cơ cấu cân bằng các nguồn năng lượng nhiên liệu</i>
<i>thế giới đến năm 2050, (%)</i>


<i><b>Nguồn nhiên liệu-năng lượng</b></i> <i><b>1990</b></i> <i><b>2000</b></i> <i><b>2020</b></i> <i><b>2050</b></i>


Toàn bộ 100 100 100 100


Dầu mỏ 43 36 36 20


Khí thiên nhiên 19 25 26 33


Than 28 27 24 21


Nhiên liệu hạt nhân 5 6 6 14


Các nguồn năng lượng tái tạo 5 6 8 12


Hiện nay công suất điện ở các nước phát triển cơ bản thoả mãn nhu cầu tiêu thụ. Tuy
nhiên, trong các thập niên tới, khi ngành điện cần đảm bảo những điều kiện sinh sống
bình thường cho nhiều tỷ người ở các nước đang phát triển thì các nhà máy điện hiện nay
chưa đủ hiệu quả, còn quá đắt và gây nhiều ô nhiễm cho thế giới. Để giải quyết vấn đề
này, chúng ta cần đẩy mạnh áp dụng các công nghệ tiên tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất
và sử dụng điện năng.



Những yếu tố tác động làm thay đổi cơ cấu phát triển điện năng, cũng như phát triển
năng lượng tồn cầu nói chung là: Sự gia tăng dân số; Sự thay đổi cơ cấu năng lượng sơ
cấp bởi trữ lượng có hạn của chúng; Vấn đề mơi trường tồn cầu đang nổi lên (Bảng 3).


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Bảng 3. Dự báo dân số và tiêu thụ năng lượng toàn cầu vào năm 2050, đơn vị 1000 tỷ</i>
<i>tấn đầu qui chuẩn:</i>


<i><b>Khu vực</b></i> <i><b>Tỷ người</b></i> <i><b>Mức thấp</b></i> <i><b>Mức trung</b></i> <i><b>Mức cao</b></i>


Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật 1,4 5,4 5,4 5,4


Các khu vực còn lại 8,4 8,1 16,3 24,4


Toàn thế giới 9,8 13,5 21,6 29,8


<i>Nhu cầu năng lượng thiết yếu</i>: theo dự báo, từ năm 2000 đến 2050, tỷ lệ tăng trưởng
GDP thế giới giảm xuống 1,7% năm. Nhu cầu năng lượng thiết yếu sẽ tăng trung bình
2,4% năm tại châu Á, trong khi dó lại giảm ở các nước G7 vì những tiến bộ trong cơng
nghệ tích trữ năng lượng. Trên toàn thế giới, lượng CO2 thải ra do sử dụng năng lượng sẽ


tăng 1,7 lần từ năm 2000-2050, tức khoảng 38,4 tỷ tấn năm 2050. 70% lượng tăng đến từ
châu Á và khu vực này sẽ tăng mức phát thải CO2 từ 24% thế giới năm 2000 lên 42%


năm 2050. Sau những năm 50, tác hại của mưa axít ở các nước Bắc Âu đã dần trở thành
một vấn đề làm người ta hết sức quan tâm. Ơxít sunphua (SO2), ơxít nitơ (NO2) trong


khí thải từ các nhà máy và ôtô của lục địa Châu Âu đã tạo ra các phản ứng hóa học trong
khơng khí, sau đó di chuyển về phía Bắc rồi tạo ra mưa axít làm tiêu trụi các cánh rừng,
tiêu diệt các sinh vật trong ao hồ, gây tác hại to lớn cho sản xuất nơng nghiệp. Hiện
tượng này, sau đó, liên tiếp xuất hiện ở khu vực Trung Âu cho đến tận khu vực Bắc Mỹ


và gần đây đã xuất hiện ở cả những khu vực công nghiệp tập trung của Trung Quốc.
Những loại khí như CO2 thải ra trong q trình đốt nhiên liệu hóa thạch là ngun nhân


lớn nhất cho vấn đề ấm lên của Trái đất. Khi nồng độ khí CO2 trong khơng khí tăng lên,


theo hiệu ứng nhà kính, thì nhiệt độ trên tồn Trái đất sẽ tăng dần lên, khi đó sẽ xuất hiện
những khu vực khí hậu thay đổi. Có nguy cơ thực vật bị ảnh hưởng, sản xuất nông
nghiệp bị tác động làm giảm sản lượng, cịn các vùng đất khơ cằn sẽ dần dần bị sa mạc
hóa.


Như vậy, tác hại do ơ nhiễm khơng khí đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia và lan ra
một khu vực rộng lớn. Đối sách phòng chống hiện tượng này là cần phải có sự hợp tác
của cộng đồng quốc tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

đà tăng này sẽ bị kìm hãm bởi các nhân tố như chi phí cao và giá than rẻ từ Trung Quốc
đến Mỹ.


Hiện nhiều nguồn năng lượng có thể phục hồi, như năng lượng địa nhiệt, nhiên liệu
sinh học hoặc năng lượng thủy triều, được dự đốn sẽ có bước nhảy vọt, và các loại năng
lượng tái sinh đến năm 2050 sẽ bắt đầu thách thức sự thống trị hiện nay của các loại
nhiên liệu hóa thạch. Năng lượng sinh học và thủy điện hiện được sử dụng nhiều nhất.


Ottmar Edenhofer, Nhà kinh tế hàng đầu của Viện Nghiên cứu tác động mơi trường
Potsdam của Đức (ICIR), nói: “Mỗi dạng năng lượng tái sinh đều có một tiềm năng công
nghệ lớn, song than đá vẫn hấp dẫn hơn, trừ phi nó bị hạn chế bởi các chính sách”. Ông
Edenhofer cho rằng, các năng lượng có thể phục hồi sẽ trở nên cạnh tranh vào cuối thế
kỷ này, chứ khơng phải tới tận năm 2050, trừ phi Chính phủ các nước tăng cường gây
sức ép về giá đối với việc sử dụng các loại nhiên liệu hóa thạch thơng qua áp dụng các
biện pháp phạt đối với việc thải khí gây hiệu ứng nhà kính.



<i>Bảng 4. Dự báo nhu cầu, sản xuất năng lượng thế giới và mức phát thải CO2</i> đến năm


2050


<b>Năm</b> <b>2000</b> <b>2025</b> <b>2050</b>


<i><b>Nhu cầu năng lượng thế giới (MT)</b></i> 8667 11710 14087


Các nước G7 3500 4045 4407


Các nước OECD khác 1185 1242 1282


Các nước châu Á 1575 3626 5157


Trung Quốc 723 1868 2672


Các nước khác không thuộc OECD 2407 2796 3241


<i><b>Sản xuất dầu thô thế giới (Mt)</b></i> 3550 4961 5326


Các nước OPEC 1453 3455 4662


Các nước ngồi OPEC 2097 1505 664


<i><b>Giá dầu(USD/thùng)</b></i> 103


<i><b>Khí thải CO</b><b>2</b><b> (100MtCO</b><b>2</b><b>)</b></i> 220 330 384


Châu Á 52 117 161



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

IEA đã đưa ra một kịch bản phát triển năng lượng thế giới trong 20 năm tới như sau
(Bảng 4):


Mức tiêu thụ năng lượng và mức CO2 (mặc dù Chính phủ các nước OECD đã có


những biện pháp tích cực về cắt giảm) do các cơng trình năng lượng thải ra tới năm 2010
sẽ cao hơn nhiều so với mức cho phép trong nghị định thư KYOTO.


90% lượng điện năng sẽ được sản xuất bằng nhiên liệu hoá thạch, yêu cầu năng lượng
sẽ tăng 57% (mỗi năm tăng 2%). Năm 2020 tỷ trọng dầu sẽ chiểm 40% toàn bộ nhiên
liệu hoá thạch khai thác được và mỗi ngày sẽ tiêu thụ khoảng 16 triệu tấn (mức tăng sản
lượng hàng năm là 1,9%). Năm 2010 sẽ khoảng 14 triệu tấn.


Nhu cầu năng lượng của các khu vực trên thế giới vẫn khác nhau như vậy, chỉ có nhu
cầu của các nước OECD sẽ giảm dần, còn ở các nước đang phát triển sẽ tăng lên tương
ứng.


Lượng dầu và khí nhập khẩu vào các nước OECD và các nước đang phát triển mạnh ở
châu Á sẽ liên tục tăng, đặc biệt là sau năm 2010.


Tốc độ tăng tiêu thụ khí mỗi năm 2,7% và tỷ trọng khí trong cân bằng năng lượng
trên thế giới sẽ tăng 22% hiện nay lên 26% năm 2020. Các nhà máy nhiệt điện mới với
chu trình hỗn hợp hiệu suất cao sẽ là khách hành chính sử dụng khối lượng khí tăng
thêm.


Nhịp độ tiêu thụ than sẽ tăng 1,7% mỗi năm, tỷ trọng than trong cân bằng năng lượng
sẽ giảm từ 26% năm 1997 xuống còn 22% vào năm 2020; 2/3 khối lượng tăng thêm sẽ
thuộc về Trung Quốc và Ấn Độ. Tiêu thụ điện năng sẽ tăng nhanh nhất, hơn 2,7%/năm.


Trong vòng 12 năm tới, ASEAN cần đầu tư ít nhất 100tỷ USD để phát triển ngành


điện. ASEAN cần tăng công suất từ mức 62 nghìn MW trong năm 2002 lên 116 nghìn
MW vào năm 2010 và 163 nghìn MW vào năm 2015. Theo tính tốn lý thuyết trung
bình, để tăng 1 MW cần đầu tư 1triệu USD. Ngoài ra ASEAN sẽ triển khai dự án đường
ống khí đốt xuyên ASEAN nhằm cung cấp khí ổn định cho các nhà máy phát điện.


<b>PHẦN II</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>2.1. Năng lượng không tái sinh</b>


Năng lượng đang sử dụng trên thế giới hiện nay nếu quy ra dầu là gần 8, 5 tỷ tấn,
trong đó 40% là dầu, than khoảng 26% và khí thiên nhiên khoảng 24%. Lượng tiêu thụ
năng lượng khác nhau tuỳ theo mỗi quốc gia. Ở các nước đang phát triển, cũng có nhiều
nước mà lượng tiêu thụ năng lượng bình quân trên đầu người thấp hơn 1/10 so với ở các
nước phát triển. Nhưng sự gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát
triển làm người ta dự báo rằng trong thời gian tới nhu cầu năng lượng của thế giới tăng
lên sẽ tập trung chủ yếu ở các quốc gia đang phát triển (Bảng 5).


<i>Bảng 5. Trữ lượng các nguồn năng lượng không tái sinh trên thế giới năm 2001</i>


<i><b>Đơn vị</b></i> <i><b>Giá trung bình</b></i>
<i><b>(đối với trữ</b></i>
<i><b>lượng có thể</b></i>


<i><b>khai thác)</b></i>


<i><b>Các nguồn</b></i>
<i><b>được cho</b></i>


<i><b>là có thể</b></i>
<i><b>khai thác</b></i>



<i><b>Sản</b></i>
<i><b>xuất</b></i>
<i><b>năm</b></i>
<i><b>2001</b></i>


<i><b>Thời gian tồn</b></i>
<i><b>tại (dựa trên</b></i>
<i><b>trữ lượng và</b></i>
<i><b>sản xuất)</b></i>


Than Mt 39 USD/tấn 501172 2248 223


Dầu lửa Mt 25 USD/thùng 143000 3585 40


Khí gaz tự
nhiên


Tỷ m3 <sub>155080</sub> <sub>2464</sub> <sub>63</sub>


Uranium Triệu


tấn


80 USD/kg 2516 37 68


Tổng dân số thế giới năm 1996 vào khoảng 5,8 tỷ người, nhưng được dự báo đến năm
2020 là 8 tỷ và sẽ đạt tới 9,8 tỷ vào năm 2050, trong đó dân số của các nước đang phát
triển sẽ chiếm khoảng 80%. Giả sử, tiêu thụ năng lượng của các nước đang phát triển sẽ
tăng gấp 2 lần so với hiện nay thì chúng ta sẽ phải đối mặt với một thời kỳ rất khó khăn


trong việc đáp ứng cung và cầu của năng lượng hoá thạch mà chủ yếu là dầu mỏ dễ sử
dụng. Nguồn tài nguyên có hạn này đến một ngày nào đó sẽ rơi vào tình trạng cạn kiệt.


<i><b>Các năng lượng hố thạch</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Dầu mỏ là một dạng quan trọng của nhiên liệu hoá thạch, tập trung chủ yếu ở khu vực
Trung Đông. Người ta dự báo rằng trong tương lai gần, dầu mỏ vốn được xem là một tài
nguyên chiến lược về năng lượng sẽ trở nên khan hiếm. Do vậy chúng ta khơng nên sử
dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên của nước mình mà nên giữ gìn và sử dụng một cách
thận trọng.


Nhiên liệu hoá thạch như dầu, than, khí tự nhiên khi đốt cháy sẽ thải ra CO2, SO2,


NO2. Khi nồng độ của CO2 trong không khí tăng lên thì nhiệt độ Trái đất sẽ tăng lên.


Người ta dự đoán rằng nếu nhân loại cứ tiếp tục đốt các nhiên liệu hoá thạch như thế này
và khí CO2 vẫn tiếp tục tăng lên thì sau 100 năm, nhiệt độ trung bình của Trái đất sẽ tăng


lên 20<sub>C và gây ảnh hưởng rất lớn đối với Trái đất. Ngoài ra, SO</sub>


2, NO2 là nguyên nhân


tạo ra hiện tượng mưa axít gây ra những tác hại to lớn đối với động thực vật trên Trái đất.
<i><b>Năng lượng hố thạch cịn có thể sử dụng bao lâu nữa</b></i>


Cho đến nay, con người đã sử dụng một lượng rất lớn nhiên liệu hoá thạch như than
đá và dầu để đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế và hiện đang phải phụ thuộc vào
nguồn nhiên liệu hoá thạch, chiếm khoảng 80% nguồn cung cấp năng lượng sơ cấp.
Theo Bộ Năng lượng Mỹ, nhu cầu sử dụng dầu mỏ của thế giới đến năm 2025 sẽ tăng
thêm khoảng 35%. Hai quốc gia được dự báo sẽ trở thành các cường quốc kinh tế trong


tương lai là Trung Quốc và Ấn Độ là nguyên nhân khiến nhu cầu sử dụng dầu mỏ tăng
vọt như vậy. Nhịp độ tiêu thụ than sẽ tăng 1,7% mỗi năm, tỷ trọng than trong cân bằng
năng lượng sẽ giảm từ 26% năm 1997 xuống còn 22% vào năm 2020; 2/3 khối lượng
tăng thêm sẽ thuộc về Trung Quốc và Ấn Độ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

trong một thời kỳ sớm hơn so với số năm có thể khai thác, làm giảm khả năng duy trì
sản lượng theo nhu cầu. Điều đó có nghĩa là chúng ta lo lắng cả về việc tăng giá lẫn việc
không đảm bảo được sản lượng cần thiết. Hơn nữa, hai phần ba tài nguyên dầu lại tập
trung chủ yếu ở khu vực Trung Đơng, khu vực vốn khơng ổn định về chính trị.


Số năm có thể khai thác của khí tự nhiên dự đốn là khoảng 60 năm, số năm cịn có
thể khai thác than là khoảng 230 năm. Tài nguyên khí tự nhiên, so với tài nguyên dầu có
ưu điểm là có thể đảm bảo được một lượng nhất định trong khu vực Đông Nam Á và
thời gian khai thác cũng lâu hơn. Thực tế là gần 70% trữ lượng được đảm bảo phụ thuộc
vào khu vực Trung Đông và Liên Xơ cũ, khơng thể khơng tính đến những tác động và
ảnh hưởng của tình hình quốc tế.


<i><b>Năng lượng nguyên tử</b></i>


Dạng năng lượng thay thế cho nhiên liệu hoá thạch là năng lượng Mặt trời và năng
lượng từ sức gió. Các dạng năng lượng mới này cần phải phát triển, khai thác để sử dụng.
Tuy nhiên do giá thành cao và cần một diện tích lớn nên các dạng năng lượng này chỉ
cung cấp được 10% trong tổng số năng lượng cần thiết. Chính vì vậy, năng lượng mà
nhân loại có thể sử dụng lâu dài trong thời gian tới phải dựa vào năng lượng nguyên tử.
Năng lượng nguyên tử là năng lượng phát sinh do sự phân hạch của uranium, là món quà
quý giá mà thiên nhiên tặng cho con người. Chúng ta phải sử dụng món quà này vào mục
đích hồ bình, an tồn và cần coi đó như một nguồn năng lượng quý giá (Bảng 6).


Bảng 6. Các lò phản ứng hạt nhân trên thế giới tính đến thời điểm 2005-2007
<b>Phát điện</b>



<b>ngun tử</b>
<b>(2005)</b>


<b>Lị phản ứng</b>
<b>có khả năng</b>


<b>hoạt động</b>
<b>(1/2007)</b>
<b>Số lò</b>
<b>đang xây</b>
<b>dựng</b>
<b>(1/2007)</b>
<b>Số lò</b>
<b>theo kế</b>
<b>hoạch </b>
<b>(1/2007)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>lượn</i>
<i>g</i>
<i>điện</i>
<i>g</i> <i>(Mwe</i>
<i>)</i>
Áchentin
a


6.4 6.9 2 935 1 692 0 0 1 700 135


Ácmenia 2.5 43 1 376 0 0 0 0 1 1.00



0


51


Bỉ 45.3 56 7 5728 0 0 0 0 0 0 1079


Brazil 9.9 2.5 2 1901 0 0 1 124


5


4 400


0


338


Bulgari 17.3 44 2 1906 0 0 2 190


0


0 0 255


Canada 86.8 15 18 12595 2 154


0


2 200


0



0 0 1836


Trung
Quốc


50.3 2.0 10 7587 5 417


0
13 129
20
50 358
80
1454


Đài Loan 38.4 20 6 4884 2 260


0


0 0 0 0 906


CH Séc 23.3 31 6 3472 0 0 0 0 2 190


0


550


Ai Cập 0 0 0 0 0 0 0 0 1 600 0


Phần Lan 22.3 33 4 2696 1 160



0


0 0 0 0 472


Pháp 430.


9


79 59 63473 0 0 1 163


0
1 160
0
10368
Đức 154.
6


31 17 20303 0 0 0 0 0 0 3486


Hungary 13.0 37 4 1773 0 0 0 0 0 0 254


Ấn Độ 15.7 2.8 16 3577 7 317


8
4 280
0
15 111
00
491
Inđônêxi


a


0 0 0 0 0 0 0 0 4 400


0


0


Iran 0 0 0 0 1 915 2 190


0


3 285


0


143


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Nhật Bản 280.
7


29 55 47700 2 228


5
11 149
45
1 110
0
8872
Kazakhst


an


0 0 0 0 0 0 0 0 1 300 0


Bắc
Triều
tiên


0 0 0 0 0 0 1 950 0 0 0


Hàn
Quốc


139.
3


45 20 17533 1 950 7 825


0


0 0 3037


Litva 10.3 70 1 1185 0 0 0 0 1 100


0


134


Mêxico 10.8 5.0 2 1310 0 0 0 0 2 200



0


257


Hà Lan 3.8 3.9 1 485 0 0 0 0 0 0 112


Pakistan 1.9 2.8 2 400 1 300 2 600 2 200


0


64


Rômani 5.1 8.6 1 655 1 655 0 0 3 199


5


92


Nga 137.


3


16 31 21743 3 265


0
8 960
0
18 216
00
3777



Slovakia 16.3 56 5 2064 0 0 2 840 0 0 299


Slovenia 5.6 42 1 696 0 0 0 0 1 100


0


145


Nam Phi 12.2 5.5 2 1842 0 0 1 165 24 400


0


332
Tây Ban


Nha


54.7 20 8 7442 0 0 0 0 0 0 1473


Thuỵ
Điển


69.5 45 10 8975 0 0 0 0 0 0 1468


Thuỵ Sỹ 22.1 32 5 3220 0 0 0 0 0 0 575


Thổ Nhĩ
Kỳ



0 0 0 0 0 0 3 450


0


0 0 0


Ukraina 83.3 49 15 13168 0 0 2 190


0


0 0 2003


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Mỹ 780.
5


19 103 98254 1 120


0
2 271
6
21 240
00
20050
Việt
Nam


0 0 0 0 0 0 0 0 2 200


0



0
<b>Thế giới</b> <b>262</b>


<b>6</b>


<b>16</b> <b>435</b> <b>368,8</b>
<b>60</b>
<b>28 22,7</b>
<b>35</b>
<b>64 68,8</b>
<b>61</b>
<b>15</b>
<b>8</b>
<b>124,</b>
<b>225</b>
<b>66,52</b>
<b>9</b>


<i>Sources: Reactor data: WNA to 29/01/2007, IAEA- for nuclear electricity production</i>
<i>& percentage of electricity (% e) 5/06</i>


Nhà máy điện nguyên tử là một nhà máy tạo ra điện năng ở quy mô công nghiệp, sử
dụng năng lượng thu được từ phản ứng hạt nhân. Các loại máy điện nguyên tử phổ biến
hiện nay thực tế là nhà máy nhiệt điện, chuyển tải nhiệt năng thu được từ phản ứng phân
hủy hạt nhân thành điện năng. Đa số thực hiện phản ứng dây chuyền có điều khiển trong
lị phản ứng ngun tử phân hủy hạt nhân với nguyên liệu ban đầu là đồng vị Uran 235
và sản phẩm thu được sau phản ứng thường là pluton, các neutron và năng lượng nhiệt
rất lớn. Nhiệt lượng này, theo hệ thống làm mát khép kín (để tránh tia phóng xạ rị rỉ ra
ngồi) qua các máy trao đổi nhiệt, đun sôi nước, tạo ra hơi nước ở áp suất cao làm quay
các turbine hơi nước, và do đó quay máy phát điện, sinh ra điện năng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

nghiệp thơng thường, do vậy có thể quản lý được một cách chặt chẽ, cất giữ và bảo quản
an toàn. Kinh nghiệm vận hành trong nửa thế kỉ qua chứng tỏ rằng điện nguyên tử rất an
toàn nếu vận hành đúng qui định và chế tạo theo đúng các thiết kế chuẩn. Công nghệ
điện hạt nhân là một trong những công nghệ cao nhất hiện nay và mang tính tổng hợp
liên ngành. Vì vậy làm chủ được công nghệ này sẽ tạo thời cơ cho việc nâng cao trình độ
cơng nghệ của quốc gia.


Tính đến năm 2006 trên tồn thế giới có tổng cộng 442 lị phản ứng hạt nhân hoạt
động tại 31 nước. Chúng tạo ra 17% sản lượng điện thế giới. Năm 2005 có tổng cộng
435 lò tại 30 nước trên thế giới, với tổng công suất 370.000 MW, chiếm 16% sản lượng
điện thế giới. Trên thế giới có khoảng 30 lị phản ứng đang được xây dựng, tương đương
6% công suất hiện nay và 60 lò nữa đã được lên kế hoạch xây dựng. Để có thể tăng nhu
cầu năng lượng hạt nhân từ 6% nhu cầu năng lượng hiện nay lên hơn 30% (gấp 18 lần
hiện nay) thì thế giới cần có khoảng 6000 lò phản ứng hạt nhân. Vào năm 2050, dân số
thế giới là gần 10 tỷ người, chủ yếu là các nước đang phát triển là Trung Quốc và Ấn Độ
và năng lượng hạt nhân vẫn là lựa chọn hàng đầu của các nước này.


Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) năm 2000 đã đưa ra 3 khả năng khác
nhau
(3


viriants) về tương lai của điện hạt nhân (hình 1):


<i>Hình 1. Tương lai điện hạt nhân</i>


<i>Khả năng 1:</i> Điện hạt nhân tăng đều đặn và đạt 1120 GW vào năm 2050.


<i>Khả năng 2:</i> Điện hạt nhân giảm dần và hoàn toàn kết thúc vào năm 2045.



</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Tiềm năng điện hạt nhân đang được đánh giá là rất lớn. IAEA và OECD công bố,
nguồn urani trên thế giới ước tính khoảng 35 triệu tấn, cao hơn nhiều so với mức 4,7 triệu
tấn như dự đoán trước đây. Tuy nhiên, chỉ với mức 4,7 triệu tấn urani, thế giới cũng đã
đủ để phát điện trong 85 năm và nếu sử dụng cơng nghệ lị phản ứng nhanh, thời gian
tiêu thụ lượng nguyên liệu hạt nhân này có thể kéo dài tới 2.500 năm.


Theo dự báo của IAEA và OECD, sản lượng điện hạt nhân toàn cầu năm 2025 sẽ tăng
khoảng 44% so với hiện nay, do đó, nhu cầu nguyên liệu hạt nhân hàng năm cũng tăng từ
80.000 - 100.000 tấn urani. Hiện nay, giá urani đã tăng gấp năm lần kể từ năm 2001 và
tổng chi phí thăm dị mỏ urani trung bình trên thế giới năm 2005 đã lên tới 200 triệu
USD, tăng 70 triệu USD so với năm 2004.


<b>2.2. Năng lượng tái sinh</b>


Trong những thập kỷ vừa qua, nhất là sau năm 1970 - những năm khủng hoảng dầu
lửa, công nghệ sử dụng năng lượng tái tạo đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể.


<i>Các nguồn năng lượng tái sinh hay năng lượng tái tạo bao gồm</i>: năng lượng Mặt trời,
năng lượng gió, năng lượng sinh khối, năng lượng địa nhiệt và một số nguồn năng
lượng khác. Hiện tại, các nguồn năng lượng này chưa làm thay đổi cơ bản cơ cấu cân
bằng năng lượng của thế giới. Các nước thuộc EU đã đặt nhiệm vụ đến năm 2010, sẽ
tăng tỷ trọng điện từ nguồn năng lượng tái tạo lên nhiều lần so với hiện nay.


Theo giới phân tích, nhu cầu thế giới về năng lượng Mặt trời, gió và các năng lượng
tái sinh khác sẽ tăng mạnh vào năm 2050, do lo ngại ngày một tăng về tình trạng Trái đất
ấm lên. Tuy nhiên, đà tăng này sẽ bị kìm hãm bởi các nhân tố như chi phí cao và giá than
rẻ từ Trung Quốc đến Mỹ.


Hiện nhiều nguồn năng lượng có thể phục hồi, như năng lượng địa nhiệt, nhiên liệu
sinh học hoặc năng lượng thủy triều, được dự đốn sẽ có bước nhảy vọt, và các loại năng


lượng tái sinh đến năm 2050 sẽ bắt đầu thách thức sự thống trị hiện nay của các loại
nhiên liệu hoá thạch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Xu thế phát triển là hướng tới các phương án sản
xuất được gọi là sản xuất năng lượng phi truyền thống. Hiện nay là thời điểm cao trào
năng lượng tái tạo được coi là sự lựa chọn sống còn duy nhất đối với nhân loại. Biểu đồ
đường cong các nguồn hoá thạch rẻ và urani sẽ giảm xuống. Mặt khác, đường cong nhu
cầu năng lượng sẽ tăng lên. Chỉ có năng lượng tái tạo mới có thể tránh được sự giao cắt
giữa hai đường cong cung và cầu trong tương lai gần. Nếu không sử dụng năng lượng tái
tạo đúng lúc và ở quy mô lớn, sẽ dẫn đến hậu quả khủng hoảng kinh tế toàn cầu và các
cuộc chiến tàn bạo. Chỉ với các nguồn năng lượng tái tạo mới có thể đạt được hiệu quả
năng lượng thực sự. Trong dây chuyền năng lượng thông thường trên thế giới, từ các mỏ
và giếng khoan đến khách hàng, đôi khi cách xa hơn 10.000 dặm, thất thoát năng lượng
là rất lớn. Chỉ có dây chuyền năng lượng ngắn, dựa trên cơ sở sử dụng các nguồn năng
lượng tái tạo nội sinh (tại chỗ) mới có thể giảm thất thốt năng lượng một cách cơ bản.


Năng lượng thông thường trên tồn thế giới bị chính trị chi phối, với phần lớn kinh phí
Nhà nước chi cho nghiên cứu và phát triển; với chi phí bảo vệ quốc phịng; với tài trợ
hàng năm là 300 tỷ USD và với các đạo luật năng lượng điều chỉnh chúng. Ngược lại,
năng lượng tái tạo khơng bị phân biệt về chính trị. Cho đến nay, gần 50 tỷ USD kinh phí
Nhà nước trên thế giới, đã được chi trong 20 năm gần đây để thúc đẩy phát triển năng
lượng tái tạo.


Tất cả các sự kiện và xu thế trên cho thấy, năng lượng tái tạo ưu việt hơn bất kỳ một
dạng năng lượng nào khác để thay thế cho các nguồn năng lượng cũ. Đó là nguồn thay
thế duy nhất, là giải pháp tổng thể, có khả năng giải quyết tồn bộ nhu cầu năng lượng.


<i><b>Địa nhiệt</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Theo một nghiên cứu mới đây của MIT, nếu tăng cường khai thác và ứng dụng địa


nhiệt thì có thể sản xuất ra một nguồn điện khơng nhỏ, có thể đáp ứng tới 10% nhu cầu
điện của Mỹ (cụ thể là cung cấp khoảng 100.000 MW vào năm 2050, đủ khả năng thay
thế 50.000 MW điện sản xuất bằng than, gây ô nhiễm mơi trường và 40.000 MW điện
hạt nhân mà Chính phủ Mỹ tin rằng các nhà máy hiện nay sẽ không còn hoạt động nữa
trong vòng 25 năm tới).


Cần biết rằng từ thập niên 70, Công nghệ hệ thống địa nhiệt cấp tiến (EGS-Enhanced
Geothermal System) đã thử nghiệm ở một số nơi tại Mỹ cũng như đang được triển khai
mạnh tại Pháp, Ơxtrâylia và để phát triển thành cơng hệ thống điện địa nhiệt thì cần sự hỗ
trợ từ cơng nghệ khoan dầu tiên tiến hiện nay. Tuy nhiên, khác với việc khoan các giếng
dầu thường ở những lớp đá mềm, Cơng nghệ EGS địi hỏi khoan xuống độ sâu 1,5km
đến 10km tới lớp đá rắn. Trong đó, quy trình sản xuất điện địa nhiệt là người ta sẽ cho
bơm nước xuống một cái giếng, rồi dẫn nước qua các khe nứt trên lớp đá nóng sau đó thu
hơi nước qua một giếng khác để sản xuất điện. Do phải khoan tìm nguồn địa nhiệt ở
những vùng đá cứng, nên chi phí cao gấp 2/3 lần so với khoan giếng dầu thông thường.


Kể từ năm 2006, Bộ Năng lượng Mỹ đã quyết định dành ra khoản ngân sách 24 triệu
USD cho nghiên cứu địa nhiệt, mức thấp nhất trong các chương trình nghiên cứu năng
lượng tái sinh lớn cấp liên bang và họ tin tưởng khi việc ứng dụng điện địa nhiệt đi vào
thực tiễn cuộc sống sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng về năng lượng của đất nước.


Thủ phủ của tiểu bang Idaho là nơi có hệ thống máy sưởi chung dùng địa nhiệt lâu đời
nhất ở nước Mỹ. Đường ống phân phối năng lượng địa nhiệt đầu tiên được xây dựng tại
đây cách đây hơn một thế kỷ. Sau khi bị lãng quên trong nhiều năm, dịch vụ cung cấp địa
nhiệt đang được chú ý trở lại, một phần là vì nó rẻ hơn các nguồn năng lượng khác đến
30%. Hiện nay ở Mỹ chỉ có khoảng vài thành phố khác có hệ thống cung cấp năng lượng
địa nhiệt, trong số đó có Thành phố Reno thuộc tiểu bang Nevada, và Thành phố
Susanville thuộc Tiểu bang California. Thành phố Klamath Falls thuộc Tiểu bang
Oregon, đã cho đặt những ống vịng truyền hơi nóng dưới lề đường các khu phố chính để
làm tan tuyết và băng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

năng lượng của Mỹ. Một thành viên của Ủy ban các chuyên gia soạn thảo báo cáo của
MIT, bà Susan Petty, một nhà tham vấn về địa nhiệt, nêu lên rằng những thành phố đang
dùng năng lượng địa nhiệt hiện nay chỉ mới là một thí dụ bước đầu về tiềm năng của
nguồn năng lượng này. Bà Petty nói: <i>“Đây không phải là một giải pháp kinh tế, ngoại</i>
<i>trừ ở một vài nơi có nguồn địa nhiệt ở rất gần mặt đất. Nhưng chúng ta có một số</i>
<i>phương pháp dễ dàng để từng bước cải tiến công nghệ hiện nay nhằm khai thác một</i>
<i>khối lượng hết sức lớn của loại năng lượng này để biến nó thành một giải pháp kinh tế.”</i>


Văn phòng của bà Petty tại Thành phố Seattle có treo những bản đồ được ghi chú bằng
nhiều màu sắc khác nhau. Những bản đồ này cho thấy ở đâu có những lớp đá nóng nằm
gần mặt đất. Ủy ban của MIT ủng hộ việc sử dụng 1 phương pháp mới có thể được áp
dụng gần như ở tất cả mọi nơi để khai thác nguồn sức nóng ở dưới lòng đất. Theo
phương pháp này, người ta bơm nước xuống sâu dưới đất, rồi khoan một cái giếng khác
ở gần đó để hút lên lại số nước này đã bị địa nhiệt nung sơi. Bà Petty nói rằng số hơi
nước được tạo ra theo lối này có thể được dùng để quay một máy tuabin điện trước khi
được bơm xuống đất trở lại để bắt đầu một chu kỳ sản xuất mới. Bà Petty giải thích:


<i>“Chúng ta sẽ có thể điều khiển dịng chảy để khơng bị mất số nước này. Đó là một bước</i>
<i>đột phá thật sự rất lớn, bởi vì rất nhiều khối đá có nhiệt độ cao tại Mỹ nằm ở miền tây</i>
<i>nước Mỹ, một vùng đôi khi rất khô cằn và rất khan hiếm nước.”</i>


Có hai phương pháp cơ bản để khai thác năng lượng địa nhiệt. Cách thứ nhất là khoan
thật sâu xuống đất để làm nước sôi ở nhiệt độ cực cao rồi dùng hơi nước để sản xuất
điện-đó là lối được bà Susan Petty chú ý. Cách thứ hai là dùng trực tiếp số nước có độ
nóng vừa phải có thể nằm dưới một thành phố hay một trung tâm doanh nghiệp. Cách
này dễ được áp dụng rộng rãi hơn.


Cơng trình nghiên cứu của Viện cơng nghệ MIT về tiềm năng của địa nhiệt đề nghị
khu vực công cộng đầu tư 800 triệu USD trong 15 năm tới để khởi động ngành năng


lượng này. Nhưng trong ngân sách Liên bang do Tổng thống George W Bush đề nghị
cho tài khóa 2008, khơng có ngân khoản nào dành cho cơng tác khảo sát địa nhiệt và
khoan thử hoặc phát triển những nguyên mẫu công nghệ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

này. Tại Ôxtrâylia, các nhà đầu tư tư nhân đang tự bỏ tiền ra để nghiên cứu khai thác
nguồn năng lượng địa nhiệt.


<i><b>Năng lượng Mặt trời </b></i>


Năng lượng Mặt trời là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát từ Mặt trời,
cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt hạ nguyên tử khác phóng ra từ hành tinh
này. Dòng năng lượng này sẽ tiếp tục phát ra cho đến khi phản ứng hạt nhân trên Mặt trời
hết nhiên liệu, vào khoảng 5 tỷ năm nữa.


Năng lượng bức xạ điện từ của Mặt trời tập trung tại vùng quang phổ nhìn thấy. Mỗi
giây trơi qua, Mặt trời giải phóng ra khơng gian xung quanh 3,827×1026<sub> Jule.</sub>


Năng lượng Mặt trời có thể cung cấp 5.000 MW điện (chiếm 0,15% tổng công suất
điện trên thế giới), với giá từ 20 đến 25 cent/kWh, hiệu suất là 37%. Một điều đáng chú ý
là ngoài việc sử dụng những tế bào quang điện PV (PhotoVoltaics), việc sử dụng những
hệ thống gương gắn liền với thiết bị Stirling đã góp phần khơng nhỏ vào việc tăng công
suất sử dụng năng lượng Mặt trời. Trong những hệ thống này, hàng nghìn gương chiếu
tập trung sức nóng Mặt trời vào Thiết bị thu Stirling, thiết bị này biến nhiệt năng thành
điện năng.


Vào năm 2003, mức sản xuất hệ thống biến năng lượng Mặt trời thành điện năng sử
dụng PV trên toàn thế giới đã đạt đến mức 700 MW. Mặc dù từ 30 năm trước, nhân loại
đã nghĩ đến nguồn năng lượng này, nhưng mãi đến năm 1999, các hệ thống PV có trên 1
tỷ Watt mới chính thức ra đời và cơng nghệ này đã thu lợi 5,2 tỷ USD cho các công ty
thiết kế..



Riêng trong vòng 5 năm trở lại đây, thị trường của công nghệ lắp đặt PV cũng tăng
khoảng 35% mỗi năm, trong đó, cơng nghệ sản xuất polysilicon (hóa chất chính trong
việc thiết lập các mạch điện) đang dẫn đầu với dự kiến mức tiêu thụ 30.000 tấn cho năm
2008. Hiện tại, Trung Quốc vừa đặt mua của Mỹ 5 tỷ tấn hóa chất này trong 10 năm tới,
trong khi đang tiến hành xây dựng song song hai nhà máy chế tạo polysilicon ở
Zhangjiagang nằm dọc theo sơng Hồng Hà với số vốn 600 triệu USD, dự kiến đi vào
sản xuất kể từ năm 2010.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Ôxtrâylia là quốc gia chưa chịu ký Nghị định thư Kyoto. Nhà máy này với công suất 154
MW sẽ giúp giảm bớt 400.000 tấn khí thải mỗi năm và sẽ đi vào hoạt động vào năm
2008. TS. Paul D. Maycock, Chủ tịch của PV Energy Systems, Mỹ đã tuyên bố: “<i>đây là</i>
<i>một loại năng lượng sạch, không gây tiếng ồn, không độc hại, khơng sử dụng nguồn</i>
<i>ngun liệu có gốc hữu cơ, đáng tin cậy và trong một tương lai gần (khoảng năm 2010)</i>
<i>sẽ là một nguồn năng lượng rẻ nhất cho các hộ gia đình và cơ sở thương mại trên tồn</i>
<i>cầu”</i>.


Thời gian qua, nhiều nước khai thác năng lượng Mặt trời, một trong những nguồn
năng lượng có khả năng tái tạo mạnh nhất. Hiệp hội Công nghiệp sản xuất điện từ ánh
sáng Mặt trời châu Âu (EPIA) và Tổ chức Hịa bình Xanh, tháng 8/2006 cho biết, hệ
thống quang điện có lớp chặn thực hiện chức năng chuyển ánh sáng Mặt trời thành điện
hiện sản xuất 0,05% sản lượng điện tồn cầu, có thể tăng lên 2,5% vào năm 2025 - bằng
tổng sản lượng điện hằng năm của 150 nhà máy điện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch, sẽ
đạt 16% vào năm 2040.


Thị trường thiết bị biến ánh sáng Mặt trời thành điện bùng nổ, doanh thu hệ thống
quang điện năm 2005 đạt 8,1 tỷ euro, dự kiến đạt 113,8 tỷ euro vào năm 2025. Theo
EPIA, nhiệt năng bức xạ của Mặt trời lên bề mặt Trái đất nhiều gấp 10.000 lần nhu cầu
năng lượng của con người. Trung tâm Nghiên cứu của EU cho biết, doanh thu từ năng
lượng Mặt trời của thế giới tăng 25% trong năm 2006, có thể đáp ứng 5% nhu cầu thế


giới vào năm 2020 so với 1% năm 2005. Ðức, Nhật Bản đi đầu trong lĩnh vực này. Ðức
đã đầu tư 3,7 tỷ euro, hiện có hơn mười nhà máy sản xuất điện từ năng lượng Mặt trời,
chiềm 60% thị phần toàn cầu. Cuối tháng 8/2006, nhà máy năng lượng Mặt trời tại bang
Bavaria, miền nam Ðức, được coi là lớn nhất thế giới, hoạt động. Ðầu tháng 9/2006, Hội
nghị Năng lượng Mặt trời lần thứ 21 của châu Âu với sự tham gia của hơn 2.500 đại biểu
đến từ 93 nước nhấn mạnh cần khai thác tốt hơn năng lượng Mặt trời.


<i><b>Năng lượng gió (Wind Energy) </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

trên toàn cầu vào năm 2025, trong khi Hiệp hội ngành cơng nghiệp Mặt trời của Đức tính
tốn cầu tiêu thụ năng lượng Mặt trời sẽ tăng so với nhiên liệu hoá thạch vào gần cuối
thập kỷ này.


Ottmar Edenhofer, nhà kinh tế hàng đầu của Viện nghiên cứu tác động môi trường
Potsdam của Đức (ICIR), nói: "<i>Mỗi dạng năng lượng tái sinh đều có một tiềm năng</i>
<i>cơng nghệ lớn, song than đá vẫn hấp dẫn hơn, trừ phi nó bị hạn chế bởi các chính sách</i>".
Ơng Edenhofer cho rằng, các năng lượng có thể phục hồi sẽ trở nên cạnh tranh vào
cuối thế kỷ này, chứ không phải tới tận năm 2050, trừ phi Chính phủ các nước tăng
cường gây sức ép về giá đối việc sử dụng các loại nhiên liệu hố thạch thơng qua áp
dụng các biện pháp phạt đối với việc thải khí gây hiệu ứng nhà kính.


Năng lượng gió có thể cung cấp 60.000 MW điện trên toàn cầu. Đặc biệt, các nước
EU đã đột biến xây dựng những máy phát điện bằng gió trong những năm 1994 - 2005,
nâng cơng suất điện gió từ 1.700 lên 40.000 MW (trong đó Đức chiếm 18.000 MW). Giá
điện gió khoảng 4 đến 7 cent/kWh. Cơng suất điện gió tồn cầu tăng 24% trong năm
2005, đạt 59.100 MW. Con số này cao hơn 12 lần so với một thập niên trước đây, khi ấy
cơng suất điện gió cịn ít hơn 5.000 MW.


Điện gió là nguồn năng lượng tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới với chỉ số tăng
trung bình là 29% trong 10 năm qua. Ngược lại, cũng trong thời gian đó điện than chỉ


tăng 2,5% mỗi năm, điện hạt nhân tăng 1,8%, điện khí thiên nhiên tăng 2,5% và điện dầu
1,7%. Châu Âu tiếp tục dẫn đầu thế giới với công suất lắp đặt là 40.500 MW, như vậy
điện gió của châu Âu chiếm tới 2/3 sản lượng điện gió tồn thế giới. Lượng điện gió này
chiếm 3% sản lượng điện châu Âu, đủ đáp ứng nhu cầu của trên 40 triệu người. Hiệp hội
Năng lượng gió châu Âu (EWEA) đặt ra mục tiêu thoả mãn tới 23 % nhu cầu điện của
châu Âu vào năm 2030. EWEA cũng cho biết là châu Âu có đủ tiềm năng đó để đáp ứng
nhu cầu điện của tất cả các nước châu Âu. Đức là nước có cơng suất phát điện gió lớn
nhất là 18.400 MW, chiếm tới 6% sản lượng điện của nước này. Tây Ban Nha đứng vị trí
thứ hai với 10.000 MW cơng suất điện gió, chiếm tới 8% sản lượng điện của nước này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

tuabin gió tăng trong những năm 90 đã tăng từ 75 kW lên 600 kW, độ tin cậy đạt tới
99%, hệ số hữu dụng đạt xấp xỉ 50%, tối đa là 60%. Tăng kích cỡ và hiệu quả của tuabin
gió, mở rộng phạm vi sản xuất đã góp phần giảm giá thành tới 40% trong sản xuất điện
bằng tuabin gió. Tại một số nước, giá thành sản xuất điện bằng sức gió đã giảm tới mức
xấp xỉ giá thành điện sản xuất bằng nhiên liệu khoáng.


Dự báo đến năm 2010, tỷ trọng điện gió sẽ đạt 8% cơng suất phát điện toàn thế giới.
Đứng đầu thế giới về sử dụng năng lượng gió trong một thời kỳ dài là Mỹ, chủ yếu là ở
bang California. Tuy nhiên, đến giữa những năm 90, các nước châu Âu đã vươn lên với
công suất lên tới 2420 MW, so với 1700 MW ở Mỹ. Từ năm 2001, Mỹ triển khai một
loạt dự án sản xuất điện bằng sức gió sau khi Cơng trình điện sức gió lớn thứ hai thế giới
Xtết-lai-nơ ở vùng giáp ranh hai bang Oregon và Washington đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của 70.000 hộ gia đình. Cuối tháng 11/2006, Công ty năng lượng Tiera (bang
Texas) xây dựng cơng trình điện chạy bằng sức gió, khi đi vào hoạt động năm 2008 với
công suất 900 MW sẽ cấp điện cho hàng nghìn hộ gia đình. Mỹ đã lắp đặt 9.100 MW
cơng suất điện gió. Ngành cơng nghiệp điện gió Mỹ đã làm nên kỷ lục trong thời gian
ngắn: năm 2003 lắp đặt 1.700 MW, năm 2004 lắp đặt 370 MW, năm 2005 lắp đặt tới
2.400 MW. Việc tăng trưởng bất thường này chủ yếu là khả năng được thụ hưởng tín
dụng thuế sản xuất điện gió liên bang (PTC) bị gián đoạn, tín dụng này hiện nay ở mức
9,1cent/kWh. Trong giữa năm 2005, Quốc hội Mỹ gia hạn PTC thêm 2 năm. Với việc


PTC được đảm bảo thêm 2 năm, ngành công nghiệp sẽ gia tăng công suất điện gió thêm
25% trong năm nay so với năm 2005.


Cơng suất điện gió của Canada là 680MW năm 2005 sẽ tăng lên 1.200 MW vào cuối
2006. Trong khi Chính phủ Liên bang Canada đặt ra mục tiêu lắp đặt 4.000 MW cơng
suất điện gió vào năm 2010, thì Mỹ lại có kế hoạch lắp tới 9.200 MW vào năm 2015.


Các nước EU đã có kế hoạch đến năm 2005 tăng tỷ trọng điện, sản xuất từ sức gió lên
2%. Tuy nhiên, các hãng sản xuất điện từ sức gió cũng đang phải cạnh tranh với các nhà
sản xuất điện từ nhiên liệu khoáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

nhu cầu điện cho 4% dân số của tỉnh. Hệ thống thiết bị năng lượng gió lớn nhất châu Âu
là của Đức với tên gọi là Aeolus, công suất 3 MW.


Sau Đức là Đan Mạch, có số lượng thiết bị năng lượng gió đứng thứ hai. Kế hoạch
của Chính phủ Đan Mạch là đến năm 2010, tỷ trọng điện gió sẽ tăng lên 20%, năm 2050
sẽ đạt 50%. Đan Mạch có 3.100 MW cơng suất điện gió, đáp ứng 20% nhu cầu điện,
điện gió chiếm tỉ lệ cao nhất trong các dạng năng lượng điện ở nước này. Đan Mạch
đứng hàng thứ 5 trên thế giới, cũng là nước đi đầu về lắp đặt các nhà máy phát điện gió
với 400 MW ở ngồi khơi. Dự kiến sẽ có trên 900 MW cơng suất điện gió sẽ được lắp
đặt ngồi khơi vào cuối năm 2006 ở khắp châu Âu. Tại Tây Ban Nha, từ năm 1993 đến
1998 công suất của thiết bị năng lượng gió đã tăng 7 lần và đạt 320 MW. Xu hướng sẽ
còn tăng thêm nhiều lần nữa.


Trong những năm 90, năng lượng gió cũng phát triển mạnh ở các nước châu Á, đặc
biệt là ở Ấn Độ. Các nước châu Á đã lắp đặt được 7.000 MW công suất điện gió, trong
đó Ấn Độ 4.400 MW và đứng ở vị trí thứ 4 sau Đức, Mỹ và Tây Ban Nha. Trung Quốc
hiện mới có 1.260 MW điện gió, đang trong thời kỳ phát triển mạnh nhờ có luật năng
lượng tái tạo mới được ban hành. Luật này đưa ra nhiều chính sách ưu đãi về thuế và hỗ
trợ cho xây dựng điện gió, đề ra mục tiêu phát triển 30.000 MW cơng suất điện gió vào


năm 2010. Với các mục tiêu này, các chuyên gia trong ngành công nghiệp điện gió
Trung Quốc cho rằng Trung Quốc có thể sản xuất tới 400.000 MW cơng suất điện gió
vào năm 2050.


Trong khi 3/4 cơng suất điện gió mới được lắp đặt ở 5 nước thì điện gió ở các nước cịn
lại tăng trung bình 35% mỗi năm trong 10 năm qua. Ơxtrâylia đã tăng cơng suất điện gió
năm 2005 thành 710 MW, trở thành nước dẫn đầu các nước khu vực Thái Bình Dương, cả
khu vực chỉ có 890 MW. Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê có 210 MW. Các nước Bắc Phi
cũng đang bắt đầu phát triển với công suất lắp đặt là 310 MW. Ai Cập có 150 MW và
Maroc có 60 MW.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

hiệu quả của các loại tuabin và giảm chi phí sản xuất các cấu thành và giảm chi phí xây
dựng.


Nhờ có cơng nghệ hiện đại và hợp lý mà điện gió ngày càng phát triển. Tuabin hiện
đại càng cao hơn và cánh rô to dài hơn tuabin của 20 năm trước, cho phép sản sinh ra
điện nhiều hơn đến 200 lần. Bởi “nhiên liệu”cho điện gió là khơng mất tiền và vơ
tận,75% đến 90% chi phí phát điện bằng sức gió lại chính là ở khâu chế tạo và xây dựng,
lắp đặt tuabin gió và đấu nối với mạng điện. Một khi tuabin đã lắp đặt rồi, chi phí cịn lại
là vận hành tuabin và bảo dưỡng, thuế sử dụng đất và thuế tài sản.


Nếu chi phí mơi trường, xã hội và sức khoẻ con người được phản ánh trong tính kinh
tế của phát điện, điện gió có thể cạnh tranh so với điện từ nhiên liệu hố thạch. Khơng
giống như các nhà máy điện thơng thường, điện gió khơng phát thải khí nhà kính loại khí
làm cho thay đổi khí hậu hoặc khơng phát thải các loại khí khác.


Điện gió đem lại nhiều hữu ích hơn đó là loại năng lượng sạch. Giá thành điện gió ổn
định và khơng chịu ảnh hưởng bởi tính bất ổn của nhiên liệu hố thạch. Điện gió giúp tạo
ra công ăn việc làm cho các địa phương, thuế tài nguyên, thu nhập ở các địa phương có
nhà máy điện gió. Vì gió là nguồn vơ tận, điện gió góp phần an ninh năng lượng khác xa


với nhiên liệu hố thạch là loại nhiên liệu khơng tái sinh được.


<i><b>Biomass (năng lượng sinh khối)</b></i>


Năng lượng biomass (năng lượng sinh khối, hay năng lượng từ vật liệu hữu cơ).
Biomass có thể giải quyết tình trạng thay đổi khí hậu, biến chất thải, phế phẩm của ngành
nông, lâm nghiệp thành nhiệt và năng lượng.


<i>Cung cấp cả nhiệt lẫn điện</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

liễu). Ngồi ra, cịn có chất thải thực vật từ công viên, vườn, lề đường. Tất cả những nguồn
năng lượng trên đều sẵn có.


<i>Khai thác biomass</i>


Biomass là vật liệu hữu cơ dự trữ ánh sáng Mặt trời dưới dạng năng lượng hoá học.
Khi được đốt cháy, năng lượng hoá học này được giải phóng dưới dạng nhiệt. Cái mà
chúng ta ngày nay gọi là biomass đã sưởi ấm cho các căn hộ và toà nhà trên toàn thế giới
trong hàng nghìn năm. Trên thực tế, biomass tiếp tục là nguồn năng lượng lớn tại các
quốc gia đang phát triển. Gỗ vẫn là nguồn năng lượng biomass lớn nhất trên thế giới.


Lợi ích mơi trường, an ninh năng lượng thực sự của biomass sẽ xuất hiện khi con
người sử dụng một lượng lớn biomass để sản xuất điện năng, nhiệt và các loại nhiên liệu
sinh học khác, do đó, giảm sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Chu kỳ carbon là nguyên tắc
đứng đằng sau công nghệ biomass. Khi thực vật sinh trưởng, chúng hấp thụ CO2 trong


môi trường và dự trữ nó thơng qua q trình quang hợp. Một lượng CO2 tương đương


được giải phóng khi thực vật bị phân huỷ tự nhiên hoặc đốt cháy. Điều đó có nghĩa là
biomass khơng đóng góp vào q trình phát thải khí nhà kính.



<i>Nhiên liệu sinh học</i>: khơng giống như các nguồn năng lượng tái sinh khác, biomass có
thể được biến trực tiếp thành các loại nhiên liệu lỏng - nhiên liệu sinh học - cho các
phương tiện vận tải (ô-tô con, xe tải, xe buýt, máy bay, tàu hoả). Có hai dạng nhiên liệu
sinh học phổ biến nhất là ethanol và diesel sinh học.


Ethanol là một loại cồn, tương tự như cồn trong bia và rượu. Nó được sản xuất bằng
cách lên men bất kỳ loại biomass nào có hàm lượng carbohydrate cao (tinh bột, đường
hoặc celluloses) thơng qua một q trình tương tự như lên men bia. Ethanol chủ yếu
được sử dụng làm phụ gia nhiên liệu để giảm lượng carbon monoxide và các loại khí thải
gây sương khói khác từ xe cộ. Hiện đã có các loại xe sử dụng nhiên liệu linh hoạt gồm
xăng và 85% ethanol.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Các loại nhiên liệu sinh học khác bao gồm methanol và các thành phần biến tính khác
của xăng. Methanol, thường được gọi là cồn gỗ, hiện được sản xuất từ khí tự nhiên. Tuy
nhiên, cũng có thể sản xuất nó từ biomass. Có một số cách biến biomass thành methanol
song biện pháp phổ thơng nhất là khí hố. Khí hố liên quan tới việc làm bốc hơi
biomass ở nhiệt độ cao, rồi loại bỏ các tạp chất từ khí nóng và cho nó đi qua một chất
xung tác. Chất xúc tác biến khí thành methanol. Phần lớn các thành phần biến tính của
xăng được sản xuất từ biomass là những phụ gia nhiên liệu giảm ô nhiễm, chẳng hạn như
methyl tertiary butyl ether (MTBE) và ethyl tertiary butyl ether (ETBE).


Nhiên liệu biomass được sử dụng ở Ấn Độ chiếm khoảng 30% tổng nhiên liệu được
sử dụng tại quốc gia này, là nguồn nhiên liệu quan trọng nhất được sử dụng ở trên 90%
hộ gia đình nơng thơn và chừng 15% hộ gia đình đơ thị, đặc biệt hữu ích đối với các gia
đình có ni gia súc. Hiện nhiều nhà máy biogas đã được xây dựng ở Ấn Độ.


<i>Điện sinh-học</i>: điện sinh học là việc sử dụng bimomass để sản xuất điện năng. Có sáu
hệ thống điện sinh học lớn trên thế giới bao gồm đốt biomass trực tiếp, đồng đốt cháy,
khí hố, tiêu hố kỵ khí, nhiệt phân và hệ thống điện sinh học nhỏ, module. Ước tính tới


năm 2020, sản lượng điện sinh học của thế giới là hơn 30.000 MW. Mỹ là nước sản xuất
điện biomass lớn nhất thế giới, có hơn 350 nhà máy điện sinh học, sản xuất trên
7.500MW điện mỗi năm, đủ để cung cấp cho hàng triệu hộ gia đình, đồng thời tạo ra
66.000 việc làm. Những nhà máy này sử dụng chất thải từ nhà máy giấy, nhà máy cưa,
sản phẩm phụ nông nghiệp, cành lá từ các vườn cây ăn quả. Bộ Năng lượng Mỹ dự báo
các công nghệ tiên tiến hiện đang được phát triển hiện nay sẽ giúp ngành điện biomass
sản xuất trên 13.000MW vào năm 2010 và tạo thêm 100.000 việc làm. Năng lượng
biomass chiếm 4% tổng năng lượng được tiêu thụ ở Mỹ và 45% năng lượng tái sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Nhiều nhà máy điện đốt than có thể sử dụng các hệ thống đồng đốt cháy để giảm đáng
kế lượng khí thải đặc biệt là sulfur dioxide. Đồng đốt cháy liên quan tới việc sử dụng
biomass như một nguồn năng lượng bổ sung trong các nồi hơi hiệu quả cao. Chỉ cần vài
thay đổi nhỏ là các nhà máy điện đốt than có thể sử dụng hệ thống đồng đốt cháy. Do
vậy, tiềm năng phát triển của nó trong tương lai là rất lớn.


Hệ thống khí hố sử dụng nhiệt độ cao và mơi trường hiếm oxy để biến biomass thành
một loại khí - khí biogas hay khí sinh học. Loại khí này cung cấp nhiên liệu cho tuabin
khí để sản xuất điện năng. Cũng có một số nhà máy điện sử dụng chu trình hơi khác một
chút. Nhiên liệu biomass được biến thành các loại khí đốt điều áp, nóng, trong buồng khí
hố. Chúng được làm sạch (loại bỏ tạp chất) để tránh làm bào mòn hệ thống sản xuất
nhiệt, điện. Tiếp đến, các loại khí sạch được đốt cùng với khơng khí trong buồng đốt
trước khi đi vào một turbine để sản xuất điện. Nhiệt đi ra từ tuabin khí được dẫn vào
buồng trao đổi nhiệt để làm nóng nước lạnh, cung cấp cho các hộ gia đình.


Biomass phân huỷ tạo ra khí methane mà có thể được sử dụng làm năng lượng. Tại
các bãi chôn lấp (nơi ủ các vật liệu hữu cơ như phân, rau xanh, rơm...), các giếng được
khoan để hút khí methane từ chất hữu cơ đang phân huỷ. Sau đó, các ống từ mỗi giếng sẽ
vận chuyển khí tới một nơi trung tâm để lọc và làm sạch trước khi đốt. Methane cũng có
thể được sản xuất từ biomass thơng qua một quy trình được gọi là tiêu hố kỵ khí. Tiêu
hố kỵ khí liên quan tới việc sử dụng vi khuẩn để phân huỷ chất hữu cơ trong điều kiện


thiếu oxy. Methane có thể được sử dụng làm nhiên liệu theo nhiều cách. Phần lớn các cơ
sở đốt nó trong một nồi hơi, tạo hơi nước sản xuất điện hoặc sử dụng cho mục đích cơng
nghiệp. Methane cũng có thể được sử dụng làm nhiên liệu trong tế bào nhiên liệu. Tế bào
nhiên liệu hoạt động giống như pin song khơng cần tái nạp. Nó tạo điện chừng nào có
nhiên liệu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<i>Các chế phẩm sinh học</i>. Con người có thể sử dụng biomass để sản xuất mọi sản phẩm
như họ đã làm từ nhiên liệu hoá thạch. Những sản phẩm sinh học đó khơng chỉ được làm
từ các nguồn tái sinh mà cịn cần ít năng lượng hơn trong quá trình sản xuất.


Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tiến trình sản xuất nhiên liệu sinh học cũng có
thể được sử dụng để sản xuất chất chống đông, chất dẻo, keo, chất làm ngọt và gel cho
thuốc đánh răng. Khi biomass được nung nóng với một lượng oxy nhỏ, một lượng lớn
carbon monoxide và hydro được tạo ra. Các nhà khoa học gọi hỗn hợp này là khí sinh
tổng hợp. Khí sinh tổng hợp được sử dụng để tạo chất dẻo và a-xít. Khi biomass được
nung nóng trong điều kiện khơng có oxy, nó hình thành dầu nhiệt phân. Một hố chất có
tên là phenol có thể được chiết xuất từ dầu nhiệt phân. Phenol được sử dụng để chế tạo
chất dán gỗ, chất dẻo đổ khuôn và nhiều chất khác.


<i>Khái niệm mới</i>: <i>Nhà máy lọc sinh học</i>. Nhà máy lọc sinh học là một cơ sở kết hợp thiết
bị và các tiến trình chuyển biến biomass để sản xuất nhiên liệu, điện năng và các hoá chất
từ biomass. Khái niệm nhà máy lọc sinh học tương tự như các nhà máy lọc dầu ngày nay
mà sản xuất nhiều nhiên liệu cũng như sản phẩm từ dầu. Các nhà máy lọc sinh học công
nghiệp đã được coi là con đường hứa hẹn nhất dẫn tới việc tạo lập một ngành mới, dựa
trên sinh học ở Mỹ.


Bằng cách sản xuất nhiều sản phẩm, một nhà máy lọc sinh học có thể tận dụng được
các thành phần khác nhau của biomass, đồng thời tối đa hoá giá trị thu được từ biomass.
Một nhà máy như vậy có thể sản xuất một hoặc nhiều hoá chất giá trị cao, khối lượng ít
và một loại nhiên liệu lỏng cho vận tải với giá trị thấp, khối lượng lớn. Đồng thời, nhà


máy cũng sản xuất điện, nhiệt để sử dụng trong nội bộ và có lẽ là thừa điện để bán ra
ngoài. Sản phẩm giá trị cao tăng cường lợi nhuận, nhiên liệu khối lượng nhiều đáp ứng
nhu cầu năng lượng quốc gia và sản xuất điện tránh phát thải khí nhà kính cũng như giảm
chi phí.


Phịng Thí nghiệm Năng lượng tái sinh quốc gia của Mỹ đang thực hiện Chương trình
Biomass, liên quan tới sáu dự án nhà máy lọc sinh học lớn. Những dự án này tập trung
vào các công nghệ mới nhằm kết hợp việc sản xuất nhiên liệu từ biomass và các sản
phẩm khác trong cùng một cơ sở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Thuỷ điện là nguồn điện có được từ năng lượng nước. Đa số năng lượng thuỷ điện có
được từ năng lượng tiềm tàng của nước được tích tại các đập nước làm quay một tuabin
nước và máy phát điện. Kiểu ít được biết đến hơn là sử dụng năng lượng động lực của
nước hay các nguồn nước khơng bị tích bằng các đập nước như năng lượng thuỷ triều.
Thuỷ điện là nguồn năng lượng có thể hồi phục. Năng lượng lấy được từ nước phụ thuộc
khơng chỉ vào thể tích mà cả vào sự khác biệt về độ cao giữa nguồn và dòng chảy ra. Sự
khác biệt về độ cao được gọi là áp suất. Lượng năng lượng tiềm tàng trong nước tỷ lệ với
áp suất. Để có được áp suất cao nhất, nước cung cấp cho một tuabin nước có thể được
cho chảy qua một ống lớn gọi là ống dẫn nước có áp (penstock).


Thuỷ điện, sử dụng động lực hay năng lượng dòng chảy của các con sông hiện nay
chiếm 20% lượng điện của thế giới. Na Uy sản xuất toàn bộ lượng điện của mình bằng
sức nước, trong khi Iceland sản xuất tới 83% nhu cầu của họ (2004), Áo sản xuất 67% số
điện quốc gia bằng sức nước (hơn 70% nhu cầu của họ). Canada là nước sản xuất điện từ
năng lượng nước lớn nhất thế giới và lượng điện này chiếm hơn 70% tổng lượng sản
xuất của họ.


Thuỷ điện không phải là một sự lựa chọn chủ chốt tại các nước phát triển bởi vì đa số
các địa điểm chính tại các nước đó có tiềm năng khai thác thuỷ điện theo cách đó đã bị
khai thác rồi hay khơng thể khai thác được vì các lý do khác như mơi trường.



Lợi ích lớn nhất của thuỷ điện là hạn chế được giá thành nhiên liệu. Các nhà máy thuỷ
điện khơng phải chịu cảnh tăng giá của nhiên liệu hố thạch như dầu mỏ, khí gas tự nhiên
hay than đá, và không cần phải nhập nhiên liệu. Các nhà máy thuỷ điện cũng có tuổi thọ
lớn hơn các nhà máy nhiệt điện, một số nhà máy thuỷ điện đang hoạt động hiện nay đã
được xây dựng từ 50 đến 100 năm trước. Chi phí nhân cơng cũng thấp bởi vì các nhà
máy này được tự động hố cao và có ít người làm việc tại chỗ khi vận hành thông
thường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Những nhà môi trường đã bày tỏ lo ngại rằng các dự án nhà máy thuỷ điện lớn có thể
phá vỡ sự cân bằng của hệ sinh thái xung quanh. Sự phát điện của nhà máy điện cũng có
thể ảnh hưởng đến mơi trường của dịng sơng bên dưới. Theo Báo cáo của Uỷ ban Đập
nước Thế giới (WCD), ở nơi nào đập nước lớn so với công suất phát điện (ít hơn 100
watt trên mỗi km2<sub> diện tích bề mặt) và khơng có việc phá rừng trong vùng được tiến</sub>


hành trước khi thi cơng đập nước, khí gas gây hiệu ứng nhà kính phát ra từ đập có thể cao
hơn những nhà máy nhiệt điện thơng thường. Ở các hồ chứa phương bắc Canada và Bắc
Âu, sự phát sinh khí gas nhà kính tiêu biểu chỉ là 2 đến 8% so với bất kỳ một nhà máy
nhiệt điện nào.


Một vấn đề nữa của các đập thuỷ điện là việc tái định cư dân chúng sống trong vùng
hồ chứa. Trong nhiều trường hợp không một khoản bồi thường nào có thể bù đắp được
sự gắn bó của họ về tổ tiên và văn hoá gắn liền với địa điểm đó vì chúng có giá trị tinh
thần đối với họ. Hơn nữa, về mặt lịch sử và văn hoá các địa điểm quan trọng có thể bị
biến mất, như Dự án Đập Tam Hiệp ở Trung Quốc, Đập Clyde ở New Zealand và Đập
Ilisu ở Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ. Việc xây đập tại vị trí địa lý khơng hợp lý có thể gây ra
những thảm hoạ như vụ Đập Vajont tại Italia, gây ra cái chết của 2000 người năm 1963.


<i>Các nhà máy thuỷ điện lớn nhất thế giới</i>: Tổ hợp La Grande tại Quebec, Canada, là hệ
thống nhà máy thuỷ điện lớn nhất thế giới. Bốn tổ máy phát điện của tổ hợp này có tổng


cơng suất 16,021 MW. Chỉ riêng nhà máy Robert Bourassa có cơng suất 5,616 MW. Tổ
máy thứ chín (Eastmain-1) hiện đang được xây dựng và sẽ cung cấp thêm 480 MW. Một
dự án khác trên Sông Rupert, hiện đang trải qua quá trình đánh giá mơi trường, sẽ có
thêm hai tổ máy với tổng cơng suất 888 MW.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

có giá trị khảo cổ học và văn hóa, cũng như các tác động tới mơi trường. Trung Quốc có
tiềm năng thuỷ điện lớn nhất thế giới, nhưng mới chỉ khai thác được 20% tiềm năng nói
trên và sản lượng thuỷ điện mới chỉ chiếm ¼ sản lượng điện của cả một nước. Đập thuỷ
điện khổng lồ đang xây dựng sẽ sản xuất lượng điện tương ứng gấp 2 lần sản lượng thuỷ
điện của Pháp (Bảng 7).


Các nước có cơng suất thuỷ điện lớn nhất:


 Canada, 341.312 GWh (66.954 MW đã lắp đặt)
 Mỹ, 319.484 GWh (79.511 MW đã lắp đặt)
 Brazil, 285.603 GWh (57.517 MW đã lắp đặt)
 Trung Quốc, 204.300 GWh (65.000 MW đã lắp đặt)
 Nga, 169.700 GWh (46.100 MW đã lắp đặt) (2005)
 Na Uy, 121.824 GWh (27.528 MW đã lắp đặt)
 Nhật Bản, 84.500 GWh (27.229 MW đã lắp đặt)
 Ấn Độ, 82.237 GWh (22.083 MW đã lắp đặt)
 Pháp, 77.500 GWh (25.335 MW đã lắp đặt)


Bảng 7. Dự báo nhu cầu đối với hệ thống điện năm 2050 như sau:


<b>Chỉ tiêu, đơn vị tính</b> <b>Giá trị</b>


+ Dân số, tỷ người 9,8


+ Tổng thu nhập thế giới, 1000 tỷ USD ( giá 1990) 100



+ Công suất, GW


Trong đó: - điện nguyên tử
- thuỷ điện


- các tổ máy dùng năng lượng tái tạo (trừ thuỷ điện)
- nhiệt điện khí


- nhiệt điện than


10.000
3.000
800
1.200
3.000
2.000
+ Tiêu thụ bình quân đầu người, kWh/năm


- trung bình


- đối với những nước nghèo nhất


6.000
1.000


+ Giá thành điện trung bình, USD/MWh 50


+ Lượng cacbon do các tổ máy điện thải ra (50% cacbon thải ra sẽ được
khử), tỷ tấn/năm



</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

+ Lượng thải SO2, NOx và những chất độc khác gần bằng 0


+ Xuất đầu tư dự kiến, USD/kW
- điện nguyên tử


- nhà máy điện dùng năng lượng tái tạo (trừ thuỷ điện)
- nhà máy nhiệt điện khí*


- nhà máy nhiệt điện than*


- Các tổ máy điện di động, % tổng sản lượng


- Sản xuất điện phân tán và tích trữ, % tổng sản lượng
- Độ tin cậy của hệ thống, %


700
700
800
1.000
20
30
min 99,999
* Kể cả chi phí để giảm hàm lượng cacbon trong khí thải, nhưng khơng


bao gồm chi phí chơn vùi lâu dài cacbon.


** tăng đến 99,99999999 đối với khách hàng cần độ chính xác cao.
<b>2.3. Xu hướng các công nghệ năng lượng</b>



<i>Hydro: năng lượng của tương lai</i>


Bước vào thế kỷ 21, việc xử dụng đa dạng năng lượng trong chuyển vận là một trong
những xu hướng lớn cho công nghệ năng lượng trong tương lai. Đây là một tiềm năng để
cho tất cả những nghiên cứu hiện tại chú tâm vào như khả năng tìm nguồn nguyên liệu
thay thế xăng dầu trong vận chuyển như hơi đốt, ethanol, điện, hydro, hay một hay nhiều
hổn hợp của các loại năng lượng vừa kể trên.


Mỹ và các quốc gia phát triển trên thế giới đã bắt đầu xử dụng hydro như là một nhiên
liệu thay thế dầu. Và việc chuyển đổi nầy kích thích cơng nghệ xe hơi trong việc nghiên
cứu để thích ứng với tình thế mới là dùng nhiên liệu thay thế như hydro. Đây cũng là một
bước ngoặc trong việc hạn chế khí thải CO2.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Hydro là nhiên liệu của tương lai vì số phương tiện giao thơng hiện nay trên thế giới là
750 triệu chiếc và đến năm 2050 sẽ tăng lên gấp ba do nhu cầu chính ở các nước như Ấn
Độ, Trung Quốc và các nước đang phát triển. Ngành giao thông vận tải phải chuyển dần
sang dùng những loại nhiên liệu nghèo cacbon, không dầu lửa. Cần phải có một mạng
lưới điện để nạp điện năng cho xe cộ chạy điện và nạp nhiên liệu hydro cho các phương
tiện có gắn tế bào nhiên liệu hydro - là một thiết bị chuyển hoá điện - hoá năng lượng
giống như một bình ắc quy nhưng có thể liên tục tiếp nạp nhiên liệu. Trong các phương
tiện giao thông sử dụng tế bào nhiên liệu hydro sẽ đốt cháy với ơxy của khí trời tạo nên
động lực chuyển động. Phương hướng này nhận được sự đồng tình của những nhà chế
tạo ôtô, những chuyên gia năng lượng và các nhà hoạch định chính sách.Các cơng ty như
Honda, Toyata và General Motors có kế hoạch bán ra thị trường những ôtô trang bị tế
bào nhiên liệu vào khoảng năm 2010 đến 2020. Một số nhà khoa học Mỹ đưa ra kế
hoạch trong vòng 25 năm xây dựng một mạng năng lượng lấy tên “Siêu mạng
-SuperGrid” với những đường “Siêu cáp - SuperCable” là những đường dây siêu dẫn
được làm lạnh bởi hydro có khả năng đồng thời chuyển tải điện năng và cung cấp nhiên
liệu hydro.



Hầu hết hydro hiện nay được tách từ khí đốt tự nhiên. Hydro cịn được tách từ phân tử
nước thơng qua q trình điện phân. Hydro là nguyên tố đơn giản nhất và dồi dào nhất
trên bề mặt Trái đất. Mặc dù hydro không tồn tại trong tự nhiên như là đơn chất, bằng
cách tách hydro khỏi các nguyên tố khác, hydro có thể trở thành chất mang năng lượng
hồn hảo. Một điều tuyệt vời nữa là quy trình sinh ra năng lượng khơng tạo ra bất cứ một
chất nào khác ngồi nước. Hiện nay, có nhiều cơng nghệ sẵn có có thể tận dụng ưu thế
của hydro để cung cấp năng lượng. Tuy nhiên, hiệu quả về chi phí vẫn cịn là một trở
ngại lớn. Ví dụ, điện năng (một dạng năng lượng tương đối rẻ hơn) được sử dụng để sản
xuất hydro, tạo ra một công đoạn nữa dường như là trùng lặp và khơng cần thiết. Ngồi
ra, cần khẩn trương xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất, vận chuyển và trữ nhiên liệu để có
thể sử dụng nhiên liệu này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

gây ô nhiễm và không làm phát thải khí nhà kính. Sự thực là việc hydro có thể được sản
xuất, tồn trữ và phân phối tại địa phương cũng làm giảm được rủi ro của việc phụ thuộc
quá mức vào một nguồn cung cấp năng lượng duy nhất. Như vậy, đầu tư vào các công
nghệ có liên quan có thể đem lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.


Ở châu Âu, Cơ sở Pin nhiên liệu và Hydro của châu Âu (Hydro and Fuel Cell
Platform - HFP) là một trong những nỗ lực làm cho hydro như là một nguồn năng lượng
phổ biến và hiệu quả trở thành hiện thực. Được thiết lập dưới sự lãnh đạo của Ủy ban
châu Âu, mục tiêu cơ bản của HFP là thúc đẩy và tăng tốc phát triển và sử dụng hydro và
pin nhiên liệu với giá cạnh tranh và trong phạm vi rộng rãi các ứng dụng thực tiễn, bao
gồm giao thông vận tải và sản xuất điện. Mục tiêu không chỉ là nâng cao nhận thức của
cơng chúng, mà cịn là tạo lập cơ sở để có thể điều phối hiệu quả các nghiên cứu thực
hiện ở các cấp khác nhau (bao gồm các khu vực Nhà nước và tư nhân, các cộng đồng) và
thúc đẩy sự hợp tác ở phạm vi khu vực cũng như là quốc tế.


Tháng 3/2005, trong kỳ họp thường niên lần thứ hai ở Bruxen, HFP đưa ra các đề xuất
phát triển trung hạn và dài hạn hydro và pin nhiên liệu để mang và chuyển đổi năng
lượng sạch, đáp ứng thách thức của sự biến động của giá dầu và đối phó với sự nóng lên


tồn cầu và tăng trưởng nhu cầu năng lượng. Janez Potocnik, ủy viên Ủy ban châu Âu về
Khoa học và Nghiên cứu, cho rằng "Tiềm năng của nhiên liệu hydro rất hấp dẫn. Hiện đã
có các xe ngun mẫu và dự tính việc thương mại hóa và sản xuất hàng loạt có thể bắt
đầu vào năm 2020". Theo Chủ tịch Cơ sở HFP, "Đây là một mục tiêu đầy hoài bão, cho
một thách thức hấp dẫn và cần thiết. Là cơ quan Cơ sở Cơng nghệ, HFP cam kết đóng
vai trị tích cực thúc đẩy thách thức này".


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

liệu và các hệ thống nạp nhiên liệu hydro; một ví dụ khác là các nỗ lực chung của các
Hãng Shell Hydro và General Motor thúc đẩy phát triển xe chạy bằng pin nhiên liệu
hydro, với trạm nạp nhiên liệu mở cho doanh nghiệp ở Washington D.C. Nhiều bộ của
Mỹ bao gồm Bộ Năng lượng, Bộ Thương mại và Bộ Quốc phòng đã hợp tác trong nỗ
lực nghiên cứu thúc đẩy phát triển hydro.


Để giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng hạn hẹp và bảo đảm cung cấp cho
tương lai, Sáng kiến Hydro do Chính quyền Bush đề xuất trước đây đã đưa ra một tầm
nhìn về thiết lập nền kinh tế hydro và tăng cường sử dụng nhiên liệu hydro, cũng như ôtô
dùng nhiên liệu hydro vào năm 2020. Ngân sách trị giá 1,2 tỷ USD sẽ được sử dụng để
đảo ngược sự phụ thuộc gia tăng của Mỹ vào dầu mỏ của nước ngồi, bằng cách phát
triển cơng nghệ cần thiết để có thể thương mại hố pin nhiên liệu dùng hydro cung cấp
năng lượng cho ôtô, xe tải, các căn hộ và doanh nghiệp, tránh gây ô nhiễm và phát thải
khí nhà kính. Sáng kiến này cải thiện cơ bản an toàn năng lượng của Mỹ nhờ giảm thiểu
nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ. Đồng thời, đây sẽ là một yếu tố chủ chốt của các chiến lược
về biến đổi khí hậu và khơng khí sạch của Tổng thống.


Sau khi đưa ra Sáng kiến, Ban công tác của Hội Vật lý Mỹ và Bộ Năng lượng đã tiến
hành các bước hỗ trợ nhiệm vụ đầy thách thức này. Sau khi nghiên cứu kỹ sáng kiến,
Ban công tác về các vấn đề công chúng của Hội Vật lý Mỹ kết luận cần khắc phục nhiều
trở ngại kỹ thuật để có thể thực hiện được kế hoạch. Trước hết, các cải tiến về cơng suất
hoặc chi phí, ít nhất là ở mức cao hơn các công nghệ hiện có, có cần thiết đối với động cơ
hydro để đạt tới quy mơ sản xuất hàng loạt và để có khả năng tiếp cận đến các chủ sở


hữu xe không. Thứ hai là, cuộc nghiên cứu tìm kiếm các loại vật liệu mới dùng trong chế
tạo bồn nhiên liệu hydro có phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trung bình khơng.
Ngồi ra, cịn phải giải quyết vấn đề an toàn liên quan đến khả năng trữ hydro. Cho đến
nay, còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết giữa năng lực công nghệ hiện tại và yêu cầu
công suất mong muốn. Ban công tác đã đưa ra một số khuyến nghị để khắc phục những
trở ngại này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

nhanh quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế hydro và tối đa hoá hiệu quả, Kế hoạch
Thúc đẩy cũng phối hợp các hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các văn phòng,
bao gồm các văn phòng về khoa học năng lượng hoá thạch, năng lượng hạt nhân và năng
lượng tái tạo.


Rõ ràng là, khả năng sử dụng hydro như một nguồn nhiên liệu hiệu quả có nhiều ưu
điểm; nó khơng chỉ củng cố an tồn năng lượng quốc gia, mà cịn làm giảm ơ nhiễm mơi
trường. Nếu mọi việc trôi chảy và với một chút may mắn, chiếc xe ôtô đầu tiên được đứa
trẻ sinh ra trong năm nay lái sẽ là loại xe sử dụng nhiên liệu hydro.


<i><b>Pin nhiên liệu</b></i>


Năng lượng gió và năng lượng Mặt trời phụ thuộc vào thời tiết và độ dài của ngày. Do
điện năng khơng tích trữ được ở quy mô lớn, tiềm năng sử dụng các nguồn năng lượng
tái tạo này bị hạn chế. Pin nhiên liệu có thể có vai trị quan trọng trong việc bảo đảm cung
cấp năng lượng 24/24 giờ. Về mặt kỹ thuật thì pin nhiên liệu là một thiết bị chuyển đổi
năng lượng điện hoá, nghĩa là biến hydro và oxy thành nước và trong tiến trình đó tạo ra
điện. Pin bình thường là một thiết bị điện hoá khác mà tất cả chúng ta quen thuộc. Pin
bình thường chứa hố chất bên trong và biến những hố chất đó thành điện. Điều đó có
nghĩa là cuối cùng nó sẽ ''chết'' và người sử dụng phải vứt bỏ hoặc tái nạp.


Với pin nhiên liệu, hố chất khơng ngừng chảy vào pin, do đó nó khơng bao giờ chết.
Chừng nào cịn được cung cấp hoá chất, pin sẽ cung cấp điện. Ngày nay, phần lớn pin


nhiên liệu sử dụng hydro và oxy làm nguồn chạy pin, một số khác dùng methane và
methanol lỏng...


Mỹ đã cam kết chi 1,7 tỷ USD để phát triển các cơng nghệ sử dụng khí hydro và pin
nhiên liệu dùng cho ô tô và những ứng dụng tĩnh. Trong khi đó, Liên minh châu Âu cũng
đã dành 2 tỷ USD cho những nghiên cứu tương tự...


Lợi ích của pin nhiên liệu là giảm sự phụ thuộc của con người vào dầu mỏ - nguồn
nhiên liệu hoá thạch sắp cạn kiệt và hay biến động về giá. Theo ước tính của Bộ Năng
lượng Mỹ, nếu 10.000 xe ôtô sử dụng pin nhiên liệu thì lượng dầu mỏ tiêu thụ sẽ giảm
32 triệu lít mỗi năm. Nếu 10% ơtơ trên tồn nước Mỹ sử dụng pin nhiên liệu, mỗi năm sẽ
giảm được 1 triệu tấn chất gây ô nhiễm không khí và 60 triệu tấn CO2 gây hiệu ứng nhà


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Kết quả khảo sát được công bố tháng 12/2004 của Fuel Cells Today cho thấy số hệ
thống pin nhiên liệu hồn chỉnh (có khả năng sản xuất điện độc lập) trên toàn thế giới đã
vượt qua con số 11.000 đơn vị. Pin nhiên liệu được sản xuất dưới nhiều kích cỡ, tạo ra
lượng điện vừa phải để chạy các thiết bị xách tay, ôtô hoặc lượng điện lớn để phục vụ sản
xuất, sinh hoạt gia đình và quân sự (hệ thống pin nhiên liệu dưới dạng nhà máy điện).


Trong lĩnh vực vận tải, phải kể tới Câu lạc bộ xe buýt nhiên liệu. Câu lạc bộ này có
tổng cộng 33 xe buýt hiệu DaimlerChrysler Citaro dùng pin nhiên liệu hiệu và đang chạy
ở 11 thành phố trên thế giới. Mỗi thành phố có một trạm hydro. Tính tới cuối tháng
4/2005, đội xe trên đã hoạt động được 50.000 giờ và các báo cáo cho thấy công nghệ xe
buýt này đang hoạt động tốt. Tuy nhiên, công nghệ nạp nhiên liệu vẫn chưa đáng tin cậy
và cần nghiên cứu, phát triển hơn nữa trước khi thương mại hoá.


Cho tới cuối tháng 12/2004, trên thế giới có tổng cộng gần 80 xe buýt pin nhiên liệu
đã được sản xuất và 65 trong số đó đang hoạt động. Số ôtô con dùng pin nhiên liệu là
600 vào cuối năm 2005. Có khoảng 700 hệ thống pin nhiên liệu công suất lớn hơn 10kW
và gần 3.000 hệ thống có cơng suất 1-10kW đã được lắp đặt trên tồn thế giới. Chúng


cung cấp điện cho hộ gia đình, bệnh viện, nhà máy... Ngồi ra, các cơng ty cũng đã sản
xuất khoảng 7.000 pin nhiên liệu dành cho thiết bị cầm tay.


Các loại pin nhiên liệu chính hiện nay là Pin nhiên liệu màng trao đổi proton (Proton
exchange membrane fuel cell PEMFC), Pin nhiên liệu ôxýt rắn (Solid oxide fuel cell
-SOFC), Pin nhiên liệu carbonate nấu chảy (Molten carbonate fuel cell - MCFC), pin
nhiên liệu axít phosphoric (Phosphoric-acid fuel cell - PAFC). PEMFC là loại pin nhiên
liệu phổ biến và hứa hẹn nhất, chiếm 65% tổng số đơn vị. Hiện có khoảng 80 cơng ty
trên tồn thế giới đang phát triển PEMFC, chủ yếu sử dụng cho ôtô, xe buýt và thậm chí
là cung cấp điện cho hộ gia đình. PEMFC hoạt động ở nhiệt độ tương đối thấp (chừng
80o<sub>C) nên chúng ấm lên nhanh chóng và khơng cần bình chứa đắt tiền.</sub>


Lọai pin nhiên liệu ơ-xýt rắn (SOFC) phù hợp nhất đối với các nhà máy điện quy mô
lớn, cung cấp điện cho nhà máy hoặc thành phố. SOFC hoạt động ở nhiệt độ rất cao
(chừng 1.000o<sub>C). Nhiệt độ cao này làm giảm độ tin cậy song lại có lợi thế: hơi nước mà</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

11 dự án với tổng giá trị gần 4,2 triệu USD, tập trung vào giải quyết những vướng mắc
trong việc phát triển các hệ thống SOFC dùng trong thương mại. Một trong những mục
tiêu là giảm chi phí đầu tư ban đầu của SOFC xuống còn 400 USD/kWh. Với mức này,
pin nhiên liệu sẽ có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ với điện thơng thường. Thị trường
SOFC tồn cầu năm 2003 là 123 triệu USD, trong đó Bắc Mỹ chiếm ít nhất 67 triệu
USD. Năm 2005, con số này đã tăng lên 360 triệu USD.


Về pin nhiên liệu để chạy xe hơi, theo một chuyên gia Mỹ, hydro giá khoảng 2
USD/kg, và 1 kg hydro sản xuất được một khối năng lượng gần tương đương với khoảng
3,8 lít xăng thường. Nghe có vẻ hấp dẩn, thế nhưng một chiếc xe hơi Opel Zafira có động
cơ để chạy pin nhiên liệu hydro hiện có giá tới 1 triệu USD! Người ta hy vọng, khi xe
được sản xuất với số lượng lớn hơn thì giá cả sẽ giảm xuống.


Riêng đối với các loại thiết bị xách tay dùng pin nhiên liệu, tình hình có khả quan


hơn... Các hãng Casio, Hitachi, Motorola, NEC, Smart Fuel Cell và Toshiba đang phát
triển pin nhiên liệu chạy bằng methanol (DMFC) dùng cho máy tính xách tay.


Với sự tiến bộ về cơng nghệ, trong tương lai, pin nhiên liệu sẽ cạnh tranh với nhiều
loại thiết bị chuyển đổi năng lượng khác, trong đó có tuabin khí của một số nhà máy
điện, động cơ xăng trong ơtơ và pin trong máy tính xách tay.


Hydro và oxy là những nguyên tố dồi dào nhất trên Trái đất. Oxy cần cho tế bào nhiên
liệu được lấy từ khơng khí. Tuy nhiên, nguồn hydro thì vẫn cịn hạn chế: khơng giống
dầu hoặc than, trước khi được sử dụng trong các tế bào nhiên liệu, con người phải sản
xuất hydro từ nước, hoặc các hydrocarbon chẳng hạn như xăng, propane, khí tự nhiên,
methanol và ethanol bởi khơng có mỏ hydro tự nhiên dưới lịng đất. Ngồi ra, rất khó
chứa và phân phối hydro. Chẳng hạn như chưa có đường ống dẫn hydro tới các ngơi nhà
và rất ít các trạm tiếp hydro dọc đường (trên thế giới mới chỉ có 150 trạm hydro và trong
năm nay sẽ có thêm 15 trạm nữa). Chính sự hạn chế đó đã làm cho pin nhiên liệu trở nên
khơng thực tiễn trong hầu hết các ứng dụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

tiện hơn nếu pin nhiên liệu trực tiếp sử dụng các loại nhiên liệu sẵn có hơn chẳng hạn
như khí tự nhiên, propane và methanol. Nhiều người có đường ống khí tự nhiên hoặc
bình propane trong nhà của họ, do vậy nhiên liệu này có thể được sử dụng cho pin nhiên
liệu gia đình. Methanol là một loại rượu có quy trình sản xuất đơn giản, giá thành rất
thấp, có tính chất tương tự xăng, dễ vận chuyển và phân phối nên có thể là một ứng cử
viên hứa hẹn để sử dụng cho pin nhiên liệu chạy ôtô, xe máy, điện thoại di động, máy
tính xách tay.


Năng lực sản xuất năng lượng của pin nhiên liệu của toàn cầu sẽ tăng từ 45 MW năm
2002 lên gần 16.000 MW vào năm 2012. Theo nghiên cứu mới nhất của Cơ quan Tình
báo Kinh doanh (Allied Business Intelligence - ABI), mặc dù chỉ có sản phẩm pin nhiên
liệu thực sự được thương mại trên thị trường, mức cạnh tranh đã tăng cao trong năm qua.
Cơng trình nghiên cứu mới về "Thị trường pin nhiên liệu tồn cầu - nghiên cứu phân tích


ngành cơng nghiệp mới nổi trội", cho thấy xu hướng chính của ngành công nghiệp pin
nhiên liệu là sự chuyển đổi từ nghiên cứu và phát triển sang xây dựng các nhà máy chế
tạo. Atakan Ozbek, Giám đốc Nghiên cứu Năng lượng của ABI và là Tác giả của cơng
trình nghiên cứu này, cho biết trình độ cạnh tranh tăng cao đã buộc các hãng trong lĩnh
vực này hướng tới đưa các sản phẩm sớm có ý nghĩa thương mại vào các thị trường phù
hợp. Theo nghiên cứu, các thị trường chấp nhận sớm như các nhà máy xử lý nước thải,
trung tâm hỗ trợ viễn thông và trung tâm xử lý dữ liệu sẽ là các thị trường đầu tiên sử
dụng sản phẩm pin nhiên liệu. Ozbek cho biết thêm, các hãng pin nhiên liệu đã bắt đầu
học hỏi để "Hứa hẹn ít và chuyển giao nhiều" (Under-Promise and Over-Deliver) do sức
ép của thị trường tài chính gia tăng, với những lo ngại về sự cạnh tranh mạnh hơn buộc
họ phải giữ uy tín cho đến khi chuyển giao các sản phẩm. Plug Power là một ví dụ rõ nét
cho cách tiếp cận này. ABI coi cách tiệm cận mới này như là một phần cơ chế của tiến
trình học hỏi để chuyển hướng của ngành công nghiệp sẽ đem lại lợi tức cổ phần về lâu
dài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Nghiên cứu cho rằng các thị trường cung cấp năng lượng công nghiệp và năng lượng
chất lượng cao dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng mạnh hơn các thị trường cung cấp điện
cho nhà ở. Thị trường công nghiệp đã bắt đầu bao gồm cả các hệ thống năng lượng pin
nhiên liệu, với tiềm năng tăng trưởng lớn nhất đặc biệt là ở thị trường công nghiệp quy
mô từ nhỏ đến vừa.


<b>Năng lượng nhiệt hạch: cũng là một giải pháp lựa chọn. Mỹ, EU, Pháp, Nga, Nhật</b>
Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc cùng nhau đầu tư một lò phản ứng thí nghiệm tổng hợp
nhiệt hạch (ITER) trị giá 13 tỷ USD được xây dựng ở Cadarache, Pháp. Qúa trình nhiệt
hạch xẩy ra khi hai hạt nhân của một nguyên tố nhệ như hydrogen bị nung chẩy, tạo ra
một hạt nhân của một nguyên tố năng hơn như helium; quá trình này tạo ra plasma, một
đám mây nhiệt với các phân tử tích năng lượng cực cao giống như quá trình xẩy ra trên
Mặt trời. Qúa trình nhiệt hạch tạo ra một năng lượng lớn hơn nhiều so với năng lược
được phân huỷ từ các nguyên tử nặng như uranium hoặc plutonium trong lò phản ứng
hạt nhân. Năng lượng này có thể dùng để sản xuất điện, đây là nguồn năng lượng an


toàn, sạch, rẻ, sử dụng nguồn hydrogen vơ tận, và chất thải có phóng xạ ít hơn nhiều so
với lò phản ứng hạt nhân. Trung Quốc mới tiến hành thử nghiệm thành công công nghệ
này. Các nhà vật lý đã từ lâu mong muốn sử dụng năng lượng nhiệt hạch để sản xuất
điện, tuy nhiên cho đến nay nguồn năng lượng này vẫn chưa thể kiểm soát được trong lị
phản ứng để phục vụ mục đích hồ bình.


Dự án sau khi được khởi cơng phải mất 8 năm mới hoàn thành, rồi lại phải mất 6 năm
nữa, thiết bị mới được vận hành đầy đủ. Thậm chí, cả khi mọi việc đều diễn ra theo kế
hoạch thì các nhà vật lý cịn phải đợi ít nhất đến năm 2018 để xem ITER có sống nổi
khơng. Đây là thời hạn đặc biệt quan trọng đối với chiến lược năng lượng tồn cầu. Đến
lúc đó, nhiều nhà máy điện hạt nhân hiện nay đều hết hạn làm việc. Trong khi các nhà
sinh thái có thể vui mừng vì điều đó, thì việc tìm ra các nguồn điện thay thế khơng hề dễ
dàng. Việc dùng nhiên liệu hố thạch có lẽ sẽ bị loại bỏ vì gây ra khí thải, cịn những
nguồn năng lượng tái tạo như gió, sóng biển và Mặt trời chưa chắc đã kịp thời để bù đắp
vào lượng thiếu hụt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<b>CHIẾN LƯỢC – CHÍNH SÁCH NĂNG LƯỢNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC</b>
<b>3.1. Chiến lược năng lượng của Mỹ</b>


Năm 2001, Mỹ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng trầm trọng nhất kể từ
cuộc khủng hoảng dầu lửa vào những năm 70 của thế kỷ XX. Ảnh hưởng của tình trạng
thiếu hụt năng lượng được thấy rõ trên phạm vi toàn quốc, tiền thanh tốn năng lượng
các khoản của nhiều gia đình Mỹ trong năm 2001 tăng từ 2 đến 3 lần so với năm 2000.


Trong những năm qua, do tăng trưởng kinh tế, do dân số tăng nhanh kéo theo sự gia tăng
tương ứng về nhu cầu tiêu dùng nên mức sản xuất năng lượng của Mỹ không theo kịp nhu cầu.
Trong 20 năm tới sẽ có sự mất cân đối lớn nếu sản xuất năng lượng chỉ tăng với mức như 10
năm qua.


Sự mất cân bằng về cơ bản giữa cung và cầu cho thấy cuộc khủng hoảng năng lượng


của Mỹ đã xuất hiện. Những mất cân bằng này nếu tiếp tục xảy ra, sẽ gây tổn hại lớn đến
nền kinh tế Mỹ, đến cuộc sống của người dân Mỹ cũng như nền an ninh quốc gia. Mỹ là
nước giàu về tài nguyên, lại dẫn đầu thế giới về những thành tựu khoa học-kỹ thuật cũng
như kỹ năng sản xuất kinh doanh và có tiềm năng lớn về sức sáng tạo của con người. Là
nước dẫn đầu thế giới về tiềm lực kinh tế lại có các chính sách nhạy bén, Mỹ hồn tồn
có thể giải quyết khủng hoảng, đáp ứng các yêu cầu về năng lượng trong tương lai và đẩy
mạnh việc bảo tồn cũng như gìn giữ mơi trường, tạo nên một kinh nghiệm cho thế giới
tham khảo.


Trong bối cảnh trên, Phó Tổng thống Mỹ, Richard Cheney, đã được Tổng thống
G.Bush giao nhiệm vụ vạch ra một chiến lược năng lượng quốc gia. Nhóm phát triển
chính sách năng lượng quốc gia được thành lập gồm 15 thành viên gồm nhiều Bộ trưởng
thuộc các Bộ Ngoại giao, Nội vụ, Nơng nghiệp, Thương mại, Giao thơng, Năng lượng,
Tài chính… do Phó Tổng thống Richard Cheney phụ trách.


Ngày 15/7/2001, Tổng thống Bush đã cho công bố để Quốc hội xem xét bản Kế hoạch
Năng lượng quốc gia dài 163 trang gồm 8 phần với hơn 100 kiến nghị hành động. Tám
phần của Kế hoạch là:


1. Đánh giá chung: những thách thức về năng lượng mà Mỹ phải đối mặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

3. Bảo vệ môi trường sống: đảm bảo môi trường trong sạch và sự phát triển lành
mạnh của quốc gia.


4. Sử dụng năng lượng một cách khôn ngoan: tăng hiệu quả sử dụng và đẩy mạnh
công tác bảo tồn năng lượng.


5. Nguồn năng lượng cho một thế kỷ mới: tăng các nguồn cung ứng nội địa.


6. Năng lượng thiên nhiên: gia tăng sử dụng năng lượng có thể tái tạo và nhiều


nguồn năng lượng khác.


7. Cơ sở hạ tầng năng lượng của Mỹ: một hệ thống điều phối tổng hợp.


8. Tăng cường liên minh toàn cầu: củng cố an ninh năng lượng quốc gia và các quan
hệ quốc tế.


<b>Những nội dung chính của kế hoạch năng lượng quốc gia </b>


Kế hoạch năng lượng quốc gia tuân thủ 3 nguyên tắc cơ bản như sau:


1. Là một chiến lược tổng hợp, dài hạn. Khủng hoảng năng lượng được âm ỉ hình
thành từ nhiều năm nên cũng cần nhiều năm để giải quyết, đẩy lùi khủng hoảng.
2. Kế hoạch hướng tới phát triển, sử dụng những kỹ thuật mới, hiện đại nhưng khả


dụng, dễ dùng, an tồn cho mơi trường để tăng cung ứng năng lượng và khuyến
khích sử dụng các nguồn năng lượng sạch hơn, có hiệu quả hơn.


3. Kế hoạch hướng tới mục đích nâng cao mức sống của mọi người dân Mỹ bằng
cách kết hợp hữu cơ các chính sách năng lượng với mơi trường và các chính sách
kinh tế.


Trên cơ sở những nguyên tắc này, Kế hoạch đưa ra 5 mục tiêu quốc gia cụ thể như
dưới đây:


<b>Hiện đại hố cơng tác bảo tồn năng lượng </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Trong 3 thập kỷ qua, nước Mỹ đã đạt được những thành tựu lớn về tăng hiệu quả sử
dụng năng lượng. Ngày nay, các loại ôtô, chỉ sử dụng 60% lượng xăng dầu so với năm
1972, các loại tủ lạnh hoạt động chỉ cần 1/3 lượng điện so với 30 năm trước. Kết quả là


từ năm 1973 đến nay, kinh tế Mỹ tăng trưởng 126% trong khi mức sử dụng năng lượng
chỉ tăng 30%. Chỉ trong thập kỷ 90, sản lượng của ngành chế tạo tăng 41% trong khi tiêu
dùng điện công nghiệp chỉ tăng 11%. Mỹ cần phải tiếp tục phát huy những thành tựu trên
khía cạnh này và tăng cường thực hiện những cam kết tăng hiệu quả sử dụng và bảo tồn
năng lượng.


Dựa trên những thành công lớn đã đạt được, Kế hoạch năng lượng quốc gia yêu cầu
tiếp tục nâng cao hiệu suất và hiệu quả năng lượng. Trong phần này bản kế hoạch đưa ra
những kiến nghị sau:


 Chỉ dẫn các cơ quan Liên bang thực hiện những hoạt động thích hợp, có trách


nhiệm trong sử dụng năng lượng, đặc biệt trong những thời kỳ cao điểm ở những
khu vực thiếu điện và trình lên Tổng thống những hoạt động của mình trong
khn khổ mục tiêu bảo tồn nguồn năng lượng.


 Tăng nguồn vốn dành cho nghiên cứu tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và các


nguồn năng lượng có thể tái tạo, cho các chương trình phát triển năng lượng.


 Tăng hỗ trợ tín dụng cho việc mua sắm các loại xe cộ chạy bằng pin nhiên liệu để


tăng hiệu quả sử dụng nhiên liệu.


 Cấp vốn cho chương trình về "Hệ thống vận tải văn minh" của Chính phủ Liên


bang, chương trình xe bus chạy pin và chương trình xe bus sạch.


 Đưa ra những khuyến khích về thuế để đẩy nhanh phát triển các loại kỹ thuật điện



và nhiệt sạch tổng hợp.


 Hướng dẫn Bộ Giao thông xem xét và đệ trình kiến nghị thành lập các tiêu chuẩn


tiết kiệm nhiên liệu trung bình (CAFE), đưa lên Viện hàn lâm khoa học Quốc gia
vào tháng 7/2001.


<b>Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng năng lượng </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

nguồn nhiên liệu thơ thành các nhiên liệu có thể sử dụng và điện năng. Hệ thống này hiện
có nhiều bất hợp lý, công suất thấp, cần được cải tạo, nâng cấp.


Một trong những nguyên nhân của những bất hợp lý trên là có q nhiều các quy định
của Chính phủ và trong nhiều trường hợp, một số quy định là thái quá. Nhiều quy định là
cần thiết trong những lĩnh vực phức tạp, nhưng đôi khi lại ràng buộc quá chặt, làm chậm
trễ việc cấp phép, hạn chế đầu tư vào phát triển các thiết bị mới, tạo những điểm thắt cổ
chai trong thị trường năng lượng, đẩy giá lên cao và tạo tình trạng cung ứng khơng liên
tục. Nước Mỹ cần nhiều hơn các dự án về năng lượng làm sạch môi trường, gắn các
nguồn cung ứng với thị trường ngày càng lớn mạnh cũng như với việc phân phối năng
lượng có hiệu quả cho các gia đình và các tổ chức kinh doanh.


Để giảm những rủi ro khi mất điện, Mỹ phải tăng mạnh khả năng chuyển tải điện giữa
các khu vực địa lý, tức là vận chuyển từ nơi sản xuất đến những nơi tiêu thụ. Hầu hết các
hệ thống tải điện, các trạm điện được xây dựng từ khi việc sử dụng được quy định chặt
chẽ và chỉ tạo ra các dịch vụ trong một khu vực, do đó hệ thống cũ chưa được trang bị
những thiết bị đáp ứng các nhu cầu trên phạm vi rộng lớn, trong một thị trường có tính
cạnh tranh cao của thế kỷ 21.


Chương trình năng lượng quốc gia sẽ hiện đại hoá và mở rộng cơ sở hạ tầng năng
lượng để đảm bảo cho việc cung ứng năng lượng được thực hiện một cách an toàn, thực


tế, có thể chuyển tải đủ năng lượng cung cấp cho các hộ gia đình và các cơ sở kinh
doanh.


Những kiến nghị được đưa ra trong phần này là:


 Hướng dẫn các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc nâng cao tính an tồn của


hệ thống ống dẫn (dầu, khí), giải quyết những tồn đọng khác liên quan đến hệ
thống ống dẫn.


 Đưa ra một chế độ hành pháp hướng dẫn các cơ quan Liên bang giải quyết vấn đề


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

việc thành lập các cơ chế thích hợp để điều phối việc cấp phép hoạt động của các
cấp trong các khu vực cụ thể.


 Cho phép các cơ quan có thẩm quyền quyền xây dựng các mạng lưới tải điện, các


trạm biến thế cũng như hệ thống ống dẫn khí đốt.


 Ban hành các quy định pháp lý tổng hợp về điện nhằm tăng cạnh tranh, khuyến


khích thành lập các cơ sở phát điện mới, bảo vệ người tiêu dùng, phát triển các
nguồn năng lượng có thể tái tạo.


 Thực hiện một số thay đổi về hành chính và pháp lý để tăng lòng tin vào hệ thống


chuyển tải điện giữa các tiểu bang và ban hành các quy định pháp lý để tăng các
tiêu chuẩn chuyển tải điện.


 Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và phát triển của Bộ Năng lượng về độ tin



cậy trong chuyển tải điện và vật liệu siêu dẫn.
<b>Tăng các nguồn cung ứng năng lượng </b>


Mục tiêu ban đầu của kế hoạch năng lượng quốc gia là tăng thêm mức cung ứng từ
việc đa dạng hoá các nguồn cung ứng năng lượng. Điều này có nghĩa là tăng cung ứng từ
các nguồn dầu mỏ nội địa, khí đốt, than, thuỷ điện, năng lượng hạt nhân và cũng có nghĩa
là tăng sản xuất các nguồn năng lượng có thể tái tạo.


Một khía cạnh của cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay là gia tăng sự phụ thuộc
khơng chỉ vào dầu mỏ nước ngồi mà cịn phụ thuộc vào một số ít các loại năng lượng
được lựa chọn. Chẳng hạn, khoảng 90% các nhà máy điện mới hiện đang xây dựng sẽ
dùng khí đốt thiên nhiên. Sử dụng khí đốt thiên nhiên có nhiều tiện lợi, nhưng việc dựa
quá nhiều vào một loại nhiên liệu sẽ dễ làm lợi ích của người tiêu dùng bị tổn thương
những khi giá cả tăng cao và nguồn cưng ứng gặp sự cố.


Hiện nay nước Mỹ vẫn có đủ trữ lượng than để dùng trong 250 năm nữa. Nhưng có
rất ít nhà máy điện chạy than được xây dựng thêm. Việc nghiên cứu sâu hơn các kỹ thuật
dùng than sạch có thể sẽ làm tăng sự hấp dẫn của than như một nguồn lực cho xây dựng
các nhà máy điện mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

cho 10 tiểu bang ở vùng Đông Bắc, miền Nam và ở giữa miền Tây. Ở một số nước khác
như Nhật và Pháp tỷ lệ phát điện bằng năng lượng hạt nhân còn cao hơn. Tuy nhiên, số
nhà máy điện hạt nhân trên thực tế ở Mỹ theo dự báo giảm dần trong những năm tới khi
các nhà máy cũ đóng cửa mà khơng có những nhà máy mới được xây dựng để thay thế.


Hàng loạt những bước tiến về kỹ thuật đã làm cho việc thăm dò khai thác và sản xuất
dầu mỏ, khí đốt trở nên có hiệu quả hơn và an tồn hơn trong mơi trường. Kỹ thuật cao
hơn cần ít thiết bị hơn, khoan chính xác hơn, phát hiện được nhiều hơn. Những giàn
khoan hiện nay chỉ nhỏ bằng 80% so với thế hệ trước. Các công nghệ khoan cao cho


phép phát hiện các nguồn cung ứng xa từ 5 đến 6 dặm từ vị trí của giàn khoan Compact
đơn lẻ.


Chính sách năng lượng của Mỹ sẽ được thực hiện theo hướng tăng và đa dạng hoá cả
các loại nhiên liệu mới và nhiên liệu truyền thống để đáp ứng tốt các nhu cầu của các hộ
gia đình và các cơ sở kinh doanh, tăng cường an ninh quốc gia và cải thiện môi trường.
Trong phần này Kế hoạch nêu một số kiến nghị như sau:


 Đưa ra một chế độ hành pháp hướng dẫn tất cả cơ quan Liên bang thực hiện các


quy định nhằm tăng cung ứng năng lượng.


 Dành 1,2 tỷ USD từ quỹ về môi trường giao cho ANWR (Arctic National


Wildlife Regue) cấp cho nghiên cứu các nguồn năng lượng có thể tái tạo như sức
gió, năng lượng Mặt trời, rác sinh học và địa nhiệt.


 Ban hành các quy định pháp luật nhằm mở rộng những khuyến khích về thuế


nhiên liệu, khuyến khích sử dụng điện phát bằng sức gió và rác sinh học.


 Cấp 2 tỷ USD trong 10 năm chi cho nghiên cứu công nghệ than sạch và tạo nguồn


tín dụng mới cho sản xuất điện từ đốt rác sinh học bằng than.


 Hướng dẫn các cơ quan Liên bang mơ rrộng việc cấp phép cho các dự án thuỷ


điện kết hợp với những khuyến khích thích hợp để tăng bảo vệ mơi trường.


 Đưa ra các biện pháp tăng độ an toàn trong sử dụng năng lượng hạt nhân bằng



việc thiết lập một kho chôn cất chất thải hạt nhân đồng thời với quá trình cấp phép
cho các nhà máy điện hạt nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

Những cam kết bảo vệ môi trường của Mỹ ngày càng sâu hơn, rộng hơn. Người Mỹ
nhận thức được rằng trong quá khứ họ đã khai thác, sử dụng các nguồn lực của tự nhiên
quá mức, không ai muốn phải lặp lại như vậy nữa. Trong thế kỷ 21, lề lối quản lý, phục
vụ mới đã ăn sâu trong đời sống và pháp luật Mỹ.


Theo Nhóm soạn thảo, Mỹ sẽ không chấp nhận sự lựa chọn sai lầm giữa bảo vệ môi
trường và sản xuất năng lượng. Một sự tiếp cận chính sách kết hợp có thể đem lại cả một
môi trường sạch lẫn một nền kinh tế mạnh mà vẫn đảm bảo cung ứng đủ năng lượng cho
tương lai. Cơ sở ban đầu cho điều này được thấy trong những tiến triển về kỹ thuật sản
xuất và sử dụng năng lượng. Từ năm 1970 mức thải những khí thải chính giảm 31%.
Hiện nay lượng oxít cácbon do ơtơ thải ra giảm 90%. Mức chì thải trong khơng khí hiện
thấp hơn 98% so với năm 1970. Nước Mỹ dùng năng lượng nhiều hơn nhưng mức ô
nhiễm lại giảm đi.


Một trong những nhân tố làm tổn hại đến mơi trường hiện nay là Mỹ chưa có một
chiến lược năng lượng quốc gia tổng hợp, dài hạn. Nhiều tiểu bang chịu cảnh mất điện
thường xuyên đã phải thực hiện những biện pháp riêng đôi khi gây tổn hại đến môi
trường và làm chậm trễ việc thực hiện các cố gắng chống ô nhiễm môi trường. Khả năng
phát điện thấp và việc thực hiện những chính sách thiển cận đã hạn chế xây dựng những
nhà máy mới dùng nhiên liệu sạch để đáp ứng nhu cầu. Việc gia tăng sử dụng những
nguồn điện cần ngay tức thì như máy phát chạy dầu diezel dẫn đến kết quả làm khơng
khí ơ nhiễm mạnh hơn.


Các cơng nghệ chống ơ nhiễm mới hứa hẹn duy trì mơi trường sạch hơn. Trong thế kỷ
21 sẽ phải có nhiều nhà máy phát điện mới, thay thế các nhà máy cũ, lỗi thời. Các kỹ
thuật mới còn giúp thực hiện các cố gắng bảo vệ đất đai. Tất cả đều được đề cập trong Kế


hoạch năng lượng quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

 Ban hành pháp chế "Đa ơ nhiễm", sau đó thành lập một chương trình quản lý linh


hoạt dựa theo các căn cứ thị trường nhằm làm giảm lượng khí thải dioxit sunfua,
dioxit nitơ và thuỷ ngân từ các cơ sở pháp điện.


 Tăng bán ra các công nghệ làm sạch mơi trường, dễ sử dụng và sử dụng có hiệu


quả các nguồn năng lượng.


 Thành lập Quỹ "Bảo tồn vùng mỏ" mới, thu từ việc khai thác dầu khí từ những


khu vực khai thác mới thành lập ở ANWR để cấp cho các cố gắng bảo tồn đất đai
và hầm mỏ.


 Thực hiện những chỉ dẫn mới để giảm những xe tải không chạy ở những bến xe


tải.


<b>Tăng cường an ninh năng lượng </b>


Kế hoạch năng lượng quốc gia tìm kiếm các biện pháp giảm ảnh hưởng của những
biến động giá cả và những bất ổn định trong cung ứng năng lượng đối với cuộc sống của
cư dân Mỹ. Đồng thời với việc làm giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng nhập
khẩu, Mỹ vẫn cần một tỷ lệ đáng kể năng lượng nhập khẩu. An ninh năng lượng cần
được ưu tiên trong các chính sách thương mại và đối ngoại của Mỹ. Người Mỹ phải nhìn
rộng ra bên ngồi và khơi phục lại lịng tin của các nhà cung ứng nước ngoài đối với
nước Mỹ. Hơn nữa nhà nước Mỹ phải tạo lập các quan hệ vững chắc đối với các quốc
gia cung cấp năng lượng ở Tây bán cầu, cải thiện triển vọng các quan hệ thương mại và


đầu tư với các quốc gia này.


An ninh năng lượng quốc gia cũng đòi hỏi Chính phủ Mỹ phải chuẩn bị cho việc đảm
bảo cung ứng trong những tình huống cấp bách, trợ giúp những người Mỹ có thu nhập
thấp do đó cuộc sống dễ bị ảnh hưởng lớn bởi những biến động trong cung ứng, sự tăng
giá cũng như trong điều kiện thời tiết biến đổi thất thường.


Để đảm bảo an ninh năng lượng cho cả quốc gia và cho mỗi gia đình Mỹ, phần này
đưa ra những kiến nghị như sau:


 Lập ra một quỹ mới cho chương trình trợ giúp năng lượng cho các hộ có thu nhập


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

 Tăng gấp đơi quỹ cho "chương trình trợ giúp biến động thời tiết" của Bộ năng


lượng, tăng mức chi khoảng 1,4 tỷ USD trong 10 năm.


 Hướng dẫn Cơ quan quản lý năng lượng Liên bang chuẩn bị kỹ trong những


trường hợp xuất hiện các tình huống phải trợ cấp liên quan đến năng lượng.


 Trợ giúp Chương trình năng lượng Bắc Mỹ để mở rộng các hoạt động đầu tư qua


biên giới liên quan đến năng lượng, các đường ống dẫn dầu khí, các trạm biến thế
điện, giải quyết ngay các thủ tục cấp phép với Mêhicô và Canadda. Chỉ dẫn các cơ
quan liên bang giải quyết ngay các vấn đề tồn tại để thông suốt tuyến đường ống
dẫn khí đốt từ Alaska đến 48 tiểu bang của Mỹ.


Trong “Chính sách năng lượng quốc gia” được Tổng thống Bush phát biểu vào tháng
5/2001, việc mở rộng sử dụng điện hạt nhân đã trở thành yếu tố rất quan trọng và cần
thiết. Trong thời gian tới, có khả năng các nhà máy điện hạt nhân mới sẽ được xây dựng.


Mặt khác, tuy đến thời điểm năm 1990, tỷ lệ sử dụng thiết bị của nhà máy điện hạt nhân
đang vận hành đã giảm xuống dưới 65%, nhưng sau đó lại tăng dần lên và đến năm 2000
đã đạt kỷ lục cao nhất là 89,6%. Hiệu suất vận hành và tuổi thọ của lò phản ứng tăng lên,
chi phí phát điện của các nhà máy hạt nhân năm 1999 là 1,83 cent/kWh, rẻ hơn cả điện
than là 2,07 cent/kWh.


<b>3.2. Chiến lược năng lượng của Nga</b>


Mục tiêu của Chính sách năng lượng, đồng thời cũng là ưu tiên cao nhất của "Chiến
lược năng lượng của Nga đến năm 2020" là sử dụng có hiệu quả tối đa nguồn nhiên
liệu-năng lượng (NLNL) thiên nhiên của đất nước và tiềm nưng sẵn có của ngành liệu-năng
lượng, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân
Nga.


Nhiệm vụ chủ yếu của "Chiến lược năng lượng của Nga đến năm 2020" là xác định
các giải pháp đạt trình độ mới với chất lượng, thoả mãn yêu cầu trên cơ sở đánh giá tiềm
năng và các ưu tiên phát triển của ngành năng lượng; hình thành các biện pháp và cơ chế
chính sách có xét đến các kết quả dự báo và tình hình thực tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

 Đảm bảo cung cấp đủ và tin cậy các nguồn năng lượng, ưu tiên cung cấp nguồn


năng lượng tại chỗ, giảm rủi ro, không để xuất hiện tình trạng khủng hoảng năng
lượng trên đất Nga;


 Nâng cao hiệu quả, giảm chi phí sản xuất, ứng dụng cơng nghệ và thiết bị tiết


kiệm-bảo toàn năng lượng, tối ưu hoá cơ cấu cân bằng nguồn NLNL, sử dụng hợp
lý cơ sở nguyên-vật liệu, giảm tổn thất trong khai thác, chế biến, vận chuyển sản
phẩm trong khuôn khổ Hệ thống NLNL.



 Tăng mức đóng góp của Hệ thống NLNL vào phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH),


đảm bảo phát triển bền vững tình hình tài chính cho các doanh nghiệp năng lượng;


 Giảm thiểu tác động của công nghệ năng lượng đến môi trường, khi đưa vào ứng


dụng công nghệ mới trong khai thác, chế biến, vận chuyển và bao gói sản phẩm.
Hiện tại, Hệ thống NLNL là một trong những lĩnh vực có hoạt động sản xuất ổn định
nhất ở Nga. Hệ thống NLNL có tác động tích cực đến hiện trạng và triển vọng phát triển
nền kinh tế Nga: số nhân lực làm việc trong Hệ thống NLNL chỉ chiếm 3-4% tổng số
nhân lực của toàn bộ nền kinh tế, nhưng mang lại 25% GDP, 30% sản phẩm công
nghiệp, 54% cho ngân sách Liên bang. Tuy nhiên, trong Ngành năng lượng cũng còn tồn
tại một số vấn đề chưa được giải quyết, bao gồm:


 Ngành năng lượng còn phụ thuộc quá nhiều vào lĩnh vực dầu-khí, hậu quả là thu


nhập của Ngành năng lượng bị lệ thuộc vào cục diện của thị trường dầu khí thế
giới;


 Tỷ trọng của ngành năng lượng Nga trong nền kinh tế quá lớn (gấp 3-4 lần so với


của các nước phát triển khác);


 Mức hao mịn vốn cố định rất cao: trung bình của tồn ngành là 50%, riêng của


lĩnh vực dầu khí là 80%. Đây là yếu tố tiềm tàng, có thể nảy sinh tình trạng, gọi là
"Sự cố (thảm hoạ) cơng nghệ".


 Sự mất cân đối trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng giữa các vùng lãnh thổ:



</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

 Hoạt động của ngành năng lượng còn gây ảnh hưởng nặng cho môi trường, cho


dù mức độ đã được cải thiện đáng kể so với trước năm 1990.


Định hướng cơ bản, xuyên suốt của "Chiến lược năng lượng của Nga đến năm 2020"
là "Hình thành cán cân NLNL hợp lý, cân đối cho nước Nga". Định hướng này được sử
dụng làm cơ sở cho việc xây dựng các công cụ và cơ chế thích ứng trong điều chỉnh kinh
tế trong phạm vi Hệ thống NLNL. Trên cơ sở các thông số kinh tế vĩ mô đã dự báo,
ngành năng lượng tiến hành xác định khối lượng cần thiết và cơ cấu tiêu thụ năng lượng,
mức xuất khẩu, đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế như đã dự báo đến năm 2020.


Theo Chiến lược này, sản lượng nguồn NLNL đến năm 2020 ước đạt 1810-2040 triệu
tấn quy chuẩn. Cơ cấu tiêu thụ năng lượng sẽ như sau: nhiên liệu tăng 23-26%, trong đó
khí thiên nhiên tăng 15-27%, than 39-50%, điện nguyên tử tăng 1,7-2,2 lần. Dự báo, tỷ
trọng khí thiên nhiên sẽ giảm từ 50% (năm 2001) xuống còn 46-45% (năm 2020). Khối
lượng khí khai thác đến năm 2020 sẽ đạt 682-730 tỷ m3/năm, dầu mỏ sẽ đạt mức
450-520 triệu tấn/năm, trong đó dầu chế biến trong nước ước đạt 191-215 triệu tấn/năm, than
khai thác cũng tăng tới mức 375-445 triệu tấn/năm.


Tổng sản lượng điện đến năm 2020 sẽ tăng tới mức 1215-1365 tỷ kWh/năm. Chiến
lược phát triển ngành điện của Nga vẫn giữ nguyên theo định hướng ưu tiên phát triển
điện nguyên tử. Tỷ trọng điện nguyên tử sẽ tăng từ 15% (năm 2000) lên 22-25% (năm
2020).


Một định hưởng không thể bỏ qua trong "Chiến lược Năng lượng" là thực hiện "Chính
sách sinh thái", nghĩa là phải đảm bảo an toàn sinh thái cho đất nước, nhưng vẫn đáp ứng
tốc độ dự báo phát triển của ngành năng lượng, giảm thiểu tác động tiêu cực của công
nghệ đối với mơi trường và sinh thái ở khu vực có các xí nghiệp năng lượng hoạt động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

Về hoạt động kinh tế đối ngoại trong lĩnh vực năng lượng, nước Nga sẽ thực hiện theo


các định hướng sau:


 Tăng xuất khẩu nhiên liệu;


 Vận tải quá cảnh nguồn năng lượng;


 Nghiên cứu áp dụng, khai thác nguồn năng lượng trên lãnh thổ của các nước khác.


Nhà nước hỗ trợ các công ty Nga tham gia các dự án đầu tư ở nước ngoài;


 Củng cố, cải thiện vị thế của Nga ở các thị trường nước ngoài, hoà nhập vào khu


vực năng lượng của nước bản địa, tham gia phát triẻn cơ sở hạ tầng năng lượng
của các nước;


 Thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất, vận chuyển và chế biến nguồn năng


lượng ở Nga.


Một trong những mục tiêu chiến lược để củng cố vị thế và vai trò của Nga trên thế giới
là tăng cường vị trí của Nga trên thị trường dầu mỏ và khí thiên nhiên trên thế giới. Để
đảm bảo an ninh kinh tế và an ninh năng lượng, nước Nga sẽ thực hiện đa dạng hoá xuất
khẩu năng lượng (với các nước Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Bắc Á). Mỹ vẫn là thị trường
lớn và lâu dài của Nga. Tuy nhiên, trong tương lai, thị trường lớn nhất và quan trọng, mà
Nga tính tới là khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Nam Á. Những đối tác lớn nhất sẽ
là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ. Đây là những thị trường tiêm năng lớn
tiêu thụ khí thiên nhiên, dầu mỏ, điện, công nghệ và nhiên liệu hạt nhân của Nga.


Để hiện thực hoá chiến lược nêu trên, ngành năng lượng tiến hành Chính sách Khoa
học và Cơng nghệ trên cơ sở:



 Duy trì và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, bao gồm cả khoa học cơ


bản, khoa học ứng dụng, hiện đại hoá cơ sở thực nghiệm và Hệ thống thông tin
khoa học và cơng nghệ;


 Hình thành các điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học và


phát triển công nghệ, đổi mới một cách cơ bản cơ sở công nghệ sản xuất, đảm bảo
nguồn lực, cải thiện chất lượng sản phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

 Phát triển ổn định, đáp ứng yêu cầu về NLNL của thị trường trong và ngoài nước;
 Nguồn thu lớn và ổn định của ngân sách nhà nước;


 Tạo ra nhiều việc làm mới trong và ngoài ngành;


 Nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân, thông qua triển khai rộng rãi q


trình điện khí hố và khí hố, góp phần ổn định xã hội.
<b>3.3. Chiến lược năng lượng của Trung Quốc</b>


Trước tình trạng bất ổn định về năng lượng trên thế giới, các nước Âu Mỹ và Nhật
Bản phải đi tìm một chiến lược mới, kể cả việc phát triển năng lượng hạt nhân để bảo
toàn sự phát triển kinh tế của họ, vì đa số các nước này cịn tuỳ thuộc nguồn năng lượng
ở ngoài. Năng lượng ngày nay đang trở thành một vũ khí chính trị hàng đầu. Các nước
đang đang tiến hành cơng nghiệp hố có tăng trưởng kinh tế cao, như Trung Quốc, Ấn
Độ, Braxin... cũng không khoanh tay chờ giá dầu giảm xuống. Họ cũng có chiến lược


riêng cho họ.



Về năng lượng, nếu Trung Quốc là nước sản xuất và xuất khẩu thứ nhất trên thế giới về
than đá, tương ứng là 2,2 tỷ tấn và 80 triệu tấn trong năm 2005, thì các nguồn năng lượng
khác như dầu, các loại khoáng sản đều phải nhập từ nước ngồi, đặc biệt từ vùng Trung
Đơng, châu Phi và các nước Trung Á. Hiện nay, Trung Quốc là nước có mức tiêu dùng
dầu thứ 2 trên thế giới sau Mỹ.


Muốn nhập dầu từ Trung Đông và châu Phi, con đường duy nhất cho Trung Quốc là
đường biển, mà hiện nay do hải quân Mỹ kiểm soát, chưa nói đến hải tặc xung quanh eo
biển Malacca. Cần nhắc lại là eo biển Malacca là nơi 80% dầu nhập của thế giới phải đi
qua (theo Báo Le Monde, 21/10/2005). Như vậy, Trung Quốc cần phải có một chiến lược
toàn cầu dài hạn để bảo toàn sự phát triển của quốc gia. Do đó, mối quan tâm của Bắc
Kinh là tìm nguồn năng lượng ở nước ngồi mà khơng bị Mỹ ngăn chặn trong trường hợp
xung đột với Đài Loan.


Trong khi chờ đợi trường hợp nói trên có thể xảy với hậu quả khó lường, Trung Quốc
đã bắt đầu thực hiện chiến lược tìm nguồn năng lượng mới. Chiến lược này bao gồm
chiến lược ngoại giao toàn cầu và chiến lược tìm nguồn năng lượng thay thế ở trong
nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

Trong hai hướng đi tìm nguồn năng lượng mới, chiến lược ngoại giao toàn cầu trở
thành quốc sách. Chiến lược này bao gồm nhiều hình thức, từ các chuyến công du của
lãnh đạo tới nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có tiềm năng dầu hoả và
khoáng sản. Đồng thời, Bắc Kinh trải thảm đỏ mời lãnh đạo các nước sản xuất dầu khí
tới thăm nước mình.


Ngày nay, châu Mỹ La-tinh và châu Phi khơng cịn là vùng “cấm địa“ của Mỹ và
Phương Tây. Trung Quốc khơng những có mặt ở hai lục địa này mà còn tranh chấp giành
hợp đồng mua bán dầu. Trong chiến lược này, châu Phi và các nước Trung Á được Bắc
Kinh đặc biệt quan tâm. Để thực hiện chiến lược này, Trung Quốc cho thành lập 3 tập
đồn quốc gia chun trách về dầu khí. Các tập đồn này có nhiệm vụ mua, tham gia cổ


phần và khai thác các giếng dầu khí trong và ngồi nước. Ba tập đồn có tên như sau:
Tập đồn Dầu hoả Quốc gia (China National Petroleum Corporation) gọi tắt là CNPC,
Petrochina là chi ngánh của CNPC; Tập đồn Dầu khí Hải ngoại Quốc gia của Trung
Quốc (China National Oil Offshore Company) gọi tắc là CNOOC; Tập đồn Dầu khí và
Hố chất Trung Quốc (China Petroleum and Chemical Corporation) gọi tắt là SINOPEC.
Trung Quốc đang tích cực tìm kiếm nguồn dầu mỏ của châu Phi. Riêng số dầu nhập từ
châu Phi đã đáp ứng được 1/3 nhu cầu năng lượng của Trung Quốc. Năm 2005, Trung
Quốc đã đầu tư vào lĩnh vực khai thác dầu khí ở Angola 3 tỷ USD và ở Nigeria 2,27 tỷ
USD, chủ yếu tập trung vào thăm dị và khai thác dầu khí ở ngồi khơi, thuộc vùng nước
sâu. Với khoản tiền đầu tư của Trung Quốc, Angola hy vọng sẽ nhanh chóng tăng sản
lượng dầu khí 1,25 triệu thùng/ngày năm 2005 lên 2 triệu thùng/ngày vào năm 2008.
Trong chuyến thăm Mỹ Nigeria vừa qua của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, Trung
Quốc đã ký với nước này thoả thuận tham gia khai thác dầu mỏ trị giá 4 tỷ USD. Tổ hợp
Dầu khí Quốc gia CNOOC của Trung Quốc cũng đã giành được quyền thăm dị 6 lơ dầu
trên diện tích hơn 115 nghìn km2<sub> ở ngồi khơi Kenia. </sub>


<b>Tìm nguồn năng lượng mới trong nước </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

năng lượng và Đạo luật về nguồn năng lượng thay thế. Trong chiến lược này, Trung
Quốc dự định sẽ đầu tư 180 tỷ USD trong 15 năm tới để nâng nguồn năng lượng thay thế
từ 7% lên 15% trong tiêu dùng. Trong lĩnh vực này, các nước Bắc Âu đã đi khá xa như
Thuỵ Điển đã có 27,8%, Phần Lan 21,3%, Áo 21%. Muốn hiểu rõ lý do, chúng ta hãy
khảo sát tình trạng năng lượng của Trung Quốc hiện nay:


<i><b>Than đá</b></i>


Trong những năm gần đây, năng lượng tiêu dùng của Trung Quốc gồm có 67-70 %
than đá, 23% dầu, 2,8% khí đốt và 7,4% thuỷ điện. Than đá là nguồn năng lượng tiêu
dùng ở mức còn quá cao, gấp 3,5 lần so với bình quân thế giới, vì lẽ Trung Quốc là nước
sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới. Với nguồn dự trữ 115 tỷ tấn, Trung Quốc sản


xuất hơn 2 tỷ tấn năm 2005 so với 1 tỷ tấn năm 2000. Nhưng sử dụng than đá làm năng
lượng đã trở thành một vấn đề lớn về môi sinh và xã hội. Theo một tài liệu nghiên cứu
gần đây của trường Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, 63,3% của 338 thành phố Trung
Quốc bị ơ nhiễm ở mức trung bình và nặng. Số lượng của chất thải này tăng gần gấp đôi
trong năm 2005 so với 2002 (từ 6,6 triệu tấn lên 12,86 triệu tấn). Sản xuất than đá của
Trung Quốc chiếm 1/3 sản lượng thế giới, nhưng mức độ ô nhiễm chiếm đến 3/4. Về các
mỏ than, Trung Quốc có 28.000 mỏ, trong đó có 20.000 mỏ tư nhân và sử dụng 3 triệu
nhân công. Trong năm 2005, tai nạn ở các mỏ than làm 6.000 người chết (The Christian
Science Monitor 27/1/2006). Trong năm 2005, Chính phủ bắt buộc phải đóng cửa 2.400
mỏ và ra lệnh đóng cửa 13.000 mỏ khác (Xinhua 26/12/2005). Trước tình trạng đó,
Chính phủ Trung Quốc dự trù giảm dùng 10% than đá từ nay cho đến năm 2015 và cấm
xây dựng các nhà máy điện dùng than đá. Ngược lại, họ khuyến khích xây các nhà máy
chuyển than đá thành khí đốt (Coal to Oil). Một nhà máy đầu tiên sẽ được xây ở Nội
Mơng với chi phí 2,96 tỷ USD tương đương với 24,5 tỷ NDT.


<i><b>Điện lực </b></i>


Điện lực là một nguồn năng lượng cần thiết cho tiêu dùng và sản xuất cơng nghiệp. Về
phương diện này, Trung Quốc cịn yếu kém. Để bù đắp sự thiếu hụt về điện lực, nhà
nước Trung Quốc dành một khoản kinh phí lớn để đầu tư vào khu vực này trong nhiều


lĩnh vực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

đương với sản xuất bổ sung mỗi năm 36 triệu kW. Năm 2005, Trung Quốc có tổng cơng
suất điện là 510 triệu kW tăng 15% so với 2004. Nhu cầu mỗi ngày càng tăng cao nhưng
sản xuất chưa đáp ứng, mặc dù Trung Quốc đã đầu tư mạnh trong lĩnh vực này. Hiện nay
cả nước còn thiếu từ 20 đến 30 triệu kW điện, đặc biệt là ở 3 tỉnh có nền sản xuất cơng
nghiệp cao, như Thượng Hải, Giang Tơ và Chiết Giang, trung bình có 11 ngày trong
tháng khơng có điện, 8.000 xí nghiệp phải chia nhau nghỉ việc. Tình trạng thiếu điện này
làm ngành cơng nghiệp thiệt hại nhiều trăm tỷ Nhân dân tệ (NDT).Về thuỷ lợi, Đập


khổng lồ Tam Hiệp đang được xây dựng trên sông Trường Giang dự trù hồn thành vào
năm 2009 sẽ có công suất thiết bị 18,2 triệu kW (Xinhua 14/2/06).


Về điện hạt nhân, Trung Quốc cũng có nhiều cố gắng đáng kể với sự hợp tác của nước
ngoài, đặc biệt với Pháp và Canađa. Tập đoàn Năng lượng Hạt nhân Quảng Đông (China
Guangdong Power), thành lập năm 1994, hiện nay kiểm soát 4 nhà máy điện hạt nhân
với sự hợp tác của Pháp: 2 nhà máy ở Lingao và 2 nhà máy ở bãi Daya thuộc tỉnh Quảng
Đông. Bốn nhà máy này có năng suất 4 triệu kW/năm. Một nhà máy hạt nhân khác do
tập đồn nói trên kiểm soát sẽ được xây dựng ở Thiều Quan (Shaoguan) cũng thuộc tỉnh
Quảng Đông với vốn đầu tư 100 tỷ NDT (12,5 tỷ USD). Nhà máy này sẽ có năng suất 4
triệu kW vào lúc ban đầu và dự trù tăng lên 20 triệu kW vào năm 2020 (Xinhua 16/2/06).
Ngoài ra, còn một số nhà máy nhỏ khác đang được thiết lập ở Chiết Giang, Giang Tơ và
Sơn Đơng.


Tính đến tháng 4/2004, Trung Quốc đã có 9 lị phản ứng hạt nhân đang hoạt động với
tổng công suất 6.750 MW, điện hạt nhân chiếm khoảng 2,5% tổng sản lượng điện. Chính
phủ Trung Quốc đang xem xét khả năng xây dựng trong tương lai 26 tổ máy hạt nhân
mới. Theo kế hoạch, công suất điện hạt nhân của Trung Quốc đến năm 2025 sẽ lên tới
21.000 MW. Chính sách về điện hạt nhân của Trung Quốc trong những năm tới là hợp
tác với các cơng ty nước ngồi để nhanh chóng nội địa hóa và tiêu chuẩn hóa loại lị
PWR 1.000-1.300 MWe, chuẩn bị cho việc xây dựng loại lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ
(Light Water Reactor-LWR) thế hệ mới, nâng cao độ an tồn và tính cạnh tranh kinh tế
của điện hạt nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Với một bờ biển dài, Trung Quốc là một quốc gia có nhiều tiềm năng về năng lượng
gió nhưng chưa được khai thác đúng mức. Dự án điện gió thử nghiệm đầu tiên của Trung
Quốc được bắt đầu từ năm 1986. Trong 20 năm qua, tận dụng các khoản viện trợ nước
ngoài và các khoản vay lãi suất thấp, Trung Quốc đã phát triển thêm nhiều khu điện gió,
hịa mạng vào lưới điện quốc gia. Năm 1994, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Điện đã ra quyết
định đẩy mạnh phát triển năng lượng gió - một quyết định hết sức khó khăn. Lý do là vì


vào thời điểm đó, năng lượng gió trên thế giới vẫn chưa phát triển, đồng thời nhiệt điện
than khá rẻ và vẫn còn tương đối dồi dào. Hiểu được điểm yếu này của điện gió so với
các nguồn năng lượng truyền thống khác, Bộ Năng lượng của Trung Quốc đã định
hướng phát triển điện gió thơng qua việc giảm giá thành bằng cách phát triển những dự
án quy mô lớn, đồng thời địa phương hóa các nhà máy sản xuất tuabin gió. Với chính
sách đúng đắn đó, thị trường điện gió ở Trung Quốc được hình thành và đến cuối năm
2004 Trung Quốc đã có 43 khu điện gió với tổng cơng suất là 850 MW. Trong năm
2005, có thêm 450 MW điện gió. Chính phủ Trung Quốc đặt mục tiêu đến năm 2020,
cơng suất điện gió của nước này sẽ tăng lên tới 20.000 MW, tức là gấp 20 lần so với hiện
nay.


<i><b>Khí đốt </b></i>


Tỷ trọng khí đốt trong tiêu dùng năng lượng của Trung Quốc hiện nay chỉ chiếm 2,8%
so với 21% ở các nước khác. Trung Quốc dự trù sẽ tăng tỷ lệ này lên 10% trong 15 năm
tới. Một ống dẫn khí đốt dài 4000 km từ Tân Cương về Thượng Hải đi qua 8 tỉnh được
xây dựng trong năm 2004. Ống dẫn khí đốt này có thể chuyển tải 12 tỷ m3<sub>. Trung Quốc</sub>


dự trù tăng sản xuất khí đốt lên 90-100 tỷ vào năm 2010 và 150-170 tỷ m3<sub> vào năm 2020</sub>


nhờ khai thác tìm nguồn dự trữ từ 400 đến 500 tỷ m3<sub>/năm. </sub>


Để đáp ứng nhu cầu trong tương lai, Trung Quốc đã bắt đầu cho xây cất 4 ống dẫn
khác để tiếp nhận khí đốt hố lỏng từ Ơxtrâylia. Ba ống xây dựng ở Quảng Đông, Chiết
Giang và Phúc Kiến, ống thứ tư ở Sơn Đông. Petrochina của CNPC đã ký ngày
2/03/2006 một hợp đồng hợp tác với Tập đoàn dầu khí Total của Pháp để khai thác khí
đốt ở lưu vực Ordos, phía Bắc giữa Thiểm Tây và Bắc Kinh. Lưu vực này có nguồn dự
trữ lên đến 100 tỷ m3<sub>. </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

Từ 1995 đến 2005, tiêu dùng dầu của Trung Quốc tăng 92,5% (310 triệu tấn so với


161 triệu tấn), trong khi sản xuất chỉ tăng 16,7%. Hậu quả là nhập khẩu dầu của Trung
Quốc tăng 11,5 lần, từ năm 1995 đến năm 2005. Trung Quốc là nước tiêu thụ dầu nhiều
thứ 2 trên thế giới sau Mỹ. Tăng trưởng tiêu thụ dầu ngoài lý do sản xuất cịn thêm lý do
phung phí. Chẳng hạn, muốn sản xuất 1 đơn vị GDP, Trung Quốc phải tiêu dùng 4-5 lần
năng lượng nhiều hơn châu Âu, trong khi xe hơi do Trung Quốc chế tạo đốt dầu từ
20-30% nhiều hơn xe Phương Tây. Hiện nay Trung Quốc nhập 50% dầu từ vùng Trung
Đơng, trong đó 15-17% từ A–Rập Xê-út, 13% từ Iran, 7% từ Sudan. Phần còn lại từ các
nước Bắc Phi (Algeria, Libye), châu Phi (Nigeria, Angola, Guinée-Equatoriale, Gabon,
Congo-Brazzaville v.v...), Nga và các nước Trung Á.... Trung Quốc với khối lượng nhập
130 triệu tấn hiện nay, phụ thuộc vào 42-45% nguồn dầu hoả từ bên ngoài và con số này
sẽ lên đến 60% trong năm 2020. Theo các chuyên gia, Trung Quốc sẽ nhập 300 triệu tấn
dầu trong số 500 triệu tấn năng lượng vào năm 2020.


<i><b>Chiến lược dầu mỏ của Trung Quốc nhằm đảm bảo an ninh kinh tế</b></i>


Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng dầu hoả chỉ biểu trưng cho 10% trong lĩnh
vực kinh tế, nhưng lại chiếm 90% trong lĩnh vực chính trị. Trong một thập kỷ qua, mức
tiêu thụ dầu của Trung Quốc không ngừng tăng cao. Với mức tiêu thụ 5,46 triệu
thùng/ngày, nhưng sản xuất chỉ đạt 3,4 triệu thùng/ngày, Trung Quốc đã vượt qua Nhật
Bản để trở thành quốc gia đứng nhì thế giới về mức tiêu thụ dầu (sau Mỹ) (Bảng 8).
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, tỷ lệ giữa dầu nhập và tổng lượng dầu cho cả nước
từ 34% năm 2002 sẽ lên đến hơn 80% năm 2030, quy về lượng là tương đương với gần
10 triệu thùng dầu/ngày.


<i>Bảng 8. Thông tin về dự báo dầu khí Trung Quốc</i>


<i><b>Nội dung</b></i> <i><b>2001 2005 2010 2015 2020</b></i>


Sản xuất dầu thô (triệu thùng/ngày) 3,2 3,5 3,6 3,5 3,5



Cầu về dầu (triệu thùng/ngày) 5,0 5,5 6,5 7,7 9,4


Năng lượng tiêu thụ (triệu tỷ BTU) 39,6 43,2 54,4 65,5 77,6
Năng lượng dùng cho phát điện (triệu tỷ


BTU):


- Dầu 0,7 0,8 0,9 1,1 1,3


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<i>Ghi chú: 1 BTU = 1,055 KJ = 0,25 Kcal</i>


Về bình quân trữ lượng năng lượng của Trung Quốc thấp hơn rất nhiều so với mức
bình quân chung của thế giới. Năm 2000, bình qn khai thác dầu mỏ, khí thiên nhiên và
than đá tính theo đầu người của Trung Quốc lần lượt chỉ bằng 11,1%, 4,3% và 55,4% so
với mức bình quân chung của thế giới. Đến nay, Trung Quốc đang bước vào thời kỳ
công nghiệp nặng. Một trong những đặc trưng của giai đoạn này là nhu cầu rất lớn về
năng lượng và tài ngun. Hiện nay, đơ thị hóa ngày càng nhanh và nông dân đổ dồn
vào thành phố làm việc ngày càng đơng. Theo tính tốn, mức tiêu thụ năng lượng bình
quân của cư dân thành thị gấp nông dân khoảng 3,5 lần. Theo sự phân công của tồn cầu
hóa kinh tế, Trung Quốc đang trở thành cơ sở gia công lớn nhất thế giới, nên các ngành
chế tạo tiêu hao nhiều năng lượng đang chuyển dần vào Trung Quốc.


Là nước có sản lượng khai thác dầu thứ 5 thế giới, nhưng hơn 10 năm qua, Trung
Quốc đã không ngừng tăng mức nhập khẩu dầu do nhu cầu trong nước tăng quá nhanh.
Vì thế, an ninh năng lượng đang là mối quan tâm hàng đầu của Trung Quốc. Nước này
đã được lập ra một cơ quan, trực thuộc Uỷ ban Phát triển và Cải cách Nhà nước, chuyên
nghiên cứu các chiến lược năng lược của Mỹ và Nga để tìm ra đối sách đúng đắn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

Tóm lại, sự phụ thuộc của Trung Quốc đặc biệt nhạy cảm trong lĩnh vực năng lượng.
Sự phụ thuộc này sẽ ngày càng rõ hơn trong những năm tới. Khoảng cách giữa nhu cầu


và sản xuất trong nước ngày càng lớn và lượng dầu nhập khẩu so với tiêu thụ tăng không
ngừng (6,6% năm 1995, 25% năm 2000, 30% dự kiến năm 2010 và 50% vào năm
2020). Trung Quốc còn nhận thấy rằng nếu nhập khẩu 50 triệu tấn dầu hàng năm thì
nước này đã nằm dưới sự kiểm sốt của nước ngồi về các thị trường quốc tế. Thế mà
Trung Quốc đã nhập khẩu 70 triệu triệu tấn năm 2002 và khoảng 100 triệu tấn năm
2003. Từ 100 tấn trở lên thì Trung Quốc phải đảm bảo an ninh cho các nguồn cung cấp
năng lượng cho mình bằng các biện pháp kinh tế và quân sự, hoặc qua con đường ngoại
giao. Đảm bảo an ninh cho các nguồn cung cấp dầu trở nên sống còn đối với Trung
Quốc.


Theo lời một quan chức thuộc Uỷ ban cải cách và phát triển quốc gia Trung Quốc là
cơ quan hoạch định chính sách kinh tế hàng đầu nước này - thì từ ngày 29/1/2007, Trung
Quốc đã chính thức khởi động kho dự trữ dầu chiến lược của riêng mình. "So với Mỹ và
Nhật, Trung Quốc đã muộn trong việc xây dựng kho dự trữ dầu chiến lược của riêng
mình, đồng thời quy mô và trữ lượng nhỏ hơn", Zhu Hongren, một quan chức thuộc Uỷ
ban cải cách và phát triển quốc gia Trung Quốc, cho biết. Kho dự trữ dầu chiến lược đầu
tiên này của Trung Quốc được đặt tại Ningbo, phía Đơng tỉnh Chiết Giang.


Việc Trung Quốc chính thức khởi động kho dự trữ dầu chiến lược diễn ra trong bối
cảnh Cục Thống kê Nhà nước Trung Quốc vừa công bố số liệu thống kê sơ bộ cho thấy
GDP của quốc gia này trong năm 2006 lên tới 2.700 tỷ USD, tăng tới 10,7% so với năm
trước. Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi cần nhiều và nhiều dầu thơ hơn nữa và đó là một khó
khăn của Trung Quốc trong việc tìm đủ nguồn cung đáp ứng nhu cầu của mình. Số liệu
thống kê cho thấy nhập khẩu dầu của Trung Quốc đã tăng 14,5% so với năm trước đó,
lên đạt 145,2 triệu tấn trong năm 2006 (tương đương nhập về 2,9 triệu thùng mỗi ngày).


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

mạnh hơn nữa, qua đó bổ sung nguồn năng lượng cho phát triển kinh tế quốc gia, giảm
sự lệ thuộc mạnh mẽ vào dầu.


<b>3.4. Chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng mới của Nhật Bản</b>



Trước thực tế giá dầu liên tục ở mức cao cũng như nguy cơ xảy ra một cuộc khủng
hoảng về dầu mỏ mới, Nhật Bản đang tích cực xúc tiến các biện pháp nhằm đảm bảo an
ninh năng lượng cho mình, thơng qua việc xây dựng một chiến lược năng lượng mới.


Chiến lược năng lượng mới nhấn mạnh ba vấn đề cơ bản là bảo đảm an ninh năng
lượng; giải quyết đồng bộ vấn đề năng lượng-mơi trường; đóng góp tích cực vào việc
giải quyết những vấn đề liên quan nhu cầu sử dụng năng lượng của thế giới. Theo đó,
một trong 5 mục tiêu cơ bản của Nhật Bản đến năm 2030 là tăng khả năng sản xuất điện
hạt nhân từ 30 lên hơn 40% và nâng tỷ lệ nhập khẩu dầu thơ Nhật Bản có quyền khai
thác từ bên ngồi từ 15% lên 40%. Nhật Bản cũng đặt mục tiêu nâng tỷ trọng điện hạt
nhân trong tổng lượng điện của nước này lên mức hơn 33% hiện nay. So với các chính
sách năng lượng trước đây, chiến lược năng lượng hiện nay của Nhật Bản chú trọng hơn
việc bảo đảm an ninh năng lượng và coi việc dùng năng lượng hạt nhân là yếu tố quan
trọng trong chiến lược này


Nhật Bản là một nước cơng nghiệp phát triển và có mức tiêu thụ dầu khí lớn, đứng
hàng thứ ba trên thế giới, sau Mỹ và Trung Quốc. Với số dân 123 triệu người, Nhật Bản
gần như dựa hoàn toàn vào dầu nhập khẩu, trong đó 90% là từ Trung Đơng, một khu vực
thiếu an ninh nhất trên bản đồ chính trị toàn cầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Điều đáng chú ý trong chiến lược nói trên, chính là ở chỗ Nhật Bản quay lại Chương
trình điện hạt nhân của mình sau một thời gian dài sao nhãng, do những sự cố kỹ thuật và
sự không đồng thuận của dư luận xã hội.


Chiến lược năng lượng mới của Nhật Bản kêu gọi giảm phụ thuộc vào dầu mỏ từ
50% mức hiện nay xuống còn 40% hoặc thấp hơn vào năm 2030, đẩy mạnh phát triển
năng lượng hạt nhân và đảm bảo nguồn năng lượng nhập từ nước ngồi thơng qua việc
thúc đẩy phát triển nhiều công ty điện lực mạnh hơn.



Những biện pháp này của Nhật Bản sẽ đảm bảo nguồn cung cấp dầu mỏ cũng như
nguồn năng lượng khác ổn định nhằm thúc đẩy nền kinh tế nước này phát triển. Trong
lúc giá dầu lửa đang tăng cao, cuộc cạnh tranh về nguồn dự trữ dầu mỏ trên toàn cầu vẫn
diễn ra khốc liệt. Trung Quốc và Ấn Độ là những nước đi đầu trong việc tìm kiếm các
nguồn dự trữ dầu mỏ, vì họ đều rất cần nguồn cung cấp năng lượng và dầu mỏ ổn định
để phát triển kinh tế. Nhu cầu ngày càng tăng về các nguồn năng lượng đã trở thành
nguyên nhân gây ra căng thẳng và xung đột tiềm tàng, ví dụ ở Đơng Á đã xảy ra cuộc
tranh cãi giữa Tokyo và Bắc Kinh về khí đốt ở các vùng thuộc biển Đông Trung Quốc.


Nhật Bản nhập khẩu gần như toàn bộ dầu mỏ, hiện nay khoảng 90% lượng dầu mỏ
nhập từ Trung Đông. Sự gia tăng giá dầu năm 2005 đã đe dọa nền kinh tế nước này.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ khác giống với 2 cuộc khủng hoảng diễn ra vào những năm
1970 (năm 1973 và 1979) sẽ là kịch bản đen tối đối với một đất nước thiếu năng lượng
này. Từ khi kết thúc chiến tranh Thế giới thứ II, vào năm 1974, sau nhiều năm tăng
trưởng kinh tế mạnh kể từ những năm 60, kinh tế Nhật Bản lần đầu tiên không tăng
trưởng. Nhật Bản vẫn trụ vững qua 2 cuộc khủng hoảng dầu mỏ nhờ những nỗ lực tiết
kiệm năng lượng và đổi mới công nghệ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

Nền kinh tế Nhật Bản phục hồi trước tình trạng giá dầu mỏ tăng cao nhanh hơn so với
thời điểm những năm 70 diễn ra 2 cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Tuy nhiên, Nhật Bản
khơng thể cảm thấy an tồn và n tâm về nguồn cung cấp năng lượng lâu dài. Ngoài
việc thương mại đầu cơ và các điều kiện thời tiết, giá dầu mỏ trên thế giới vẫn giữ ở mức
cao và chắc chắn sẽ tăng cao hơn trong năm 2006 và các năm tiếp sau vì các yếu tố về cơ
chế sẽ khơng thể thay đổi nhanh chóng. Trong các yếu tố đó có sự gia tăng đáng kể nhu
cầu ở châu Á mà đi đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, 2 nước có dân số đơng nhất thế giới
cũng như khả năng sản xuất của Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) còn hạn
chế.


Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ước tính, nhu cầu năng lượng toàn cầu sẽ tăng
60% vào năm 2030 kể từ năm 2006. Sản lượng dầu mỏ của thế giới dự kiến sẽ đạt tới


đỉnh điểm sớm nhất là vào năm 2010 và theo dự báo lạc quan hơn là vào năm 2040.


Chiến lược Năng lượng mới của Quốc gia đều đưa ra biện pháp từng bước tiết kiệm
năng lượng và phát triển các công nghệ tiết kiệm năng lượng nhằm cắt giảm tỷ lệ tiêu thụ
năng lượng để tạo nên GDP là 30% vào năm 2030. Mục tiêu của Chiến lược là nhằm
đảm bảo cho Nhật Bản sẽ có đủ nguồn cung cấp năng lượng ổn định trong cuộc cạnh
tranh tài nguyên năng lượng đang diễn ra ngày càng khốc liệt. Tuy nhiên, đạt được mục
tiêu này không phải là điều dễ dàng. Mức tiêu thụ năng lượng ban đầu để tạo nên GDP
của Nhật Bản là thấp nhất thế giới, trong 3 thập kỷ qua đã cải thiện được 30% nhờ những
biện pháp bảo tồn rút ra từ các cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào những năm 70. Ngoài ra,
chiến lược mới này còn kêu gọi giảm sự phụ thuộc của Nhật Bản vào dầu mỏ, nguồn
năng lượng chính từ mức 50% hiện nay xuống còn 40% hoặc thấp hơn vào năm 2030
nhờ đẩy mạnh các nguồn năng lượng thay thế như năng lượng gió và năng lượng Mặt
trời.


<i><b>Phát triển nhiều năng lượng hạt nhân hơn </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

của quốc gia, tái xử lý tất cả các loại nhiên liệu hạt nhân thải để tách plutoni dùng làm
nhiên liệu hạt nhân. Lò phản ứng hạt nhân nhanh (FBR) tạo ra nhiều vật liệu phân hạch
hơn mức tiêu thụ, đây là trọng tâm của chu trình nhiên liệu hạt nhân.


Cơ quan Tài nguyên thiên nhiên và Năng lượng trực thuộc Bộ Kinh tế Thương mại và
Công nghiệp (METI) đã tiết lộ kế hoạch xây dựng 1 FBR mới được trang bị công nghệ
tiên tiến và hoạt động hiệu quả hơn khoảng vào năm 2030 với giá 1 tỷ yên để thay thế
cho FBR đầu tiên có tên Monju đã đóng cửa vào tháng 12/1995 bị rị rỉ Natri và liên tục
bị cháy. Ngoài ra, FBR mới sẽ được sử dụng làm lò phản ứng mẫu trong khoảng 1 thập
kỷ và sau đó được thương mại hố để thay thế lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ vào
khoảng năm 2050. Đồng thời, cơ quan này cũng công bố kế hoạch triển khai lắp đặt thiết
bị tái xử lý nhiên liệu hạt nhân thải thứ hai vào năm 2045 để sản xuất nhiên liệu hỗn hợp
ơxít hỗn hợp urani-plutoni (MOX) cho FBR mới sử dụng.



Ngoài ra, Dự án phát điện bằng nhiệt plutoni đã bước vào giai đoạn thực hiện vào
tháng 2/2006 khi Công ty trách nhiệm hữu hạn nhiên liệu hạt nhân của Nhật Bản bắt đầu
vận hành thử nghiệm nhà máy Rokkasho tách plutoni. Dự án này tiến hành đốt nhiên liệu
MOX trong lò phản ứng nước nhẹ. Nhà máy Rokkasho dự kiến sẽ đi vào hoạt động
thương mại cuối năm 2007.


Ngoài ra, Nhật Bản cũng coi trọng việc thúc đẩy phát triển năng lượng hạt nhân vì
theo Nghị định thư Kyoto 1997, Nhật Bản bắt buộc phải giảm lượng khí nhà kính này so
với các mức của năm 1990 là 6% vào năm 2012. Trong số 54 nhà máy điện hạt nhân,
nhiều nhà máy đã có tuổi thọ từ 20-30 năm nhưng đến khoảng năm 2030 sẽ vẫn khơng
có các nhà máy mới thay thế. Sự gia tăng 40% nguồn điện bằng các lò phản ứng hạt nhân
sẽ gây áp lực lớn tới các lò phản ứng cũ. Để tăng tốc độ hoạt động của các lò phản ứng
này đồng thời vẫn đảm bảo được hoạt động an toàn sẽ là một thách thức lớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Teikoku thành công ty cổ phần vào tháng 4/2006 sẽ phù hợp với chiến lược mới của
quốc gia.


Do nhu cầu về tài nguyên trên toàn cầu tiếp tục tăng, cuộc canh tranh gay gắt giữa các
nhà sản xuất dầu và khí vẫn chưa có dấu hiệu dịu bớt. Còn các nước thiếu năng lượng
như Trung Quốc và Ấn Độ hiện đang đổ xơ đi tìm các nguồn dự trữ dầu và năng lượng
khác của thế giới. Năm 1993, Trung Quốc đã trở thành nước nhập dầu dầu thô và thay
chỗ Nhật Bản, nước tiêu thụ dầu nhiều thứ hai thế giới sau Mỹ năm 2003. Hiện nay,
Trung Quốc phải nhập khẩu hơn 40% lượng dầu mỏ. Trong khi đó, Ấn Độ nhập khoảng
70% dầu mỏ. Mức độ phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu của 2 nước này vẫn sẽ tăng. Tình
trạng này đã thơi thúc Nhật Bản bắt đầu giúp các nước châu Á khác xây dựng các nguồn
dự trữ dầu mỏ thông qua sự trợ giúp kỹ thuật.


Đầu năm 2004, Nhật Bản và Iran đã ký kết hợp đồng trị giá 3 tỷ USD để khai thác mỏ
dầu thô Azadegan của Iran. Dự án này sẽ khai thác 700000 thùng dầu/ngày vào năm


2010. Tháng 10/2005, Nhật Bản đã giành được hợp đồng khai thác 6 mỏ dầu ở Libya.
Năm 2005, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định thiết kế con tàu đầu tiên để khảo sát các
mỏ dầu ngồi khơi.


Thơng qua sát nhập, Inpex và Teikoku hy vọng hoạt động dầu khí của Nhật Bản sẽ trở
nên lớn mạnh hơn trên quy mơ tồn cầu. Tổng doanh thu hàng năm của 2 công ty dầu
mỏ này là hơn 4,7 tỷ USD. Nhưng Công ty mới này chỉ sản xuất được 370000 thùng
dầu/ngày, thấp hơn so với công ty CNOOC của Trung Quốc là 380000 thùng/ngày.


<b>3.5. Chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn 2004-2010 và định</b>
<b>hướng đến 2020</b>


<i><b>3.5.1. Quan điểm phát triển:</b></i>


- Phát triển điện phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
và bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,
đáp ứng nhu cầu điện cho sinh hoạt của nhân dân; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Đẩy mạnh điện khí hố nơng thơn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

- Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp của đất nước như
nguồn thuỷ năng (kết hợp với thuỷ lợi), khí, dầu, than cho sản xuất điện, áp dụng thiết bị
sử dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và giảm ô nhiễm môi trường.


- Tiếp tục khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện để xây dựng nhà máy điện
nguyên tử (sau năm 2015) đảm bảo an toàn tuyệt đối trong sử dụng, nhằm đa dạng hoá
các nguồn năng lượng.


- Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu
cầu sử dụng điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa.



- Từng bước hình thành thị trường điện lực cạnh tranh trong nước, đa dạng hoá
phương thức đầu tư và kinh doanh điện, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia,
khơng biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Nhà nước chỉ giữ độc
quyền khâu truyền tải, xây dựng và vận hành các nhà máy thuỷ điện lớn, các nhà máy
điện nguyên tử. Chủ động trong việc tham gia, liên kết lưới điện và mua bán điện với các
nước trong khu vực.


- Xây dựng giá điện phải đạt mục tiêu khuyến khích đầu tư cho phát triển ngành điện,
tăng sức cạnh tranh về giá điện so với các nước trong khu vực, nhất là giá điện phục vụ
sản xuất, tách phần chính sách xã hội ra khỏi giá điện. Có chính sách thích hợp về sử
dụng điện ở nơng thôn, miền núi.


- Kết hợp giữa điều hành mạng lưới điện thống nhất trong cả nước với xây dựng và
điều hành hệ thống điện an toàn theo từng khu vực nhằm đồng bộ hoá, hiện đại hoá
mạng lưới truyền tải, phân phối điện quốc gia để cung cấp dịch vụ điện đảm bảo chất
lượng, liên tục, an toàn, hiệu quả.


<i><b>3.5.2. Mục tiêu phát triển</b>:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

<i><b>Mục tiêu cụ thể:</b></i>


- Đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Phấn đấu đến năm 2005
đạt sản lượng khoảng 53 tỷ kWh; năm 2010 đạt sản lượng từ khoảng 88 đến 93 tỷ kWh
và năm 2020 đạt sản lượng từ 201 đến 250 tỷ kWh.


- Đẩy nhanh chương trình đưa điện về nơng thơn, miền núi, phấn đấu đến năm 2010
đạt 90% số hộ dân nơng thơn có điện, đến năm 2020 đạt 100% số hộ dân nơng thơn có
điện.


- Đảm bảo cân bằng tài chính bền vững.



- Đa dạng hố phương thức đầu tư phát triển ngành và chuẩn bị các phương án nhập
khẩu điện của các nước Lào, Campuchia và Trung Quốc.


- Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chun môn và tinh thần trách nhiệm cao để
đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành Điện.


- Thực hiện cơ chế hoạt động đa dạng hoá sản phẩm, bao gồm nhiều Cơng ty có tư
cách pháp nhân theo mơ hình Liên kết tài chính Cơng nghiệp Thương mại Dịch vụ
-Tư vấn.


- Kiểm soát và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động điện lực.
<i><b>3.5.3. Chiến lược phát triển:</b></i>


Phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện theo hướng hiện đại. Phát triển thuỷ điện, nhiệt
điện than, nhiệt điện khí, điện nguyên tử..., kết hợp trao đổi, liên kết lưới điện với các
nước trong khu vực. Tổng công ty Điện lực Việt Nam chỉ đầu tư những cơng trình phát
điện có cơng suất từ 100 MW trở lên, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác đầu tư
các cơng trình có cơng suất nhỏ hơn. Phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại hệ thống truyền
tải, phân phối nhằm nâng cao độ tin cậy, an toàn cung cấp điện và giảm tổn thất điện
năng.


<i>(1) Chiến lược phát triển nguồn điện: </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

Trong khoảng 20 năm tới sẽ xây dựng hầu hết các nhà máy thuỷ điện tại những nơi có
khả năng xây dựng. Dự kiến đến năm 2020 tổng công suất các nhà máy thủy điện
khoảng 13.000 - 15.000 MW.


b) Phát triển các nhà máy nhiệt điện với tỷ lệ thích hợp, phù hợp với khả năng cung
cấp và phân bố của các nguồn nhiên liệu:



- Nhiệt điện than: dự kiến đến năm 2010 có tổng cơng suất khoảng 4.400 MW. Giai
đoạn 2011 2020 cần xây dựng thêm khoảng 4.500 5.500 MW (phụ tải cơ sở), 8.000
-10.000 MW (phụ tải cao). Do nguồn than sản xuất trong nước hạn chế, cần xem xét xây
dựng các nhà máy điện sử dụng than nhập.


Nhiệt điện khí: đến năm 2010 có tổng cơng suất khoảng 7.000 MW, giai đoạn 2011
-2020 cần xây dựng thêm khoảng 3.500 MW (phương án cấp khí cơ sở), trong trường hợp
nguồn khí phát hiện được nhiều hơn cần xây dựng thêm khoảng 7.000 MW.


- Đầu tư khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể xây dựng nhà
máy điện nguyên tử đầu tiên ở Việt Nam với quy mô công suất khoảng 2.000 MW, dự
kiến đưa vào vận hành giai đoạn sau năm 2015.


c) Nhập khẩu điện: theo hiệp định hợp tác năng lượng đã ký kết, Việt Nam sẽ nhập
khẩu khoảng 2.000 MW công suất từ Lào. Tiếp theo sẽ xem xét nhập khẩu điện từ
Campuchia và Trung Quốc.


d) Phát triển các nhà máy sử dụng năng lượng mới và tái tạo. Tận dụng các nguồn
năng lượng mới tại chỗ để phát điện cho các khu vực mà lưới điện quốc gia không thể
cung cấp được hoặc cung cấp kém hiệu quả, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng
xa.


<i>(2) Chiến lược phát triển lưới điện:</i>


- Phát triển nguồn điện phải đi đôi với phát triển lưới điện, phát triển lưới điện phân
phối phải phù hợp với phát triển lưới điện truyền tải.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

- Nghiên cứu giảm bớt cấp điện áp trung thế của lưới điện phân phối. Nhanh chóng
mở rộng lưới điện phân phối đến vùng sâu, vùng xa. Tập trung đầu tư cải tạo lưới điện


phân phối để giảm tổn thất điện năng, giảm sự cố và nâng cao độ tin cậy cung cấp điện.


<i>(3) Chiến lược phát triển điện nơng thơn và miền núi:</i>


- Đẩy mạnh điện khí hố nơng thơn nhằm góp phần đẩy nhanh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố nơng nghiệp và nơng thơn.


- Sử dụng các nguồn năng lượng mới và tái tạo để cấp điện cho các khu vực vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo. Xây dựng cơ chế quản lý để duy trì và phát triển các nguồn
điện ở những khu vực này.


- Khuyến khích đa dạng hố trong đầu tư và quản lý lưới điện nông thôn.


- Tăng cường kiểm sốt giá điện nơng thơn để đảm bảo thực hiện theo đúng giá trần
do Chính phủ quy định.


<i>(4) Chiến lược tài chính và huy động vốn:</i>


- Có các cơ chế tài chính thích hợp để Tổng cơng ty Điện lực Việt Nam đảm bảo được
vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành điện Việt Nam.


Tiếp tục triển khai một số công trình đầu tư theo hình thức xây dựng kinh doanh
-chuyển giao (BOT), liên doanh hoặc BOO để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, đồng thời
tăng khả năng trả nợ cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam.


- Xây dựng các biện pháp huy động vốn trong xã hội dân để đầu tư phát triển điện.
- Tăng cường quan hệ với các ngân hàng và các tổ chức tài chính quốc tế để vay vốn
đầu tư, ưu tiên vay các nguồn vốn ODA có lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài (ODA chỉ
giao cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam); sau đó đến các ngân hàng thương mại với
phương châm khi các ngân hàng trong nước khơng đáp ứng được thì vay các ngân hàng


thương mại nước ngồi.


- Nghiên cứu tham gia thị trường chứng khốn, phát hành trái phiếu trong và ngoài
nước để đầu tư các cơng trình điện.


- Tiếp tục thực hiện lộ trình cải cách giá điện đã được duyệt theo hướng vừa tiến dần
đến chi phí biên dài hạn vừa cải cách biểu giá điện, giảm bù chéo quá lớn giữa các nhóm
khách hàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

- Tập trung nghiên cứu khoa học, công nghệ tiên tiến áp dụng cho sản xuất và truyền
tải điện năng. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại theo hướng hiệu quả,
tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu tác động đến môi trường với những bước đi hợp lý.


- Đầu tư chiều sâu, cải tạo nâng cấp và hiện đại hoá đối với nguồn và lưới điện hiện
có, cải tiến cơng tác quản lý, kinh doanh và dịch vụ khách hàng.


<i>(6) Định hướng phát triển viễn thông và công nghệ thông tin:</i>


- Tận dụng mọi ưu thế về hệ thống hạ tầng viễn thông ngành điện, kết hợp viễn thông
phục vụ điều hành sản xuất kinh doanh điện với phát triển dịch vụ viễn thông công cộng.


- Đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin phục vụ cho quản lý và điều hành sản xuất,
nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngành Điện.


<i>(7) Định hướng phát triển cơ khí điện:</i>


Phát triển mạnh cơ khí điện góp phần phát triển cơng nghiệp trong nước, giảm nhập
khẩu. Phấn đấu đến năm 2005 đáp ứng về cơ bản nhu cầu thiết bị có điện áp 110 kV trở
xuống; đến năm 2010 có thể đáp ứng một phần nhu cầu máy biến áp 220 kV và các thiết
bị 220 kV khác. Nghiên cứu sản xuất các thiết bị trọn bộ cho các trạm thuỷ điện nhỏ,


năng lượng Mặt trời và các thiết bị thay thế phục vụ sửa chữa các nhà máy điện. Về lâu
dài, cần nghiên cứu, chế tạo thiết bị phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và đặc điểm riêng của
quốc gia và khu vực nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và một phần xuất khẩu.


<i>(8) Chiến lược phát triển tư vấn xây dựng điện:</i>


Tập trung xây dựng các Công ty tư vấn đa ngành theo chun mơn hố từng lĩnh vực
chun sâu, từng bước nâng cao trình độ để có thể tự đảm đương thiết kế được các cơng
trình điện lớn như nhà máy điện, lưới điện siêu cao áp.


<i>(9) Chiến lược phát triển ngành xây lắp điện:</i>


Tăng cường năng lực cho các đơn vị xây lắp điện để có khả năng đảm nhận các cơng
trình đầu tư từ khâu thiết kế kỹ thuật thi công, cho đến khâu xây dựng, lắp đặt thiết bị các
nhà máy điện, các cơng trình lưới điện lớn trong nước và có khả năng tham gia đấu thầu
các cơng trình ở nước ngồi.


<i>(10) Chiến lược phát triển nguồn nhân lực:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

- Về công tác đào tạo nguồn nhân lực: phát triển khối các trường chuyên ngành Điện
lực, phấn đấu để xây dựng một số trường đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bố trí liên thơng giữa
các bậc học: cao đẳng, trung học và công nhân; xây dựng chương trình chuẩn thống nhất
trong ngành về đào tạo các lĩnh vực chuyên sâu.


<i>(11) Chiến lược phát triển thị trường điện:</i>


- Từng bước hình thành thị trường điện trong nước, trong đó Nhà nước giữ độc quyền
ở khâu truyền tải và chi phối trong khâu sản xuất và phân phối điện. Trước mắt, hình
thành thị trường mua bán điện trong nội bộ Tổng công ty Điện lực Việt Nam. Nghiên
cứu xây dựng đầy đủ các khuôn khổ pháp lý, các điều kiện để sớm hình thành thị trường


điện độc lập.


<i><b>3.5.4. Giải pháp thực hiện: </b></i>


<i>(1) Giải pháp về tổ chức và cơ chế:</i>


- Bổ sung và hiệu chỉnh Luật Điện lực trình Quốc hội thơng qua năm 2004 làm cơ sở
pháp lý cho mọi hoạt động điện lực, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm soát và
điều phối thị trường điện lực. Nghiên cứu xây dựng đầy đủ các khuôn khổ pháp lý, các
điều kiện để sớm hình thành thị trường điện lực cạnh tranh. Xây dựng lộ trình cải cách cơ
cấu tổ chức ngành cơng nghiệp điện lực theo định hướng chiến lược đã đề ra.


<i>(2) Giải pháp về đầu tư phát triển:</i>


- Xây dựng cơ chế, chính sách trong đó có chính sách đa dạng hoá phương thức đầu tư
để phát huy tốt mọi nguồn lực, đáp ứng nhu cầu phát triển ngành Điện và u cầu phát
triển của đất nước.


- Tính tốn xây dựng phương án nhập khẩu điện của các nước Lào, Campuchia và
Trung Quốc hợp lý.


- Giao Tổng công ty Điện lực Việt Nam thực hiện vai trò chủ đạo trong đảm bảo đầu
tư phát triển nguồn và lưới điện đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
phù hợp với năng lực tài chính và khả năng trả nợ của Tổng công ty, đảm bảo cân bằng
tài chính dài hạn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

- Xây dựng cơ chế đầu tư phù hợp theo hướng cải cách các thủ tục hành chính, giải
quyết nhanh vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ các cơng trình đầu
tư điện lực.



<i>(3) Giải pháp tài chính và huy động vốn:</i>


- Tiếp tục thực hiện cải cách giá điện theo lộ trình đã được duyệt và nghiên cứu điều
chỉnh biểu giá điện theo hướng giảm bù chéo q lớn giữa các nhóm khách hàng. Cho
phép Tổng cơng ty Điện lực Việt Nam thực hiện hạch toán riêng phần dịch vụ mang tính
cơng ích.


- Xem xét giảm thuế giá trị gia tăng cho sản phẩm điện từ 10% xuống còn 5% để giảm
sức ép tăng giá điện.


- Ưu tiên bố trí vốn tín dụng ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển, vốn ODA và các nguồn
vay song phương của nước ngồi cho Tổng cơng ty Điện lực Việt Nam để thực hiện đầu
tư các cơng trình điện trọng điểm của quốc gia.


- Khuyến khích đa dạng hố trong đầu tư và quản lý lưới điện nông thôn trên cơ sở
tăng cường kiểm soát giá bán điện ở nông thôn để đảm bảo không vượt giá trần do Chính
phủ quy định.


- Hỗ trợ vốn ngân sách cho các dự án điện khí hố nơng thơn, miền núi, hải đảo nhằm
mục đích phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo cho các khu vực này.


- Cổ phần hoá các cơng trình điện mà Nhà nước khơng cần giữ 100% vốn. Thí điểm
phát hành trái phiếu cơng trình và phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán. Thực
hiện liên doanh, liên kết trong đầu tư các cơng trình điện.


<i>(4) Giải pháp KH&CN:</i>


- Tăng cường đầu tư KH&CN và quản lý để tiếp tục phấn đấu giảm tổn thất điện năng
xuống khoảng 10% vào năm 2010 và dưới 10% vào những năm sau.



- Sử dụng công nghệ thông tin để đảm bảo vận hành tối ưu hệ thống điện.


- Thực hiện chương trình quản lý nhu cầu (DSM) để cắt giảm công suất đỉnh nhằm tiết
kiệm đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi trong vận hành hệ thống điện, tiết kiệm điện trong
tiêu dùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<i>(5) Giải pháp nguồn nhân lực:</i>


- Coi trọng đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ có trình độ chun mơn và
tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Điện.


- Chú trọng đào tạo đội ngũ kỹ sư, chuyên gia về năng lượng hạt nhân để chuẩn bị cho
việc xây dựng và vận hành nhà máy điện nguyên tử.


<b>3.6. Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hồ bình đến năm</b>
<b>2020 của Việt Nam</b>


<i><b>3.6.1. Quan điểm chỉ đạo</b></i>


(1) Ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hồ bình và phát triển
kinh tế - xã hội.


Đây là chính sách nhất quán của Việt Nam về việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì
mục đích hồ bình và phát triển kinh tế - xã hội.


Về ứng dụng năng lượng bức xạ: đẩy mạnh, mở rộng và nâng cao hiệu quả ứng dụng
năng lượng bức xạ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Đây
là lĩnh vực có phạm vi ứng dụng rất rộng và có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển
KH&CN cũng như kinh tế - xã hội. Do đó cần phải thúc đẩy cơng tác nghiên cứu, ứng
dụng và chuyển giao công nghệ trên cơ sở huy động mọi nguồn lực của xã hội.



Về phát triển điện hạt nhân (ĐHN): nhập các công nghệ hiện đại đã được thương mại
hoá trên thế giới đối với việc xây dựng những nhà máy ĐHN đầu tiên để đảm bảo yêu
cầu về an toàn và kinh tế, đồng thời tập trung nghiên cứu lợi thế của các công nghệ điện
hạt nhân thế hệ mới để chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Cần huy động mọi
nguồn lực trong nước và thông qua hợp tác quốc tế để phát triển ĐHN. Nhà máy ĐHN
đầu tiên sẽ được xây dựng theo phương thức hợp đồng chìa khố trao tay.


(2) Ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử phải bảo đảm an tồn tuyệt đối cho
con người và mơi trường và trên cơ sở đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ tri thức,
công nghệ và đầu tư.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

văn hố an tồn. Thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh, an toàn cho các lò
phản ứng, nhà máy ĐHN và các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng NLNT.


Năng lượng nguyên tử, đặc biệt ĐHN không chỉ là một lĩnh vực công nghệ cao mà
cịn là lĩnh vực rất nhạy cảm về chính trị quốc tế. Do đó, hợp tác quốc tế phải tạo được sự
tin cậy của cộng đồng quốc tế về chính sách phát triển NLNT của Việt Nam và là một
trong những điều kiện bảo đảm sự thành công trong chuyển giao tri thức, công nghệ và
đầu tư. Trong hợp tác quốc tế về ĐHN, hướng vào các đối tác có nhiều kinh nghiệm, có
cơng nghệ tiên tiến nhất.


(3) Quyết tâm của lãnh đạo các cấp, các ngành cùng với việc huy động được sức mạnh
của toàn xã hội là điều kiện quyết định sự thành công của chiến lược ứng dụng NLNT.


ứng dụng NLNT, đặc biệt là phát triển ĐHN, là lĩnh vực công nghệ cao, liên ngành,
dài hạn, cần đầu tư lớn và có tác động sâu rộng đến phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN
và công nghiệp của đất nước. Do đó, việc xây dựng và thực hiện Chiến lược địi hỏi phải
có ý chí, quyết tâm cao của lãnh đạo các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương,
sự chỉ đạo tập trung, đầu tư của Nhà nước và huy động được sức mạnh của toàn xã hội.



<i><b>3.6.2. Mục tiêu</b></i>
(1) Mục tiêu:
a) Mục tiêu chung:


Từng bước xây dựng và phát triển ngành cơng nghiệp cơng nghệ hạt nhân có đóng
góp hiệu quả trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường tiềm lực khoa học và
công nghệ của đất nước.


b) Mục tiêu cụ thể


- Ứng dụng rộng rãi, hiệu quả năng lượng bức xạ trong các ngành kinh tế - kỹ thuật có
đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế, phục vụ nhu cầu xã hội như chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng, bảo vệ mơi trường và phát triển bền vững. Từng bước chế tạo các trang
thiết bị sử dụng năng lượng bức xạ, tiến tới làm chủ một số công nghệ năng lượng bức xạ
hiện đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

lượng điện năng quốc gia (khoảng 11% vào năm 2025 và 25 30% vào năm 2040
-2050).


- Bảo đảm an toàn, an ninh cho cơ sở hạt nhân và sự ủng hộ của công chúng cho phát
triển điện hạt nhân. Thực hiện các biện pháp quản lý và các giải pháp kỹ thuật để đảm
bảo an toàn trong xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân và lò phản ứng nghiên
cứu. Thực hiện các biện pháp đảm bảo an ninh cho các cơ sở hạt nhân. Kiện toàn cơ
quan quản lý nhà nước về kiểm sốt an tồn hạt nhân và an tồn bức xạ.


- Xây dựng và thực hiện kế hoạch quốc gia ứng phó khẩn cấp khi có sự cố, tai nạn bức
xạ và hạt nhân. Xây dựng mạng lưới quan trắc phóng xạ mơi trường quốc gia. Tăng
cường cơng tác thông tin, tuyên truyền về ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ kinh
tế - xã hội.



- Xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho công tác nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân,
tập hợp, liên kết các nhà khoa học, các ngành công nghiệp hoạt động theo định hướng cụ
thể nhằm phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ hạt nhân quốc gia đạt trình độ các
nước tiên tiến trong khu vực cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ. Xây dựng
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam thành trung tâm nghiên cứu - triển khai công nghệ
kỹ thuật cao ứng dụng năng lượng nguyên tử ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực


(2) Một số chỉ tiêu chủ yếu
a) Đến năm 2010


- Về điện hạt nhân: hoàn thành việc phê duyệt báo cáo đầu tư dự án xây dựng nhà máy
điện hạt nhân đầu tiên; đào tạo đủ chuyên gia về điện hạt nhân cho công đoạn tiền dự án;
quy hoạch đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề để chuẩn bị cho việc thực hiện
dự án sau năm 2010.


- Về ứng dụng năng lượng bức xạ: bảo đảm tự sản xuất để cung cấp 50% nhu cầu về
đồng vị và dược chất phóng xạ; 50% các tỉnh có các cơ sở y học hạt nhân và xạ trị; quy
hoạch và xây dựng năng lực sản xuất, lắp ráp, chế tạo thiết bị ghi đo hạt nhân, thiết bị X
-quang, thiết bị laser và máy gia tốc; đầu tư xây dựng một số trung tâm ứng dụng bức xạ
phục vụ y tế, nông nghiệp và các ngành công nghiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

thiện hệ thống cơ sở nghiên cứu triển khai về khoa học và công nghệ hạt nhân; xây dựng
cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân;
xây dựng mới từ 02 đến 03 trung tâm gia tốc sản xuất đồng vị và dược chất phóng xạ;
quy hoạch xây dựng Trung tâm quốc gia về y học hạt nhân và xạ trị trên cơ sở Trung tâm
máy gia tốc hạt nhân Cyclotron sử dụng trong y tế và các ngành kỹ thuật đặt tại Quân y
viện 108. Từng bước nâng cấp tiềm lực ứng dụng khoa học và công nghệ hạt nhân của
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.



- Về quy phạm pháp luât: hoàn thành cơ bản hệ thống pháp luật về ứng dụng năng
lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân; xây dựng các tiêu chuẩn, quy định
kỹ thuật và an toàn cho nhà máy điện hạt nhân; ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn, quy định
kỹ thuật và an toàn về sử dụng bức xạ; từng bước kiện toàn về tổ chức, cơ sở vật chất kỹ
thuật và năng lực chuyên môn của các cơ quan quản lý nhà nước về năng lượng nguyên
tử và về an toàn bức xạ, hạt nhân.


b) Đến năm 2015


- Về điện hạt nhân: triển khai xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên; đào tạo đủ
chuyên gia về điện hạt nhân và huy động đủ đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành
nghề cho thực hiện dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên; huy động tối đa mọi
nguồn lực và khả năng tham gia của công nghiệp trong nước thực hiện dự án xây dựng
nhà máy điện hạt nhân.


- Về ứng dụng năng lượng bức xạ: bảo đảm tự sản xuất để cung cấp 70% nhu cầu về
đồng vị và dược chất phóng xạ; 80% các tỉnh có các cơ sở y học hạt nhân và xạ trị; có
năng lực lắp ráp, chế tạo một số chủng loại thiết bị ghi đo hạt nhân, thiết bị X - quang,
thiết bị laser và máy gia tốc; có một số cơng nghệ và sản phẩm ứng dụng năng lượng bức
xạ mang lại hiệu quả tích cực trong các ngành kinh tế - xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

máy gia tôc hạt nhân Cyclotron đặt tại Quân y viện 108; tiếp tục việc củng cố và nâng
cấp tiềm lực của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam để có đủ khả năng làm cơng tác
nghiên cứu - triển khai công nghệ kỹ thuật cao ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ
nhu cầu phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật và nhu cầu xã hội.


- Về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiện toàn hệ thống thực thi
pháp luật: hoàn thiện hệ thống pháp luật về năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt
nhân; ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn cho nhà máy điện hạt nhân;
kiện toàn về cơ sở vật chất, năng lực chuyên môn và đội ngũ cán bộ của cơ quan quản lý


nhà nước về năng lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân.


c) Đến năm 2020


- Về điện hạt nhân: đưa nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào vận hành an toàn và khai
thác hiệu quả; đào tạo đủ chuyên gia về điện hạt nhân và huy động đủ đội ngũ kỹ thuật
viên và công nhân lành nghề cho việc thực hiện dự án xây dựng các nhà máy điện hạt
nhân tiếp theo; xây dựng năng lực về thiết kế, chế tạo thiết bị và sản xuất vật liệu nhằm
tăng cường khả năng tham gia của các ngành công nghiệp trong nước vào việc thực hiện
dự án xây dựng các nhà máy điện hạt nhân tiếp theo.


- Về ứng dụng năng lượng bức xạ: bảo đảm tự sản xuất để cung cấp 100% nhu cầu về
đồng vị và dược chất phóng xạ; 100% các tỉnh có các cơ sở y học hạt nhân và xạ trị; có
một số chủng loại thiết bị ghi đo hạt nhân, thiết bị X - quang, thiết bị laser và máy gia tốc
mang thương hiệu Việt Nam; có một số cơng nghệ và sản phẩm của kỹ thuật bức xạ
được ứng dụng rộng rãi và hiệu quả trong các ngành kinh tế - xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

- Về quy phạm pháp luật: hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật và hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân.


<i><b>3.6.3. Nhiệm vụ</b></i>


(1) Ứng dụng năng lượng bức xạ
a) Trong y tế


Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị bệnh sử
dụng năng lượng bức xạ nhằm đáp ứng nhu cầu của nước ta với dân số khoảng 100 triệu
dân vào năm 2020. Đầu tư phát triển kỹ thuật chụp hình bức xạ đến bệnh viện tỉnh, mỗi
bệnh viện tỉnh có ít nhất 01 máy chụp hình cắt lớp đơn quang tử (SPECT), cả nước có
một số máy chụp hình cắt lớp sử dụng đồng vị phát positron (PET). Tăng cường đầu tư


thiết bị điều trị bệnh ung thư bằng kỹ thuật chiếu xạ dùng nguồn phóng xạ và bằng máy
gia tốc, đạt tỷ lệ ít nhất 01 thiết bị chiếu xạ trên 1 triệu dân. Lập và triển khai kế hoạch
xây dựng tại mỗi tỉnh có ít nhất một cơ sở y học hạt nhân và xạ trị. Xây dựng năng lực
quốc gia về bảo dưỡng, sửa chữa và chế tạo một số chủng loại thiết bị sử dụng năng
lượng bức xạ trong y tế có nhu cầu cao (thiết bị đo đếm bức xạ, đo liều phóng xạ, X
-quang chẩn đốn, cộng hưởng từ, máy xạ trị dùng nguồn phóng xạ và dùng chùm hạt gia
tốc). Lập kế hoạch từng bước bảo đảm sản xuất các loại đồng vị và dược chất phóng xạ
trong nước đủ phục vụ cho chẩn đốn và điều trị. Đẩy mạnh sử dụng công nghệ khử
trùng các dụng cụ y tế, mô ghép, huyết thanh bằng chiếu xạ, thay thế cho các cơng nghệ
có hại cho sức khỏe và môi trường. Đánh giá sức khoẻ và dinh dưỡng cộng đồng và sàng
lọc một số dị tật bẩm sinh bằng kỹ thuật đồng vị phóng xạ.


Xây dựng một trung tâm quốc gia về y học hạt nhân, xạ trị và điều trị các bệnh về
phóng xạ.


b) Trong công nghiệp và các ngành kinh tế - kỹ thuật khác


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

hệ điều khiển hạt nhân tự động, đánh dấu đồng vị phóng xạ và nguồn kín, xử lý bức xạ
và phân tích hạt nhân làm đầu mối chuyển giao công nghệ cho các ngành kinh tế - kỹ
thuật và công nghiệp. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng NLNT trong khoa học vật liệu,
đặc biệt là vật liệu nano.


c) Trong khí tượng - thuỷ văn và địa chất - khoáng sản


Sử dụng và phát triển công nghệ ứng dụng năng lượng bức xạ phục vụ cho cơng tác
điều tra, đánh giá, thăm dị tài ngun khoáng sản, tài nguyên nước, quản lý nguồn nước
ngầm, nghiên cứu sa bồi cửa sơng, bến cảng, lịng hồ và đánh giá an tồn đê, đập, dự báo
và phịng ngừa thiên tai.


d) Trong nông nghiệp và công nghệ sinh học



Đẩy mạnh hướng nghiên cứu về đột biến phóng xạ để tạo giống cây trồng, ứng dụng
đồng vị đánh dấu để nghiên cứu dinh dưỡng cây trồng, thổ nhưỡng và vật nuôi. Sản xuất
các chế phẩm phục vụ nông nghiệp bằng công nghệ bức xạ. Bảo vệ rau quả, bảo vệ sức
khoẻ và sinh sản động vật sử dụng công nghệ tiệt sinh sâu bệnh, côn trùng bằng bức xạ
(SIT). Mở rộng ứng dụng công nghệ chiếu xạ và các kỹ thuật phân tích hạt nhân để bảo
đảm chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm. Xây dựng một số trung tâm nông nghiệp hạt
nhân theo vùng. Nghiên cứu và ứng dụng năng lượng bức xạ trong sinh học phân tử,
công nghệ gen, tế bào học và khoa học sự sống.


đ) Trong bảo vệ môi trường


Sử dụng các kỹ thuật phân tích hạt nhân và liên quan trong nghiên cứu đánh giá ơ
nhiễm mơi trường (biển, đất, nước, khơng khí). Xử lý các loại chất thải bằng công nghệ
chiếu xạ gamma và cơng nghệ chùm điện tử gia tốc. Dị phá bom, mìn bằng kỹ thuật hạt
nhân.


e) Một số cơng nghệ và sản phẩm cần tập trung nội địa hoá


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

- Sản xuất và sử dụng các thiết bị ghi đo hạt nhân phục vụ sản xuất, đời sống, nghiên
cứu khoa học và an ninh quốc phòng: các thiết bị đo độ dày, mật độ, độ ẩm, đo mức, ghi
nhận rò rỉ, theo dõi ăn mòn, đo dòng chảy, phân tích đa thành phần, dị phá bom, mìn,....


- Công nghệ máy gia tốc phục vụ nghiên cứu khoa học, y tế và công nghiệp: các thiết
bị X - quang chẩn đoán, máy gia tốc LINAC điều trị ung thư, máy gia tốc chùm điện tử
có biến đổi sang tia X, các loại máy gia tốc khác.


- Chế tạo các thiết bị cộng hưởng từ hạt nhân dùng trong y tế, nghiên cứu cấu trúc
protein và đánh giá chất lượng sản phẩm trong công nghiệp dược liệu.



- Công nghệ laser: phát triển các cơng nghệ laser rắn, hồn thiện và mở rộng việc chế
tạo và ứng dụng các sản phẩm laser đặc chủng, chiếm lĩnh thị trường trong nước và sớm
mở thị trường sang các nước trong khu vực và quốc tế.


- Các sản phẩm đồng vị và dược chất phóng xạ được sản xuất trên lị phản ứng và máy
gia tốc đủ đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và một số nước trong khu vực.


- Các giống cây trồng có giá trị kinh tế cao, các chế phẩm từ công nghệ bức xạ phục
vụ nông nghiệp và y tế, các công nghệ trồng trọt và chăn nuôi.


- Các vật liệu mới phục vụ cho ngành công nghiệp và tiêu dùng được tạo ra bằng công
nghệ bức xạ trên chùm gamma, nơtron và chùm hạt gia tốc.


(2) Phát triển điện hạt nhân


a) Thực hiện chương trình dài hạn về phát triển điện hạt nhân


Để phát huy hiệu quả kinh tế cao của ĐHN và phát triển ngành công nghiệp công
nghệ hạt nhân cần phải xây dựng Chương trình dài hạn về phát triển ĐHN. Đây là một
nội dung quan trọng để thực hiện chính sách năng lượng quốc gia. Chương trình dài hạn
về phát triển ĐHN bao gồm các nội dung sau đây:


- Quy hoạch và kế hoạch phát triển các nhà máy ĐHN


Quy hoạch phát triển nguồn điện, trong đó có việc lập kế hoạch xây dựng các nhà máy
ĐHN đảm bảo đến 2025 ĐHN chiếm tỷ lệ 11% và đến 2040 - 2050 ĐHN chiếm tỷ lệ 25
- 30% tổng sản lượng điện quốc gia; quy hoạch và lựa chọn địa điểm xây dựng các nhà
máy ĐHN và cơ sở quốc gia lưu giữ chất thải phóng xạ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ĐHN.


Trong nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cần làm rõ kế hoạch, chỉ tiêu, phương
thức đào tạo để đảm bảo nhu cầu cán bộ cho các cơ quan khác nhau tham gia trong
Chương trình dài hạn về phát triển ĐHN (cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức nghiên
cứu và triển khai, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo, cơ sở công nghiệp và cơ quan chủ quản nhà
máy ĐHN). Tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo cán bộ về ĐHN.


- Nghiên cứu và triển khai về công nghệ và nhiên liệu cho nhà máy ĐHN


Về công nghệ, cần tập trung nghiên cứu các loại công nghệ ĐHN hiện đại đã được
thương mại hóa và xu thế phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực này, lựa chọn cơng
nghệ cho chương trình ĐHN của nước ta và xây dựng chính sách phát triển cơng nghệ.
Việc lựa chọn cơng nghệ cần hướng vào các đối tác có bản quyền và có nhiều kinh
nghiệm trong việc xây dựng, vận hành nhà máy ĐHN với công nghệ tiên tiến nhất.


Xây dựng năng lực nghiên cứu và làm chủ việc thiết kế kỹ thuật nhà máy ĐHN là
nhiệm vụ quan trọng nhất trong nghiên cứu về công nghệ. Nhiệm vụ này sẽ được thực
hiện qua 3 giai đoạn sau đây: giai đoạn học tập, tích lũy cơng nghệ, giai đoạn chuyển
giao công nghệ và giai đoạn phát triển công nghệ.


Giai đoạn tích lũy cơng nghệ sẽ được hồn thành trước khi khởi công xây dựng nhà
máy ĐHN đầu tiên (vào khoảng năm 2015). Trong giai đoạn này, ưu tiên cao nhất dành
cho việc xây dựng đội ngũ chuyên gia thông qua các khóa huấn luyện riêng với sự trợ
giúp quốc tế và đào tạo thông qua các dự án công nghiệp lớn của quốc gia. Do đó, một
mặt cần khai thác triệt để các dự án công nghiệp lớn đang triển khai như các dự án nhiệt
điện, thuỷ điện, dầu khí, giao thơng, xây dựng để đào tạo các chun gia cơng nghệ có
liên quan, mặt khác phải sớm xác định đối tác về ĐHN để có các kế hoạch hợp tác trong
đào tạo chuyên gia về ĐHN.


Giai đoạn chuyển giao công nghệ được bắt đầu từ khi khởi công xây dựng nhà máy
ĐHN đầu tiên và kéo dài trong một số dự án tiếp theo.



</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

Về nhiên liệu, tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ: chuẩn bị chương trình nội địa hóa sản xuất
thanh nhiên liệu từ urani nhập khẩu và nghiên cứu sử dụng thương mại tài nguyên urani trong
nước.


Việc tiến hành các hoạt động nghiên cứu và triển khai về công nghệ sản xuất nhiên
liệu từ urani nhập khẩu bao gồm thiết kế hạt nhân, tính tốn thủy nhiệt, thiết kế bó nhiên
liệu, phân tích an tồn, cơng nghệ gốm nhiên liệu, cơng nghệ vỏ thanh nhiên liệu, thử
nghiệm thanh nhiên liệu làm cơ sở cho việc thực hiện dự án chuyển giao công nghệ chế
tạo thanh nhiên liệu cho nhà máy ĐHN và lò phản ứng nghiên cứu ở trong nước.


Để sử dụng thương mại tài nguyên urani của Việt Nam, cần tiếp tục tổ chức các
nghiên cứu thăm dò và đánh giá trữ lượng tài nguyên urani. Xây dựng hệ thống phịng thí
nghiệm về xử lý quặng, chế tạo các sản phẩm urani có độ sạch hạt nhân, chế tạo viên
gốm nhiên liệu, chế tạo các sản phẩm zirconi tinh khiết, sản xuất thử nghiệm urani kỹ
thuật cho khu vực tài nguyên cấp C1. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của
việc khai thác và chế biến tài nguyên urani, xây dựng chính sách sử dụng tài nguyên
urani trong nước cho chương trình dài hạn về phát triển ĐHN.


- Đảm bảo an toàn hạt nhân


Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức xạ, hạt
nhân bao gồm Luật Năng lượng nguyên tử và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ban hành
đầy đủ các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn phục vụ cho việc xây dựng, vận hành
nhà máy ĐHN và quản lý an toàn bức xạ, hạt nhân.


Hình thành và phát triển tổ chức nghiên cứu và hỗ trợ kỹ thuật về an toàn bức xạ, hạt
nhân có đủ năng lực về cán bộ và phương tiện kỹ thuật để thực hiện phân tích, đánh giá
và thanh tra chuyên ngành về an toàn hạt nhân.



Xây dựng hệ thống ứng phó khẩn cấp quốc gia để giải quyết các sự cố tai nạn bức xạ
và hạt nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

Để đạt được sự tham gia tối đa của các ngành công nghiệp trong nước vào việc thực
hiện Dự án xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên, phải xây dựng chương trình nâng cao năng
lực của các ngành công nghiệp trong nước.


Từ nay đến năm 2015 Chương trình tập trung vào việc xây dựng cơ chế, chính sách
thúc đẩy sự tham gia của các ngành công nghiệp trong nước và nâng cao năng lực thiết
kế, chế tạo thiết bị, vật tư và sản xuất vật liệu xây dựng. Trên cơ sở đó, huy động các
ngành công nghiệp trong nước tham gia cung cấp thép xây dựng, thép cấu trúc, các vật
liệu xây dựng, hệ thiết bị trao đổi nhiệt, các bình chứa, đường ống, cáp điện, hệ thống
chiếu sáng cho Dự án xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên. Đồng thời, tham gia các hoạt
động quản lý dự án, thẩm định thiết kế kỹ thuật, bảo đảm và kiểm tra chất lượng, vận
chuyển các thiết bị siêu trường siêu trọng, xây lắp, kiểm tra thiết bị,....


- Hợp tác quốc tế


Nhiệm vụ của công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực NLNT trước hết là phải làm cho
cộng đồng quốc tế tin tưởng vào chính sách nhất quán của Chính phủ Việt Nam về ứng
dụng và phát triển NLNT vì mục đích hồ bình để tạo điều kiện cho việc chuyển giao tri
thức, công nghệ và đầu tư vào Việt Nam. Tổ chức thực hiện đầy đủ các Công ước và
Điều ước quốc tế đã ký kết, tích cực nghiên cứu tham gia các Cơng ước và Điều ước
quốc tế khác có liên quan đến NLNT. Hợp tác chặt chẽ và toàn diện với Cơ quan năng
lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Đẩy mạnh các hợp tác đa phương và song phương với
các nước và các tổ chức quốc tế, tạo môi trường thuận lợi nhất để khai thác tối đa kinh
nghiệm và sự trợ giúp của các nước tiên tiến.


b) Thực hiện dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên



- Lập và phê duyệt Báo cáo đầu tư xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên bao gồm những
nội dung chính là quy mơ, địa điểm, cơng nghệ, an tồn, quản lý chất thải phóng xạ, đánh
giá tác động môi trường, đảm bảo nguồn nhân lực, phương án tài chính và lộ trình xây
dựng nhà máy.


- Xây dựng hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu và ký kết hợp đồng chuyển giao công
nghệ và xây dựng nhà máy.


- Đào tạo cán bộ vận hành nhà máy theo hợp đồng với nhà thầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

- Xây dựng, vận hành thử và vận hành thương mại bảo đảm chất lượng, tiến độ, an
toàn và hiệu quả.


(3) Xây dựng và phát triển tiềm lực
a) Cơ sở vật chất - kỹ thuật


Phát triển đồng bộ các cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác bảo đảm an tồn bức
xạ, hạt nhân, quản lý chất thải phóng xạ, nghiên cứu - triển khai, đào tạo nhân lực là một
trong các nhiệm vụ và đồng thời cũng là giải pháp quan trọng để thực hiện thành công
Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục đích hồ bình, cụ thể là:


- Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để bảo đảm an toàn bức xạ, hạt nhân trong các
hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng NLNT và cho cơng tác đảm bảo an ninh
các lị phản ứng. Quy hoạch và xây dựng mạng lưới quan trắc phóng xạ môi trường quốc
gia. Xây dựng năng lực kỹ thuật để thực hiện Kế hoạch quốc gia về ứng phó khẩn cấp sự
cố bức xạ và hạt nhân. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ cho tổ chức hỗ trợ kỹ thuật
phục vụ quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân.


- Tăng cường năng lực cơ sở hạ tầng kỹ thuật về quản lý chất thải phóng xạ trong


phạm vi tồn quốc bao gồm các tổ chức nghiên cứu và triển khai, xử lý và lưu giữ chất
thải phóng xạ. Quy hoạch địa điểm cho cơ sở quốc gia về lưu giữ chất thải phóng xạ và
lập phương án xử lý lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sau khi kết thúc hoạt động.


- Tăng cường năng lực các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực khoa học
và công nghệ hạt nhân và các lĩnh vực có liên quan với việc trang bị các thiết bị tiên tiến
như lò phản ứng nghiên cứu công suất lớn đa mục tiêu, máy gia tốc, thiết bị cộng hưởng
từ, thiết bị laser, thiết bị nghiên cứu về nhiên vật liệu hạt nhân và các thiết bị nghiên cứu
khác.


- Tăng cường đầu tư trang thiết bị và hiện đại hố phương tiện, chương trình đào tạo
cho các cơ sở đào tạo về khoa học và công nghệ hạt nhân.


b) Phát triển nguồn nhân lực


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

đào tạo cán bộ quản lý, hoạch định chính sách và luật pháp trong lĩnh vực ứng dụng
NLNT và đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân.


<i><b>3.6.4. Giải pháp thực hiện Chiến lược</b></i>
(1) Hoàn thiện hệ thống tổ chức và quản lý


Hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và an
toàn bức xạ, hạt nhân theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập giữa các cơ quan này trong
q trình thực thi nhiệm vụ của mình. Quy hoạch và xây dựng các tổ chức nghiên cứu
-triển khai, hỗ trợ kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước, sản xuất và dịch vụ trong lĩnh vực
ứng dụng năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt nhân.


(2) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách


Xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật về năng lượng nguyên tử bao gồm ban


hành Luật Năng lượng nguyên tử, các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành, các quy
định, quy chế, tiêu chuẩn kỹ thuật và các cơ chế, chính sách phù hợp với tính chất đặc thù
có u cầu cao về tính an tồn, kỷ luật hành chính, sự phức tạp về kỹ thuật và nhạy cảm
về chính trị.


(3) Phát triển nguồn nhân lực


Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là xây dựng các cơ sở
giáo dục và đào tạo, các tổ chức nghiên cứu triển khai về khoa học và công nghệ hạt
nhân. Xây dựng kế hoạch quốc gia về phát triển nguồn nhân lực bao gồm đội ngũ chuyên
gia, kỹ thuật viên và công nhân lành nghề đáp ứng yêu cầu ứng dụng năng lượng nguyên
tử, đặc biệt là phát triển điện hạt nhân. Tập trung đào tạo, nâng cao trình độ chun mơn
cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử. Củng cố, từng bước đổi mới trang thiết bị và nâng cao trình độ chun mơn
của đội ngũ cán bộ giảng dạy bộ môn vật lý hạt nhân để đào tạo cán bộ khoa học và công
nghệ hạt nhân tại các trường đại học, có chính sách thu hút học sinh giỏi, phát huy tài
năng của các chuyên gia trong nước và thu hút các chuyên gia giỏi người Việt Nam định
cư ở nước ngoài trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

Chương trình mục tiêu quốc gia nhằm từng bước hình thành và phát triển ngành
cơng nghiệp cơng nghệ hạt nhân. Nội dung chủ yếu của chương trình bao gồm các
nội dung sau:


- Triển khai một cách rộng rãi và hiệu quả việc ứng dụng năng lượng bức xạ
phục vụ các lĩnh vực kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng, từng bước sản xuất và
phát triển các sản phẩm và công nghệ ứng dụng năng lượng bức xạ mang thương
hiệu Việt Nam.


- Triển khai thực hiện Dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên và huy
động tối đa năng lực của các ngành công nghiệp trong nước tham gia thực hiện dự


án.


- Xây dựng và thực hiện Chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ về
năng lượng nguyên tử, cụ thể là tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các tổ chức
nghiên cứu và triển khai công nghệ kỹ thuật cao ứng dụng năng lượng nguyên tử
phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, các cơ sở đào tạo chuyên gia KH&CN
hạt nhân, các cơ sở dịch vụ và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước
về năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và an toàn bức xạ, hạt nhân. Xây dựng lò
phản ứng hạt nhân nghiên cứu mới công suất lớn đa mục tiêu, trang bị các máy gia
tốc và các thiết bị nghiên cứu hiện đại khác.


- Quy hoạch địa điểm cho các nhà máy điện hạt nhân và cơ sở lưu giữ chất thải
phóng xạ. Điều tra tài nguyên xạ hiếm.


(5) Thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh cho cơ sở hạt nhân và sự
ủng hộ của công chúng cho phát triển điện hạt nhân.


Thực hiện các biện pháp quản lý và các giải pháp kỹ thuật để đảm bảo an toàn,
an ninh trong xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng nghiên
cứu. Xây dựng các đơn vị có khả năng ứng phó khẩn cấp khi có sự cố, tai nạn bức
xạ và hạt nhân. Xây dựng và bảo đảm việc hoạt động của mạng lưới quan trắc
phóng xạ mơi trường quốc gia. Thường xun cập nhật các thông tin về ứng dụng
năng lượng nguyên tử phục vụ kinh tế - xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế phục vụ cho việc đào tạo, chuyển giao
công nghệ về ứng dụng năng lượng bức xạ và phát triển điện hạt nhân, gắn hợp tác
quốc tế về năng lượng nguyên tử với hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ và
hợp tác quốc tế về kinh tế, tạo sự tin cậy và hợp tác của cộng đồng quốc tế đối với
chương trình phát triển điện hạt nhân của Việt Nam, hướng vào các đối tác có cơng
nghệ tiên tiến và nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và phát triển điện hạt


nhân.


(7) Đầu tư, tài chính và huy động vốn


Cần đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho ứng dụng năng lượng bức xạ phục
vụ cho các ngành kinh tế - xã hội. Để bảo đảm ngân sách cho thực hiện Chiến
lược, cần huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các
nguồn vốn hợp tác song phương và đa phương của các tổ chức quốc tế, vốn đầu tư
nước ngoài, vốn của các doanh nghiệp trong nước và của cộng đồng. Nguồn vốn
ngân sách nhà nước tập trung cho nhu cầu nghiên cứu khoa học, đào tạo nguồn
nhân lực, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và luật pháp, nâng cao
năng lực cho cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan hỗ trợ kỹ thuật cho quản lý
nhà nước. Nhà nước bảo đảm việc huy động vốn từ nguồn vay nước ngoài và
nguồn lực của xã hội để phát triển điện hạt nhân.


(8) Tổ chức thực hiện


a) Bộ Khoa học và Công nghệ


- Thực hiện quản lý nhà nước về ứng dụng NLNT và an tồn bức xạ, hạt nhân.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và trình Chính phủ ban
hành hoặc ban hành theo thẩm quyền hệ thống tổ chức quản lý nhà nước, các văn bản
quy phạm pháp luật và các cơ chế, chính sách về ứng dụng năng lượng nguyên tử và
an toàn bức xạ, hạt nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Công nghiệp và các Bộ, ngành liên quan tổ chức nghiên
cứu về công nghệ và nhiên liệu cho nhà máy ĐHN.


- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và thực hiện kế hoạch
triển khai ứng dụng công nghệ năng lượng bức xạ phục vụ các lĩnh vực kinh tế - xã


hội và an ninh quốc phịng, hình thành và phát triển các sản phẩm và cơng nghệ mang
thương hiệu Việt Nam.


- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đánh giá, cấp phép an toàn bức xạ,
hạt nhân.


- Thẩm định và xác nhận đăng ký các hợp đồng chuyển giao công nghệ, dự án xây
dựng nhà máy ĐHN.


b) Bộ Công nghiệp


- Lập quy hoạch và kế hoạch phát triển các nhà máy ĐHN, lựa chọn địa điểm, tổ
chức xây dựng, quản lý và vận hành các nhà máy ĐHN.


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây
dựng và thực hiện kế hoạch tổng thể về nâng cao năng lực các ngành công nghiệp
trong nước nhằm tham gia hiệu quả vào việc thực hiện các dự án xây dựng nhà máy
ĐHN.


- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đào tạo cán bộ quản lý dự án, cán
bộ và công nhân kỹ thuật, cán bộ vận hành cho các dự án ĐHN.


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai ứng dụng kỹ thuật
bức xạ trong các ngành cơng nghiệp và đảm bảo an tồn trong các hoạt động này.


c) Bộ Kế hoạch và Đầu tư


- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng các cân đối lớn về tài chính,
tiền tệ; các nguồn vốn (trong đó có nguồn vốn ngân sách) để thực hiện Chiến lược
ứng dụng NLNT vì mục đích hồ bình, xây dựng nhà máy ĐHN trình Chính phủ phê


duyệt.


- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thẩm định xét duyệt thầu xây dựng
các hạng mục và toàn bộ nhà máy ĐHN.


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

hội, kế hoạch xây dựng các nhà máy ĐHN, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đầu
tư, đa dạng hố phương thức đầu tư, danh mục các dự án đầu tư khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia trình Chính phủ phê duyệt.


d) Bộ Tài chính


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan xây dựng
kế hoạch cân đối các nguồn vốn để tập trung ngân sách hàng năm cho ứng dụng
NLNT và đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân.


- Bố trí vốn tín dụng ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển, vốn ODA và các nguồn vay
song phương của các nước cho các dự án xây dựng nhà máy ĐHN, ứng dụng năng
lượng bức xạ và xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngành NLNT. Huy động thị trường
tài chính trong và ngồi nước để thu hút các nguồn vốn cho phát triển ngành NLNT.


đ) Bộ Y tế


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây
dựng quy hoạch, kế hoạch triển khai nghiên cứu, ứng dụng năng lượng bức xạ trong
việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân phù hợp với Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục
đích hồ bình.


- Tổ chức nghiên cứu y học phóng xạ và hạt nhân, thực hiện các biện pháp đảm bảo
an toàn bức xạ trong y tế.



- Cấp phép sản xuất và lưu hành các dược chất phóng xạ dùng trong y tế; cấp phép
cho các sản phẩm thực phẩm đã qua chiếu xạ theo quy định của pháp luật.


e) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thơn


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây
dựng quy hoạch, kế hoạch triển khai nghiên cứu ứng dụng năng lượng bức xạ trong
tạo giống cây trồng, quản lý và cải tạo đất, quản lý nước tưới, sản xuất phân bón và
các chế phẩm bức xạ phục vụ nơng nghiệp, kiểm soát sâu bệnh, sức khoẻ sinh sản
động vật, bảo quản lương thực, thực phẩm phù hợp với Chiến lược ứng dụng NLNT
vì mục đích hồ bình.


- Thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn bức xạ trong các hoạt động ứng dụng
NLNT trong ngành nông nghiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ,
ngành liên quan xây dựng kế hoạch quốc gia về đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho
chương trình NLNT, xây dựng chương trình đào tạo, mạng lưới các cơ sở đào tạo đại
học, trên đại học và tổ chức công tác đào tạo để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho chương
trình phát triển ĐHN và ứng dụng năng lượng bức xạ.


- Tiến hành các nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực KH&CN hạt nhân.
h) Bộ Tài nguyên và Môi trường


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Cơng nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ,
ngành, địa phương liên quan tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên khoáng sản urani,
thori phục vụ cho chương trình phát triển ĐHN của Việt Nam.


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ,
ngành, địa phương liên quan lập quy hoạch địa điểm xây dựng các nhà máy ĐHN và


cơ sở quốc gia lưu giữ chất thải phóng xạ.


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành và địa phương
liên quan triển khai ứng dụng năng lượng bức xạ trong địa chất, khống sản, khí
tượng, thủy văn, đặc biệt trong đánh giá và quản lý tài nguyên nước, dự báo thời tiết
và thiên tai.


- Thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường các dự án hạt
nhân.


i) Bộ Xây dựng


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Cơng nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ,
ngành liên quan triển khai lập quy hoạch và đầu tư cho các Tổng công ty xây dựng
lớn về năng lực xây lắp, đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật lành nghề để có thể
tham gia thực hiện dự án xây dựng nhà máy ĐHN.


- Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ,
ngành liên quan triển khai soạn thảo và trình ban hành tiêu chuẩn Việt Nam về xây
dựng các cơ sở bức xạ và cơ sở hạt nhân.


- Phối hợp với các cơ quan liên quan trong lập quy hoạch địa điểm xây dựng các
nhà máy ĐHN và cơ sở quốc gia lưu giữ chất thải phóng xạ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ, ngành liên
quan trong hợp tác quốc tế về NLNT, bao gồm cả việc tham gia và thực hiện các điều
ước quốc tế về NLNT.


l) Bộ Quốc phịng



Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan đảm bảo an toàn, an ninh cho các cơ sở
hạt nhân. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch quốc gia ứng phó khẩn cấp các sự
cố bức xạ và hạt nhân.


m) Bộ Cơng an


Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn và triển
khai các biện pháp đảm bảo an ninh trong lĩnh vực NLNT. Tham gia giám sát và ứng
phó khẩn cấp các sự cố bức xạ và hạt nhân.


n) Bộ Tư pháp


Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng và trình ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức xạ, hạt nhân.


o) Bộ Văn hố - Thơng tin


Tổ chức tun truyền, nâng cao nhận thức cho nhân dân về vai trò của NLNT đối
với phát triển kinh tế - xã hội; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ứng
dụng NLNT và đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân.


p) Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam


Tham gia thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng và phát triển
ngành công nghiệp công nghệ hạt nhân. Thực hiện các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
ứng dụng NLNT và tham gia đào tạo chuyên gia về KH&CN hạt nhân.


q) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ


Theo chức năng và nhiệm vụ của mình, phối hợp với Bộ Khoa học và Cơng nghệ


và các Bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng NLNT và
đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân trên phạm vi toàn quốc.


r) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97></div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. L’énergie en 2050, Bernard Wiesenfeld, 5/2006.
2. IAEA Annual Report for 2005.


3. IAEA - for nuclear electricity production & percentage of electricity, 5/2006.
4. Nuclear Issues Briefing Paper 7, January 2007.


5. Global Wind Energy Outlook 2006.


6. Global energy scenarios to 2050 and beyond, WEC Commission .


7. Reference Hoshino, Yuko and Norihisa Sakurai, 2004, “The world energy
supply and demand projections to 2050”, CRIEPI Y03027.


8. Asian News, 2/2006.


9. Energy 2050, By Steve Fetter, July/August 2000 pp. 28-38 (vol. 56, no. 04),
Bulletin of the Atomic Scientists.


10. Hydrogen as an Energy Carrier: Outlook for 2010, 2030 and 2050, Joan
Ogden, Institute of Transportation Studies, University of California.


11. World Energy Consumption and Carbon Dioxide Emissions: 1950-2050,
Richard S. Chmalensee, Thomas M. Stoker, and Ruth A. Judson.



12. Les perspectives mondiales des technologies energetiques a l'horizon 2050
(weto-h2).


13. Exploring implications to 2050 of energy technology options for china,
Tsinghua University, 100084 Beijing, China.


14. US Strategic Plan of Energy. UIS Dept. of Energy, 2004.


15. “New National Energy Strategy” Formulated by the Japanese Government in
May, 2006


16. Russia's Energy Strategy till 2020.


17. Evaluation of China’s Energy Strategy Options, Jonathan E. Sinton, 16 May
2005.


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

19. . <i>(Nguồn: CLCSCN)</i>


20. Năng lượng và sự phát triển của Việt Nam, Bùi Văn Đạo, Thời đại mới, Số 8,
7/2006.


21. Phát triển điện hạt nhân trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia,
PGS.TS. Vương Hữu Tấn - Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt
Nam, Tạp chí Năng lượng, Số 20 (8/2006).


22. Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định
hướng đến 2020.


</div>


<!--links-->
Bài học môn công nghệ 6
  • 31
  • 971
  • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×