Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TƯ TƯỞNG của c mác và PH ĂNGGHEN về TÍNH tất yếu KHÁCH QUAN PHẢI THÀNH lập ĐẢNG CỘNG sản TRONG “TUYÊN NGÔN của ĐẢNG CỘNG sản”,ý NGHĨA TRONG xây DỰNG ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.85 KB, 27 trang )

TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ TÍNH TẤT YẾU
KHÁCH QUAN PHẢI THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG “TUYÊN
NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”,Ý NGHĨA TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG.
Thời gian từ năm 1847 đến năm 1848, C. Mác và Ph. Ăngghen tập
trung nghiên cứu và soạn thảo “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Bản thân C.
Mác lúc này liên tục bị chính quyền nước sở tại trục xuất. Khi tới Pari, thủ đơ
nước Pháp, C. Mác bị chính quyền Pari trục xuất, phải chạy sang Brúcxen,
thủ đô Bỉ. Ở Bỉ, Ông lại bị trục xuất khỏi Brúc xen. Rời Brúc xen, trở về Pari
không được bao lâu C. Mác lại bị trục xuất khỏi Pari. Rời Pari, Ơng đến Ln
Đơn, thủ đơ nước Anh,... Chính trong hồn cảnh cực kỳ gian nan đó, C. Mác
đó cựng với Ph. Ăngghen viết thành cơng một tác phẩm lý luận nổi tiếng và
đó đi vào lịch sử: “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Lúc đầu, bản thảo được C.
Mác viết ở Luân Đôn, rồi viết ở Brúc xen, sau đó, cùng Ph. Ăngghen sang
Pari để viết tiếp. Tại Pari, C. Mác miệt mài suốt một tháng để sửa chữa, bổ
sung bản thảo cho hoàn chỉnh.
Trong những ngày cuối thỏng 01/1848, bản thảo được hoàn thành và được gửi
sang Luân Đôn để xuất bản. Đến tháng 2/1848 thỡ in xong và đến tháng
3/1848, Pari đó nhận được một nghỡn bản in để phổ biến ở nước Pháp và
nước Đức. Số bản in cũn lại, được gửi đi các nước khác. Từ bấy đến nay,
người ta khơng thống kê được tun ngơn đó được tái bản bao nhiêu lần với
các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan, Đan Mạch, Tiệp
Khắc, Hunggari, Bungari, Anbani, Trung Quốc, Việt Nam, v.v... trong bản in
bằng tiếng Thuỵ Điển vào khoảng cuối năm 1848 do nhà xó hội khụng tưởng
Gơtơrếch phát hành, khẩu hiệu: “Vơ sản tất cả các nước đoàn kết lại!” được
thay bằng khẩu hiệu: “Tiếng nói của nhân dân là tiếng nói của Chúa”. Năm
1893, V. I. Lênin dịch “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” ra tiếng Nga. Hồ Chí
Minh cũng đó dịch “Tuyờn ngụn Đảng Cộng sản” ra tiếng Việt.
Những người yêu quý, trõn trọng tuyờn ngụn, thỡ đón đọc nó với nhiềm hân
hoan vỡ tuyờn ngụn đó giỳp cho họ cú được sự kiên định trong mục đích và ý
thức giác ngộ. Những phần tử chống đối, thỡ cho rằng, sẽ bị phạm tội nếu ai
đó đọc tun ngơn. Tại nhiều nước, tác phẩm này chỉ được lưu hành bí mật.


Sự phản ứng của các giới quan phương đối với sự ra đời của tuyên ngôn
chứng tỏ sự tuyên án của C. Mác và Ph. Ăngghen dành cho thế giới bóc lộ và
bất cơng đó đúng.


2

Về mặt văn bản học, hiện tại chỉ cũn giữ được một trang duy nhất của bản
thảo do C. Mác viết tay cuốn “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Bản in đầu tiên ở
Ln Đơn có chăng chỉ cũn vài cuốn.
2. Với tác phẩm này, C. Mác đó trỡnh bày những tư tưởng chủ yếu của học

thuyết cách mạng mới một cách cô đọng, ngắn gọn và khái quát đến mức tối
đa. Tồn bộ tác phẩm tốt lên một thiên tài của tư tưởng cách mạng:
Một là : Tuyên ngôn là đỉnh cao của sự sáng tạo của những nhà sang lập chủ

nghĩa Mác, một văn kiện có tính cương lĩnh của chủ nghĩa cộng sản, một sản
phẩm lý luận chính trị, quốc tế lớn lao, một định hướng tiến lên của cách
mạng thế giới.
Hai là : Tun ngơn đó khỏi quỏt hệ thống toàn bộ quỏ trỡnh phỏt sinh, phỏt

triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn nội tại của nó, sự đối kháng giữa
giai cấp tư sản với giai cấp công nhân. Tuyên ngôn nhấn mạnh rằng, việc xác
lập chế độ TBCN thay cho chế độ phong kiến là một bước tiến của lịch sử
phát triển lực lượng sản xuất, sự tiến bộ về kinh tế, sự phát triển của khoa học
hiện đại và văn hoá. Tuy nhiên, tới một giai đoạn nào đó, những quan hệ sản
xuất của xó hội tư sản đó khụng cũn phự hợp với những lực lượng sản xuất đó
lớn mạnh, chỳng bắt đầu kỡm hóm sự phỏt triển hơn nữa của lực lượng sản
xuất, sẽ phá bung ra thành cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất. Và khi ấy, từ
tiến bộ khi giai cấp tư sản cũn đang đấu tranh chống lại chế độ phong kiến,

thành một chướng ngại trên con đường tiến bộ xó hội.
Ba là : Tun ngơn đó chứng minh sự tan vỡ của chế độ TBCN là điều hiển

nhiờn vỡ sự vựng lờn của giai cấp cụng nhõn và nhõn dõn lao động khi họ bị
giai cấp tư sản bóc lột. Tun ngơn chỉ ra rằng, cuộc đấu tranh giữa những
người bị áp bức và những kẻ áp bức, kể từ khi xó hội nguyờn thuỷ tan ró, là
động lực chủ yếu của sự phỏt triển lịch sử.
Tuy nhiên, về điểm này, C. Mác và Ph. Ăngghen không luận giải được sự điều
chỉnh và sự nắm lấy khoa học và công nghệ, sự phát triển lực lượng sản xuất
của CNTB, nên nó sẽ tồn tại trong một thời gian dài, cũng như chế độ phong
kiến đó tồn tại trong một thời gian rất dài mới bị chế độ tư bản quật đổ.
Bốn là : Tun ngơn đó luận chứng cho một luận điểm về vai trũ lịch sử toàn

thế giới của giai cấp cụng nhõn, giai cấp cỏch mạng nhất trong tất cả cỏc giai
cấp đó cú trong lịch sử. .Giai cấp công nhân đấu tranh với CNTB không phải
vỡ sự giải phúng của riờng họ, mà cũn vỡ lợi ớch của tất cả nhõn dõn lao
động, bằng cách giải phóng họ vĩnh viễn thốt khỏi những áp bức và bất công.


3

Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân được tuyên ngôn xác lập một cỏch dứt
khoỏt, rừ ràng nú diễn ra trước hết là trên miếng đất dân tộc, đoàn kết tất cả
lực lượng tiến bộ của dân tộc lại chung quanh mỡnh.
Tuy nhiờn, tuyờn ngụn chỉ tập trung phõn tớch về giai cấp cụng nhõn, mà
khụng phõn tớch vai trũ to lớn của giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác, những người bạn đồng hành của giai cấp công nhân.
Năm là : Tuyên ngôn vạch ra những quy luật chủ yếu của cách mạng vô snr là

đưa giai cấp công nhân, từ người làm thuê, bị bóc lột, thành giai cấp thống trị

và thiết lập nền dõn chủ XHCN.
Sỏu là : Tun ngơn đó phỏc ra những nột chủ yếu của chế độ cộng sản chủ

nghĩa và cũng chỉ ra rằng, chủ nghĩa cộng sản (CNCS) không phải được xác
lập ngay lập tức, mà được xác lập trong tiến trỡnh cải tạo dần dần xó hội cũ
thành xó hội mới. Khi CNCS được thiết lập, thỡ sự ỏp bức thuộc địa và những
cuộc đấu tranh xâm lược, những cuộc nội chiến sẽ vĩnh viễn không cũn nữa.
Tuyờn ngụn gắn CNCS với sự phồn thịnh thật sự của sản xuất vật chất, với sự
phỏt triển vũ bóo của lực lượng sản xuất, kết hợp ở trỡnh độ cao sự giáo dục
với sản xuất vật chất, làm thoả món đầy đủ nhu cầu vật chất và tinh thần của
mọi thành viên trong xó hội. Lỳc ấy, con người sẽ làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu (sau này, các nhà Mác học phát triển thêm: ở giai đoạn thấp, tức
CNXH, con người sẽ làm theo năng lực, hưởng theo lao động).
Tuy nhiên, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác hồi đó cũng chỉ nêu khái quát
những nét đặc trưng của chế độ tương lai mà thôi. Ngày nay, các nhà Mác học
phải phát triển lên rất nhiều mới có thể “lấp được chỗ trống” những vấn đề
của CNXH hiện đại mà trong Tuyên ngôn chưa nêu.
Bảy là : Tuyên ngôn phản ánh những cơ sở nhân đạo chủ nghĩa cao cả thấm

sâu vào trong mọi quan hệ giữa người và người dưới chế độ cộng sản chủ
nghĩa. Sự tự do thật sự của mỗi cá nhân được xó hội tụn trọng. “Sự phỏt triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”(1).
Sự nhất trớ hài hoà giữa lợi ớch cỏ nhõn và lợi ớch xó hội sẽ được xác lập
một cách cơng bằng, văn minh trong xó hội cộng sản. Tuyờn ngụn phờ phỏn
quyết liệt sự vu khống của những phần tử đối lập xuyên tạc cho rằng, CNCS
muốn thủ tiêu sở hữu cá nhân do lao động của bản thân làm ra, thủ tiêu tự do
cá nhân, xoá bỏ tổ quốc, gia đỡnh, học vấn,...



4

Tỏm là : Tuyờn ngôn đặt cơ sở cho học thuyết về đảng của giai cấp công nhân

với tư cách là người tổ chức và lónh tụ của giai cấp cụng nhõn. Việc thành lập
đảng cộng sản là điều kiện cần có và phải có để giai cấp cơng nhân giành lấy
chính quyền và cải tạo xó hội. C. Mỏc và Ph. Ăngghen nhấn mạnh rằng,
những người cộng sản cần phải hành động tuỳ theo những điều kiện lịch sử,
chứ không phải theo những khuôn mẫu cứng nhắc, vỡ lý luận của CNCS và
đảng cộng sản không phải là phưong thuốc vạn năng. Khi đề xuất một đường
lối cụ thể, đảng phải tính đến mục tiêu trước mắt phục tùng mục đích cuối
cùng; kết hợp hài hồ giữa nhiệm vụ quốc tế và nhiệm vụ dân tộc, ủng hộ các
trào lưu tiến bộ và cách mạng, đồng thời, tỏ rừ thỏi độ phê phán đối với
những ảo tưởng của những đồng minh của mỡnh.
Chớn là : Tun ngơn đó cú những trang đánh giá những trào lưu chính trị

khác nhau; vạch trần thực chất của CNXH phong kiến, CNXH cơ đốc, CNXH
tiểu tư sản mà biến thể của nó là “CNXH chân chính” ở Đức. Đó là những thứ
CNXH cải lương, bảo thủ, cần phê phỏn, vỡ nú rất cú hại và nguy hiểm.
Mười là : Tuyên ngôn thừa nhận cơng lao của những nhà XHCN khơng tưởng:

Xanhximơng, Phuriê, Ơoen, xem đó là những bậc tiền bối của CNCS khoa
học. C. Mác và Ph. Ăngghen nhận định rằng, trong những tác phẩm của họ đó
cung cấp những tư tưởng và tài liệu quý báu để phê phán CNTB và tôn vinh
giai cấp công nhân. Nhưng do cơ sở lý luận của nú cú cỏi gỡ rất chụng chờnh,
nờn nú trở nờn xa rời cuộc sống và mất hết ý nghĩa thực tiễn của nú.
Tóm lại, “Tun ngơn Đảng Cộng sản”, với những lý luận sắc bén, đẩy sức
thuyết phục để biến CNXH từ không tưởng thành khoa học, thành thực tiễn
đấu tranh cách mạng. Đó là cống hiến vơ giá của hai nhà sáng lập CNXH
khoa học: C. Mác và Ph. Ăngghen.

Thời C. Mác và Ph. Ăngghen sống, chưa có một đảng cộng sản nào ra đời.
Nhờ bắt nhịp được những tư tưởng trong tuyên ngôn, các đảng cộng sản lần
lượt xuất hiện và từ đó, xó hội lồi người bất đầu bước vào trào lưu cách
mạng, biến cái cũ thành cái mới.
3. Đến nay (năm 2008), “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của C. Mác và Ph.

Ăngghen ra đời đó được 160 năm. 160 năm vật đổi, sao dời, cục diện chính trị
thế giới có nhiều biến động. Cách mạng Tháng Mười Nga thành cơng vào
năm 1917 đó ra đời một nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Từ đó, lần
lượt các nước XHCN xuất hiện với sự lónh đạo của đảng cộng sản và đảng
công nhân, dần dần trở thành hệ thống XHCN thế giới. Có giai đoạn (từ năm
1945 đến năm 1985), CNXH thế giới hiện lên như một thế lực rất mạnh, làm


5

cho hệ thống CNTB thế giới rất run sợ, lo lắng. Nhưng trong 2 năm 1990 –
1991, Liên Xô và các nước XHCN ở châu Âu sụp đổ hoàn toàn. Bức tường
Béclanh đổ sụp trước sự hân hoan của CNTB thế giới, làm cho các nước
phương Tây mở rượu ăn mừng, trong khi đó, những người cộng sản châu Âu
thỡ thở vắn, than dài, bị nhà nước thống trị đặt ra ngoài vũng phỏp luật, bị đe
doạ và bị thủ tiêu. Các đảng cộng sản ở châu Âu, từ khi mất chính quyền thỡ
teo túp lại. Cỏc đảng cộng sản cũn cầm quyền, mỗi đảng theo một đường lối
riêng, xoay sở trong một miếng đất của dân tộc mỡnh. Một số đảng cộng sản
chưa biết số phận của mỡnh sẽ ra sao khi lónh tụ của mỡnh trỳt hơi thở cuối
cùng.
Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đơng Âu
đó cú nhiều nhà nghiờn cứu bàn đến. Có người đó nờu ra hàng chục nguyờn
nhõn, nhưng những nguyên nhân chủ yếu có lẽ vẫn là nội bộ của phong trào
cộng sản quốc tế có vấn đề; nội bộ ban lónh đạo các đảng cộng sản quốc tế có

vấn đề; đường lối và phương pháp lónh đạo của các đảng cộng sản có vấn đề;
chính sách cán bộ của các đảng cộng sản có vấn đề. Bài tốn khó giải hiện
nay là tiếp tục đẩy tới hay thoả hiệp với CNTB (chủ nghĩa đế quốc)? Học
thuyết về thoả hiệp, V. I. Lênin đó núi tới, nhưng mới chỉ là những nét đơn sơ.
Thay đổi mạnh bị xem là “cấp tiến”. Cấp tiến mạnh liệu có xa rời mục tiêu
CNXH? Thực chất về lý luận CNXH của các đảng cầm quyền hiện nay chưa
rừ. Người thỡ núi là hữu khuynh, người thỡ núi là tả khuynh, người thỡ núi là
“vỏ cũ, ruột mới”, người thỡ núi là “ruột cũ, vỏ mới”. Một số người lónh đạo
đảng cộng sản đang thổi “tiếng kèn ngập ngừng” giữa CNXH và CNTB,
khụng dỏm nhỡn thẳng vào sự thật để tỡm ra phương hướng khắc phục. Xu
thế phát triển của thế giới hiện nay ít ai tính đến. Vấn đề dự báo thời tiết chính
trị thế giới hiện nay cũn nhiều hạn hẹp và khụng ớt những trường hợp dự báo
sai.
Có một sự thật là hiện nay ở các nước phương Tây, người ta tiếp tục tuyên
truyền cho thuyết “giải thể hệ tư tưởng” mà một trong những tác giả của nó là
nhà xó hội học Mỹ Benlơ. Đây là quan điểm của những nhà tư bản thống trị
được tích cực sử dụng để chống lại hệ tư tưởng và để phá vỡ cơ sở tư tưởng
của chế độ XHCN. Những người theo trường phái thuyết này viện cớ trong
lịch sử thế giới khơng hề có một hệ tư tưởng nào gọi là khoa học, nên cần giải
thể hệ tư tưởng XHCN. Họ lập luận rằng, nếu như ở các nước XHCN, hệ tư
tưởng của chủ nghĩa Mác giữ địa vị thống trị, thỡ ở cỏc nước phương Tây
dường như khơng có hệ tư tưởng nào giữ địa vị thống trị cả, mà chỉ có ngành
khoa học xó hội thuần tuý (xó hội học, chớnh trị học, triết học,...), rằng,
chớnh ngành khoa học xó hội thuần tuý là phự hợp với thời đại có tiến bộ
khoa học và cơng nghệ và sự hợp lý hoỏ ngày càng cao mọi mặt trong đời


6

sống xó hội, nờn thời đại đó khơng cũn chỗ đứng cho bất kỳ hệ tư tưởng nào.

Vỡ lẽ đó mà “hệ tư tưởng XHCN phải cáo chung”.
Vấn đề của chúng ta hiện nay phải bằng vũ khí lý luận bảo vệ hệ tư tưởng
XHCN. Muốn vậy, trong nghiên cứu lý luận phải cú sự phỏt triển. Minh hoạ
lý luận trong lỳc này sẽ sa vào giỏo điều. Nhưng nếu chúng ta vứt bỏ những
nguyên lý gốc, thỡ cú khỏc gỡ kộo sập toà nhà cũ xuống để thay toà nhà mới
khác. Vấn đề đặt ra không phải kéo sập toà nhà cũ xuống mà thay bằng toà
nhà mới khác, mà phải làm thế nào đó để cho tồ nhà cũ cũn nền múng vững
chắc, “nõng cấp” cho nú đẹp hơn, vững chói hơn. Trên tinh thần đó, chúng ta
tỡm cỏi tinh tuý của chủ nghĩa Mỏc – Lờnin để phát triển nhân lên trong hoàn
cảnh mới. Dù sao, cũng phải kiên trỡ giữ lấy CNXH khoa học, một vấn đề
tưởng như cũ, nhưng lại đang là mới đối với các nước Mỹ la tinh. Những
nước này đó bắt đầu nhỡn ra cỏi “độc tài mới” của “chủ nghĩa tư bản (đế
quốc) mới”. Dù sao, chủ nghĩa tư bản (đế quốc) mới cũn rất mạnh. Sức mạnh
của họ về kinh tế và qũn sự khụng thể xem thường. Ai đó cho rằng, nó sẽ sụp
đổ trong ngày một ngày hai lại là khơng tưởng.
Có người nói CNXH đang đứng trước ngó ba đường. Đi về đâu và bằng
phương tiện nào trong lúc này là cả một sự tính tốn cơng phu. Có điều là,
những gỡ mà C. Mỏc và Ph. Ăngghen đó nờu trong “Tuyờn ngụn Đảng Cộng
sản” vẫn là kim chỉ nam cho đường lối của chúng ta. Củng cố và phát triển hệ
tư tưởng XHCN trong hoàn cảnh mới là nhiệm vụ của những nhà hoạch định
chính sách và những nhà nghiên cứu lý luận. Cú như vậy, vận mệnh lịch sử
của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” sẽ ngày càng được khẳng định trong trái
tim nhân loại.
Điều cốt lừi trong tư tưởng Mác - Ăngghen - Lênin về xây dựng một xó hội
mới là Đảng cộng sản - Đó là nhân tố quyết định nhất. Tiếp thu tư tưởng đúng
đắn đó, Bác Hồ khi tỡm thấy con đường cứu nước đúng đắn đó tập trung vào
việc xõy dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hoàn cảnh cụ thể Việt Nam.
Phát triển tư tưởng của các vĩ nhân trong xây dựng Đảng, Bác đặt lên trên hết
“tư cách người kách mệnh” - tư cách của một Đảng Cộng sản chân chính. Từ
tư cách chân chính của mỗi đảng viên mới có thể hỡnh thành tư cách của một

Đảng, như vậy Đảng mới vững, cách mạng mới thành công. Đặt vấn đề về
nền tảng tư tưởng của Đảng, Bác chỉ rừ đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Phải giữ
chủ nghĩa cho vững cũng như thuyền có lái mới có thể đi tới đích… Có thể
nói trong tư tưởng của Bác kính yêu, trong toàn bộ di sản tư tưởng của Bác để
lại cho nhân dân ta, sự nghiệp cách mạng nước ta và nhân loại tiến bộ cốt lừi
là vấn đề Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng, vấn đề đạo đức cách mạng và
vai trũ lónh đạo của Đảng cộng sản cầm quyền. Trên cơ sở nền tảng tư tưởng


7

là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam đó
thật sự xứng đáng là lónh tụ chớnh trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam và của toàn thể dân tộc Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đó
tiến từ thắng lợi này tới thắng lợi khác, giữ vững định hướng xó hội chủ nghĩa
trong quỏ trỡnh phỏt triển.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C.Mác và Ph.ăngghen soạn thảo, được
xuất bản và cơng bố trước tồn thế giới ngày 24 tháng 2 năm 1848 tại Luân Đôn. Thực
tiễn lịch sử chứng minh: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đã thực sự trở thành
cương lĩnh chính trị và kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp vơ sản và nhân dân lao động tồn thế giới đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng lồi người thốt khỏi mọi áp bức bóc lột, xây
dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Việc hồn thành
và cơng bố tác phẩm không phải là một sự kiện ngẫu nhiên mà được xuất phát từ những
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đã chín muồi, kết tinh của tinh hoa trí tuệ nhân loại và
cơng sức lao động sáng tạo, bền bỉ của C. Mác và Ph. ăngghen.
Cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, lồi người đã có bước tiến dài trong đời sống
kinh tế xã hội, các công trường thủ cơng có tính chất chun mơn hố cao được hình
thành và thay thế cho kiểu sản xuất phường hội trước đó. Những phần tử đầu tiên của
giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản được hình thành, phát triển từ đấy. Chủ nghĩa tư bản dần

dần hình thành phát triển ở phần lớn Châu Âu, Bắc Âu thay thế cho chế độ phong kiến.
Cuối thế kỷ XVIII là thời kỳ bão táp của cách mạng tư sản. Trên lĩnh vực kinh tế, nó là
sự ra đời của cách mạng ở các nước như Anh, Pháp, Đức.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, loài người đã đạt được những thành tựu to
lớn về văn hoá, khoa học, tư tưởng với những phát minh vạch thời đại như Thuyết tương
đối của Anhxtanh, Thuyết tiến hoá của Đácuyn. Cũng ở thời gian này cách mạng tư sản
diễn ra ở khắp nơi trên thế giới.


8

Về tình hình kinh tế, xã hội ở Châu Âu:
Những năm giữa thế kỷ XIX phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát
triển mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân có sự
gia tăng nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng, trong đó có cả sự chuyển đổi về cơ
cấu. Tỷ trọng giai cấp công nhân công nghiệp tăng đáng kể, đây là bộ phận hạt nhân của
giai cấp công nhân.
Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do lực lượng sản xuất có tính chất xã
hội hố ngày càng cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bước lên vũ đài chính trị
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Chính vì thế, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản ngày càng trở nên gay gắt. Những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong
những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỷ XIX đã cho thấy vai trò và sức mạnh to
lớn của giai cấp vô sản, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm 1837; cuộc nổi dậy của công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844;
phong trào Hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm (1838-1848),…Tuy các cuộc đấu tranh
đó đều thất bại, nhưng ý thức chính trị của giai cấp vơ sản đã được xác định, đó là ý thức
đấu tranh giành chính quyền, ý thức xố bỏ chế độ tư hữu.
Những trào lưu tư tưởng ảnh hưởng tới phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân vào những năm giữa thế kỷ XIX.
Vào những năm này, các trào lưu tư tưởng hình thành đa dạng, phong phú và

phức tạp. Song, trào lưu tư tưởng có ảnh hưởng nhiều nhất tới phong trào vô sản là chủ
nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Xi Mông, Xác-Lơ-Puriê, Rô Be Ôoen. Điểm tiến
bộ trong tư tưởng của các ông là mong muốn xây dựng một chế độ công bằng, bác ái,
mọi người đều có quyền bình đẳng. Nhưng những tư tưởng này lại có những hạn chế rất
cơ bản là khơng giải thích được bản chất chế độ tư bản chủ nghĩa; chưa vạch ra được


9

quy luật vận động phát triển của xã hội; chưa nhận thấy được vai trò, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vơ sản.Tư tưởng đó cho rằng con đường đi tới chế độ cơng bằng, bình đẳng,
bác ái khơng phải là cách mạng xã hội mà là con đường giáo dục, nêu gương; chủ
trương cải tạo xã hội bằng pháp luật, bằng thực nghiệm…Những hạn chế này không
những không đáp ứng được yêu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản mà cịn kìm hãm
sự thống nhất về tư tưởng trong phong trào cơng nhân. Trong khi đó, giai cấp công nhân,
phong trào công nhân đã phát triển mạnh mẽ, chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể
đáp ứng được sự phát triển này, địi hỏi phải có một lý luận tiên tiến dẫn đường.
Cùng thời điểm, ở Châu Âu xuất hiện nhiều tổ chức của giai cấp vô sản, song
chưa có tổ chức nào thể hiện rõ tính chất của một tổ chức chính trị. Một trong những tổ
chức được C. Mác quan tâm nhiều hơn là “Liên đồn những người chính nghĩa” (thành
lập 1836) do Jiơ Dép Mơn lãnh đạo. Đây là một tổ chức mang tính quốc tế, bao gồm
những phần tử tiên tiến của giai cấp vơ sản ở nhiều nước tham gia. “Liên đồn những
người chính nghĩa” chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Tổ chức này khi thành lập có mời C. Mác và Ph. Ăngghen tham gia nhưng hai ông đều
từ chối. Mặc dù không tham gia nhưng hai ông vẫn thường xuyên trao đổi thư từ để từng
bước giác ngộ tư tưởng chính trị của ban lãnh đạo Liên đoàn.
Mùa xuân năm 1847 ban lãnh đạo “Liên đồn những người chính nghĩa” đã
đồng ý những điều kiện do C. Mác và Ph. Ăngghen đưa ra và Mác, Ăngghen đã chính
thức tham gia tổ chức này. Mùa hè năm 1847, tại Đại hội của “Liên đồn chính nghĩa”
C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày rõ những quan điểm chính trị của mình, Đại hội thảo

luận và thừa nhận những quan điểm đó. Đại hội đổi tên “Liên đồn những người chính
nghĩa” thành “Liên đồn những người Cộng sản”, đổi khẩu hiệu, chương trình hành
động “Tất cả mọi người đều là anh em” thành khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn
kết lại”. Đại hội thống nhất coi đây là Đại hội lần thứ nhất của “Liên đoàn những người


10

Cộng sản” và tuyên bố mục đích “Lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới xã hội khơng cịn giai cấp”. Đại hội giao cho C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo Cương
lĩnh và Điều lệ của Liên đoàn.
Tại Đại hội thứ nhất của Liên đoàn đã đề ra phải soạn thảo cương lĩnh của
những người cộng sản. Tháng 9 năm 1947 Ban chấp hành Trung ương của Liên đồn đã
phát bản dự thảo có tên “Cẩm nang của những người Cộng sản” cho các khu bộ, chi bộ
của Liên đoàn. Văn kiện mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa xã hội không tưởng nên Mác,
Ăngghen đã phản đối kịch liệt.
Nhày 22 tháng 10 năm 1947 tại phiên họp của Ban chấp hành của Liên đoàn ở
Pari, Mác và Ăngghen phê phán bản dự thảo “Cẩm nang” và Ban chấp hành Liên đoàn
đã đồng ý với hai ông là bác bỏ văn kiện này; Ban chấp hành Liên đoàn đã giao cho
Ăngghen soạn một dự thảo mới. Vì thế, cuốn: “ Những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng
sản” được Ăngghen viết ngay sau đó. Đây chính là bản sơ thảo cương lĩnh viết dưới
dạng hỏi đáp, gồm 25 câu. Đến 29 tháng 11 năm 1847 tại Đại hội lần thứ 2 của “Liên
đoàn những người Cộng sản” Mác và Ăngghen đã bảo vệ cơ sở khoa học này trước Đại
hội, Đại hội đã thảo luận và uỷ quyền cho Mác, Ăngghen hoàn chỉnh cương lĩnh của
Liên đoàn. Mác, Ăngghen đã đổi tên: “Những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản”
thành: “Tuyên ngôn của đảng Cộng sản”.
Trong một thời gian ngắn, từ tháng 12/1847 đến tháng 1/1848 C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tập trung sức lực, trí tuệ hồn thành: “Tun ngơn của Đảng Cộng sản”
và gửi bản thảo sang Luân Đôn. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” được xuất bản và
công bố lần đầu tiên ở Luân Đôn vào ngày 24 tháng 2 năm 1848. Tháng 4 và tháng 5
năm đó “Tun ngơn” được in lại một lần nữa, sau đó được xuất bản bằng nhiều thứ

tiếng ở nhiều nước khác nhau.


11

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu sự ra đời của một học thuyết cách
mạng - Học thuyết Mác, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Cộng sản.
Lần đầu tiên trong lịch sử, loài người thực hiện được cuộc cách mạng tư tưởng
với đỉnh cao của trí tuệ. Những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy của con
người được khám phá và hệ thống hố. Tồn bộ thành tựu trí tuệ của loài người được
tổng kết và khái quát. Sự ra đời của: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã đáp ứng
những đòi hỏi cấp thiết về tư tưởng, lý luận và thực tiễn của phong trào công nhân.
Trong: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, chủ nghĩa Mác được hình thành cơ
bản với tất cả các bộ phận cấu thành của nó gồm: triết học, kinh tế chính trị học và chủ
nghĩa xã hội khoa học. Đặc biệt, trong tác phẩm C. Mác và Ph. Ăngghen đã sử dụng tài
tình phép biện chứng duy vật để luận giải mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để xem xét một xã hội cụ thể, đó
chính là xã hội tư bản. Đó là sự luận giải sự hình thành, phát triển và tất yếu diệt vong
của giai cấp tư sản, đồng thời làm rõ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, khẳng
định giai cấp vô sản chỉ có thể giải phóng mình khi đồng thời phải giải phóng tồn xã hội
và chỉ rõ: giai cấp vơ sản khơng thể hồn thành sứ mệnh lịch sử nếu khơng thành lập
được chính đảng của giai cấp. Đảng Cộng sản ra đời là vấn đề tất yếu khách quan, xuất
phát từ vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, từ yêu cầu thực hiện sứ mệnh lịch sử thế
giới của giai cấp vô sản. Đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, là
người lãnh đạo và tổ chức phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đến thắng lợi.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” được trình bày gồm phần mở đầu và 4
chương. Các lần tái bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đều viết những lời tựa và bổ sung
thêm một số vấn đề mà trước đó bản “Tun ngơn” chưa đề cập tới. Phần mở đầu C.
Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ tính cách mạng và niềm tin tất thắng của những người cộng
sản trong sự nghiệp đấu tranh của mình. Chương 1- Tư sản và vơ sản, C. Mác và Ph.



12

Ăngghen đã phân tích sâu sắc q trình phát sinh, hình thành và phát triển của chủ nghĩa
tư bản, từ đó các ơng chỉ ra: chính sự vận động nội tại, khách quan của xã hội tư bản sẽ
dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của giai cấp tư sản và sự thắng lợi tất yếu của giai cấp vô sản;
giai cấp vơ sản có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa. Chương 2- Những người vô sản và những người cộng sản, C. Mác và Ph.
Ăng ghen giải thích mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp vơ sản, tính tiên phong
của Đảng, mục đích, nhiệm vụ và chiến lược, sách lược của đảng, phê phán sự vu khống
của giai cấp tư sản đối với người cộng sản trên một số vấn đề. Chương 3- Văn học xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, chương này các ông xác định thái độ cụ thể đối với
từng trào lưu tư tưởng xã hội phi vô sản. Cụ thể, các ông phê phán trào lưu chủ nghĩa xã
hội phản động phong kiến, phân tích sâu sắc chủ nghĩa xã hội bảo thủ tiểu tư sản, đánh
giá thích đáng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Chương 4- Thái độ của những người cộng
sản với những đảng đối lập, chương này các ơng trình bày lập trường kiên định của
Đảng Cộng sản về những vấn đề chiến lược, sách lược.
Sau khi nghiên cứu tác phẩm, tôi xin tập trung làm rõ : “ Tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen về tính tất yếu khách quan phải thành lập Đảng Cộng sản trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, ý nghĩa trong xây dựng Đảng”.
Bằng phương pháp tư duy biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh
một cách khoa học về sự phát triển của xã hội lồi người. Theo hai ơng, lịch sử phát
triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã cho tới nay là lịch
sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai cấp bị áp bức bóc lột với giai cấp bóc lột: “
Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nô lệ, q tộc và bình dân, chúa đất và nơng nơ, thợ cả
phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn
luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai,



13

lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo
cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau” 1.
Mác và Ăngghen cho rằng xã hội tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lịng xã hội phong kiến
đã bị diệt vong, khơng xố bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem lại những giai
cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho
những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi.
Đến xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn thù địch với
nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nội dung cơ bản của sự vận động của lịch
sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu
tranh đó đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa
cộng sản: “ Tuy nhiên, đặc điểm của thời đại chúng ta, thời đại của giai cấp tư sản, là đã
đơn giản hoá những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù
địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô
sản”2. Đối với giai cấp tư sản, Mác và Ăngghen cũng đã xác định rõ vị trí lịch sử của giai
cấp này. Nhờ áp dụng những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, những
công trường thủ công được thay thế bằng những xí nghiệp hiện đại, những chủ cơng
trường thủ cơng đã trở thành những chủ xí nghiệp tức là những nhà tư sản hiện đại. Các
ông cho rằng, đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thị trường thế giới thúc đẩy
cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thơng tiến bộ phát triển mau
chóng lạ thường. Sự phát triển này lại tác động trở lại đến việc mở rộng công nghiệp; mà
công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng phát triển thì giai cấp tư sản càng
lớn lên, làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại
xuống phía sau.

1
2


C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tâp 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 596, 597.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr .597.


14

Như vậy, Mác và Ăngghen đã cho chúng ta thấy rằng, bản thân giai cấp tư sản
hiện đại cũng là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của một loạt những cuộc
cách mạng trong phương thức sản xuất và trao đổi. Mỗi bước phát triển của giai cấp tư
sản đều có một bước tiến bộ chính trị tương ứng, là cơ sở chủ yếu để độc chiếm hẳn
được quyền thống trị trong nhà nước đại nghị hiện đại: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai
trị hết sức cách mạng trong lịch sử.
Bất cứ ở chỗ nào mà giai cấp tư sản chiếm được chính quyền thì nó đạp đổ
những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên”3.
Như vậy, khi mới ra đời, giai cấp tư sản là lực lượng cách mạng có một vai trị
hết sức to lớn trong lịch sử. Đại diện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất đang lên,
giai cấp tư sản đã làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp phong kiến quí tộc, giành địa vị
thống trị.
Sau khi nắm được chính quyền nhà nước, giai cấp tư sản liền phá huỷ những
quan hệ sản xuất phong kiến, gia trưởng, thuần phác, thiết lập sự thống trị của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, xố bỏ tất cả những gì khơng phù hợp với lợi ích của bản thân giai cấp mình,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Chính vì vậy, chưa đầy một thế kỷ, giai cấp
tư sản đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất
của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Đó là một tiến bộ của lịch sử.
Để thực hiện mục đích chính trị, quyền thống trị của mình, giai cấp tư sản vốn
đã có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trị cách mạng của giai cấp tư sản
bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản hoá giai cấp và đối kháng giai
cấp mà thơi. Nó phân chia xã hội thành hai phe thù địch với nhau, hai giai cấp hồn tồn
đối lập nhau; giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản nảy sinh đấu tranh ngay từ khi chủ nghĩ tư

bản ra đời. Sự tiến bộ của lịch sử không chỉ do công lao riêng của giai cấp tư sản mà
3

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập4, tr.599.


15

trước hết là do công lao của quần chúng nhân lao động. Đặc biệt, Mác và Ăngghen chỉ
rõ: khi thiết lập quyền thống trị, giai cấp tư sản đã bóc lột giai cấp vô sản và quần chúng
nhân dân lao động hết sức tinh vi và xảo quyệt. Xã hội tư bản chứa đựng đầy dẫy các tệ
nạn xã hội : nạn thất nghiệp, tệ mại dâm … Nó tạo ra một thứ đạo đức mới có tiền bằng
mọi giá, không để lại giữa người với người một mối quan hệ nào khác ngồi lợi ích trần
trụi và lối tiền trao cháo múc khơng tình nghĩa : “Giai cấp tư sản đã xé toang tấm màn
tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những
quan hệ tiền nong đơn thuần”4.
Giai cấp tư sản đã biến phẩm giá của con người thành giá trị trao đổi; nó đã đem
tự do bn bán duy nhất thay cho biết bao quyền tự do đã được ban cho và đã giành
được một cách chính đáng: “Tóm lại, giai cấp tư sản đã đem sự bóc lột cơng nhiên, vơ sỉ,
trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được che đậy bằng những ảo tưởng tơn giáo và
chính trị”5.
Giai cấp tư sản càng đầu tư sản xuất bấy nhiêu, mâu thuẫn giai cấp càng sâu sắc
bấy nhiêu. Với bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột, giai cấp tư sản khơng những đã
rèn vũ khí để giết mình mà nó cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy, đó chính là giai
cấp cơng nhân hiện đại. Mác và Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học về sự diệt
vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, về tính tất yếu của sự quá độ từ chủ
nghĩa tư bản sang một hình thái kinh tế xã hội cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản. Hai ơng
chỉ rõ bước q độ đó khơng phải diễn ra tự phát mà phải bằng con đường cách mạng.
Hai ông đã phát hiện ra lực lượng xã hội có khả năng thực hiện bước q độ đó là giai
cấp cơng nhân - giai cấp vơ sản hiện đại, là người có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn chủ

nghĩa tư bản và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn - chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản

4
5

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 600.
C. Mác và Ph. Ăngghen,Sách đã dẫn, tập 4, tr. 600.


16

chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử đó là khách quan do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp vô
sản trong lịch sử quy định.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, giai cấp vô sản là giai cấp tiêu biểu cho lực
lượng sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp được rèn luyện trong nền sản xuất đại công
nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại cơng nghiệp, cho nên giai cấp vô sản là
giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất, có khả năng hành động cách
mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật cao nhất, là giai cấp duy nhất đóng vai
trị lãnh đạo cách mạng. C. Mác và Ph. Ăngghen còn chỉ rõ : “Trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp thực sự cách
mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại
cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.6
Tuy nhiên, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó thì điều kiện tiên quyết là giai
cấp vơ sản phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Vì chỉ khi nào giai cấp vơ sản tổ
chức được chính đảng chính trị độc lập của mình, thì khi đó cuộc đấu tranh của giai cấp
vơ sản mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo: “
Sự tổ chức như vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng,
ln ln bị sự cạnh tranh giữa cơng nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó cũng luôn luôn
được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn. Nó lợi dụng những bất hồ trong nội bộ giai cấp
tư sản để buộc giai cấp tư sản phải thừa nhận bằng luật pháp, một số quyền lợi của giai

cấp công nhân. Chẳng hạn như đạo luật ngày lao động 10 giờ ở Anh” 7. Mác và
Ăngghen còn nhấn mạnh: “ Nói chung, những xung đột xảy ra trong xã hội cũ đã thúc
đảy quá trình phát triển của giai cấp vô sản về nhiều mặt. Giai cấp tư sản sống trong một
trạng thái chiến tranh không ngừng: trước hết chống lại quý tộc, sau đó, chống lại các bộ
phận của chính ngay giai cấp tư sản mà quyền lợi xung đột với sự tiến bộ của công
6
7

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập4, tr.610.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr.609.


17

nghiệp, và cuối cùng, luôn luôn chống lại giai cấp tư sản của tất cả các nước ngoài.
Trong hết thảy những cuộc đấu tranh ấy, giai cấp tư sản tự thấy mình buộc phải kêu gọi
giai cấp vơ sản, u cầu họ giúp sức, và do đó, lơi cuốn họ vào phong trào chính trị.
Thành thử, giai cấp tư sản đã cung cấp cho những người vô sản những tri thức của bản
thân nó, nghĩa là những vũ khí chống lại bản thân nó”.8 Hoặc: “Trước hết, giai cấp tư sản
sinh ra những người đào huyệt chơn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi
của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau” 9. Cũng như lời tựa cho lần xuất bản:
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" năm 1888, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Chính do
bản thân các sự biến và do những thành bại trong cuộc đấu tranh chống tư bản- do
những thất bại nhiều hơn là do những thành công - mà công nhân không thể không cảm
thấy rằng tất cả các môn thuốc vạn ứng của họ đều vô dụng, họ không thể không đi tới
chỗ nhận thấy tường tận những điều kiện thực sự của công cuộc giải phóng giai cấp
cơng nhân”10. Điều kiện đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Và như vậy, theo Mác và Ăngghen, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có lợi
ích khác nhau, dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích. Đó là nguồn gốc cơ bản của mâu thuẫn giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp thoạt đầu là đấu tranh vì quyền lợi kinh tế.

Cuộc đấu tranh đó phát triển đến một trình độ nhất định thì chuyển hố thành đấu tranh
chính trị: “ Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực
hiện, hoặc đều mưu lợi cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối
đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của
xã hội hiện đại, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu khơng làm nổ tung toàn bộ cái
thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương .
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,
không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr.609.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 613.
10
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 518,521.
8
9


18

dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai
cấp tư sản nước mình đã”11. Theo hai ơng, khi cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến một
trình độ nào đó thì chính đảng của giai cấp ra đời. Chính đảng ra đời là một tất yếu lịch
sử, là sản phẩm tự nhiên của cuộc đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ địi hỏi phải có sự
lãnh đạo thống nhất mọi hoạt động của giai cấp, nhằm hướng các nỗ lực chung vào mục
tiêu chống lại giai cấp đối lập và nhà nước thống trị của giai cấp đó. Đó chính là giai cấp
và nhà nước tư sản.
Chính đảng của giai cấp cơng nhân ra đời là một địi hỏi tất yếu khách quan của
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, là điều kiện tiên quyết để
giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Theo Mác và Ăng ghen, vai trị lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng nhân được
quyết định trước hết là do địa vị của giai cấp đó trong nền sản xuất xã hội, chứ khơng

phải chỉ vì số lượng của giai cấp đó, hoặc chỉ vì nó là giai cấp bị bóc lột nhiều nhất trong
xã hội tư bản. Là giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp được
rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại cơng
nghiệp, là giai cấp bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải đi làm thuê cho nhà tư sản.
Giai cấp cơng nhân là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất, có khả
năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật cao nhất, là giai
cấp duy nhất đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
Tuy nhiên, theo Mác và Ăngghen, giai cấp cơng nhân muốn thực hiện được vai
trị lịch sử thế giới thì điều kiện tiên quyết là giai cấp cơng nhân phải tổ chức ra chính
đảng độc lập của mình. Vì, chỉ khi nào giai cấp vơ sản tổ chức được chính đảng chính trị
độc lập của mình, thì khi đó cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân mới chuyển từ đấu
tranh tự phát, lẻ tẻ, rời rạc sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, và cũng chỉ khi
đó thì giai cấp vơ sản mới chuyển từ giai cấp “tự mình” thành giai cấp “vì mình”. Mác
11

C. Mác và Ph. Ăng ghen:Sách đã dẫn, tập 4, tr.611.


19

và Ăngghen khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh của mình, chống quyền lực liên hợp của
các giai cấp có của, giai cấp công nhân chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc
lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp có của lập nên thì mới có thể hành động
với tư cách là một giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp công nhân thành một chính
đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách mạng xã hội và thắng lợi của mục đích
cuối cùng của nó là : thủ tiêu các giai cấp”12. Ăngghen còn chỉ rõ: “Để cho giai cấp vô
sản đủ vững mạnh để chiến thắng trong giờ phút quyết định, cần phảI - và điều này Mác
và tôi chủ trương từ năm 1847- thành lập một đảng riêng biệt khác hẳn các đảng khác và
đối lập hẳn với các đảng này, một đảng giai cấp tự giác”13.
Như vậy, theo tư tưởng của Mác và Ăngghen, chính vai trị lịch sử toàn thế giới

và địa vị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, chính việc thực hiện những mục tiêu cao cả
của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng xoá bỏ nền thống trị của giai cấp
tư sản đã quyết định tính tất yếu khách quan và sự cần thiết phải thành lập chính đảng
cách mạng của giai cấp vơ sản.
Như vậy, chính đảng của giai cấp vô sản mà C. Mác và Ph. Ăngghen đề cập tới
phải là một Đảng cách mạng, một Đảng độc lập mang bản chất giai cấp vô sản rõ rệt,
độc lập cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản, không
bị giai cấp tư sản lợi dụng, Đảng gắn bó chặt chẽ với giai cấp vô sản và nhân dân lao
động. Mặt khác, độc lập nhưng Đảng không phải là hội kín, tách khỏi quần chúng nhân
dân lao động nói chung và giai cấp vơ sản nói riêng; Đảng liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, không đối lập với các Đảng và các tổ chức khác của giai cấp vô sản. Đảng phải
tích cực hoạt động để đưa tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học vào các tổ chức đó và
hướng hoạt động của các tổ chức đó theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Những cuộc
đấu tranh đã tạo điều kiện cho giai cấp vơ sản đồn kết thành tổ chức. Sự tổ chức như
12
13

C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1983, tr.207.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 704.


20

vậy thành chính đảng. Sự tồn tại, phát triển của đảng vì sứ mệnh của giai cấp vơ sản.
Đảng kết thúc vai trị của mình khi sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản hồn
thành.
Trong cuộc đấu tranh, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của
mình giai cấp vơ sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp, tiểu
thương, thợ thủ công, nông dân. Song, khi sắp rơi vào hàng ngũ vô sản, họ đã tự nguyện
từ bỏ quan điểm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vơ sản, bảo vệ lợi ích

tương lai của họ. Hơn nữa, khi cuộc đấu tranh giai cấp tiến gần tới giờ quyết định, giai
cấp thống trị bị phân hoá, một bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai cấp này đi theo giai cấp vơ
sản. Đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản vươn lên nhận thức được về mặt lý luận
toàn bộ cuộc vận động. Thực tiễn đó đã khẳng định rằng các tầng lớp trung gian và cả
giai cấp thống trị cũng có thể từ bỏ lập trường giai cấp của mình để tham gia vào hàng
ngũ của giai cấp vơ sản.
Trong thực tiễn lúc đó, C.Mác, Ăngghen đã chứng kiến phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế xuất hiện nhiều tổ chức tự xưng là đảng vô sản đại biểu cho quyền lợi
của giai cấp vơ sản nhưng trên thực tế nó khơng phải là một đảng độc lập, một đảng thực
sự cách mạng của giai cấp vơ sản, đủ sức đóng vai trị lãnh tụ của giai cấp vô sản như:
đảng hiến chương ở Anh ra đời năm 1832, nó là hình thức của đảng vô sản nhưng thực
chất chỉ là cái đuôi của giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản. Khi những người lãnh
đạo của “Liên đoàn những người chính nghĩa” đồng ý để C.Mác và Ph.Ăngghen cải tổ
triệt để tổ chức này thì các ơng đã có nhiều chủ trương và việc làm tích cực như: Đổi tên
của “Liên đồn những người chính nghĩa” thành “Liên đồn những người Cộng sản” và
tuyên truyền, xây dựng làm cho tổ chức này trở thành một chính Đảng cách mạng của
giai cấp vơ sản. Theo Mác và Ăngghen: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản
cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản


21

thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản giành lấy chính
quyền. Những quan điểm lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên
những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát
hiện ra. Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát những quan hệ thực tại của một
cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt
chúng ta” 14 . Từ đó, hai Ơng cũng chỉ rõ : “Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng
sản là một bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng vô sản ở tất cả các nước, là bộ phận
luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ

sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô
sản” 15.
Như vậy, theo C. Mác và Ph. Ăngghen, Đảng thể hiện tính vơ sản rõ rệt, Đảng
mang bản chất giai cấp vô sản, Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp
vô sản để giải quyết mọi vấn đề trong xây dựng và hoạt động của Đảng. Cương lĩnh
chiến lược, sách lược của Đảng phải ln xuất phát từ lợi ích của giai cấp vô sản, của
nhân dân lao động và phù hợp với thực tiễn mỗi nước. Mục đích và lợi ích của Đảng
Cộng sản và giai cấp vơ sản là thống nhất, Đảng Cộng sản luôn đại biểu trung thành và
phấn đấu cho quyền lợi của toàn thể giai cấp vô sản. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
cũng là sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng sản. Kẻ thù của giai cấp vô sản là giai cấp tư sản
cũng là kẻ thù của Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, người vạch ra cương
lĩnh, chiến lược, sách lược cho giai cấp, do vậy Đảng Cộng sản phải được trang bị lý
luận tiên phong và phải thực sự tiên phong về mặt lý luận. Đảng Cộng sản phải lấy
những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học làm nền tảng tư tưởng, có như vậy mới
xác định đúng đắn các vấn đề trong lãnh đạo và xây dựng Đảng. Chỉ khi được lý luận
14
15

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 615.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 615.


22

tiên phong dẫn đường và tích cực đấu tranh bảo vệ tư tưởng khoa học thì Đảng Cộng sản
mới làm trịn sứ mệnh lịch sử của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen không những là người
đầu tiên nêu lên những tư tưởng về chính đảng cách mạng của giai cấp vơ sản mà còn là
những người đầu tiên tham gia xây dựng chính đảng cách mạng của giai cấp vơ sản.
Đồng thời các ơng đã tích cực tun truyền tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học

vào phong trào vô sản, coi đó là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định để làm
cho Đảng Cộng sản thực sự là một chính đảng cách mạng.
Để tiến tới thành lập chính Đảng cách mạng của giai cấp vơ sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa xã hội khoa học bằng cách viết bài đăng
trên các báo, thành lập uỷ ban thông tin cộng sản ở Bỉ, Anh, Pháp, Đức để thống nhất về
tư tưởng, tổ chức của những người xã hội chủ nghĩa và vô sản tiên tiến của tất cả các
nước. Khi được mời tham gia “Liên đồn những người chính nghĩa” C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đấu tranh đưa chủ nghĩa xã hội khoa học vào tổ chức này thay cho chủ
nghĩa cộng sản không tưởng, làm cho “Liên đoàn những người Cộng sản” lần đầu tiên
trở thành một chính đảng cách mạng, khoa học.
Cuộc đấu tranh của các chính đảng là sự biểu hiện hồn chỉnh nhất, đầy đủ nhất
và rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp. Đảng là một tổ chức chính trị, là
sản phẩm lịch sử tự nhiên của cuộc đấu tranh chính trị của một giai cấp, và chủ yếu,
trước hết nó đại biểu quyền lợi của giai cấp đó. Bất kỳ một chính đảng nào cũng ra đời
theo quy luật đó. Khơng có đảng siêu giai cấp. Đảng bao giờ cũng mang tính chất của
một giai cấp.
Vì vậy, để hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra
chính đảng của mình với tư cách là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu, thực sự tiên
phong cả về lý luận và thực tiễn, cả về tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo phong trào công
nhân.


23

Hiện nay, nhiều học giả tư sản và bọn cơ hội xét lại hiện đại trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đang ra sức phủ nhận vai trò lãnh đạo của các Đảng
Cộng sản. Họ bắt đầu từ sự phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp cơng nhân và những
thành quả cách mạng của nó. Hậu quả của sự sụp đổ ở Liên Xô và ở một số nước Đông
Âu mà Đảng Cộng sản đã giành được chính quyền trước đây khơng phải vì bản thân chủ
nghĩa xã hội khoa học mà vì các Đảng Cộng sản ở các nước ấy phạm sai lầm chủ quan,

duy ý chí, mà chủ yếu ở sự nhận thức và vận dụng nó một cách sơ cứng, giáo điều; càng
không phải ỏ chỗ giai cấp công nhân đã mất vai trị lịch sử thế giới của mình. Vai trị ấy
được quyết định trước hết và chủ yếu bởi vai trị của nó trong nền sản xuất xã hội và do
điều kiện lịch sử quy định một cách khách quan. Giai cấp công nhân đã và vẫn là giai
cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Song, chúng ta cũng cần có một nhận
thức mới về giai cấp cơng nhân hiện đại. Đó là giai cấp cơng nhân có khoa học, kỹ thuật,
có trí tuệ, được trí thức hoá.
Qua bao thăng trầm của lịch sử, những biến động trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, của cách mạng thế giới, song những quan điểm, tư tưởng được
C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” vẫn giữ
nguyên giá trị.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa
Mác, đồng thời “Tun ngơn” cũng là cương lĩnh chính trị của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Sự ra đời của “Tuyên ngôn” chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về lý
luận cách mạng, về đường lối cách mạng, đáp ứng địi hỏi của phong trào cơng nhân lúc
đó. Khi “Tun ngơn” được cơng bố, tác phẩm đã tác động rất lớn để các Đảng Cộng
sản trên phạm vi toàn thế giới ra đời lãnh đạo cách mạng và phong trào công nhân.
Tác phẩm là cuốn kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học và giữ vị trí
đặc biệt quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Những tư tưởng


24

trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là những chỉ dẫn hết sức quan trọng, có ý nghĩa
thiết thực trong công tác xây dựng và hoạt động của các Đảng Cộng sản. Nó được
Lênin, Hồ Chí Minh và những lãnh tụ cộng sản trên thế giới không những vận dụng
trung thành mà còn bảo vệ, phát triển trở thành một học thuyết cách mạng, khoa học của
giai cấp vô sản thế giới. Trung thành và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
như những tư tưởng trong tác phẩm: “Tun ngơn của Đảng Cộng sản”, q trình lãnh
đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi trọng đặc biệt việc xây dựng Đảng để lãnh

đạo phong trào cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi. Người ra sức truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cách mạng, trước hết vào phong trào công nhân Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đó là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn khẳng định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, giàu mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội, cuối cùng là chủ nghĩa cộng
sản, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới và của phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế. Đảng luôn khẳng định việc nâng cao bản chất giai cấp cơng
nhân, tính tiên phong của Đảng là tư tưởng xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng;
thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
cả về lý luận và thực tiễn, cả về cương lĩnh, đường lối, tổ chức của Đảng và tính tiên
phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
Ngày nay, nhân dân ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đang đặt
ra những yêu cầu mới, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là vai
trò tiên phong của Đảng. Trong khi xác định xây dựng kinh tế là trọng tâm, Đảng ta coi


25

xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Kiên trì giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt là một trong những nhân tố
quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
“Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết điểm trong công
tác xây dựng Đảng” 16. Đánh giá về những thành tựu đã đạt được qua 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX về công tác xây dựng Đảng, Nghị quyết Đại hội

Đảng lần thứ X khẳng định: “ Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở
đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển đảng, cơng tác kiểm tra có
những chuyển biến mới. Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động
sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức”17. Để đạt được những thành tựu trên là nhờ đường
lối đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, điều hành
năng động của chính phủ và nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X cũng chỉ ra những yếu kém,
khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng: “ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa
đạt u cầu. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, cơng
chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ
năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Cơng tác tư tưởng cịn thiếu tính
thuyết phục. Cơng tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong
công cuộc đổi mới. Cơng tác tổ chức và cán bộ cịn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và

ĐCSVN,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.137.
ĐCSVN,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội,2006,
tr.61,65
16
17

18,19


×