Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Le Ninh trong phong trao Can Vuong o Ha Tinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.8 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Liệt sĩ Lê Ninh trong phong trào Cần Vương ở Hà Tĩnh</b>


<b>Lê Ninh (1857-1887), hiệu Mạnh Khang, là một võ tướng trong phong </b>
<b>trào Cần Vương ở Hà Tĩnh, Việt Nam.</b>


Ông sinh tại làng Trung Lễ, xã Cổ Ngu, tổng Văn Lâm, huyện La Sơn (nay
là xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh. Là con cả của nguyên Bố
Chánh Bình Định Lê Khanh, nên ơng cịn được gọi là Ấm Ninh.


Ngay từ nhỏ, Lê Ninh đã nổi tiếng là người thông minh, ứng đối nhanh
nhẹn, có tinh thần quả cảm...nhưng khơng chuộng lối học khoa cử.
<b>Chống Hòa ước Giáp Tuất</b>


Ngày 15 tháng 03 năm 1874, triều đình nhà Nguyễn ký Hịa ước Giáp Tuất
thuận giao Nam Kỳ cho Pháp. Sẵn lịng căm thù qn xâm lược, ơng liền
tham gia phong trào đấu tranh của Trần Tấn và Đặng Như Mai chống lại
nhượng bộ này.


Cuộc đấu tranh thất bại, Lê Ninh bị quan quân bắt giam gần một năm. Được
thả ra, ông về quê, tôn Lê Năng [1] làm thầy, rồi cùng với 4 người em trai
chăm nghiên cứu binh thư, tập rèn võ nghệ, liên kết với các hào kiệt trong
vùng ni chí chống thực dân Pháp.


<b>Hưởng ứng dụ Cần Vương</b>


Hay tin ngày 5 tháng 7 năm 1885, kinh thành Huế thất thủ. Phụ chính Tôn
Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy đến chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ban
bố dụ Cần Vương, Lê Ninh liền cùng với các em kêu gọi mọi người trong
vùng ứng nghĩa.


Tin tưởng vào tài năng và nhân cách của các ông, nhiều người dân ở Trung


Lễ đã tự nguyện theo ông và ủng hộ nhiều tiền của. Con cháu họ Lê cũng
tham gia rất đông và nhiều người sau này đã trở thành những tướng lĩnh tài
giỏi như Lê Diên, Lê Trực, Lê Võ, Lê Phác, Lê Hoạt, Lê Phất...Lúc đầu, cha
ông thấy việc làm này sẽ gặp phải nhiều hiểm nguy nên can ngăn, nhưng sau
thấy các con quá hăng say nên ông cũng đã dốc hết gia tài để cùng lo việc
phò vua, cứu nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Đánh hạ thành Hà Tĩnh</b>


Trước đây, khi vua Hàm Nghi xuất bôn ra Sơn phòng Phú Gia (Hương Khê)
đã ra lệnh cho Bố chánh Hà Tĩnh Lê Đại ra đón, nhưng ơng này đã kháng
chỉ. Cho nên sau đó nhà vua đã mật lệnh cho Lê Ninh đem quân đến trừng
trị.


Ngày 2 tháng 10 năm Ất Dậu (5 tháng 11 năm 1885), Lê Ninh cấp tốc đưa
quân vào Hà Tĩnh, phối hợp với lực lượng của Nguyễn Duy Chanh-Nguyễn
Duy Trạch ở Can Lộc, của Nguyễn Cao Đôn ở Thạch Hà, để cùng bao vây
tỉnh thành trên.


Với chiến thuật "nội cơng ngoại kích", nghĩa qn đã bất ngờ đột nhập và
bắt sống được Bố chánh Lê Đại, giải phóng tù nhân (trong đó có Cao Thắng,
về sau trở thành tướng lĩnh trụ cột dưới cờ của Phan Đình Phùng), và thu
tồn bộ khí giới, vàng bạc, lương thực và một số voi cùng ngựa chiến.


Hạ xong thành Hà Tĩnh, Lê Ninh lên Sơn phòng Phú Gia giao nộp chiến lợi
phẩm lên vua Hàm Nghi. Ông được nhà vua khen ngợi, phong làm Bang
biện quân vụ, giao coi giữ đại đồn Trung Lễ. Đây là chiến công đầu tiên và
cũng là chiến công vang dội nhất của ơng.


Cuối năm 1885, lính Pháp hiệp với quân triều thân Pháp từ Nghệ An kéo đến


tấn công đại đồn Trung Lễ và phóng hỏa đốt làng. Trước lực lượng đông đảo
cùng với hỏa lực mạnh, Lê Ninh đã cho quân rút về vùng rừng núi ở giữa hai
huyện Hương Sơn và Thanh Chương, rồi hợp với lực lượng của Phan Đình
Phùng.


<b>Chiếm lĩnh đồn Dương Liễu</b>


Năm 1886, thừa lệnh thủ lĩnh họ Phan, Lê Ninh cầm quân đánh đồn Dương
Liễu (một địa điểm ở Nam Đàn bên hữu ngạn sông Lam), để khống chế việc
đi lại của đối phương giữa các huyện miền núi Hà Tĩnh với đồng bằng Nghệ
An. Cũng với chiến thuật cũ là "nội cơng ngoại kích", qn của ơng đã
nhanh chóng chiếm lĩnh đồn, bắt sống và trừng trị viên chỉ huy tên là Binh
Duật.


<b>Mất</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cho đến khi không thể chống ngăn được nữa đành phải rút quân lên đóng ở
vùng rừng núi Bạch Sơn (huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh).


Ở nơi nhiều sơn lam chướng khí, Lê Ninh bị ốm nặng và qua đời ngày 15
tháng 12 năm 1887, khi mới 30 tuổi.


Sợ đối phương quật mồ, đồng đội đã bí mật chơn giấu thân xác ông ở một
bãi dâu nơi quê vợ ông (làng Phúc Hậu, huyện Hưng Nguyên). Năm 1918,
con cháu ơng mới dời mộ về táng tại chính qn là làng Trung Lễ.


Con trai ông là Lê Nghệ cũng tham gia phong trào chống Pháp, bị họ bắt
được và mất trong ngục năm 1916, lúc 33 tuổi.


<b>Thương tiếc</b>



Lê Ninh mất, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hương Sơn là Phan Đình Phùng đã có
câu đối viếng ơng như sau:


Tuy vận thành bại do thiên, xướng nghĩa tiên thanh tồn Nghệ Tĩnh.
Kham thán anh hùng vô địa, phù quân đại tiết hữu Hồng Lam.
Nghĩa là:


<i>Tuy rằng thành bại tự trời, tiếng xướng nghĩa trước tiên còn truyền Nghệ </i>
<i>Tĩnh;</i>


<i>Than nhẽ anh hùng bạc mệnh, tiết phù vua cao cả bất tử với Hồng Lam.</i>
Năm 1905, chí sĩ Phan Bội Châu đã kể về ông trong Việt Nam vong quốc sử
như sau:


<i>Lê Ninh, người Hà Tĩnh, do chân ấm sinh đứng lên xướng Nghĩa đảng. Ninh</i>
<i>là con nhà thế gia, giàu có, lúc thiếu niên biết nước tất mất, đã có chí thanh </i>
<i>gươm yên ngựa lên đường ruổi dong, kết nạp hiệp khách, tung tiền ra như </i>
<i>bùn, thủ hạ thường có mấy trăm nghĩa sĩ. Lúc Thuận Kinh bị mất, ông lập </i>
<i>tức dựng cờ nghĩa vâng chiếu của Xuất đế (vua Hàm Nghi) làm tham tán </i>
<i>Nghĩa quân, nhiều lần đánh bại quân Pháp, chém đầu tướng Pháp. (Ông) </i>
<i>mắc bệnh rồi mất, người Pháp phân tán dân làng ơng đi, xóa bỏ cả tên gọi </i>
<i>của thơn xã [2]. Anh em ơng năm người, (thì) bốn người chết vì nạn giặc </i>
<i>Pháp. Tướng tá dưới cờ của ơng sau theo Phan Đình Phùng, đều có tiếng là</i>
<i>chiến tướng. Công tuy không thành, nhưng ông thực là người tiêu biểu nhất </i>
<i>trong Nghĩa đảng vậy (tr. 86-87).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Thơ Lê Ninh</b>


Sinh thời, Lê Ninh có làm thơ để tỏ chí. Trong Tinh tuyển văn học Việt


<i><b>Nam (tập 6) có chép một bài thơ của ơng như sau:</b></i>


Phiên âm Hán-Việt:
<i><b>Tự vịnh</b></i>


Hồi ức tiền niên nhập Tĩnh thành,
Bồi hồi ngũ dạ quí hư danh.


Tâm phao vạn tuyến cương thường trọng,
Thân lịch thiên trùng chướng vụ khinh.
Đãi đán hữu hoài phù địa trục,


Chẩm qua khả tất yết thiên kinh [3]
Thủy chung hịa tự hồn ngu Tống[4],
Lam thủy Hồng sơn thệ tử sinh.


Dịch nghĩa:


Nhớ lại năm kia vào lấy tỉnh thành Hà Tĩnh,


Băn khoăn suốt năm canh, những thẹn mang cái hư danh.
Lịng dứt bỏ mn mối, chỉ lấy cương thường làm trọng,
Thân từng trải nghìn trùng, vẫn xem lam chướng là khinh.
Như người ngồi đợi sáng ngày, để lo đỡ cái trục đất,


Như kẻ nằm ngủ nối giáo, chắc có thể nêu cao được đạo thường của trời.
Trước sau giữ một chữ hòa, rút cục lại, u mê chẳng khác gì vua tơi nhà
Tống,


Thân thể này thề với sơng lam núi Hồng quyết khơng hịa với bọn xâm lăng.


<b>Bùi Thụy Đảo Ngun, giới thiệu.</b>


<b>Chú thích:</b>


[1] Lê Năng (cịn có tên Lê Phức, tục gọi là Tán Năng, người Trung Lễ. Ông
là thầy dạy võ cho nghĩa quân, sau cũng trở thành một tướng lĩnh của phong
trào Cần Vương.


[2] Trong phong trào Cần Vương, làng Trung Lễ bị đối phương triệt hạ hai
lần. Họ đã đốt nhà, cướp của, đuổi dân đi và đổi tên làng thành Lạc Thiện.
[3] Đãi đán và chẩm qua do chữ: chẩm qua đãi đán, có nghĩa gối giáo đợi
sáng. Ở đây nhắc tích Lưu Cơn đời Tấn đêm nằm gối lên giáo, đợi mau sáng
để đi đánh giặc cứu nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Tài liệu tham khảo:</b>


-Phan Bội Châu, Việt Nam vong quốc sử. Nxb. KH-XH, Hà Nội, 1982.
-Nguyễn Q.Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam.
Nxb. KH-XH, 1992.


</div>

<!--links-->

×