ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TÁC PHẨM
LỤC VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ
NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TÁC PHẨM
LỤC VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60. 22. 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ GIANG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nghiên cứu trong luận văn này là của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả trong Luận văn là trung thực và chưa được cơng
bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Người cam đoan
Nguyễn Thị Thu Hường
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tơi xin tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Lê Giang,
người đã trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn tơi tận tình trong suốt q trình thực hiện
luận văn.
Tơi xin cảm ơn TS. Phan Mạnh Hùng, chị Phạm Thị Thanh và bạn Doãn Thị
Thúy đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong việc tìm kiếm tư liệu nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô của khoa Văn học và Ngôn ngữ đã dạy
dỗ tôi trong thời gian học tập tại trường.
Đồng thời, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc tới cha mẹ, anh Nguyễn Văn Dũng –
chồng tôi và các bạn học đã luôn ở bên động viên, ủng hộ tôi trong suốt thời gian
qua.
Nguyễn Thị Thu Hường
MỤC LỤC
DẪN NHẬP ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 17
4. Phương pháp nghiên cứu vấn đề ..................................................................... 17
5. Những đóng góp mới của luận văn ................................................................. 18
6 .Cấu trúc của luận văn ..................................................................................... 18
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 20
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................ 20
1.1. Lí thuyết Tự sự học .................................................................................... 20
1.1.1.
Đối tượng, nội dung, ý nghĩa nghiên cứu ........................................... 21
1.1.2.
Lịch sử hình thành và phát triển ......................................................... 23
1.2.Tác giả Nguyễn Đình Chiể .......................................................................... 26
1.2.1. Cuộc đời ................................................................................................ 27
1.2.2. Sự nghiệp văn chương ....................................................................... 31
1.2.2.1. Giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược (trước 1859)................ 33
1.2.2.2. Giai đoạn sau khi thực dân Pháp xâm lược (từ 1859 trở đi) .............. 34
1.3.Tác phẩm Lục Vân Tiên............................................................................... 37
1.3.1. Hồn cảnh sáng tác ............................................................................ 38
1.3.2.
Tình hình văn bản .............................................................................. 39
1.3.3.
Tóm tắt tác phẩm ............................................................................... 43
1.3.4.
Giá trị nội dung .................................................................................. 47
Tiểu kết chương 1............................................................................................................ 50
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC TỰ SỰ CỦA TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN .................... 51
2.1. Kiểu kết cấu trần thuật................................................................................. 51
2.1.1.
Kết cấu phức hợp ............................................................................... 52
2.1.2.
Kết cấu tuyến tính .............................................................................. 57
2.2. Logic tự sự .................................................................................................. 61
2.2.1.
Phép liên tiếp ..................................................................................... 62
2.2.2. Phép xen kẽ ....................................................................................... 75
2.2.3. Phép lưỡng diện ................................................................................. 86
2.3.Người kể chuyện và giọng điệu nghệ thuật ................................................... 90
2.3.1.
Người kể chuyện với điểm nhìn trần thuật ......................................... 90
2.3.2.
Người kể chuyện với giọng điệu trần thuật......................................... 95
Tiểu kết chương 2........................................................................................................... 98
CHƯƠNG 3: TÁC PHẨM LỤC VÂN TIÊN VỚI CÁC THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT ...... 99
3.1.Nghệ thuật dùng motif .................................................................................. 99
3.1.1.
Motif từ văn học dân gian ................................................................ 100
3.1.2.
Motif từ các tác phẩm truyện Nôm ................................................... 105
3.1.2.1 Các motif từ truyện Nơm bình dân .................................................. 105
3.1.2.2. Các motif từ truyện Nôm bác học ................................................... 108
3.1.3. Motif từ lịch sử, văn hóa Nho gia ...................................................... 110
3.2. Bút pháp lý tưởng hóa ............................................................................. 112
3.2.1. Lý tưởng hóa tính cách nhân vật.......................................................... 113
3.2.2.
Lý tưởng hóa tư tưởng đạo lý ........................................................... 123
3.3.Thủ pháp lạ hóa .......................................................................................... 126
3.3.1.
Lạ hóa tư tưởng ............................................................................... 127
3.3.2.
Lạ hóa ngơn ngữ .............................................................................. 129
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 132
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 136
1
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Đình Chiểu là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương trung đại
Việt Nam. Những cống hiến mà ông để lại cho đời thật đáng trân trọng, dù rằng với
hơn nửa cuộc đời, ơng phải sống trong mù lịa. Truyện thơ Lục Vân Tiên là tác
phẩm đầu tay và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm
có sức hấp dẫn đặc biệt, được công chúng yêu mến đón nhận ngay từ khi mới ra
đời. Cho đến nay thì Lục Vân Tiên vẫn ln giữ được vị trí của mình trong lịng
nhân dân, nhất là tầng lớp bình dân.
Một tác phẩm có sức sống mãnh liệt vượt thời gian, khơng gian như Lục Vân
Tiên tất yếu phải có nguyên do của nó. Bởi một tác phẩm văn học có giá trị là phải
có sự hịa quyện biện chứng giữa hai mặt: nội dung và hình thức nghệ thuật. Ngịi
bút nghệ thuật của tác giả lại chính là phương tiện để hiện thực hóa và mang tác
phẩm đến với độc giả. Do đó, thành cơng của tác phẩm có liên quan mật thiết tới tài
năng sáng tạo của tác giả. Ở nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi mà việc học
chữ còn xa xỉ với tầng lớp dưới thì người ta đã thấy Lục Vân Tiên được nghe, được
kể, được thuộc khắp nơi, kể cả vùng nơng thơn hẻo lánh ở Nam Bộ. Nói như vậy
nghĩa là Lục Vân Tiên ngay khi xuất hiện đã hòa nhập và ăn sâu vào đời sống sinh
hoạt tinh thần của nhân dân Nam Bộ, tức tự thân tác phẩm đã thực sự khẳng định
được giá trị và sức sống của mình trong lịng cơng chúng.
Hiện tượng nổi lên của Lục Vân Tiên đã khiến nhiều nhà phê bình, nghiên
cứu văn học trong nước quan tâm chú ý từ lâu. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra được
rất nhiều những lý do tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của Lục Vân Tiên. Lý do được
cơng nhận và nói tới nhiều nhất là giá trị giáo dục, giá trị luân lý bộc lộ từ nội dung
tác phẩm. Những giá trị ấy rất hợp với tâm lý và đạo đức sống mn đời của đồng
bào ta. Bên cạnh đó là những lý do cho rằng vì tác phẩm mang tính nhân dân, tính
quần chúng trong ngơn ngữ và hệ thống nhân vật đa dạng, gần gũi với nhiều loại
người có thật ngồi thực tế xã hội... Chúng tơi cũng đồng tình với lý do mà các nhà
nghiên cứu đi trước đã đưa ra nhưng bản thân lại có thêm ý kiến khác. Chúng tôi
2
cho rằng: Lục Vân Tiên là một tác phẩm thuộc hình thức tự sự nên chắc hẳn cịn
được tác giả sáng tạo bằng một nghệ thuật tự sự độc đáo, sinh động với những thủ
pháp nghệ thuật tinh tế bên cạnh một nội dung sâu sắc. Vì rằng, truyện thơ Lục Vân
Tiên nếu chỉ hay về mặt nội dung mà yếu kém về hình thức nghệ thuật thì khơng thể
nào được quần chúng nhân dân lao động thích thú và say mê đọc kể nhiều đến như
vậy. Việc nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện ở các tác phẩm tự sự như Lục Vân Tiên
là rất phù hợp và cần thiết. Hơn nữa, hiện nay lý thuyết Tự sự học đã và đang được
áp dụng rất phổ biến trong lĩnh vực nghiên cứu văn học trong và ngoài nước. Rất
nhiều nhà nghiên cứu đã gặt hái thành công khi áp dụng phương pháp này trong
nghiên cứu các tác phẩm đã “cũ”, đã được lục xới, đào sâu nghiên cứu như Lục Vân
Tiên. Đây cũng chính là lý do khiến chúng tơi quyết định chọn “Nghiên cứu nghệ
thuật tự sự trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu” là đề tài nghiên cứu
cho luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện Lục Vân Tiên vào khoảng những năm 50
của thế kỷ XIX. Tác phẩm được viết theo thể lục bát – một thể thơ đặc biệt của dân
tộc Việt, là truyện thơ ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý, đáng trọng ở
đời. Hình thức lưu truyền tác phẩm ban đầu là theo lối dân gian truyền miệng. Sau
đó, tác phẩm được khắc in và tái bản rất nhiều lần. Tác phẩm được đông đảo quần
chúng cả nước (nhất là đồng bào Nam Bộ) u thích. Ngồi ra, nội dung và hình
tượng các nhân vật trong truyện cịn được hóa thân vào nhiều hình thức sinh hoạt
nghệ thuật dân gian như: ca dao dân ca, câu đố, nói thơ, thơ điếu, kịch bản sân
khấu… Ngay khi mới ra đời, tác phẩm đã nhanh chóng thâm nhập vào đời sống tinh
thần của công chúng. Tuy nhiên, phải đợi đến đầu thế kỷ XX thì việc nghiên cứu,
đánh giá tác phẩm mới được khai triển mạnh.
Theo chúng tơi thì lịch sử nghiên cứu tác phẩm Lục Vân Tiên có thể chia làm
ba giai đoạn: trước 1945; từ 1945 đến 1975; từ 1975 đến nay.
3
Trước 1945
Theo tài liệu chúng tôi sưu tầm được thì trước năm 1945, hoạt động nghiên
cứu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và truyện thơ Lục Vân Tiên đã có nhưng chưa
nhiều. Vài thập kỷ đầu sau khi Lục Vân Tiên ra đời thì hoạt động khắc in, dịch
thuật, xuất bản, đưa tác phẩm đến đông đảo công chúng diễn ra sôi nổi hơn cả.
Công việc này được các học giả ở cả trong và ngoài nước thực hiện rất nhiệt thành.
Đương nhiên, bên cạnh đó là sự đánh giá, nhận định về các giá trị nổi bật mà tác
phẩm chứa đựng.
Nói về sự quan tâm, đánh giá của các học giả ngồi nước về tác phẩm thì
đáng chú ý hơn cả là một số bản dịch và bài viết phẩm bình của các học giả người
Pháp (theo chân thực dân). Trước hết, ta có thể kể tới bản dịch ra tiếng Pháp và lời
tán dương trong lời tựa giới thiệu tác phẩm Lục Vân Tiên của Gabriel Aubaret (lãnh
sự Pháp ở Thái Lan) năm 1864:
Truyện thơ Lục Vân Tiên này phổ biến trong dân gian đến mức là ở
Nam Kỳ khơng có một người đánh cá hay một người lái đị nào khơng
hát một vài câu thơ ấy khi họ chèo thuyền… không ở nơi nào khác
người ta có thể tìm thấy những mẫu mực xứng đáng hơn của tiếng nói
dân gian và việc nghiên cứu tác phẩm này là đúng đắn nhất cho những
ai muốn hiểu biết tiếng “An Nam”… Các bạn sẽ sẵn sàng tha thứ cho
chúng tôi về thái độ quá thiên vị của chúng tôi đối với các tác phẩm
nhỏ này mà chúng tôi phải thú thật là chúng tơi rất ưa thích. Chúng tơi
đã thấy ở tác phẩm đó những tính căn bản của một dân tộc mà chúng
tôi đã từng chung sống rất lâu, khiến chúng tơi ln coi đó là một
trong những sản phẩm của trí tuệ con người… [49; 623-624].
Năm 1883, trên báo L’ Indépendant de Saigon số 172, ra ngày 8/11, Michel
Ponchon đã viết bài nói về mức ảnh hưởng và sự phổ biến của Lục Vân Tiên trong
đời sống của người dân Nam Bộ nước ta. Tiếp đến, năm 1886, trên báo Courrier de
Saigon số 14 ra ngày 20/7 đã có lời ngợi khen giá trị Lục Vân Tiên và tán dương
việc làm của Aubaret như sau:
4
Chúng tôi tiếp được của ông Aubaret, công sứ Pháp tại Vọng Các bản
dịch quốc ngữ một tập thơ nhỏ. Trong ấy ta thấy vẻ tươi sáng, cứng
cỏi của những tình cảm rất xứng đáng với các dân tộc tiên tiến. Chúng
tơi tưởng làm vui lịng bạn đọc mà giới thiệu danh phẩm này đã diễn
tả rất khéo những phong tục và tư tưởng của một dân tộc rất đáng để ý
về mọi phương diện. Khi ta đọc những trang mộc mạc và phong phú
này rất được yêu mến ở Nam Kỳ, ta nhận rằng: một khi xa hẳn lối từ
chương Tàu, thuộc dân Pháp có thể tạo riêng một nền quốc văn cứng
cỏi hơn và tự nhiên hơn, đủ sức để thỏa mãn những đòi hỏi của tâm
hồn họ [49; 626].
Năm 1932, Georges Cordier có lời bình về văn Lục Vân Tiên như sau
“Truyện Lục Vân Tiên làm ta nhớ đến truyện Nhị độ mai. Truyện được chú ý là nhờ
lời văn sáng sủa tao nhã. Có vài đoạn thơ hay như trong truyện Phan Trần hoặc như
trong truyện Kim Vân Kiều. Tập truyện thơ này làm nổi bật ba đức tính xã hội An
Nam: hiếu với cha mẹ, tôn trọng thầy, trung với vua” [49; 627]. Tiếp đến, năm
1943, trong lễ kỷ niệm 55 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu, thống đốc
Hoeffel của Pháp có bài diễn văn hùng hồn ca ngợi: “Nguyễn Đình Chiểu là một tài
năng của đất nước An Nam” và “Lục Vân Tiên là một quyển phong hóa tập giải rất
linh hoạt” [49; 621]. Nhìn chung, hầu hết các học giả Pháp đều mang ấn tượng đặc
biệt về sức hút của Lục Vân Tiên và nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu đến đơng đảo
quần chúng nhân dân ở Nam Bộ. Dù mới chỉ có những lời nhận xét, bình phẩm rất
sơ lược nhưng các học giả Pháp đã ghi nhận giá trị nội dung và nghệ thuật biểu hiện
của Lục Vân Tiên là rất tinh tế và sâu sắc. Sự tiếp nhận tác phẩm một cách tự nhiên
của nhân dân càng làm các học giả Pháp thêm coi trọng tác phẩm và tác giả. Đương
nhiên, bên cạnh lịng u nghệ thuật thì sự quan tâm của họ đến tác phẩm cịn phần
lớn vì động cơ chính trị mà chính quốc đã giao phó.
Ở trong nước thì khoảng thời gian đầu, sơi nổi hơn cả là hoạt động in ấn,
xuất bản Lục Vân Tiên thành sách báo phổ cập. Sau khi văn bản tác phẩm tương đối
ổn định thì các bài viết suy ngẫm, đánh giá tác giả, tác phẩm mới “ồ ạt” ra đời. Tuy
5
nhiên, ở đây thì truyện thơ Lục Vân Tiên hiếm khi được nghiên cứu chuyên biệt mà
thường được gói chung phân tích với các đề tài luận về cuộc đời và văn nghiệp của
Nguyễn Đình Chiểu. Do đó, những phát hiện về giá trị nghệ thuật của tác phẩm
tương đối ít ỏi và sơ lược. “Một nhà thi sĩ trứ danh nước ta: cụ Nguyễn Đình Chiểu
làm truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Ngọc Chi trên báo Nam Phong, số 76, năm
1923 là một trong những bài viết mở đầu có chiều sâu nghiên cứu về cả tác giả và
tác phẩm. Dù vậy, ở bài luận này, Nguyễn Ngọc Chi mới chỉ dừng lại ở việc khái
quát một số nét nổi bật về nội dung và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm cùng với cuộc
đời bất hạnh của tác giả. Tiếp sau đó, năm 1933, Văn Dương có bài viết “Giá trị
cuốn Lục Vân Tiên và cuốn Kim Vân Kiều hơn kém nhau thế nào?” đăng trên Văn
học tạp chí (Sài Gòn) số 14. Năm 1935, nữ sĩ Mai Huỳnh Hoa (chắt gái của Nguyễn
Đình Chiểu) có đăng trên tạp chí Tân Văn (Sài Gịn) số 27 bài viết về “Tiểu sử cụ
Đồ Chiểu”. Tuy nhiên, bài viết này chỉ trình bày rõ hơn về cuộc đời và văn nghiệp
của Đồ Chiểu chứ không thấy bàn về giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Phải tới Nỗi
lòng Đồ Chiểu của Phan Văn Hùm năm 1938 thì mới có nhiều phát hiện mới về sức
hấp dẫn của thơ văn Đồ Chiểu nói chung, truyện thơ Lục Vân Tiên nói riêng. Ơng
đã có những cảm nhận rất sâu sắc khi bàn về “văn tâm, văn học, văn tài” của nhà
thơ mù đáng kính. Ơng cho rằng:
Do tình cảnh đặc biệt mới có lời văn đặc biệt nảy ra trong tứ của
Nguyễn tiên sinh. Không thế, tiên sinh không từng phục bút thế, kiểm
văn thể để cho nổi câu văn. Xem Ngư Tiều vấn đáp, xem Dương Từ Hà Mậu, nhất là xem tác phẩm rất dung thường của tiên sinh, là quyển
Lục Vân Tiên, ta sẽ thấy những chỗ bơ thờ, lạt lẽo, sống sượng, lúng
túng, vụng về, khơng có chút gì văn vẻ cả. Thế mà những tác phẩm ấy
được trường thọ, có bổn như Lục Vân Tiên, được in đi in lại, lại cịn
được đem vào chương trình văn chương ở nhà trường, thời là nhờ cái
cá nhân có đức vọng của tác giả nó nhiều [47; 229].
Đến năm 1941, Dương Quảng Hàm cũng có bài viết “Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu” được in trong Việt Nam văn học sử yếu. Bài viết tuy vỏn vẹn
6
chỉ vài trăm chữ nhưng cũng đã nêu bật được những giá trị nội dung và nghệ thuật
đặc sắc của tác phẩm. Tác giả chốt lại bài viết bằng nhận xét: “Lời văn truyện này
bình thường giản dị tuy khơng được điêu luyện uẩn súc như văn Truyện Kiều và
truyện Hoa tiên, nhưng có vẻ tự nhiên, có giọng chất phác, cũng là một áng văn hay
trong nền quốc văn ta” [61; 95]. Nói chung, cả Phan Văn Hùm và Dương Quảng
Hàm đều có những phát hiện mới về giá trị nghệ thuật tác phẩm nhưng cũng khơng
thốt khỏi định kiến chung của thời đại là văn Lục Vân Tiên thiếu mượt mà, óng
chuốt, so với các truyện Nơm bác học khác thì cịn thiếu sự điêu luyện ở nghệ thuật
dụng ngôn.
Năm 1943 là dấu mốc kỷ niệm 55 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu.
Do đó, trong năm này có khá nhiều các bài viết bàn về cuộc đời, nhân cách và văn
nghiệp của nhà thơ. Các bài viết tiêu biểu đó là: “Cuộc hội kiến Nguyễn Đình Chiểu
và Michel Ponchon” của Khuông Việt và “Người Pháp đối với quyển Lục Vân Tiên
và cụ Nguyễn Đình Chiểu” của Trường Sơn Chí đăng trên Nam kỳ tuần báo (Sài
Gịn) số đặc biệt ra ngày 26/6; “Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu” của Ca
Văn Thỉnh trên Đại Việt tạp chí (Sài Gịn) số 19 ra ngày 16/7; “Thân thế và thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu” của Vũ Ngọc Phan in trong Kỷ yếu của Hội Khai trí tiến đức
(Hà Nội) số 9 và 10… Lục Vân Tiên lẽ dĩ nhiên vẫn là tác phẩm chủ chốt được đề
cập tới ở tất cả các bài viết. Tuy nhiên, đề tài chính của các tham luận là về con
người và cuộc đời tác giả nên Lục Vân Tiên vì thế vẫn chưa có được những ý kiến
mới đánh giá về chiều sâu nghệ thuật.
Từ 1945 đến 1975
Khoảng thời gian 10 năm sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công (tức
là từ 1945 đến hết 1954) thì do hồn cảnh rối ren của đất nước nên hoạt động phê
bình văn học trong nước nói chung, phê bình thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nói riêng
bị ngưng đọng. Vì vậy, thời gian này có rất ít bài viết nghiên cứu về Lục Vân Tiên.
Ngay sau khi miền Bắc hồn hồn giải phóng thì hoạt động nghiên cứu thơ
văn Đồ Chiểu lại trở nên rất sôi nổi trên phạm vi cả nước. Lục Vân Tiên nói riêng,
thơ văn Đồ Chiểu nói chung được học giả ở cả hai miền Nam – Bắc quan tâm
7
nghiên cứu, nhất là trong những dịp lễ kỷ niệm ngày sinh, ngày mất của tác giả. Vì
giai đoạn này, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam – Bắc với thể chế chính trị
khác nhau nên hoạt động nghiên cứu văn học ở hai miền cũng gần như tách biệt.
-
Những nghiên cứu ở miền Nam
Ở miền Nam giai đoạn này có hai loại học giả nghiên cứu phê bình Lục Vân
Tiên với động cơ, xuất phát điểm khác nhau. Thứ nhất là những học giả dưới sự chi
phối của chính quyền Sài Gịn như Mộ Nhĩ, Ái Lan… Những học giả này tập trung
khai thác khía cạnh nội dung, tư tưởng tác phẩm. Họ nhìn nhận giá trị tác phẩm theo
lối nghĩ mới của “văn minh” Tây học, thoát khỏi ảnh hưởng của đạo đức Nho gia.
Với Lục Vân Tiên và tác giả Nguyễn Đình Chiểu, những học giả này có khen có chê
nhưng vấn đề ở chỗ là nó thiếu tính khách quan, nghĩa là họ “khơng xuất phát từ
lịng kính u ngưỡng mộ nhà thơ hay từ sự đam mê văn chương nghệ thuật” [70,
39]. Thứ hai là những văn nghệ sĩ yêu nước miền Nam, tiêu biểu như Thái Bạch,
Võ Lang, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Duy Cần, Võ Văn Dung, Bàng Bá Lân,
Nguyễn Đăng Thục… Tuy nhiên, đa số các học giả chủ yếu xoáy vào giá trị yêu
nước, giá trị nhân đạo của thơ văn Đồ Chiểu mà ít bàn về nghệ thuật Lục Vân Tiên.
Tiêu biểu nhất là bài viết “Đại danh từ và các tiếng xưng hô trong Truyện Kiều và
Lục Vân Tiên” của Nguyễn Văn Xuân, đăng trên tạp chí Văn hữu (Sài Gòn) số 10
tháng 4 năm 1961. Nguyễn Văn Xuân đã chỉ ra cái ưu điểm vượt trội trong nghệ
thuật của truyện Lục Vân Tiên khi so sánh với Truyện Kiều là: “Cách xưng hô giữa
các nhân vật và cách gọi các nhân vật của tác giả rất tự nhiên, khách quan, dân chủ,
một phương pháp hết sức tiến bộ” [70; 50]. Năm 1964, trên Văn hóa tập san tập 13
quyển 2 tháng 2, Võ Lang có nhiều đóng góp mới với bài “Tìm Đồ Chiểu qua Lục
Vân Tiên”. Võ Lang đã phân tích chiều sâu cảnh thiên nhiên trong tác phẩm và rút
ra kết luận: Nguyễn Đình Chiểu vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa cổ điển
Nho gia với nhiều hình ảnh bóng tối, phong cảnh ban đêm được dùng miêu tả trong
tác phẩm. Về văn Lục Vân Tiên, tác giả bài viết cũng có nhiều lời khen ngợi như tác
phẩm “có thể văn óng chuốt, ý tứ hàm súc, có nhạc điệu dịu dàng, êm ái, dễ ngâm
nga, dễ truyền tụng và khẳng định Lục Vân Tiên là áng văn bất hủ… Lục Vân Tiên
8
được quảng đại quần chúng ngưỡng mộ vì họ tìm thấy trong những câu thơ đơn
giản nhưng không kém phần trang trọng, tất cả mọi hoài bão của tâm hồn, say mê
sự thuận hòa, êm dịu” [dựa theo kết quả nghiên cứu của Đoàn Trần Ái Thy trong
Luận văn Nghiên cứu sự tiếp nhận sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu (2005) trường
ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh].
Đến năm 1971, tạp chí Văn học (Sài Gịn) đã dành ngun số báo 133 để
chuyên luận về thơ văn cụ Đồ Chiểu, đương nhiên Lục Vân Tiên vẫn là một trong
những tác phẩm trung tâm được đưa ra bàn luận. Số báo này gồm tám bài viết: 1/
“Thử nhìn con người tồn diện của Nguyễn Đình Chiểu” của tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần; 2/ “Đồ Chiểu chiến sĩ” của Võ Văn Dung; 3/ “Người phụ nữ
trong Lục Vân Tiên” của nữ sĩ Ái Lan; 4/ “Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của
miền Nam”, Bàng Bá Lân; 5/ “Ba thời kỳ, ba nhận xét về Lục Vân Tiên” của Vũ
Bằng; 6/ Ma Thất với “Những giai thoại về Đồ Chiểu”; 7/ Phan Kim Thịnh với bài
viết “Tôi đi thăm một nhà thơ miền Nam: Nguyễn Đình Chiểu”; 8/ Cuối cùng là
“Bưu hoa Nguyễn Đình Chiểu” của Nguyễn Bảo Tụng. Có thể xem đây là cột mốc
quan trọng trong việc khẳng định giá trị thơ văn Đồ Chiểu nói chung, truyện thơ
Lục Vân Tiên nói riêng. Ở đây, các nhà nghiên cứu cũng đã ít nhiều quan tâm đến
nghệ thuật của các tác phẩm. Trong đó thì ngơn ngữ là yếu tố được chú ý khai thác
nhiều nhất. Nó được đánh giá là thứ ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, mang đậm bản sắc
văn hóa Nam Bộ, dễ đi vào lịng người, là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần vào thành cơng tác phẩm. Nó được trình bày nhiều nhất trong bài luận của
Bàng Bá Lân với những nhận xét rất tinh tế như: “Sử dụng từ độc đáo, mới lạ… Lời
mới, ý lạ, long lanh như những tia ngọc sáng…”; “Chỉ dùng những lời thơ thông
thường, giản dị, mộc mạc bình dân để phơ bày những tư tưởng đạo lý, những xúc
động chân thành trước tình nhà nỗi nước… Văn ơng có vẻ dễ dàng, “xuất ư tự
nhiên” mà đi thẳng vào lòng người… một vẻ đẹp giản dị, duyên dáng, phảng phất
như ca dao” [26].
Nhìn chung giai đoạn này, hoạt động nghiên cứu Lục Vân Tiên ở miền Nam
được thúc đẩy mạnh mẽ, càng về sau càng có tổ chức với qui mơ rộng lớn. Do đó,
9
các học giả đã nhận định tác phẩm dưới các góc độ khác nhau nên có nhiều đóng
góp giá trị.
-
Những nghiên cứu ở miền Bắc
Sau 1954, miền Bắc đã hoàn tồn giải phóng, đi lên xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Các văn nghệ sĩ miền Bắc lúc này vẫn giữ vai trị chiến sĩ trên mặt trận văn
hóa của dân tộc. Do vậy, với các nhà phê bình, nghiên cứu văn học thì các tác phẩm
thơ văn yêu nước trở thành tâm điểm nghiên cứu, đương nhiên thơ văn của Nguyễn
Đình Chiểu cũng nằm trong số đó.
Năm 1963, nhân lễ kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu đã có
hàng loạt những bài viết đặc sắc về con người và giá trị văn nghiệp của nhà thơ.
Trong đó, Lục Vân Tiên vẫn ln được các nhà phê bình đặc biệt chú ý. Tiêu biểu
nhất là bài “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”của thủ
tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Tạp chí Văn học (tháng 7/1963). Thủ tướng đã dành
một nửa bài viết để ca ngợi và nêu cao giá trị văn chương của Nguyễn Đình Chiểu.
Với truyện thơ Lục Vân Tiên, thủ tướng đã có lời bào chữa và dành nhiều ưu ái cho
nghệ thuật tác phẩm: “Về văn chương của Lục Vân Tiên, phải để ý đây là một
truyện “kể”, truyện “nói”. Tác giả cố ý viết một lối văn “nôm na” dễ hiểu, dễ nhớ,
có thể truyền bá rộng rãi trong dân gian… đơi chỗ sơ sót về văn chương khơng thể
làm giảm giá trị văn nghệ của bản trường ca thật là hấp dẫn từ đầu đến cuối. Tơi
khơng cịn nhớ tôi đọc Lục Vân Tiên lúc nào, song đến nay tơi cịn thuộc nhiều vần
thơ rất hay… Trong dân gian miền Nam, người ta thích Lục Vân Tiên, người ta say
sưa nghe “kể” Lục Vân Tiên, khơng chỉ vì nội dung câu chuyện, cịn vì văn hay của
Lục Vân Tiên” [60; 124]. Dù bài viết của thủ tướng chưa thật chuyên sâu nhưng
cũng đã phần nào lý giải được cái căn nguyên đem lại sức sống mãnh liệt của tác
phẩm trong đời sống nhân dân suốt thời gian qua. Bên cạnh đó, Hồi Thanh cũng
góp tiếng nói của mình với thơ văn cụ Đồ bằng bài diễn văn “Văn thơ Nguyễn Đình
Chiểu, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam” đăng
trên báo Nhân dân (Hà Nội) ra ngày 6/7/1963. Tác giả bài viết có nhiều lời tán
dương về giá trị tư tưởng của thơ văn Đồ Chiểu. Riêng về nghệ thuật tác phẩm, ông
10
có cảm nhận nó chưa thật xuất sắc vì “về lời thì cịn có chỗ vụng, về tình tiết có chỗ
khơng chặt, về nhân vật có khi chưa thật sự có một đời sống riêng” [70; 59]. Tuy
thế, Hồi Thanh cũng phải thừa nhận rằng những hạn chế ấy không mấy quan trọng
vì “quan trọng ở đây là cơng chúng rất yêu thích Lục Vân Tiên” [70; 59]. Cũng
trong thời gian này, Trần Văn Giàu đã có hai bài viết rất hay về Nguyễn Đình
Chiểu. Đó là bài “Nhân nghĩa trong văn chương Nguyễn Đình Chiểu” (đăng trên
báo Văn nghệ (Hà Nội) số 10 ra ngày 5/7/1963) và bài “Vì sao tơi thích đọc Nguyễn
Đình Chiểu?” (đăng trên Tạp chí văn học (Hà Nội) số 1 tháng 7/1963. Tuy nhiên, cả
hai bài viết này đều mới chỉ chạm vào phân tích khía cạnh nội dung của Lục Vân
Tiên mà ít bàn về nghệ thuật tác phẩm.
Năm 1972 cũng là cột mốc quan trọng cho hoạt động nghiên cứu thơ văn Đồ
Chiểu. Cụ thể, tháng 5 có hai bài viết tiêu biểu là: “Đồ Chiểu với sự chuyển mình
của văn hóa dân tộc” của Cao Huy Đỉnh; “Từ Lục Vân Tiên đến Dương Từ - Hà
Mậu” của Nguyễn Văn Hoàn. Sau đó, ngày 30 tháng 6, tuần báo Văn nghệ có đăng
bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những bài văn hay nhất của chúng ta”
của Hoài Thanh. Tiếp đến, tháng 7, giáo sư Nguyễn Đình Chú viết bài “Từ lý tưởng
nhân nghĩa đến chủ nghĩa yêu nước”… Ở các bài viết, truyện thơ Lục Vân Tiên vẫn
là một căn cứ, một dẫn chứng quan trọng. Trong đó, những triết lý, những thông
điệp về đạo nghĩa làm người và ý nghĩa xã hội của tác phẩm vẫn là những chủ đề
chính được quan tâm. Có vẻ, khi bàn về Nguyễn Đình Chiểu thì người ta khơng thể
bỏ qua “đứa con đẻ” Lục Vân Tiên của ông. Tuy vậy, ở thời điểm này thì nghệ thuật
của tác phẩm vẫn chưa thực sự được quan tâm chú ý, nếu có thì cũng chỉ nói qua về
sự giản dị, gần gũi, đậm tính dân gian trong ngơn ngữ mà thơi. Đáng chú ý nhất là
bài viết “Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn yêu nước chống xâm lăng, một tâm hồn
vằng vặc nhân nghĩa, một tấm gương kiên trung bất khuất” của Hà Huy Giáp đăng
trên Tạp chí Văn học (Hà Nội) số 4 tháng 7, 8/ 1972. Tác giả bài viết có một nhận
xét rất sâu sắc: “Theo tơi, chưa nói đến tính bình dị, trong sáng của ngơn ngữ, tính
dân tộc và đại chúng trong các hình tượng nghệ thuật, cái chủ yếu là tác phẩm đã
đáp ứng được tinh thần dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, ghét gian ác, “kiến nghĩa
11
bất vi vô dõng dã” của nông dân miền Nam mà cũng là của mọi người dân Việt
Nam [12; 6].
Tóm lại, trước 1975, truyện Lục Vân Tiên luôn được nhắc tới mỗi khi người
ta bàn về Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tác phẩm một cách độc
lập rất hiếm hoi. Dù vậy, ở một số bài viết cũng có nhiều phát hiện mới như của
Phạm Văn Đồng, Hồi Thanh, Hà Huy Giáp… có ý nghĩa mở đường cho các cơng
trình nghiên cứu chun sâu về các giá trị tác phẩm sau này.
Từ 1975 đến nay
Những năm đầu sau khi hồn tồn thống nhất đất nước thì hoạt động nghiên
cứu phê bình thơ văn Đồ Chiểu nói chung, Lục Vân Tiên nói riêng có phần hơi
chững lại. Nổi bật nhất là cơng trình nghiên cứu lịch sử văn bản và hiệu đính, chú
thích lại tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Thạch Giang năm 1975. Văn bản Lục
Vân Tiên do Nguyễn Thạch Giang khảo đính là văn bản ưu việt, có căn cứ khoa
học, kế thừa thành tựu của những văn bản được khảo đính trước đó nên đã thu được
kết quả rực rỡ. “Tập sách với số lượng phát hành gần 50.000 bản đã đáp ứng kịp
thời nhu cầu xã hội trước mắt, đã có ảnh hưởng tốt, sâu rộng trong nhân dân, nhất là
trong các trường học trên cả nước” [49; 571]. Từ đó cho đến nay thì vẫn chưa có
bản Lục Vân Tiên nào thay thế được. Hầu hết bạn đọc ngày nay đều chọn và sử
dụng như nó là bản gốc sáng tác của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
Đến năm 1982 thì tác phẩm Lục Vân Tiên và nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu lại
trở thành tâm điểm với hàng loạt những bài viết, những cơng trình nghiên cứu có
tính chun mơn cao. Cụ thể là trên tạp chí Ngơn ngữ, số 52 có bài viết “Tính bình
dị của ngơn ngữ Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm Lục Vân Tiên” của nhóm tác
giả Ngơ Thúy Nga, Trần Thị Minh Phương, Phan Thị Minh Thúy đã góp thêm tiếng
nói chứng minh giá trị đặc sắc của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm . Cũng trong năm
này, một loạt các nhà nghiên cứu tên tuổi đã dành sự ưu ái cho thơ văn Đồ Chiểu
qua các bài viết đặc sắc. “Nguyễn Đình Chiểu và văn học dân gian” của Đặng Văn
Lung là một trong những bài rất có giá trị khi bàn về nghệ thuật cốt truyện các tác
phẩm truyện thơ trong mối tương quan với văn học dân gian. Theo ông, “Chúng ta
12
cần “lặn ngụp” vào tác phẩm, cần đi sâu vào tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu để
phân tích thì những đóng góp về nghệ thuật và những giá trị tư tưởng của tác phẩm
mới hiện ra rõ rệt” [61; 81]. Tác giả bài viết đã so sánh cốt truyện Lục Vân Tiên với
cốt truyện cổ tích Thạch Sanh để tìm ra sự tương đồng và khác biệt. Kết quả, ông đã
thấy được những nét độc đáo ở Lục Vân Tiên mà khơng truyện thơ nào có được.
Đây là “cốt truyện nên thơ và chứa nhiều hạt mầm mới mẻ”. “Đây là một câu
chuyện vừa mang tính khái quát của văn học dân gian vừa mang tính cụ thể của một
tự truyện cho nên ta phải thấy cốt truyện Lục Vân Tiên bắt nguồn từ cuộc sống dân
tộc” [61; 74-75]. Ông cho rằng cốt truyện và nhân vật trong sáng tác của Nguyễn
Đình Chiểu cịn ở dạng mơ hình (motif văn học dân gian) hơn là những kết cấu văn
học, hình tượng văn học hồn chỉnh. Ngồi ra, ơng cịn quan tâm đến nghệ thuật sử
dụng điển cố của Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu đã biến một số điển cố
thành “ngụ ngơn”, tức là ban cho nó một ý nghĩa mới, khác nó, ngồi nó nhưng lại
giống với hiện thực đất nước. Đó là đóng góp cho nền văn học thành văn (giới hạn
trong vấn đề điển cố). Còn đối với văn học dân gian, Nguyễn Đình Chiểu vẫn “sử
dụng cốt truyện và phong cách biểu hiện nhưng đã nâng lên để chúng mang một ý
nghĩa nghiêm túc hơn, thời sự hơn” [61; 83]. Cuối cùng, ông kết luận: “Dù có nói
văn học dân gian là tiền đề cho nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu thì nội dung nghệ
thuật của ơng vẫn mới mẻ do sự kết hợp một tài năng và một thực tế lịch sử… Tài
năng của Nguyễn Đình Chiểu đã làm cho các truyện trở nên phong phú hơn, so với
truyện thơ khuyết danh, các nhân vật có cá tính rõ ràng hơn, bao gồm nhiều tình tiết
hơn và do đó nhân vật được khắc họa có đường nét hơn” [61; 83-84].
Kế đến, Nguyễn Lộc có bài “Những cống hiến đặc sắc của Nguyễn Đình
Chiểu trong lịch sử văn học dân tộc” in trong cuốn Nguyễn Đình Chiểu (Kỷ yếu Hội
nghị khoa học về Nguyễn Đình Chiểu, nhân kỷ niệm lần thứ 160 ngày sinh của nhà
thơ (1822 – 1982) do Sở Văn hóa và Thơng tin và Hội Văn nghệ Nguyễn Đình
Chiểu, Bến Tre xuất bản năm 1984.. Theo Nguyễn Lộc, thơ văn yêu nước chống
Pháp của Nguyễn Đình Chiểu là phần cống hiến nổi bật nhất. Tuy nhiên, tác phẩm
13
Lục Vân Tiên lại là một tác phẩm đặc biệt, có những giá trị cần được nhận thức rõ
hơn. Cụ thể:
Ai cũng thừa nhận tính chất phổ biến rộng rãi của Lục Vân Tiên.
Nhưng khi so sánh giá trị, nhất là giá trị nghệ thuật của Lục Vân Tiên
với Truyện Kiều thì khơng ít người cảm thấy dường như sự chênh lệch
của nó khá lớn. Người ta ca ngợi Nguyễn Du tinh tế, sắc sảo tâm lý
bao nhiêu, thì đối với Nguyễn Đình Chiểu người ta lại thấy nhiều lúc
vụng về, không tinh tế và thật thà đến thô kệch… họ đã dùng một
thước đo không phù hợp để đo Nguyễn Đình Chiểu. Lục Vân Tiên và
Truyện Kiều là những truyện thơ, nhưng khơng phải cùng một loại
hình truyện thơ, và vì vậy dùng thước đo Truyện Kiều để đo Lục Vân
Tiên sẽ thấy tác phẩm này bộc lộ rất nhiều nhược điểm, trong khi đó
những cái độc đáo, đặc sắc của nó lại khơng thấy hết… Lục Vân Tiên
để kể là chính, chứ khơng phải để ngâm, để đọc như Truyện Kiều…
Cái đặc sắc của Lục Vân Tiên là tính chất hành động của nó rất phong
phú… chính thơng qua hành động của nhân vật, Nguyễn Đình Chiểu
đã đạt được những kết quả ấy một cách xuất sắc” [61; 89-90].
Nguyễn Lộc đã nhìn nhận vấn đề từ góc nhìn thể loại, giọng điệu và hành
động nhân vật để tiếp cận tác phẩm Lục Vân Tiên. Đây là một hướng đi mới đầy
triển vọng cho hoạt động nghiên cứu giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm. Cùng
suy nghĩ, nhà thơ Hải Như trong “Một cách nhìn về nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu”
cũng có một nhận xét rất hay: “Nội dung tư tưởng của Lục Vân Tiên đáp ứng yêu
cầu thời đại khi ấy, nhưng nếu yếu tố nghệ thuật của tác phẩm khơng có gì, thì thử
hỏi tác phẩm sao lại đi vào lòng người, làm rung động lịng người khắp thế được?”
[61; 173]. Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Chú cũng có những đồng cảm như vậy khi
nghiên cứu về thơ văn Đồ Chiểu với bài viết: “Từ thực tế giảng dạy trong nhà
trường nghĩ thêm về nghệ thuật văn chương của Nguyễn Đình Chiểu”. Ngồi ra,
trong năm 1982, còn rất nhiều bài viết xoay quanh tác giả và tác phẩm Lục Vân
14
Tiên. Tuy nhiên, những bài viết ấy ít bàn tới nghệ thuật xây dựng tác phẩm nên ở
đây chúng tôi không tiện kể ra.
Năm 1983, Huỳnh Ngọc Trảng tiếp nối với bài viết “Văn hóa truyền thống
trong truyện Lục Vân Tiên và cuộc sống của tác phẩm”. Với đề tài này, Huỳnh Ngọc
Trảng đã đi sâu hơn vào việc nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong Lục Vân Tiên. Ông
thấy rằng:
Ở truyện Lục Vân Tiên, từ bố cục cốt truyện, cách dùng các mơ típ tự
sự cho đến cách kể chuyện vẫn còn đậm dấu vết của truyền thống tự
sự dân gian, nhất là truyền thống truyện thơ Nôm. Việc sắp đặt các
tình huống cốt truyện cũng khơng thốt khỏi trật tự thông thường…
cần thiết lập một bản so sánh các tình tiết liên hệ với các tình huống
cốt truyện nêu trên của truyện Lục Vân Tiên và một số truyện thơ khác
để tiếp cận vấn đề cái chung và cái riêng ở khía cạnh cụ thể của nó…
cốt truyện truyện Lục Vân Tiên về cơ bản không phải là sáng tạo hồn
tồn mới, mà chính là sự bắt chước, có ít nhiều cách tân về mặt cấu
trúc truyện thơ truyền thống” [61; 99].
Lục Vân Tiên là một tập thể của những yếu tố tự truyện và hư cấu, của
những sáng tạo mới và những mơ típ truyền thống. Việc sử dụng các
thủ pháp truyền thống để phản ánh hiện thực, để sáng tạo tác phẩm là
một đặc điểm cơ bản trong phương thức sáng tác của tác giả truyện
Lục Vân Tiên… Truyện Lục Vân Tiên với đặc điểm riêng của mình đã
trở thành một hiện tượng đặc biệt trong văn học cận đại. Trước khi
được sưu tầm thành sách, nó đã phổ biến bằng phương thức truyền
miệng và tồn tại trong đời sống văn hóa như một sáng tác dân gian…
Hiện tượng này đã khẳng định tính dân gian, mối quan hệ với văn hóa
dân gian của truyện Lục Vân Tiên” [61; 104].
Ngồi ra, tác giả bài viết cịn lưu ý về nghệ thuật xây dựng nhân vật chính và
cách sắp đặt cốt truyện, nguồn gốc của các yếu tố thần kỳ và hệ thống ngôn ngữ
được sử dụng trong tác phẩm. Đặc biệt, ông đã dành một phần lớn để nói về ảnh
15
hưởng của truyện Lục Vân Tiên đối với các hoạt động văn nghệ của dân tộc lúc bấy
giờ như: hò, chèo, nói thơ, tuồng, cải lương, ca cổ, hát khách, hát lối,… Nói chung,
những nghiên cứu mang tính chất gợi mở trong bài viết của Huỳnh Ngọc Trảng có ý
nghĩa rất lớn, là một định hướng quan trọng để chúng tôi thực hiện luận văn này.
Năm 1990, trong “Khi những lưu dân trở lại” đăng trên Tạp chí Văn nghệ,
Nguyễn Văn Xuân có lời chiêm nghiệm sâu sắc về Lục Vân Tiên: “Hồi Thanh có
nhận xét khá đúng là từ bên kia đèo Hải Vân ra Bắc, người ta đọc (tôi gọi là xem)
Truyện Kiều. Từ bên này vào Nam, người ta đọc Lục Vân Tiên. Nhưng Truyện Kiều
khi qua đèo Hải Vân rồi, dân chúng khơng hiểu, chỉ có trí thức mới hiểu. Ngược lại,
Lục Vân Tiên, ai cũng hiểu mà có lẽ giới trung lưu và quần chúng ưa thích hơn là trí
thức… Nhiều người nặng nề hình thức cho là Lục Vân Tiên không hay, không điêu
luyện. Ấy chỉ là nhìn bằng cái mắt độc giả mà quên lỗ tai thính giả” [Dẫn theo Lâm
Văn Bé trong bài viết “Nguyễn Đình Chiểu qua lăng kính của người Pháp”].
Năm 1993, Nxb. Khoa học xã hội xuất bản cuốn Truyện Nôm, nguồn gốc và
bản chất thể loại do Kiều Thu Hoạch viết, đã ít nhiều quan tâm tới Lục Vân Tiên
bằng lý luận văn học hiện đại. Đây là một cơng trình nghiên cứu rất có giá trị với
nhiều đóng góp mới. Kiều Thu Hoạch đã đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến đặc điểm
thi pháp truyện Nôm trung đại (bao gồm cả truyện Nôm bác học và truyện Nơm
bình dân) như: mơ hình cấu trúc, vấn đề kết thúc có hậu, mối quan hệ giữa truyện
Nơm và truyện cổ tích, nhân vật và ngơn ngữ truyện Nơm, phương thức sáng tác và
lưu truyền… Riêng về tác phẩm Lục Vân Tiên, Kiều Thu Hoạch đồng tình với quan
điểm của Vũ Đình Liên cho rằng: “Đó là một trường hợp khá đặc biệt của sự gặp gỡ
giữa hai dòng văn học: văn học chính thống (cổ điển) và văn học dân gian” [21;
313]. Tuy nhiên, do cơng trình nghiên cứu này được Kiều Thu Hoạch thực hiện với
tất cả các tác phẩm truyện Nôm nên đối với từng tác phẩm chỉ có những gợi ý bao
quát mà chưa đào sâu phân tích được. Do vậy, tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn
Đình Chiểu vẫn chưa được khai thác cặn kẽ ở mặt thi pháp nghệ thuật.
Nhìn chung, những năm cuối thế kỷ XX, truyện Lục Vân Tiên nói riêng, thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu nói chung vẫn được giới phê bình, nghiên cứu nói tới
16
nhiều. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ấy chỉ dừng lại ở các bài viết nhỏ lẻ.
Bước sang thế kỷ XXI thì tác phẩm đã được đào sâu nghiên cứu ở phương diện
ngôn ngữ, từ loại trong một số luận văn luận án. Tuy nhiên, theo chúng tơi thì giá trị
nghệ thuật (nhất là nghệ thuật kể chuyện) của Lục Vân Tiên là rất sinh động và độc
đáo. Chính vì vậy, cần có thêm nhiều nghiên cứu chun sâu hơn nữa để làm sáng
tỏ vấn đề, góp phần ghi nhận tài năng đáng kính của nhà thơ mù Nguyễn Đình
Chiểu.
Khoảng chục năm trở lại đây, trong nghiên cứu văn học tự sự nước ta xuất
hiện trào lưu dùng lí thuyết tự sự học để nghiên cứu tác phẩm. Hướng nghiên cứu
mới này đã gặt hái được rất nhiều thành tựu đáng kể. Những phát hiện mới mẻ từ
giá trị tác phẩm dễ dàng được tìm thấy và các vấn đề được lập luận sáng rõ, có căn
cứ khoa học. Chính vì vậy, nó nhanh chóng được các nhà nghiên cứu văn học (kể cả
nghiên cứu văn học trung đại và hiện đại) tin tưởng và áp dụng vào thực tiễn công
việc. Bản thân chúng tôi cũng không ngoại lệ khi tiếp xúc với truyện thơ Lục Vân
Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Chúng tơi cũng cho rằng đây là một hướng nghiên
cứu rất khả thi để nhìn nhận, đánh giá sâu sắc giá trị của tác phẩm và tài năng của
tác giả.
Chúng tơi xin kể tên một số cơng trình nghiên cứu theo lí thuyết tự sự hiện
đại có nhiều ảnh hưởng tới quá trình thực hiện luận văn của chúng tôi là: luận văn
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Lỗ Tấn do Nguyễn Thị Huyền thực hiện
năm 2010; luận văn Thành tựu nghiên cứu thể loại truyện thơ Nôm thế kỷ XVIII –
nửa đầu thế kỷ XIX từ năm 1986 đến nay của Trương Thị Thúy Hằng năm 2010;
luận án tiến sĩ Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ
XIX đến 1932 của Phan Mạnh Hùng năm 2014. Ngoài ra, cơng trình Thi pháp
Truyện Kiều của Trần Đình Sử trong Tuyển tập Trần Đình Sử, tập1, xuất bản năm
2005 là cơng trình nghiên cứu có ảnh hưởng rất lớn đến tư duy và hướng tiếp cận
vấn đề của chúng tôi trong luận văn này. Vì theo chúng tơi thì Trần Đình Sử đã có
cách tiếp cận, lý giải Truyện Kiều rất sâu sắc và thú vị. Ơng đã khơng dẫm lên
những bước chân theo con đường mòn của những nhà nghiên cứu khác mà tìm cho
17
mình một hướng đi riêng đến miền đất mới, tìm kiếm những giá trị độc đáo còn
chưa được khai phá của Truyện Kiều – niềm kiêu hãnh của toàn dân tộc.
Trên đây là phần lược thuật các cơng trình nghiên cứu về vấn đề nghệ thuật
sáng tạo truyện thơ Lục Vân Tiên mà chúng tơi tìm hiểu được. Những quan điểm
đánh giá ở các bài nghiên cứu được trích dẫn trên đây ít nhiều có tác động tới việc
chúng tơi thực hiện nghiên cứu đề tài. Trong đó, chúng tơi có kế thừa và khai triển
thêm một số ý kiến mà chúng tôi cho là đặc sắc, đáng ghi nhận. Việc kế thừa và
phát huy ấy sẽ được chúng tôi trình bày kỹ hơn trong phần triển khai nội dung chính
của luận văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn
Đình Chiểu” thì chúng tơi đã xác định rõ giới hạn ngay trong tên đề tài. Tức là,
luận văn sẽ chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ mặt nghệ thuật tự sự trong tác phẩm
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Trong nghệ thuật tự sự của tác phẩm có hai
vấn đề then chốt được bàn tới là cấu trúc tự sự và các thủ pháp nghệ thuật đặc trưng.
Nội hàm của cấu trúc tự sự là các vấn đề về loại hình, kết cấu hình thức, logic nội
tại, người kể chuyện, giọng điệu nghệ thuật, ngôn ngữ tác phẩm…
Văn bản tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là đối tượng nghiên
cứu chính của đề tài. Bên cạnh đó, chúng tơi có sự so sánh, đối chiếu với những tác
phẩm truyện thơ Nôm trung đại Việt Nam khác như Truyện Kiều, Hoa Tiên, Sơ kính
tân trang, Bích Câu kỳ ngộ, Nhị độ mai,… cùng một số truyện cổ tích có liên quan
đến những motif trong tác phẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tơi có sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu.
Về phương pháp chun ngành thì chúng tơi chọn phương pháp nghiên cứu
theo lý thuyết Tự sự học. Phương pháp này được chúng tôi áp dụng để triển khai
nghiên cứu Cấu trúc tự sự của truyện Lục Vân Tiên (tức nội dung chương 2).
Phương pháp liên ngành được sử dụng ở đây là phương pháp liên ngành giữa
văn học và văn hóa học; giữa văn học và xã hội học… Đây là phương pháp nghiên
18
cứu chính được chúng tơi sử dụng để tìm hiểu nghệ thuật sử dụng các thủ pháp của
Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm Lục Vân Tiên (tức nội dung chương 3).
Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu phổ thơng
như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê… Các phương pháp này
được chúng tôi sử dụng rộng rãi và xuyên suốt luận văn bên cạnh các phương pháp
chuyên ngành và liên ngành như vừa nêu ở trên. Do vậy, khi nghiên cứu thì chúng
tôi luôn linh động trong việc sử dụng một hay nhiều phương pháp nghiên cứu cùng
lúc để đạt được kết quả tốt nhất.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Với đề tài này, luận văn sẽ chỉ ra những yếu tố nghệ thuật nổi bật góp phần
đem lại thành cơng cho tác phẩm Lục Vân Tiên.
Đồng thời, luận văn sẽ góp phần chứng minh sự mộc mạc, dung dị, gần gũi
trong ngơn ngữ và kết cấu tác phẩm chính là những yếu tố nghệ thuật điêu luyện tạo
nên sức sống vượt khơng – thời gian của tác phẩm.
Bên cạnh đó, luận văn còn đưa ra và chứng minh giả thuyết: hầu hết các
motif trong truyện Lục Vân Tiên là những mảnh ghép từ nhiều nguồn tri thức văn
hóa mà tác giả đã lĩnh hội được trong cuộc sống. Tất cả sẽ được trình bày trong hệ
thống chỉnh thể thống nhất.
Từ đó, luận văn hy vọng có thể góp phần bổ sung cho hệ thống nghiên cứu,
đánh giá thơ văn cụ Đồ Chiểu được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận và Tài liệu tham khảo thì Nội dung chính
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung: trình bày bao quát về vấn đề lí thuyết tự sự,
tiểu sử và sự nghiệp thơ văn của tác giả Nguyễn Đình Chiểu và giới thiệu hoàn cảnh
ra đời, nội dung và tình hình văn bản truyện thơ Lục Vân Tiên.
Chương 2: Cấu trúc tự sự của truyện Lục Vân Tiên: trình bày các kiểu kết
cấu trần thuật, kết cấu logic tự sự và vấn đề người kể chuyện với điểm nhìn trần
thuật trong tác phẩm.
19
Chương 3: Tác phẩm Lục Vân Tiên với các thủ pháp nghệ thuật: trình bày ba
thủ pháp nghệ thuật nổi bật được tác giả sử dụng rất tài tình trong tác phẩm là thủ
pháp sử dụng motif từ các nguồn văn hóa, thủ pháp lạ hóa và thủ pháp lí tưởng hóa.
Nhìn chung, tổng thể luận văn hướng đến việc trình bày những đặc trưng tiêu
biểu của nghệ thuật tự sự tác phẩm Lục Vân Tiên mà các cơng trình nghiên cứu
trước đây chưa đề cập hay chưa trình bày sáng rõ. Từ đó, giải thích và chứng minh
những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn mãnh liệt của tác phẩm với người tiếp nhận qua
nhiều thế hệ. Đồng thời, khẳng định tài năng thiên bẩm trong sáng tạo văn chương
bình dân của thi hào Nguyễn Đình Chiểu.