Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.99 KB, 26 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Chuyện về các nhà khoa học tìm ra tia X và tia xạ
<b>May mắn xảy ra vào tối ngày 8/11/1895, sau khi rời phịng thí nghiệm một quãng, sực nhớ </b>
<b>quên chưa ngắt cầu dao điện cao thế dẫn vào ống tia catod, Wilhelm Conrad Roentgen </b>
<b>(1845-1923) quay lại phòng và nhận thấy một vệt sáng màu xanh lục trên bàn tuy phòng tối</b>
<b>om. </b>
Với đầu óc nhạy bén, đầy kinh nghiệm của một nhà vật lý học, việc này đã lôi cuốn ông và 49
ngày sau ơng liên tục ở lỳ trong phịng thí nghiệm, cơm nước do bà vợ tiếp tế, mỗi ngày ông chỉ
ngừng công việc nghiên cứu ít phút để ăn uống, vệ sinh và chợp mắt nghỉ ngơi vài giờ. Nhờ thế,
ơng đã tìm ra tính chất của thứ tia bí mật mà ơng tạm đặt tên là tia X và mang lại cho ông giải
Nobel về vật lý đầu tiên vào năm 1901.
<i>Wilhelm Conrad Roentgen (1845-1923) </i>
<i>(Ảnh: Calstatela.edu)</i>
Tương tự, Pierre Curie (1859-1906) và vợ là Marie Curie (1867-1934) theo sự gợi ý của Henri
Becquerel (1852-1908) về việc tìm xem có chất lạ nào đóng vai trị quan trọng trong các chất bức
xạ, đã tiến hành đề tài nghiên cứu (luận văn tiến sĩ của Marie Curie): "Bản chất và đặc tính của
tia xạ" (tia Becquerel). Và khi đã tìm ra chất phóng xạ mới: radi, nhưng khi trình bày ở Viện Hàn
lâm khoa học Paris, có ý kiến: "Các vị nói rằng đã tìm ra một ngun tố mới. Xin đưa nó ra đây
cho chúng tơi xem, lúc đó chúng tơi mới tin các vị nói đúng". Chấp nhận lời thách thức đó, hai
ơng bà Curie đã phải lao động cả trí óc lẫn chân tay (khn vác, bốc dỡ các bao tải quặng radi).
Với tỷ lệ quá nhỏ radi có trong quặng: 1/100.000, ơng bà Curie sau 48 tháng vất vả mới thu được
0,1g radi, lượng này vừa đủ để nói lên tính phóng xạ của radi, mạnh gấp một triệu lần urani và
xác định được nguyên tử lượng của nó: 225, đủ để thuyết phục những người cịn nghi ngờ.
Tất nhiên ơng bà Curie và nhà khoa học Becquerel (người tìm ra tia xạ) đã được tưởng thưởng
xứng đáng: Giải Nobel về vật lý. Số tiền thưởng được chia đã giúp ông bà Curie giảm bớt khó
khăn đang gặp túng thiếu sau những năm tháng nghiên cứu trên cơ sở tự túc.
<b>Không màng danh lợi, tiền bạc </b>
từng đốt xương và cả chiếc nhẫn cưới trên ngón tay bà. Ảnh này đã được đưa ra trong hội nghị
của Hội vật lý học thành phố Wurtzbourg (Đức) có sự tham dự đông đảo của các nhà khoa học
nhiều nước nhằm chứng minh khả năng đâm xuyên của tia X qua cơ thể con người, tiến hành vào
ngày 23/11/1896.
Trước thành tựu tuyệt vời đó, chủ tịch hội đã đề nghị gọi tia X là tia Roentgen và gọi năm 1896
là năm của tia Roentgen.
<b>Nhưng suốt đời Roentgen vẫn gọi những tia đó là tia X và có giai thoại sau: </b>
Một nhà vật lý học đồng hương với ông tên là Lêna, trước những vinh quang đó đã tìm cách
tranh cơng với ơng và đề nghị phải gọi tên trên là tia Roentgen Lêna. Ông bình thản trả lời: "Tia
X được gọi bằng tên ai, tôi không hề quan tâm. Tôi chưa bao giờ gọi những tia đó bằng tên mình.
Mong ơng hãy trao đổi với những ai gọi như vậy".
Có người của Cục Hải qn Đức đến gặp ơng và nói: sẵn sàng chi một số tiền lớn và cung cấp đủ
mọi phương tiện cần thiết nếu ông đồng ý đưa những tia X vào sử dụng trong tàu ngầm và đề
nghị ông đăng ký phát minh để giữ độc quyền về tia này, khơng cho nước ngồi sử dụng.
<i>Nhà khoa học Roentgen chụp được bàn tay vợ bằng tia X, khi tráng ảnh đã thấy rất rõ từng đốt</i>
<i>xương và cả chiếc nhẫn cưới trên ngón tay bà. (Ảnh: uab.edu)</i>
Ơng kiên quyết từ chối khơng tham gia cơng việc nhà binh và việc đăng ký. Ơng muốn tia X
được dùng vào việc chăm sóc sức khỏe con người, nó thuộc về tồn thể nhân loại, cịn dùng làm
phương tiện phục vụ chiến tranh khơng bao giờ có trong ý định của ơng. Việc phát minh ra tia X
đã mang lại nguồn thu nhập cho rất nhiều công ty lợi dụng nhưng vợ chồng Roentgen vẫn sống
trong thiếu thốn và thường phải có sự trợ giúp của họ hàng, bè bạn, điều này do tính khảng khái
và ý chí kiên quyết phản đối chiến tranh.
Có lẽ, giống như phát minh tia X, sau khi phát hiện ra radi đã
bị những nhà kinh doanh lợi dụng chất này để làm giàu qua
việc bán trên thị trường các sản phẩm có chứa radi từ nước
uống, vòng đeo tay, savon, sữa, ngũ cốc, thức ăn gia súc với
các lời quảng cáo: bổ dưỡng, chữa thấp khớp, diệt khuẩn...
Trong cuộc cạnh tranh đó, nhiều người đã tìm đến ơng bà
Curie khuyên ông bà nên đăng ký phát minh độc quyền để có
thể làm giàu chính đáng vì 1g radi lúc đó có giá 75 vạn franc.
Nhưng cũng như Roentgen, ông bà Curie đã từ bỏ quyền phát
minh của mình để tạo điều kiện cho ngành cơng nghiệp phóng
xạ non trẻ đầy hứa hẹn phát triển.
Điều an ủi cho ông bà Curie là sự nghiệp khoa học của hai người đã được tiếp tục thực hiện do
người con gái Irène Julio Curie và người con rể là Frederich Julio Curie. Đôi vợ chồng này đã
phát hiện ra các chất phóng xạ nhân tạo và được giải thưởng Nobel vào năm 1935.
<b>Hy sinh vì phóng xạ </b>
Tính đến năm 1936, năm ở Đức có dựng một tượng đài để tưởng niệm các nhà khoa học đã hy
sinh vì tia X và phóng xạ, con số đã là 110 người (!). Người được coi là đầu tiên: Antoine Henri
Becquerel (Đức), người đã phát hiện ra tia xạ, qua sự gợi ý của nhà toán học lừng danh Henri
Poincaré.
Trong một buổi lên lớp ở Đại học Khoa học Paris, ông bỏ vào trong túi áo khốc của mình một
lọ chứa radi có đóng gói cẩn thận trong một hộp giấy nhỏ, nhằm minh họa cho bài giảng. Ai ngờ,
10 ngày sau trên ngực, nơi túi áo đựng lọ radi, xuất hiện một vết đỏ nho nhỏ và nó tiếp tục ran
rộng và chỉ dừng lại khi đạt kích thước vừa đúng bằng cái lọ đựng radi. Chuyện xảy ra vào tháng
4/1901. Không để ý đến vết đỏ, ông tiếp tục nghiên cứu nhưng dần dần ông cảm thấy mệt mỏi,
suy nhược, đau đớn ngày càng tăng, da tay bị nứt nẻ tạo những vết loét rộng. Và đến năm 1908,
ở tuổi 56, ông đã từ giã cõi đời sau những tháng năm mòn mỏi, suy kiệt, đau đớn.
Người tiếp theo là Pierre Curie (Pháp), người góp sức vào việc tìm hiểu bản chất của phóng xạ.
Thấy Becquerel bị radi gây bỏng, ông muốn thử nghiệm trên mình xem có chính xác khơng?
Ơng đã từng buộc vào cánh tay mình trong 10 giờ một chế phẩm phóng xạ và bỏ một mảnh radi
trong vịng nửa giờ vào túi quần và như Becquerel, ở tay và ở đùi, ít ngày sau đều có một vết
bỏng. Khơng may ơng mất sớm vì một tai nạn ơ tô nhưng cũng may là chưa phải chịu đựng
những tác hại tồn thân do chất phóng xạ.
ánh dạ quang phát ra từ chiếc túi.
Vào tuổi 65, sức khỏe của bà suy giảm rõ rệt và bước sang tuổi 66 bà phải nằm liệt giường để rồi
đến gân cuối năm bà qua đời (!).
(Theo_khoahoc
ại sao tia X-quang lại có thể xuyên qua cơ thể người?
1
2
3
4
5
(3 votes)
Người đăng: lukhachla
20/07/2009
Ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn, ánh sáng lửa đều là những ánh sáng mà mắt người có thể nhìn
thấy được và được gọi là ánh sáng có thể nhìn thấy. Ngồi ra cịn có một số ánh sáng mà mắt
người khơng nhìn thấy, tuy khơng nhìn thấy nhưng bằng thí nghiệm có thể chứng minh sự tồn tại
có thật của chúng, hơn nữa chúng lại có bản tính của ánh sáng. Tia X-quang là một loại trong số
đó.
Năm 1895, nhà khoa học người Đức Luckin đã phát hiện ra tia X-quang đầu tiên khi nghiên cứu
hiện tượng phóng điện trong chân khơng. Tia X-quang và ánh sáng có thể nhìn thấy có gì khác
nhau?
Trong những nghiên cứu trong thời gian dài của các nhà khoa học, họ đã đưa ra tổng kết về bản
tính của ánh sáng như sau: bất kỳ ánh sáng nào cũng đều là một dạng sóng điện từ, những bước
sóng của các loại ánh sáng là khác nhau. Bước sóng trong khoảng 400 – 760 Nanomet (1
Nanomet = 10-9<sub> m) là ánh sáng có thể nhìn thấy thơng thường; những ánh sáng có bước sóng nhỏ </sub>
hơn 400 Nanomet gọi là tia tử ngoại, là ánh sáng khơng nhìn thấy được; tia X-quang là loại ánh
sáng có bước sóng ngắn hơn so với tia tử ngoại, nó chỉ bằng 1/10.000 bước sóng ánh sáng có thể
nhìn thấy, nó cũng là ánh sáng khơng nhìn thấy.
Khả năng xuyên thấu qua vật thể của những ánh sáng có bước sóng khác nhau cũng khác nhau,
ánh sáng nhìn thấy chỉ có thể xun qua những vật thể trong suốt như thủy tinh, cồn, dầu đốt,…,
còn tia X-quang lại có thể xuyên thấu qua những vật thể không trong suốt như giấy, gỗ, và các tế
bào trên cơ thể người.
Tại sao tia X-quang lại có thể xuyên qua cơ thể người và có thể hiện ra cái bóng của xương trên
phim chụp? Thực ra, khả năng xuyên qua các loại vật thể của tia X-quang lại không giống nhau.
Đối với những vật chất được cấu tạo thành từ những nguyên tử tương đối nhẹ như cơ bắp
người… thì khi chiếu qua, tia X-quang giống như ánh sáng nhìn thấy chiếu qua những vật thể
trong suốt, nó rất ít khi bị yếu đi. Còn đối với những vật chất được cấu thành từ nguyên tử nặng
Tia X-quang có thể xuyên qua cơ thể người, ngành y học thường dùng nó để kiểm tra các cơ quan
bên trong của cơ thể bệnh nhân như phổi, xương và dạ dày…
Nếu tiếp xúc nhiều với tia X-quang sẽ khơng có lợi cho cơ thể, nó cịn gây ra những bệnh có tính
phóng xạ. Vì vậy, các bác sĩ phụ trách công việc chụp X-quang trong bệnh viện đều phải mặc áo
cao su bao quanh, đội mũ và đeo găng tay, đồng thời phải đeo kính thủy tinh chì để ngăn khơng
cho tia X-quang chiếu vào các bộ phận trên cơ thể, gây tổn hại cho cơ thể.
<i><b>Trích Những câu hỏi lý thú về vật lý</b></i>
Cập nhật lúc 10h38' ngày 09/08/2006
Bản in
Xem thêm: <i>ap dung chat phong xa trong nganh y va sinh hoc</i>
<b>Ngày nay ta thường nghe tin về những chất phóng xạ giết người hay các nạn nhân bị mắc </b>
<b>bệnh ung thư vì chất phóng xạ xuất phát từ những vụ thử vũ khí hạt nhân... Tuy nhiên </b>
<b>cũng chất phóng xạ đó, lúc đầu chỉ dùng để chữa trị ung thư.</b>
Sự khám phá ra tia X bởi Wilhelm tháng 11 năm 1895 tượng trưng cho cuộc cách mạng trong thế
giới Y khoa. Từ đó về sau, ta có thể "<i>nhìn bên</i>
<i>trong</i>" cơ thể con người.
Và sự khám phá ra chất phóng xạ nhân tạo do
Irène và Frédéric Joliot-Curie vừa cho được khả
năng chế tạo những đồng phân phóng xạ của tất cả những ngyên tố thiên nhiên vừa cho phép
ngành Y khoa Hạch Nhân ló dạng. Những đồng phân cho ra những ứng dụng khác nhau, từ
những nghiên cứu Y học cho đến những áp dụng chẩn đoán và trị liệu.
<b>Những năm đáng ghi nhớ</b>
1895: Wilhelm Conrad Röentgen (Ðức) khám phá tia X và khả năng chụp hình bằng tia X,
1896 tháng 7, Bs Victor Despeignes (Lyon) báo tin sự trị liệu ung thư đầu tiên bằng tia X
1897 Bs Antoine Béclère đặt máy tia X đầu tiên trong một bệnh viện tại Paris.
1898 tháng 12, Pierre và Marie Curie khám phá chất phóng xạ Radium.
1900 Hai người Ðức Otto Walkhof và Friedrich Giesel báo cáo sự quan sát của họ kết quả về
sinh học của chất Radium trên da như tia X.
1901 Pierre Curie và Henri Becquerel công bố về "<i>Tác dụng vật lý của Radium</i>" Một bác sĩ
chuyên về da ở bệnh viện Saint Louis Paris, Henri Danlos, công bố kết quả của sự điều trị bệnh
Lupus bằng Radium.
Các bác sĩ thử nghiệm càng lúc càng nhiều trên các bệnh khác.
Perthes, người Ðức, bắt đầu kỹ thuật chữa bằng phóng xạ
1904-1906 Jean Bergonié và Louis Tribondeau chứng minh rằng những tế bào ung thư nhạy cảm
hơn những tế bào lành mạnh. Rồi họ đặt nền tảng về sinh học đầu tiên cho sự trị liệu bằng tia X.
1905 Sự hiểu biết về tác dụng tốt đẹp của tia Radium để trị các bứu của da và cổ tử cung, đó là
sự ra đời của Curiethéraphie (khoa trị liệu Curie)
1906 Armet de Lisle xí nghiệp Radium ứng tiền cho sự thành lập phịng thí nghiệm để nghiên
cứu về những tác dụng sinh học và y học của Radium. Tạo ra khoa trị liệu Radium.
(Radiumthérapie)
1909 tháng 12, Ðại học Paris và Viện Pasteur quyết định xây Viện Radium.
1914-1918 Marie Curie phụ tá Antoine Béclère với chức vụ trưởng khu tia X cho quân đội.
1918 Thành lập hội Pháp-Anh-Mỹ chống ung thư.
1920 Thành lập tổ chức Curie
1921-1928 Thành lập 21 trung tâm chống ung thư cho nhà thương Paul-Brousse ở Villejuif
1923 Georg de Hevesy (Suède, Thụy Ðiển) dùng những chất đồng phân như là những vết hóa
sinh (đặc biệt cho thực vật), một phương cách mà ông đã tưởng tượng năm 1913
1924 Hai y sĩ Mỹ, Blumgart và Weiss, lần đầu tiên dùng vết Radium C để tính tốc độ tuần hồn
máu từ cánh tay này sang cách tay kia của một người.
1934 Irène và Frédéric Joliot-Curie khám phá ra chất phóng xạ nhân tạo
<i><b>Phong Lan</b></i>
<i><b>Theo VietSciences.free.fr </b></i>
Xem thêm: <i>ap dung chat phong xa trong nganh y va sinh hoc</i>
Hỏi đáp về an tồn sóng điện từ (phần 1)
<i>Tạp chí Bưu chính Viễn thơng và Cơng nghệ Thơng tin xin giới thiệu khoảng 70 câu hỏi và trả</i>
<i>lời liên quan đến vấn đề: "Các trạm thu phát điện thoại di động và sức khoẻ con người”</i>
<i>(Mobile Phone (Cell Phone) Base Stations and Human Health) của Tiến sỹ John E.Moulder,</i>
<i>Giáo sư chuyên ngành Ung thư Bức xạ thuộc Trường Đại học Y khoa Wisconsin Hoa Kỳ trong</i>
<i>Chuyên ngành Các trường điện từ và sức khoẻ con người (Electromagnetic Fields anh Human</i>
<i>Health).</i>
<b>Câu hỏ i 1 : Các trạm gốc điện thoại di động là gì và có nguy hại về sức khoẻ đối với những nguời</b>
<b>dân sống, làm việc, vui chơi và đến trường gần trạm đó khơng? </b>
<b>Trả lời : </b> Các trạm gốc điện thoại di động (sau đây gọi là trạm gốc) là các trạm thu phát vô
tuyến hai chiều, nhiều kênh, công suất thấp. Máy điện thoại di động cầm tay là máy thu phát vô
tuyến hai chiều, một kênh, công suất thấp. Khi một người nào đó nói chuyện bằng máy điện
thoại di động cầm tay, nghĩa là anh ta và nhiều người xung quanh anh ta đang ở gần trạm gốc.
Từ trạm gốc đó, cuộc gọi của người ấy đi đến hệ thống điện thoại trên mạng mặt đất ví dụ như
mạng chuyển mạch điện thoại công cộng PSTN (Public Switching Telephone Network).
Vì các máy điện thoại di động cầm tay và các trạm gốc của chúng là các máy thu phát vô tuyến
hai chiều, chúng tạo ra năng lượng ở tần số vô tuyến (RF – Radio Frequency) để chúng liên lạc
với nhau, và chúng chiếu năng lượng RF vào người ở xung quanh chúng. Nhưng cả hai đều phát
ra công suất rất thấp tồn tại rất ngắn, do đó các mức phơi nhiễm năng lượng RF rất thấp.
Giới khoa học Hoa Kỳ và quốc tế đều nhất trí <i>:"Cơng suất phát ra từ các antenn trạm vơ tuyến</i>
<i>gốc loại này quá thấp và không gây ảnh hưởng đến sức khoẻ những người ở lâu xung quanh</i>
<i>chúng nhưng không trực diện hướng phát xạ antenna".</i> Cần phải nhận thức rõ sự khác biệt giữa
các antenna là các vật thể tạo ra năng lượng RF và các tháp cao, mái nhà, các kết cấu cơ khí trên
đó người ta lắp đặt antenna. Con người cần giữ một khoảng cách xa antenna - vật bức xạ năng
lượng RF chứ khơng phải là khoảng cách với các tồ nhà, tháp hay các cấu trúc cơ khí khác trên
đó người ta lắp đặt antenna. Ngồi ra cịn một điều chúng ta cần phải nhận thức cho đúng, có rất
nhiều kiểu trạm gốc được thiết kế khác nhau về công suất, các đặc tính và từ đó có thể thấy khả
năng gây ra phơi nhiễm năng lượng RF đối với con người cũng rất khác nhau.
<b>Câu 2 : Các nhà khoa học quan tâm một cách khẩn cấp về khả năng ảnh hưởng xấu của các antenna</b>
<b>trạm gốc đến sức khoẻ con người ?</b><i> </i>
<b>Trả lời : Khơng hồn tồn như vậy. Có một số nguyên nhân đáng quan tâm về những ảnh</b>
hưởng của máy điện thoại di động cầm tay đối với sức khoẻ con người mặc dù hiện nay chưa có
căn cứ để kết luận. Những mối quan tâm này vẫn tồn tại vì antenna của máy điện thoại cầm tay
phát ra phần lớn năng lượng RF của chúng lên một phần rất nhỏ cơ thể. Các antenna trạm gốc
không gây ra các tia nóng như vậy trừ khi ta đứng đối diện với búp sóng của chúng, như vậy
những thơng báo về khả năng an toàn đối với máy điện thoại di động cầm tay không thể áp dụng
đối với antenna các trạm gốc.
<b>Tr</b>
<b> ả l ờ i : Khơng. Có r</b>ất nhiều khác biệt về kỹ thuật giữa các loại máy điện thoại di động khác nhau,
nhưng đánh giá khả năng ảnh hưởng đến sức khoẻ con người chỉ có một sự khác biệt duy nhất là
chúng hoạt động ở các tần số khác nhau một khoảng nhỏ. Ví dụ năng lượng RF của một số trạm gốc
hoạt động ở tần số 800MHz được cơ thể người hấp thụ mạnh hơn năng lường ở dải tần 900 MHz
đến 1800 MHz, . . . một khi năng lượng RF được cơ thể người hấp thụ thì ảnh hưởng của chúng như
nhau.
<b>Câu 4 : Có sự khác nhau giữa antenna trạm gốc và các antenna phát thanh và truyền hình quảng bá</b>
<b>khi đánh giá ảnh hưởng của chúng lên sức khoẻ con người ?</b>
<b>Khơng và có. Năng lượng RF từ một số antenna ví dụ như antenna vơ tuyến truyền hình FM và</b>
VHF được cơ thể người hấp thụ nhiều hơn năng lượng RF từ các nguồn khác chẳng hạn như các
antenna trạm gốc điện thoại di động; các loại năng lượng được hấp thụ nói trên có ảnh hưởng
hồn tồn giống nhau. Các antenna phát thanh FM và TV phát ra năng lượng lớn hơn antenna
trạm gốc điện thoại di động từ 100 đến 5000 lần nhưng các antenna đó được lắp trên những tháp
cao từ 250 mét đến 400 mét vì vậy đối với con người khơng có gì nguy hiểm cả.
<b>Câu 5 : Các antenna trạm gốc điện thoại di động có tạo ra bức xạ hay khơng ? </b>
<b>Trả lời : Có. Các máy điện thoại di động và các antenna trạm gốc của chúng là đường vô tuyến</b>
hai chiều, chúng tạo ra năng lượng dải tần vô tuyến (RF) để chúng thiết lập liên lạc hai chiều với
nhau. Năng lượng Rf này là dạng không ion hoá (non-ionizing) và các ảnh hưởng sinh học của
chúng khác hẳn bức xạ ion hoá (ionizing) được các máy chiếu tia X tạo ra. Năng lượng RF có
thể gọi là sóng viba, sóng vơ tuyến; bức xạ RF (RFR-Radio Frequency Radiation) hoặc là phát
xạ RF. Khi bàn về ảnh hưởng đến sức khoẻ, người ta phân biệt sóng vi ba và sóng vơ tuyến chỉ
trên phương diện ngơn ngữ mà thơi và thuật ngữ "năng lượng RF" thì RF (sử dụng trong mọi tài
liệu liên quan) dùng để chỉ tất cả các tần số trong dải từ 3KHz đến 300 GHz.
<b>Câu 6 : Năng lượng RF phát ra từ các antenna trạm gốc hoàn toàn giống các bức xạ ion hoá như tia X</b>
<b>?</b>
<b>Tr</b>
<b> ả l ờ i : Không. Tác động qua lại lẫn nhau giữa năng lượng điện từ với các phần tử sinh học (các tế</b>
bào, các động vật thí nghiệm hoặc con người) phụ thuộc tần số nguồn bức xạ. Các tia X, năng lượng
RF và trường điện từ (EMF) từ các đường dây điện lực, tất cả chúng đều được các nguồn điện từ tạo
ra nhưng tần số của các nguồn đó rất khác nhau. Tần số là tốc độ tại đó trường điện từ thay đổi
hướng được tính bằng hertz (Hz), một Hz là một chu trình (sóng) trên một giây (1/3600 giờ) và 1
megahertz (MHz) là một triệu chu trình (sóng) trên một giây. Điện lực ở Hoa Kỳ có tần số 60Hz, ở châu
Âu là 50Hz, ở Việt Nam là 50Hz. điện thoại di động ở Hoa Kỳ hoạt động ở các tần số trong khoảng 800
MHz đến 2200 MHz, ở châu Âu là 900 MHz đến 1800 MHz. Các lò nướng viba hoạt động ở tần số 2450
MHz.
<b>Câu 7 : Năng lượng RF phát ra từ các antenna trạm gốc điện thoại di động có giống EMF (trường</b>
<b>điện từ) do đường dây điện lực tạo ra ?</b>
<b>Không. Đường dây điện lực không tạo ra các bức xạ có đặc tính "khơng ion hố" mà chúng chỉ</b>
tạo ra các điện trường và từ trường. So với bức xạ "khơng ion hố", các trường này khơng bức
xạ năng lượng vào không gian, chúng không tồn tại khi nguồn điện bị cắt. Một vấn đề chưa rõ là
: tác động sinh học của đường dây điện lực như thế nào? Nếu có tác động chắc chắn chúng sẽ
khác với ảnh hưởng của năng lượng RF đối với sinh vật sống. Chắc chắn năng lượng RF và
EMF của các đường dây điện lực tác động lên cơ thể người bằng hai cơ chế hoàn toàn khác nhau.
<b>Câu 8: Có những chỉ dẫn bảo vệ an toàn cho antenna các trạm gốc điện thoại di động khơng ? </b>
<b>Có. Có các chỉ dẫn quốc gia và quốc tế về ant toàn phơi nhiễm năng lượng RF do các antenna</b>
trạm gócc điện thoại di động đối với công chúng. Tuyệt đại đa số các chỉ dãn đó đầu chấp nhận
các tiêu chuẩn do Viện các Kỹ sư Điện và Điện tử(Institute of Electrical and Electronics
Engineers - IEEE) và Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ (American National Standards
<b>Institute-ANSI), Uỷ ban Quốc tế bảo vệ bức xạ khơng Ion hố (ICNIRP - International Commission on</b>
Non-Ionizing Radiation Protection) và Hội đồng Quốc gia bảo vệ và đo Bức xạ (NCRP - The
National Council on Radiation Protection and Measurements).
Các tiêu chuẩn RF đều được mơ tả theo mật độ cơng suất mặt sóng ("plane wave power density")
được đo bằng mW/cm2<sub> (milliwatts trên centimét vuông). Đối với các trạm gốc hoạt động ở dải</sub>
tần 1800 - 2000 MHz ví dụ như các trạm gốc PCS, tiêu chuẩn phơi nhiễm của ANSI/IEEE 1999
cho cộng đồng dân cư là 1.2 mW/cm2<sub>. Đối với các antenna hoạt động ở tần số 900 MHz thì tiêu</sub>
chuẩn phơi nhiễm của ANSI/IEEE đưa ra là 0.57mW/cm2<sub> cho cộng đồng dân cư. Tiêu chuẩn</sub>
của ICNIRP có nhẹ hơn một chút.
Năm 1996 Uỷ ban truyền thông Hoa kỳ (FCC - Federal Communications Commission) công bố
tiêu chuẩn an toàn cho các tần số và thiết bị do họ quản lý, bao gồm cả antenna các trạm gốc điện
thoại di động. Các tiêu chuẩn của FCC dành cho các trạm gốc điện thoại di động đúng bằng các
chuẩn do ANSI/IEEE đưa ra
<i>Bức tranh khi chưa chiếu tia X</i>
<i>Sau khi chiếu tia X, bức tranh hiện lên chân dung người phụ nữ</i>
Tạp chí khoa học Analytical Chemistry viết: Hình ảnh chân dung đó thật độc đáo và thể hiện
độ tài tình, siêu phàm trong nghệ thuật của danh họa Van Gogh .
<b>Bùi Thị Tân Việt @ 19:24 15/11/2009Phát minh ra tia X </b>
<b>Roentgen tên đầy đủ là Wilhelm Conrad Roentgen, sinh năm 1845, tại Lenep - CHLB Đức.</b>
<b>Thế kỷ thứ XIX là thời đại của ơng. Thời đó, động cơ hơi nước được coi là phát minh kiệt </b>
<b>xuất của nhân loại, kế đó là những sáng chế tiêu biểu như: xe đạp, máy quay đĩa, điện </b>
<b>thoại, điện ảnh… Những mơn khoa học cơ bản như: Tốn, Lý, Hóa, Sinh… vẫn còn biệt </b>
<b>lập nhau và cách nhau rất xa. Những kiến thức lý thuyết còn phát triển chậm, cho nên, nhà</b>
<b>nghiên cứu, trước hết, phải là nhà thực nghiệm giỏi.</b>
Kể từ tối ngày 7/11/1895, phịng thí nghiệm Viện Vật lý thuộc trường Đại học Tổng hợp
Wurtzbourg (cách Berlin 300 km về phía tây nam), Giám đốc Roentgen “chong đèn” thâu đêm
mải mê nghiên cứu dịng điện vận chuyển trong ống chân khơng, cịn gọi là ống Crookes –
Hittorf, (đó là tên của nhà vật lý kiêm Chủ tịch Hội đồng Hoàng Gia Anh và sáng chế của
Crookes đã ra đời cách ngày ấy 40 năm). Roentgen có ý định làm lại các bước thí nghiệm với
ống chân khơng này.
Một trong những thiết bị mà Roentgen rất chú ý đến là ống tia âm cực. Đó là một ống thuỷ tinh
chân khơng có hai điện cực ở hai đầu, được cung cấp điện áp cao thế từ cuộn dây Ruhmkorff và
nếu áp suất trong ống thấp, chúng sẽ taọ ra sự phát sáng huỳnh quang (phosphorescence) khi tác
động bởi một chùm electron phát sinh từ âm cực.
Ông đặt một màn chắn giữa ống và tia âm cực với bản thủy tinh (trong đó có tráng một lớp hỗn
hợp phát quang). Khi bật cơng tắc điện thì màn chắn có chứa barium plation – cyamit (ta thường
gọi là Xyanuabari) đặt trước ống chân không bỗng phát ra thứ ánh sáng xanh nhè nhẹ, nhưng sao
nó lại có vẻ khác lạ so với tia điện chúng ta thường biết đến ? Khi rút phích điện ra khỏi ổ cắm,
Roentgen tự hỏi: Hay tấm bìa phát sáng ? hoặc một khúc xạ nào đó của tia điện? Hay ống
nghiệm phát sáng ? Ông làm lại thí nghiệm đó bằng cách thử dùng giấy đen bịt kín ống nghiệm
lại xem sao. Roentgen thốt lên: Lạ thật! Kết quả vẫn như cũ. Ông dự đốn: có thể đây là một tia
rất mới. Nó xuyên qua cả giấy đen.
Bà Bertha – người vợ thân u của ơng thấy chồng có vẻ đăm chiêu hơn mọi ngày. Ngồi ăn cơm
bên nhau mà bà không dám hỏi, e ngại dòng suy nghĩ của chồng bị ngắt qng. Cả đêm hơm đó
ơng khơng thể chợp mắt được. Ơng muốn lao sang phịng thí nghiệm ngay tức khắc. Ơng suy
đốn miên man khơng sao ngủ được. Rồi đột nhiên, ông thốt lên thành lời. Phải rồi! May ra chỉ
có giấy ảnh mới kiểm chứng được khả năng xuyên qua giấy đen của thứ tia mới lạ đó.
Trời vừa mới sáng, ơng sang phịng thí nghiệm ngay, lấy từ trong ngăn kéo ra tập giấy ảnh mới
mua. Ơng bắt tay vào thí nghiệm với giấy ảnh. Rồi giao cho Marstaller – nhân viên của phịng
mang đi in thành ảnh. Chỉ ít phút sau đã thấy Marstaller quay trở lại, anh tỏ ra ấp úng: “Tơi…,
tơi… trót mở tung gói giấy ra làm cho chúng đen lại”. Nhưng Roentgen nhìn kỹ lại và thấy nó
khơng đen đều. Ơng quan sát kỹ hơn thì thấy: có in hình chữ nhật và ở giữa là hình trịn tựa như
chiếc nhẫn. Nhìn vào trong ngăn kéo, ơng thấy có một tấm bìa cứng kích thước bằng đúng hình
chữ nhật kia và trên đó đặt chiếc nhẫn của ơng. Ơng chợt nhớ lại: Hai nhà khoa học Kelvin và
Gabriel (người Anh) 15 năm về trước có lần nói đến một số tia lẫn trong tia điện. Phải chăng nó
là đây ? Nhưng sao suốt 15 năm qua khơng ai tìm ra nó ? Ơng ngồi nhìn lại tấm hình trên giấy
ảnh. Rồi lại đặt lên bàn, tập trung đến cao độ để giải thích hiện tượng này.
Bertha kể lại rằng: Trong suốt thời gian chung sống với nhau, khoảng gần 25 năm bà chưa bao
giờ thấy ông ấy vui vẻ, rạng rỡ đến như thế.
sáng, tuy có yếu hơn trước đơi chút.
Lần này thì ơng bỏ ống giấy ra, nhưng đặt thêm một quyển sách khá dày trước màn hình. Ơng
thận trọng bật cơng tắc. Chà ! Kết quả vẫn khơng thay đổi. Ơng mừng rỡ thật sự. Suy tính trong
giây lát, một tay ơng nâng màn hình lên, tay kia đưa ngay vào tầm của màn huỳnh quang. Thật là
sửng sốt! Ơng nhìn thấy những đốt xương bàn tay của chính mình, cả đường gân và mạch máu.
Thú vị thay là bộ xương ấy đang sống, nó chuyển động theo sự điều khiển của ông. Roentgen lại
tiếp tục đưa vào những vật cản khác, bằng nhiều chất liệu, cuối cùng ông rút ra kết luận: “Tia đặc
biệt này có khả năng xuyên qua giấy, gỗ, vải, cao su, phần mềm của cơ thể… Nhưng không đi
qua được kim loại, nhất là những kim loại có tỷ trọng lớn, khơng đi qua được một số bộ phận cơ
thể, nhất là những bộ phận có chứa nguyên tố nặng như xương. Mặt khác, nó khơng bị ảnh
hưởng bởi từ trường, hay điện trường, nó làm cho khơng khí trở nên dẫn điện hiện lên phim
ảnh…”
Nhà phát minh bỗng cảm thấy cần phải chia sẻ với người vợ thân yêu của mình. Ơng đặt bàn tay
bà lên trên tấm kính ảnh. ống nghiệm của ơng thì để ở dưới gậm bàn. Ơng dăn vợ: đừng có động
đậy bàn tay đang đặt ở trên bàn. Thế là pô ảnh đầu tiên bằng tia mới chưa kịp đặt tên đã được
ơng chụp cho chính bàn tay mềm mại của người vợ thân yêu. Tấm ảnh chưa kịp khô, Roentgen
đã lấy ra cho vợ xem. Những đốt xương tay của Bertha hiện lên thật rõ nét, cả chiếc nhẫn mà bà
đeo trên ngón tay trỏ nữa, chúng đều hiện lên rõ mồn một. Hơm đó là ngày 22/12/1895.
Về sau này, người ta ca ngợi tấm hình “là bản chụp hình xương người đầu tiên trong lịch sử y
học”. Từ đây, nó giúp cho con người có thể thấy được cơ quan nội tạng của mình mà trước đó
khơng có cách gì thấy được. Thành cơng của Roentgen làm mọi người hết sức kinh ngạc.
Gần 7 tuần đã trơi qua, ơng miệt mài ở trong phịng thí nghiệm để đánh giá nhận định mô tả lại
và rút ra những kết luận tổng quát về tia mới mà ông vừa tìm ra và chưa kịp đặt tên cho nó. Bắt
chước các nhà tốn học thường hay đặt tên cho ẩn số bằng những chữ cái, ông quyết định đặt tên
cho nó là tia X (tubes X). Roentgen cố gắng viết gọn lại trong 6 trang để trình bày tại Hội đồng
khoa học Vật lý – Y khoa của trường tổng hợp Wurtzbourg.
Đến khi hoàn thành báo cáo khoa học thì cũng là lúc ơng nghe thấy tiếng người bước nhè nhẹ tới
Ba ngày sau, Roentgen gửi báo cáo khoa học tới Đại học Tổng hợp Wurtzbourg. Ông cũng nhờ
Franz Exner là học trị cũ của mình gửi bài tóm tắt khoa học tới các tòa báo. Chỉ vài ngày sau,
các báo ở Frankfurt, ở Paris, ở St.Petecbur đã đưa tin về phát minh của Roentgen: Một thành
công làm mọi người kinh ngạc, đó là chụp ảnh bằng tia X. Rồi hàng loạt báo chí của nhiều nước
cũng đưa tin và họ cịn phóng đại thêm lên nữa, kiểu như: “Có thể đọc được ý nghĩ trong đầu
người khác”, “Có thể chớp được cảnh bất ngờ ở đằng sau ngơi nhà”… Các nhà bình luận cịn suy
đốn nhiều về khả năng ứng dụng của tia X quang trong tương lai…
Ngày 23/1/1896, Roentgen trình bày báo cáo khoa học tại Hội đồng Vật lý – Y khoa trường Đại
học Tổng hợp Wurtzbourg trước các nhà khoa học hàng đầu về Vật lý và Y khoa của nước Đức.
Báo cáo của ông đã thực sự được đánh giá cao. Để chứng minh, Roentgen đề nghị được chụp
ảnh bàn tay giải phẫu tài ba của các bác sĩ Kolliker bằng X quang.
hợp chuẩn đoán bệnh qua X quang đầu tiên trong lịch sử y học thế giới. Antoine nói, dùng tia X
quang để chuẩn đoán bệnh lao là bước tiến quan trọng trong cuộc đời nghề nghiệp của ơng.
Sau lần đó, bác sĩ chun khoa miễn dịch nổi tiếng B.Antoine đã soạn thảo bộ giáo trình: Chun
khoa X quang chẩn đốn và điều trị bệnh trong nội tạng người. Giáo trình ấy được giảng dạy và
tồn tại cho đến ngày nay.
Người ta nhớ lại rằng: Khi Roentgen báo cáo khoa học, các thành viên trong Hội đồng khoa học
Đại học Tổng hợp Wurtzbourg đã đề nghị đặt tên cho tia X là “Tia Roentgen”. Nhưng nhà bác
học khiêm nhường này đã từ chối. Giảng bài cho sinh viên, ơng chỉ nói: “Trong khi làm thí
nghiệm với ống nghiệm Crookes – Hittorf người ta tìm thấy một loại tia mới – tia X quang…”
Ơng khơng nhắc đến tên mình là người đã phát minh ra cơng trình vĩ đại đó. Hồng gia phong
tước cho ơng và trao tặng Hn chương Hồng Gia, để cơng nhận thành cơng trong khoa học của
Năm năm sau, năm 1901, ông được trao giải Nobel về Y học, trở thành người đầu tiên trên thế
giới được nhận giải Nobel. Người ta càng cảm phục ông hơn vì ơng trao tặng tồn bộ số tiền
thưởng khá lớn đó cho trường Tổng hợp Wurtzbourg để phát triển khoa học. Cũng phải nói thêm
rằng: Kể từ khi trở thành giáo viên tại thành phố Zurich, Roentgen luôn hoạt động trong lĩnh vực
Vật lý. Nhưng, những cơng trình của ơng thời đó có tác dụng to lớn cho ngành Y học, cho nên,
ông được nhận giải Nobel về Y học là vì thế.
Ngày 10/2/1923, Wihelm Roentgen qua đời. Nhưng niềm vinh quang của ông để lại trong lịng
dân thì cịn mãi. Tìm ra tia Roentgen đồng nghĩa với việc mang lại niềm hạnh phúc to lớn cho
nhiều người bệnh, nhất là bệnh lao, căn bệnh hiểm nghèo nhất thời bấy giờ.
Ngày nay, tia X càng ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt. ở Việt Nam, hầu như bệnh viện lớn
nhỏ nào cũng có máy chiếu X quang. ước tính có khoảng 2.000 máy ở khu vực bệnh viện nhà
nước và tư nhân. Khơng những vậy, tia X quang cịn được áp dụng rộng rãi trong việc kiểm tra
hành lý tại sân bay, dị tìm vết nứt khuyết tật trong ống dẫn dầu, khí, trong cơng nghiệp… Nay,
cơng nghệ thông tin phát triển cùng với máy X quang đã mở ra con đường nghiên cứu cấu trúc
nguyên tử rất thuận lợi.
Chỉ 6 tháng sau khi phát hiện ra tia X quang, người ta đã nhận biết được hiệu ứng độc hại của nó
vì tia X phát ra một loại bức xạ ion hóa có thể gây ra tình trạng lão hóa sớm, đục thủy tinh thể, dị
tật bào thai, gây đần độn ở trẻ em, ung thư da và phổi v.v… Nếu tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên
với bức xạ này trong phạm vi bán kính 7 mm mà khơng có yếm chì, ghế ngồi an tồn và kính chì
bảo vệ sẽ rất nguy hiểm.
Ngun lý của máy X quang đã gợi cho giáo sư vật lý người Pháp Henri Becquerel đi sâu nghiên
cứu về phóng xạ. Và sau này, ông cùng Marie Cuire (người Pháp gốc Ba Lan) và Joseph John
Hình ảnh chụ p X quang tay người đeo nhẫn, chụp bởi Röntgen
<b>Tia X hay quang tuyến X hay X quang hay tia Rưntgen là một </b>sóng điện từ có bước sóng
trong khoảng 10 nanơmét đến 100 picơmét (tức là tần số từ 30 PHz đến 3EHz).
Tia X có khả năng xuyên qua nhiều vật chất (như cơ thể người) nên thường được dùng trong
chụp ảnh y tế, nghiên cứu tinh thể. Tuy nhiên tia X có khả năng gây ion hóa hoặc các phản ứng
có thể nguy hiểm cho sức khỏe con người, do đó bước sóng, cường độ và thời gian chụp ảnh y tế
luôn được điều chỉnh cẩn thận để tránh tác hại cho sức khỏe. Tia X cũng được phát ra bởi các
thiên thể trong vũ trụ, do đó nhiều máy chụp ảnh trong thiên văn học cũng hoạt động trong phổ
tia X.
<b>[s ử a ] Sử dụng trong Y tế</b>
Từ khi Wilhelm Conrad Röntgen phát hiện ra tia X có thể chẩn đốn cấu trúcxương, tia X được
phát triển để sử dụng cho chụp hình y tế. Khoa tia X là một lĩnh vực chuyên biệt trong y tế sử
dụng ảnh tia X và các kĩ thuật khác để chẩn đốn hình ảnh.
Việc sử dụng tia X đặc biệt hữu dụng trong việc xác định bệnh lý về xương, nhưng có thể giúp
ích dò ra các bệnh tật về phần mềm. Một vài ví dụ đáng chú ý như là khảo sát ngực, có thể dùng
để chẩn đốn bệnh về phổi như là viêm phổi, ung thư phổi hay phù nề phổi, và khảo sát vùng
bụng, có thể dị ra sự tắc ruột (tắc ống thực quản), tràn khí (từ lủng nội tạng), tràn dịch (trong các
khoang bụng). Trong vài trường hợp, sử dụng tia X gây tranh cãi, như là sỏi mật (ít khi cản tia
X) hay sỏi thận (thường thấy nhưng không phải luôn luôn). Hơn nữa, các tư thế chụp tia X
truyền thống ít sử dụng trong việc họa hình các phần mềm như não hay cơ. Việc họa hình được
thay thế cho phần mềm bằng kĩ thuật chụp hình tính tốn quanh trục (computed axial
Ảnh chụp tia X một h ộ p s ọ người
Tia X còn được sử dụng trong kỹ thuật "thời gian thực", như là khám định thành mạch máu hay
nghiên cứu độ tương phản của lỗ hổng trong nội tạng (là chất lỏng cản quang trong các ống ruột
lớn hay nhỏ) sử dụng dụng cụ nhìn trang bị huỳnh quang. Các giải phẫu thành mạch máu, như
các sự can thiệp y tế của hệ thống động mạch, dựa chủ yếu vào các máy đo nhạy với tia X để
định vị các thương tổn tiềm tàng có thể chữa trị.