Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sang kien kinh nghiem TNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.76 KB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> Sáng kiến kinh nghiệm </b>


<i><b>Tên đề tài:</b></i>


<b>Làm và sử dụng đô dùng dạy học môn tự nhiên và </b>
<b>xã hội.</b>


<b>Người thực hiện : Ngô THị Phương Thanh.</b>


<i><b>Trường: Tiểu học Cát Linh - Đống Đa - Hà Nội </b></i>


<b>Hà Nội 2003 - 2004</b>


<b>Phần I: Lý do chọn đề tài</b>


*******************


Bậc học ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ
là bậc Tiểu học. Các em sẽ trở thành những công dân tốt
mang trong mình những phẩm chất tạo thành cốt lõi của một
nhân cách Việt Nam trong giai đoạn mới. Những phẩm chất
đó là: trí tuệ phát triển, ý chí cao, tình cảm đẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nào để có hiệu quả giáo dục cao. Những tri thức mà các em
thu nhận được sẽ gắn chặt trong kí ức, tâm trí và một số kiến
thức sẽ được hiện thực hoá trong cuộc sống thơ ngây và cả
cuộc đời của học sinh.


Trong nhiều năm qua ở các trường Tiểu học đã có nhiều
cố gắng đổi mới phương pháp dạy học. Một điều quan trọng
trong sự đổi mới đó là việc làm và sử dụng các phương tiện


dạy học để xoá bỏ tình trạng “thầy đọc, trò ghi” rồi “học
thuộc lịng, nói lại theo sách”. Vì vậy việc làm và sử dụng đồ
dùng dạy môn Tự nhiên và xã hội theo tôi thấy là rất cấp
thiết để góp phần thực hiện phương pháp dạy học chương
trình hố.


Xuất phát từ những lí do đó mà tơi chọn đề tài: “Làm và
sử dụng đồ dùng dạy học môn Tự nhiên và xã hội 5”.


<b>Phần 2: Cơ sở lí luận và thực tiễn giải quyết đề tài</b>


**************************


Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt
động của Giáo viên và của học sinh trong quá trình dạy học.
Quá trình đó được tiến hành dưới vai trị của giáo viên, sự
hoạt động nhận thức tích cực của học sinh – phải lấy học sinh
làm trung tâm. Cần phải khai thác tối đa những ưu điểm của
các phương pháp dạy học để học sinh phát huy tính tích cực
học tập một cách thông minh sáng tạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

trường tự nhiên và xã hội trực tiếp xung quanh. Các em còn
thiếu kiến thức trực tiếp về thế “giới thực”. Vì vậy cần tạo
điều kiện để các em trải nghiệm một cách trực tiếp hay gián
tiếp. Cả tư duy và tình cảm của các em đều mang tính cụ thể,
trực quan, giàu cảm xúc. Mặt khác ở giai đoạn này ghi nhớ
không chủ định còn giữ một vai trò quan trọng trong quá
trình nhận thức của các em. Đồng thời khả năng tập trung
chú ý của các em chưa cao. Vì vậy việc sử dụng đồ dùng dạy
học đã góp phần khơng nhỏ trong giờ dạy Tự nhiên và xã hội


ở trường Tiểu học.


Những đồ dùng truyền thống để dạy học bao gồm:
- Tranh ảnh phục vụ kiến thức bài học.


- Tranh ảnh, tư liệu sưu tầm của Giáo viên và học
sinh để minh hoạ cụ thể hơn nội dung của bài.


- Bản đồ, lược đồ.


- Sơ đồ trận đánh, chiến dịch.
- Mẫu vật có thật trong tự nhiên.


Hiện nay việc dạy học chương trình hố đã thực sự lấy
học sinh làm trung tâm. Các trường học đã được trang bị cơ
sở vật chất hiện đại nên cần phải cho học sinh được làm quen
với các đồ dùng dạy học sinh động thông qua các phương tiện
hiện đại như:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Thiết kế băng hình, đĩa phục vụ nội dung bài
dạy.


Sử dụng đồ dùng dạy học trong quá trình dạy học là con
đường kết hợp chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trìu tượng, phù
hợp với các đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. Nó cịn
tạo điều kiện tích cực trong quá trình học tập của học sinh.


<b>A/ sử dụng đồ dùng trực quan tạo biểu tượng trong</b>
<b>việc dạy môn lịc sử 5.</b>



************************


Bộ môn lịch sử trong trường Tiểu học là một bộ mơn góp
phần giáo dục tồn diện cho học sinh. Tuy nhiên trong học
sinh vẫn còn tồn tại tâm lí coi mơn lịch sử là mơn phụ, thụ
động, ít suy nghĩ. Cần sử dụng đồ dùng trực quan để tạo biểu
tượng, để giờ dạy không tẻ nhạt mà trở nên sinh động tạo
hứng thú trong học tập cho học sinh.


Do đặc điểm của việc nhận thức lịch sử là không thể trực
tiếp quan sát sự kiện, nhân vật trong quá khứ cho nên việc
tạo biểu tượng lịch sử là một yêu cầu rất quan trọng. Biểu
tượng lịch sử là hình ảnh chân thực về hiện thực trong quá
khứ bằng hoạt động của các giác quan: thị giác tạo nên hình
ảnh trực quan, thính giác đem lại những hình ảnh về q khứ
thơng qua lời giảng của giáo viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cụ thể, sinh động. Đồ dùng trực quan là chỗ dựa dễ hiểu sâu
sắc bản chất của sự kiện lịch sử, là phương tiện rất có hiệu
lực để hình thành các tri thức, các khái niệm lịch sử.


Năm 2004 này, cả nước ta tưng bừng kỉ niệm 50 năm
chiến thắng Điện Biên Phủ. Vì vây, bài học lịch sử:


<b> “Điện Biên Phủ – Pháo đài thực dân sụp</b>
<b>đổ”</b>


có tầm quan trọng và tính cập nhật cao. Để thực hiện
thành công giờ dạy này, trước hết giáo viên phải thiết kế một
bại học đầy đủ, cụ thể. Bản thiết kế phải mang nhiều tâm


sức, trí tuệ và thời gian vì “Muốn dạy học có kết quả, cần
thiết kế thành công”.


Hai yếu tố chủ yếu của bản thiết kế này là:


<b>1) Phương pháp dạy học: đảm bảo sự chủ động của</b>
học sinh.


- Hướng về học sinh, phát huy tính tích cực của các
em trong học tập ở các khâu (lên lớp, học ở nhà, kiểm tra,
bài tập, thực hành...)


- Khuyến khích học sinh nêu câu hỏi, thắc mắc, đặt
vấn đề để tự trả lời, cùng bạn học giải quyết dưới sự hướng
dẫn của thầy cô.


- Gợi ý một số vấn đề để học sinh có thể viết bài luận
nhỏ, trả lời câu hỏi, điền câu, sắp xếp đúng các sự kiện, địa
điểm, thời gian.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Ngoài các đồ dùng như:
- Bản đồ Việt Nam


- Tranh ảnh về chiến thắng Điện Biên Phủ do học
sinh sưu tầm.


Giáo viên cần phải có:


- Sơ đồ khu Mường Thanh phóng to có sử dụng mũi
tên màu sắc.



- Đĩa CD Room ghi lại hình ảnh tư liệu và lịch sử: bộ
đội kéo pháo, đào hầm, tấn công và đặc biệt là đoạn phim về
cuộc tổng cơng kích chiều ngày 7 tháng 5 năm 1954.


<b>Khi tiến hành giờ dạy cần chú ý:</b>


a) Phần kiểm tra bài cũ:


Sử dụng kíên thức đã học để tiếp thu kiến thức mới và
liên hệ với hiện tại.


b) Phần mở đầu giới thiệu bài phải gây được
khơng khí học tập, hứng thú với bài học cho học sinh.


c) Phần chủ yếu của bài học:
bao gồm:


- Phương pháp dạy học
- Những câu hỏi chính


- Những điều chủ yếu cần học


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

- Việc quản lí lớp của giáo viên


- Phân phối thời gian cho từng phần
- Hoạt động của học sinh


Qua tiết học tôi nhận thấy
<b>Thứ nhất</b>



- Trong vài phút đầu học sinh cho nhau quan sát
tìm hiểu tranh ảnh mình sưu tầm đã gây hứng thú và chuẩn
bị cho việc tiếp thu bài mới.


- Giáo viên treo bản đồ và đưa ra những câu hỏi
cho học sinh trả lời để thu hút sự chhú ý quan sát của các
em. Điều đó ln ln gợi cho các em suy nghĩ để giải quyết
vấn đề trung tâm của bài giảng.


<b>Thứ hai</b>


- Việc sử dụng các loại đồ dùng trực quan như sơ
đồ, đĩa CD Room phù hợp với bài dạy vừa nâng cao trình độ
về lịch sử và nghiệp vụ cho giáo viên vừa giúp cho học sinh
nắm được bài học một cách có hiệu quả nhất


- Tại sao Pháp và Mỹ gọi Điện Biên Phủ là “Pháo
đài không thể công phá”


- Thời gian và quy mô của chiến dịch.


- 56 ngày đêm (từ ngày 13 – 03 – 1954 đễn ngày
7 – 05 – 1954)


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

- Ta tấn công đợt hai  vòng vây sau đợt hai.
- Ta tấn công đợt ba  giành chiến thắng.


- Dùng các hình ảnh thực trong quá khứ để xây
dựng hình tượng anh hùng của:



Binh chủng pháo binh: Anh Tô Vĩnh Diện.
Binh chủng bộ binh: Anh Phan Đình Giót.


- Đặc biệt qua đoạn phim ngắn về cuộc tổng cơng
kích chiều ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã giúp cho học
sinh như được sống thực trong chiến thắng ở Điện Biên
Phủ năm xưa.


- Tiếng bộc phá, tiếng súng lớn cùng khói lửa mịt
mù báo hiệu giây phút thất bại của thực dân Pháp đã
tới.


- Tiếng cầu cứu của Đờ Cát với Cô - nhi qua bộ
đàm cho thấy sự thảm hại của khoa học kĩ thuật quân
sự đế quốc thực dân giàu mạnh trước sức mạnh dân
tộc Việt Nam kiên cường.


- Tiếng hò reo chiến thắng vang dội trên chiến
trường cùng với lá cờ đỏ sao vàng được các chiến sĩ
tung cao trên nóc hầm Đờ Cát và bộ tham mưu tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã khắc sâu trong tâm trí
của các em.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Việc sử dụng các loại đồ dùng trực quan tạo biểu tượng
như vậy không chỉ tiếp nhận kiến thức đã học, chuẩn bị để
tiếp thu các bài học tiếp theo. Dùng sơ đồ, phim ảnh học sinh
được quan sát kĩ hơn, cụ thể sinh động hơn, phát hiện và nêu
lên những quan điểm mới. Do đó học sinh có thể đề ra thắc
mắc, câu hỏi hay trả lời, giải đáp vấn đề liên quan được đặt


ra. Các loại đồ dùng trực quan này đã được trình bày kiến
thức thu nhận một cách phong phú, cụ thể sinh động hơn
hẳn.


<b>Thứ tư</b>


Sử dụng đồ dùng trực quan có thể kiểm tra, đánh giá việc
học tập của học sinh. Đây là phương thức tốt nhất để giáo
viên kiểm tra trí nhớ của các em về những kiến thức cần thiết
của bài học.


<b>Thứ năm</b>


Trong khi sử dụng các đồ dùng trực quan, giáo viên đã
giúp cho học sinh rèn luyện kĩ năng thực hành. Học sinh tự
miêu tả, tường thuật, giải thích các sự kiện lịch sử. Các em có
điều kiện để thử thách năng lực của mình trong các tình
huống khác nhau. Giáo viên đã tạo điều kiện và cơ hội để các
em khám phá và thử thách năng lực của mình, phát triển kĩ
năng ngơn ngữ nói một cách trực tiếp.


<b>Cuối cùng</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10></div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>b/ sử dụng đồ dùng trực quan tạo biểu tượng trong</b>
<b>việc dạy môn khoa học 5</b>


************************


Khoa học là một môn học thực hành. Những hiểu biết mà
các em nhận thức được là thực tế đang xảy ra ở xung quanh


các em là những điều mà các em có thể áp dụng ngay vào
bản thân mình, vào những người xung quanh và môi trường
thiên nhiên. Học sinh trường tiểu học Cát Linh của chúng ta
sống ở thành phố nên ít có điều kiện tiếp xúc với thiên nhiên
đa dạng ở các vùng, ít có các cơ hội quan sát trực tiếp hoạt
động sống của các loài vật quanh ta.


Phần lớn ở chương ttrình Khoa học 5 kỳ hai là nghiên cứu
về sự sinh sản của thực vật và động vật trong đó có bài


<b>"Sự sinh sản và nuôi con của chim"</b>


Với nội dung bài ngắn gọn và phần minh hoạ chỉ có một
bức tranh "Mớm mồi cho chim con". Vì vậy trong quá trình
giảng dạy của thầy cơ và tiếp thu của học sinh cịn có nhiều
hạn chế. Từ thực trạng đó tơi đã suy nghĩ, tìm cách tạo ra đồ
dùng dạy học để khai thác được nọi dung bài học một cách
đầy đủ, sâu sắc và sinh động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

em vào bài học. Từ đó các em tự rút ra những kiến thức sâu
sắc, mở rộng sự hiểu biết của mình.


Để làm được đĩa CD Room này tôi đã sử dụng tư liệu lấy
được từ mạng Internet, các chương trình thế giới động vật ở
truyền hình cáp và trnh ảnh sưu tầm.


Chương trình là một dạng phim video. Để tạo chương
trình này, tôi đã sử dụng chương trình chính là Adobe
Premiere (chương trình biên tâp phim). Hỗ trợ thêm cịn có
chương trình Adobe Photoshop (xử lí ảnh) và một số chương


trình Video converting, Adobe Aftereffect (hiệu ứng cho
phim), Nero Burning Rom (ghi đĩa), Xara Webstyle (tạo chữ
nổi).


Đĩa gồm 6 phần:


Phần 1: giới thiệu đề mục và tên bài.
Phần 2: Đời sống của chim.


Phần 3: Đặc điểm sinh sản của chim.


Phần 4: sự phát triển của trứng nở thành chim con.


Phần 5: Sự ni dưỡng chăm sóc của chim bố mẹ với
chim con.


Phần 6: Phần tham khảo về sự muôn màu muôn vẻ của
thế giới các loài chim.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

1) Bằng các hình ảnh trực quan, khoa học, chính xác học
sinh hiểu nội dung bài một cách dễ dàng và rút ra được kiến
thức một cachs sâu sắc.


2) Qua từng đoạn phim ngắn, nhất là đoạn trứng phát
triển nở thành chim con, học sinh được tận mắt thấy một quá
trình sinh sản đầy đủ, sâu sắc, sống động chỉ trong thời gian
ngắn (2 phút). Qua đó học sinh giải đáp được vấn đề mà giáo
viên đã nêu:


- Con chim non trong trứng làm sao ra được khỏi vỏ


trứng?


- Nó phá vỏ hay mẹ nó giúp?


3) Học sinh có cơ hội tranh luận cùng bạn học, được giải
đáp và tìm hiểu về:


- Mục đích làm tổ, nguyên vật liệu mà chim sử dụng để
làm tổ, làm tổ rất công phu, tổ làm sơ sài, lồi chim cá biệt
khơng biết làm tổ.


- Đặc điểm chim non mới nở:


+ còn rất yếu ớt, nhiều phần cơ thể cịn chưa có
lơng, chưa có lơng cánh, chưa đi lại được (bồ câu, sẻ, ri..)


+ Chim non có bộ lơng tơ khắp mình, khơ ngay sau
khi nở và đi lại được (gà, vịt, ngan, ngỗng…)


- Sự nuôi con của chim được thể hiện bằng hành động cụ
thể nào?


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

- Những điều có hại và những điều có lợi mà các loài chim
mang lại cho đời sống sản xuất của con người.


4) Qua bài học còn giáo dục tư tưởng, nhân cách cho học
sinh. Các em biết yêu q thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên
(khơng bắt và phá tổ chim), học tập ở chim có hình dáng đẹp,
tính tình hiền hồ khơng gây hại cho đồng loại và con người,
là biểu tượng cho hồ bình.



- Chim bồ câu - chim hồ bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>c/ Sử dụng đồ dùng trực quan phục vụ nọi dung dạy</b>
<b>học môn địa lí 5</b>


***********************


Địa lí cũng là mơn khoa học thực hành. Bên cạnh những
đồ dùng đặc trưng của bộ môn như: Bản đồ, lược đồ, tranh
ảnh, mơ hình, quả địa cầu…giáo viên có thể sử dụng một số
đồ dùng khác như biểu đồ, thống kê, máy ảnh số, tivi để khai
thác và phục vụ nội dung bài học.


Đối tượng học sinh tiểu học còn rất nhỏ tuổi nên điều kiện
để đi xa khỏi nơi mình sống cịn rất hạn chế. Vì vậy vốn hiểu
biết về mơn Địa lí chưa có là bao nhiêu.


Phần địa lí dân cư Việt Nam lớp 5 kì I gồm hai bài trong
đó có bài:


<b> "Các dân tộc Việt Nam. Sự phân bố dân cư"</b>


Bài học cho các em được làm quen với một số khái niệm
về dân số, mật độ dân số, dân cư, dân tộc, một số biểu mẫu
thống kê, biểu đồ. Để giúp học sinh nắm bắt được từng đơn vị
tri thức nhỏ, kkhắc sâu kiến thức của bài, tơi đã chuẩn thêm
những đồ dùng sau:


- Hình ảnh các dân tộc ít người mà học sinh chưa được


quan sát ở lớp bốn (khi học bài "các dân tộc mìên núi phía
Bắc") có gắn liền với nhà cửa, nơi sống và xen kẽ một số
đoạn phim ngắn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

- Bảng thống kê tên và số lượng người của 54 dân tộc
nước ta.


Để làm được các đồ dùng này tôi đã:


- Sưu tầm tranh ảnh về các dân tộc tại Viện bảo tàng dân
tộc học.


- Tìm hiểu các số liệu thống kê mới nhất để đảm bảo cập
nhật thông tin.


- Sưu tầm một số đoạn phim ngắn về nơi sinh sống, cảnh
lao động sản xuất, sinh hoạt văn hoá của các dân tộc.


Sử dụng tính năng quay phim, phát hình của máy ảnh số
cắm ttrực tiếp qua tivi cho học sinh quan sát.


<b>Sau giờ dạy , tôi nhận thấy một số điều sau:</b>


1) Đồ dùng trực quan đã giúp học sinh tự đi được trên
con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Các
em có thể tự rút ra được kết luận hoặc giải thích được những
vấn đề mà giáo viên và chính bản thân các em nêu ra:


- Việt Nam là nước có ít hay nhiều dân tộc?



- Người dân tộc nào có số lượng đơng nhất và thường
sống ở đâu?


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

- Từ đỉnh Hà Giang tới mũi Cà Mau có người dân tộc nào
sinh sống nhiều ở địa phương đó?


2) Trong một thời gian ngắn các em có thể quan sát và
nhớ lâu được nhiều hình ảnh mà thao tác sử dụng tranh khó
có thể có hiệu quả cao như vậy. Các em như được đi du lịch
qua màn ảnh nhỏ. Giáo viên có thể dừng hình để mở rộng
thêm kiến thức về dân tộc và chuyển ý sang phần Sự phân bố
dân cư, kế hoạch điều chỉnh dân cư của nước ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>Phần 3: bài học kinh nghiệm</b>


*****************


Từ lâu nay, việc khuyến khích làm đồ dùng và sử dụng đồ
dùng dạy học đã được ngành giáo dục và các trường học rất
quan tâm vì đây chính là cơ sởđể tạo được sự thành công
trong các tiết dạy. Hiệu quả của việc nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện cho học sinh được tăng cường. Khẩu hiệu
"Học đi đôi với hành" khơng cịn là hình thức, sáo rỗng.


Để đáp ứng nhu cầu về đổi mới phương pháp dạy và học
hướng tập trung vào học sinh, hướng tập trung vào đứa trẻ,
trên cơ sở hoạt động của đứa trẻ, người giáo viên phải suy
nghĩ, lựa chọn những tài liệu trực quan cho từng bài dạy sao
cho phù hợp. Hơn nữa hiện nay các trường tiểu học ở Hà Nội
đã có điều kiện trang bị các thiết bị nghe nhìn hiện đại. Học


sinh của chúng ta thơng minh hơn và có sự phát triển tâm lí
tốt hơn học sinh Tiểu học cách đây 10 năm về trước. Các em
có nhu cầu trực quan cao hơn. Tranh vẽ tĩnh, màu sắc chưa
thực sự sát hợp, những sơ đồ trận đánh, chiến dịc đơn giản
chưa lôi cuốn được các em, chưa tạo ra được sự say mê trong
học tập của các môn học vẫn được coi là "phụ "này. Thiết kế
các bài học có sử dụng mơ hình, sơ đồ sinh động, máy ảnh
số, đĩa CD ROOM có tác dụng thiết thực như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

- Giúp học sinh nắm bài một cách hiệu quả, trình bày các
kiến thức đã thu nhận một cách phong phú, cụ thể, sinh động
hơn trong thời gian ngắn hơn. Như vậy giành được nhiều thời
gian hơn để học sinh phát hiện, giải thích các tri thức nhỏ
trong bài, liên hệ vầ áp dụng vào thực tế đời sống.


- Rèn kĩ năng thựchành cho học sinh như việc sưu tầm
tranh ảnh, trìng bày, miêu tả, tường thuật, giải thích sự kiện
lịch sử, hiện tượng tự nhiên (địa hình, khí hậu, thời tiết, động
thực vật…)


- Kiểm tra ttrí nhớ cần thiết của các mơn học. Sự kiểm tra
có sử dụng đồ dùng trực quan tạo biểu tượng kkhông dừng lại
ở việc xem học sinh có học thuộc, có nhớ hay khơng mà cịn
xem các em đã nhớ, đã biết để hiểu như thế nào?


- Làm quen, biết cách sử dụng các phương tiện trực quan
hiện đại ở trường và áp dụng được ở nhà theo kịp bước phát
triển chung của khoa học kĩ thuật.


- Trong giờ học, đồ dùng trực quan không phải mang


nhiều cồng kềnh. Giáo viên giảng được nhiều các thao tác.
Việc dạy nhẹ nhàng, giờ học có khơng khí vui hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Phần IV: Kết luận</b>


***************


Phần nội dung đề tài đã nêu lên những cơng việc, những
biện pháp chính mà tơi đã cố gắng thực hiện trong quá trình
dạy học từ đầu năm đến nay.


<b>Kết quả từ phía học sinh cho thấy:</b>


- Bài kiểm tra chất lượng đầu năm còn chưa cao. Số điểm
9, 10 chưa nhiều, nhất là ở lớp 5B và 5C.


- Số điểm hàng tháng giữa học kì I có tiến bộ hơn, đặc
biệt là lớp 5E và 5C.


- Bài kiểm tra cuối học kì I:


+ Cả 3 lớp đạt 100% số điểm trên trung bình.
+ Điểm 5, 6 chỉ còn số lượng nhỏ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Trên đây là những suy nghĩ và việc làm của tôi về: "Làm
và sử dụng đồ dùng dạy học môn Tự nhiên và xã hội 5".


Tuổi thơ và mái ttrường đầu tiên sẽ là kỉ niệm đẹp trong
đời của mỗi học sinh. Làm sao mà các em thấy được "Đi học
là hạnh phúc" "Mỗi ngày đi học là một ngày vui". Đó là mong


muốn khơng phải chỉ riêng học sinh mà là cả của những
người làm công tác giáo dục như tôi. Mỗi việc làm bé nhỏ sẽ
góp phần vào thành tích chung của nhà trường. Trường Tiểu
học Cát Linh sẽ trở thành ttrường tiên tiến xuất sắc của quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội.


Tôi xin chân thành mong được Bán Giám Hiệu và các bạn
đồng nghiệp nhiệt tình góp ý, bổ sung thêm để công tác
giảng dạy của tơi ngày một tốt hơn, góp phần vào thành tích
chung của nhà trường.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×