ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
Lê Thị Bé Nhung
Lớp cao học ngành Cơng tác xã hội Khóa 8
Mã số học viên: 19876010113
BÀI THU HOẠCH SỐ 3
MÔN TRIẾT HỌC
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Thùy Duyên
Thành phố Bến Tre – tháng 10 năm 2020
Câu hỏi: Vận dụng nguyên tắc khách quan để trả lời câu hỏi sau: “ Có nên sinh sản vơ
tính ở người hay khơng?”
Nội dung trình bày
I. Ngun tắc khách quan trong quan điểm duy vật biện chứng
1. Quan điểm duy vật biện chứng
2. Nguyên tắc khách quan
II. Sinh sản vơ tính ở người
1. Khái niệm sinh sản vơ tính
2. Sinh sản vơ tính ở người
III. Vận dụng ngun tắc khách quan để trả lời câu hỏi sau: “ Có nên sinh sản
vơ tính ở người hay khơng”?
Tài liệu tham khảo
Theo quan điểm của nhà triết học Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại trong lệ thuộc vào cảm giác”. Còn chủ nghĩa
duy vật biện chứng cũng khẳng định: Ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát
triển tự nhiên và lịch sử – xã hội. Vì vậy, để hiểu được nguồn gốc và bản chất của ý thức cần
phải xem xét trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội cùng với nguyên tắc khách quan với sự vật,
hiện tượng trong cuộc sống. Sau đây, tơi xin trình bày ngun tắc khách quan, Vận dụng
ngun tắc khách quan để trả lời câu hỏi sau: “ Có nên sinh sản vơ tính ở người hay khơng”?
I. Nguyên tắc khách quan trong quan điểm duy vật biện chứng
1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng hay còn gọi là phương pháp duy vật biện chứng là một bộ
phận của học thuyết triết học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do hai nhà triết gia Karl
Marx và Friedrich Engels đề xướng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi một sự vật hay một hiện
tượng trong trạng thái luôn phát triển đồng thời xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và
hiện tượng khác. Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, trọng tâm là chủ nghĩa duy vật kết hợp
với phép biện chứng.
Phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel và lý luận về chủ nghĩa duy
vật của Ludwig Andreas von Feuerbach được Marx kế thừa tư tưởng và phát triển nên phương
pháp luận này. Các nhà triết học Marx-Lenin nhận định rằng phương pháp duy vật biện chứng
chính là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của họ.
a. Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được xem là một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất nguyên. Chủ
nghĩa duy vật cho rằng vật chất là chất cơ bản trong tự nhiên, trong đó tất cả mọi thứ, bao gồm
cả trạng thái tinh thần và ý thức, là kết quả của sự tương tác vật chất. Theo chủ nghĩa duy vật
triết học, tâm trí và ý thức là sản phẩm phụ của các quá trình vật chất (như sinh hóa của não
người và hệ thần kinh), mà khơng có chúng thì tâm trí và ý thức khơng tồn tại. Khái niệm này
tương phản trực tiếp với chủ nghĩa duy tâm, trong đó tâm trí và ý thức là những thực tại bậc nhất
mà vấn đề là chủ thể và tương tác vật chất là thứ yếu.
Chủ nghĩa duy vật có liên quan chặt chẽ với chủ nghĩa duy vật lý, với quan điểm rằng tất
cả những gì tồn tại cuối cùng là vật chất. Chủ nghĩa vật lý triết học đã phát triển từ chủ nghĩa
duy vật với các lý thuyết về khoa học vật lý để kết hợp các quan niệm phức tạp hơn về vật chất
so với vật chất thơng thường (ví dụ như khơng thời gian, năng lượng và lực lượng vật chất và vật
chất tối). Do đó, thuật ngữ vật lý được ưa thích hơn chủ nghĩa duy vật bởi một số người, trong
khi những người khác sử dụng các thuật ngữ này như thể chúng đồng nghĩa.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này,
vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức
khơng hồn tồn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thơng qua hoạt động thực tiễn
của con người. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con
người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật
chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự
1
nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trị của ý thức là nói đến
vai trị của con người. Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.
b. Phép biện chứng
Phép biện chứng (hay phương pháp biện chứng, phép biện chứng) là một phương pháp
luận, đây là phương pháp tồn tại ở cả nền triết học phương Đông và phương Tây trong thời cổ
đại. Từ biện chứng ("dialectic") có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ, và trở nên phổ biến qua
những cuộc đối thoại kiểu Socrates của Plato. Biện chứng có nền tảng từ những cuộc đối thoại
giữa hai hay nhiều người với những ý kiến, tư tưởng khác nhau và cùng mong muốn thuyết phục
người khác. Phương pháp này khác với hùng biện, trong đó một bài diễn thuyết tương đối dài do
một người đưa ra - một phương pháp được những người ngụy biện ủng hộ. Nhiều dạng khác
nhau của biện chứng nổi lên ở phương Đông và phương Tây theo những thời kỳ lịch sử khác
nhau như trường phái Socrates, đạo Hindu, đạo Phật, biện chứng Trung cổ, trường
phái Hegel và chủ nghĩa Marx.
2. Quan điểm khách quan
a. Chủ nghĩa khách quan
Trong triết học, chủ nghĩa khách quan là một triết lý của nhà triết gia và văn hào người
Mỹ gốc Nga Ayn Rand (1905-1982). Theo chủ nghĩa khách quan, thực tế hiện hữu độc lập với
sự ý thức của con người. Nội hàm xoay quanh các luận điểm gồm: thứ nhất là con người có thể
hiểu được khách quan qua tri giác bằng phương pháp cấu tạo khái niệm và luận lý quy nạp và
luận lý suy diễn. Thứ 2 là nguyên tắc đạo đức chính của con người là đi tìm hạnh phúc hoặc tư
lợi hữu lý cho chính mình. Thứ 3 là hệ thống xã hội duy nhất phù hợp với căn bản đạo đức đó là
sự tơn trọng quyền lợi cá nhân thực hiện qua chủ nghĩa tư bản "laissez-faire". Thứ tư là vai trò
của nghệ thuật trong đời sống là để chuyển biến từ những tư tưởng siêu hình sang một vật dạng
hữu hình (một sản phẩm nghệ thuật) mà người nghệ sĩ có thể hiểu được và xúc cảm.
Khái niệm "Khách quan" bắt nguồn từ ý niệm rằng kiến thức và giá trị của con người là
khách quan. Bởi vì, chúng khơng phải tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người mà là bởi bản
chất của thực tế, được nhận thức bởi trí óc của con người. “ Khách quan” cũng để diễn tả triết lý
dựa trên sự hiện hữu (chủ nghĩa hiện sinh) đã được dùng trong triết học.
b. Vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực tiễn
Khách quan là nhìn nhận sự vật, sự việc 1 cách thật tế và khơng thiên vị bất kỳ gì cả, như
vậy sẽ không ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng của bạn hoặc một ai đó và sẽ cho ra 1 quyết
định thật sáng suốt. Khách quan là những sự vật, sự việc diễn ra ngoài ý muốn của bạn. Khách
quan là sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng không phụ thuộc con người. Nhận
thức phải tôn trọng đến thực tế, nếu không tôn trọng thực tế thì khách quan sẽ mất đi. Khách
quan địi hỏi việc nhận thức của con người phải dựa vào thực tế khách quan (tức là luôn tôn
trọng sự thật không thể nhận định sai sự thật).
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi việc nhận thức phải dựa vào những cơ sở thực tế khách
quan, xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ những thuộc tính và mối liên hệ vốn có của nó,
2
từ những quy luật vận động và phát triển của bản thân nó; khơng thể dựa vào ý muốn chủ quan
hoặc lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, đồng thời không được cắt xén, không được gán ghép
cho sự vật, hiện tượng những gì mà chúng vốn khơng có. Trong Bút ký triết học, V.I.Lênin chỉ ra
rằng, "tính khách quan của sự xem xét (khơng phải thí dụ, khơng phải dài dịng, mà bản thân sự
vật tự nó)".
Nắm vững và vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan sẽ góp phần thiết thực trong
việc xây dựng năng lực tư duy biện chứng cho người học. Việc quán triệt nguyên tắc này giúp họ
thấy được rằng, phải quan sát các sự vật và hiện tượng trong thực tế hoặc phải tiến hành các thí
nghiệm khoa học để có được những tư liệu cần thiết nhằm rút ra tri thức khoa học đúng đắn.
Những kết quả nghiên cứu phải được kiểm tra, đối chiếu, so sánh và đánh giá có phù hợp với
hiện thực khách quan hay khơng. Nắm vững nguyên tắc khách quan giúp người học hiểu được
sự cần thiết phải quan sát thực tế một cách tỉ mỉ, chính xác; phải xuất phát từ bản thân đối tượng,
phải xem xét đối tượng đúng như nó vốn có trong thực tế.
II. Sinh sản vơ tính ở người
1. Khái niệm sinh sản vơ tính
Sinh sản vơ tính là hình thức sinh sản mà thế hệ con được sinh ra từ một cơ thể mẹ duy
nhất, và thừa hưởng các gen chỉ từ cơ thể mẹ đó. Hình thức sinh sản này gần như không liên
quan đến số bộ nhiễm sắc thể hay sự giảm phân. Thế hệ con sẽ là bản sao di truyền chính xác
của cơ thể mẹ. Đây là một dạng sinh sản mà không cần sự hợp nhất của giao tử đực và giao tử
cái. Sinh sản vơ tính là hình thức sinh sản chính của các sinh vật đơn bào chẳng hạn như vi
khuẩn cổ, vi khuẩn, và sinh vật nguyên sinh. Nhiều loại thực vật và nấm cũng thuộc dạng sinh
sản vơ tính.
Sự thành cơng của sinh sản vơ tính ở động vật bậc cao được chính thức đánh dấu vào
ngày 23/2/1996, các nhà khoa học thuộc Viện Roslin, Scotland thông báo thành công trong việc
cho sinh sản vơ tính cừu Dolly. Cừu Dolly đã đi vào lịch sử y học với tư cách là động vật hữu
nhũ đầu tiên trên thế giới ra đời bằng từ cơng nghệ sinh sản vơ tính ( nhân bản vơ tính). Việc tạo
ra cừu Dolly được thực hiện bằng công nghệ gọi là "chuyển giao nhân tế bào thân thể". Sau sự
thành công này, các nhà khoa học tiếp tục nhân bản thành cơng hàng chục lồi động vật khác,
như bò, dê, heo, ngựa, hươu, la, chuột, mèo, chó, và cả những lồi động vật hiếm và đang bị đe
dọa tuyệt chủng, như bò hoang Java, mèo hoang châu Phi...
2. Sinh sản vơ tính ở người
Với thành công từ việc nhân bản cừu Dolly, các nhà khoa học tập trung vào lĩnh vực nhân
bản động vật, nhưng đặc biệt vẫn quan tâm đến vấn đề sinh sản vơ tính ở con người. Khơng ít
nhà khoa học cho rằng nhân bản người là một việc làm trái đạo đức. Theo quan điểm của họ,
một phơi vơ tính là một mầm sống tiềm tàng của con người, nên việc phá hủy một mầm sống
như thế là sai trái. Các nhà khoa học cho rằng việc tạo ra phôi vô tính là một vấn đề rất khó chấp
nhận về mặt đạo đức. Nhân bản vơ tính con người là thử nghiệm bị cấm trên tồn thế giới,
nhưng điều đó khơng đồng nghĩa với việc nó khơng thể xuất hiện trong tương lai. Vào năm
2005, Liên hiệp quốc đã chính thức ra Bản tuyên bố về vấn đề này, với nội dung chính là cấm
mọi hình thức nhân bản vơ tính con người, bởi “chúng gây biến đổi bản chất, đồng thời gây
nguy hại đến sự tồn tại của loài người”.
3
Vì vậy, cho tới ngày nay, người nhân bản vơ tính vẫn chưa xuất hiện. Nhưng vào năm
2008, các nhà khoa học đã lần đầu tiên thành công trong việc nhân bản 5 phôi thai người trưởng
thành đầu tiên bằng cách sử dụng công nghệ cấy truyền nhân tế sinh dưỡng. Các phôi thai này
chỉ được phép phát triển tới giai đoạn túi phôi. Chúng sẽ được nghiên cứu kỹ lưỡng, sau đó các
phơi bào này sẽ bị hủy bỏ. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta hoàn toàn có khả năng biến
chuyện này thành sự thực - nhân bản vơ tính ở người. Nếu các vấn đề về đạo đức được đồng
thuận, nếu công nghệ nhân bản người thực sự được đưa vào thực tiễn, thì đây là các kịch bản
xấu nhất mà chúng ta có thể hình dung ra.
III. Vận dụng nguyên tắc khách quan để trả lời câu hỏi sau: “ Có nên sinh sản vơ tính ở
người hay khơng”?
Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất sinh ra ý thức, ý thức là chức năng của óc con
người – dạng vật chất có tổ chức cao nhất của thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào óc con người. Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức. Ý thức được
quyết định bởi vật chất, ý thức là sự phản ánh vật chất, cho nên trong nhận thức phải bảo đảm
nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Ý thức có tính độc lập
tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người, cho nên cần phải phát
huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật
khách quan và vận dụng chung trong hoạt động thực tiễn của con người.
Nếu như sinh sản hữu tính ở người là một hình thức sinh sản tuân theo nguyên tắc khách
quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ngược lại, sinh sản vơ tình một hình thức sinh sản đi
ngược lại với quy luật khách quan. Chính vì thế, rất nhiều cá thể động vật được ra đời bằng
phương pháp nhân bản vơ tính, tuy nhiên, đa số đều là thất bại. Các cá thể động vật nhân bản có
thể sống khi sau khi ra đời nhưng chúng cũng chết nhanh chóng ngay sau đó. Năm 2009, các
chuyên gia đã tiến hành nhân bản một con sơn dương Pyrenea. Trứng lấy từ một con dê thuần
chủng. Sau khi sinh, sơn dương Pyrenea con đã thở hổn hển và chết sau đó 7 phút. Nhiều thí
nghiệm nhân bản cũng đã kết thúc theo cách này. Thực tế, trong số tất cả các dự án nhân bản
động vật, số lượng thành công chiếm chưa đầy 3%. Các nhà khoa học thừa nhận rằng gần như
lần nhân bản nào, sản phẩm cũng gặp các vấn đề về gen. Động vật được nhân bản thường mắc
những chứng bệnh nghiêm trọng như chậm phát triển, suy yếu hệ thống miễn dịch, bệnh về tim
và phổi. Ví dụ, có một số con chuột nhân bản đang khỏe mạnh, đột nhiên béo ra rất nhanh, thậm
chí phát phì, mặc dù khẩu phần của chúng giống như chuột thường. Bò nhân bản thường có tim,
phổi to và hoạt động khơng tốt. Ngay cả con cừu Dolly nổi tiếng, bề ngồi thì có vẻ khoẻ mạnh,
nhưng đã béo ra nhiều. Người ta vừa phải cách ly nó khỏi những con cừu khác để cho Dolly ăn
kiêng. Việc không tôn trọng quy luật khách quan trong chủ nghĩa duy vật biện chứng dẫn đến kết
quả quả xấu, các sinh vật được nhân bản khơng có sự sống kéo dài, sức khỏe khơng tốt thậm chí
chết ngay khi vừa được sinh ra.
Nhân bản vơ tính có thể đã gây ra nhiều sai sót trong gen, đưa đến những vấn đề nghiêm
trọng không thể biết trước của kiểu hình. Theo các nhà khoa học, giai đoạn trứng tái lập trình
gen q ngắn có thể chính là nguồn gốc của mọi rủi ro. Trứng phải làm nhiệm vụ này trong một
khoảng thời gian tính theo phút, giờ, trong khi thơng thường q trình đó phải mất nhiều tháng,
thậm chí là một năm và phải được thực hiện hồn hảo, nếu khơng gen có thể bị sai sót bất kỳ lúc
nào. ADN của động vật có thể bị hỏng, dẫn đến biến đổi gen, làm động vật chết ngay trong quá
4
trình bào thai hoặc sau khi sinh, nếu khơng chết thì cũng mắc các bệnh nguy hiểm về sau này.
Cho đến nay, nguyên nhân gây ra các khiếm khuyết ở các con vật nhân bản vơ tính vẫn chỉ được
các nhà di truyền học phỏng đoán. Bà Sybille Klenzendorf, chuyên gia của WWF cho rằng:
"Môi trường sống của động vật mới thực sự là điều quan trọng và chúng ta không thể nhân bản
được. Liệu sử dụng nhân bản vô tính động vật có hiệu quả khơng, nếu chúng ta khơng có nhiều
khơng gian cho các lồi động vật sinh sống?". Tất nhiên, các nhà nghiên cứu cũng đã nghĩ đến
việc nhân bản con người. Mặc dù khơng nói đến việc bị đả kích nặng nề về mặt đạo đức, nhân
bản người nhìn chung khơng khả thi do các khó khăn về mặt kỹ thuật. Một số nhà khoa học đã
"rùng mình" khi nghĩ đến những gì có thể xảy ra khi tiến hành nhân bản người bằng các công
nghệ như hiện nay.
Con người là một loài động vật bậc cao. Theo cơ chế tự nhiên, con người được sinh ra
bằng phương pháp hữu tính, có nghĩa là có sự kết hợp của giao tử đực ( tinh trùng) và giao tử cái
( trứng). Sinh sản vơ tính là đi ngược lại với quy luật tự nhiên sinh lão bệnh tử, một quy luật
khách quan của thực tiễn. Con người được cấu tạo từ những vật chất nhỏ nhất, đơn vị cơ bản
cấu tạo nên cơ thể sống là tế bào. Chính điều này tạo ra sự đa dạng sinh học cho thế giới vật chất
trong sinh giới. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, nhân bản các bộ phận của cơ thể người, phục
vụ công tác cấy ghép nội tạng, chữa bệnh cho người là một việc làm nhân văn cần thiết cho con
người.
Nhân bản vơ tính tạo ra những dạng vật chất (con người) giống nhau hoàn toàn về đặc
điểm di truyền đến hình dạng bên ngồi là một vấn nạn lớn cho xã hội. Đặc biệt trong cơng tác
điều tra tội phạm, điều gì sẽ xảy ra nếu nhiều người giống nhau và không thể phân biệt được một
người phạm tội trong số đó. Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát
từ thực tế khách quan và tôn trọng khách quan. Đồng thời, phát huy tình năng động sáng tạo của
những nhân tố khách quan. Sinh sản vơ tính ở người là một việc làm đi ngược với quy luật
khách quan của thực tiễn. Vì vậy, con người cần ngăn chặn, khơng thực hiện sinh sản vơ tính ở
người là một biểu hiện của tôn trọng khách quan, tôn trọng các giá trị đạo đức của con người.
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và
Nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Phạm Ngọc Dũng, Mối quan hệ giữa chức năng xã hội - chính trị và chức năng xã hội dân sự trong việc kiện toàn nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Triết học số 7 (170), Tháng 7 – 2005.
3. Nguyễn Ngọc Hà (2016), “Quan điểm biện chứng về chất và lượng”, Khoa học xã hội
Việt Nam, số 8.
4. Trần Việt Quang, Vai trò của các ngun tắc, phạm trù lơgíc biện chứng đối với việc rèn
luyện năng lực tư duy biện chứng, Tạp chí Triết học, số 12(187), tháng 12 – 2006.
5. . V.I.Lênin: Toàn tập, t.18, Nxb. Tiến bộ, M., 1980, tr.151).
6. />7. />8. />