Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.29 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Không gian nhân tính trong truyện ngắn
<i><b>Chí phÌo” </b><b>(1) </b><b>cđa Nam Cao</b></i>
Là nhà văn hiện thực bậc thầy, là nhà nhân đạo chủ nghĩa xuất sắc của văn học
Việt Nam, Nam Cao đã có những cách tân và sáng tạo độc đáo trong sáng tác của
mình. ý thức cao độ về vai trò của ngời cầm bút trong đời sống tinh thần của xã hội,
Nam Cao luôn yêu cầu văn chơng phải “biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
cha ai khơi, và sáng tạo cái gì cha có” (Đời thừa). Trong suốt cuộc đời cầm bút của
mình, Nam Cao đã ráo riết thực hiện tâm niệm đó.
Sáng tác của Nam Cao cho tới nay đã đợc nghiên cứu bởi nhiều cơng trình khoa
học nghiêm túc. Các cơng trình nghiên cứu ấy một mặt đã đề cập đến những vấn đề
lớn trong sáng tác của nhà văn nh chủ nghĩa thực hiện, t tởng và phong cách, đề tài, kết
cấu, giọng điệu, không gian và thời gian nghệ thuật v.v… và trong thời gian gần đây,
chúng ta lại có dịp tìm hiểu Nam Cao sâu sắc hơn, mới mẻ hơn từ góc độ thi pháp học,
văn bản học. Mặt khác vẫn có cha nhiều những nghiên cứu về những tác phẩm cụ thể
của Nam Cao, đặc biệt là những tác phẩm đợc giảng dạy trong nhà trờng.
Trong bài viết này, chúng tôi tiếp thu hớng nghiên cứu đã nêu trên và tập trung đi
sâu tìm hiểu khơng gian nhân tính trong truyện ngắn “Chí Phèo”, để qua đó, một lần
nữa, cùng tìm hiểu những gì Nam Cao đã “đào sâu”, “tìm tịi”, cùng cảm nhận tâm
hồn nhân đạo sâu sắc của ngòi bút hiện thực bậc thầy này.
Theo định nghĩa của “Từ điển thuật ngữ văn học”(2), khơng gian nghệ thuật là
“hình thức bên trong của hình tợng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”, “có
tác dụng mơ hình hố các mối quan hệ của bức tranh thế giới nh thời gian, xã hội,
đạo đức, tôn ti trật tự”. Không gian nghệ thuật “cho thấy quan niệm về thế giới, chiều
sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học”. Nhà nghiên cứu văn học
Trần Đăng Xuyền cho rằng: không gian nghệ thuật gắn chặt với “cảm quan về con
ng-ời và cuộc đng-ời, gắn bó với mơ ớc và lý tởng của nhà văn”(3).
Chí đã dần trợt dài, không thể cứu vãn đợc trên con đờng từ một kẻ lu mạnh thành
một con quỷ dữ “Phá tan bao cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao hạnh
phúc, làm chảy máu và nớc mặt của bao nhiêu ngời lơng thiện”. Trong môi trờng sống
phi nhân tính, dù đã đơi lần cố gắng vùng lên địi làm ngời lơng thiện, nhng lần nào
Chí Phèo cũng thất bại. “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn
qua”. Chí Phèo đã bị vật hố tới mức khơng cịn ý thức đợc về thời gian của đời mình,
ngời làng loại hắn ra khỏi cộng đồng “ngay cả đến cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng
khơng có, trong sổ làng ngời ta vẫn khai hắn vào hạng dân lu tán, lâu năm khơng về
làng”. Nếu Thứ trong “Sống mịn” “Chết mà cha sống” thì Chí Phèo cũng bị chơn
sống bởi môi trờng sống vô nhân đạo ngay khi hắn cịn sờ sờ ra đấy. Chúng ta càng
thấm thía hơn điều Nam Cao mong muốn, phải “cố tìm mà hiểu” con ngời, chứ đừng
chỉ nhìn đời bằng con mắt ráo hoảnh của phờng xấu xa, ích kỷ.
Nhng cũng chính trong khơng gian ấy, bằng cái nhìn nhân đạo sâu sắc, nhà văn
cũng đã nhìn ra những tấm lịng vàng. Tuy sinh ra không cha mẹ, bị vứt trần truồng
bên cái lị gạch bỏ khơng, nhng Chí Phèo vẫn lớn lên đợc là nhờ anh thả ống lơn, ngời
đàn bà goá mù, bác phó cối, dù rằng họ đối xử với Chí khơng phải lúc nào cũng tốt,
cũng nhân hậu. Tuổi thơ của Chí tủi hờn, khốn khổ nhng lành lặn và lơng thiện. Và có
lẽ, tuổi thơ ấy đã góp phần làm nên cái mơ ớc bình dị đến cháy lịng của Chí khi hắn
cịn trẻ!
Phân tích qua nh vậy để thấy rõ tính chất đối lập của khơng gian sống trong làng
Vũ Đại với không gian sống riêng của Chí. Chúng tơi tạm gọi “năm sào vờn ở bãi
sơng” mà Chí có đợc sau khi địi nợ giúp Bá Kiến số tiền năm mơi đồng từ đội Tảo, là
không gian sống riêng của Chí Phèo, một khơng gian thực sự giàu nhân tính, có khả
năng thức tỉnh linh hồn ngời, là khơng gian duy trì tình u và lơng thiện.
Trần Đăng Suyền nhận định “ Không gian trong sáng tác của Nam Cao chủ yếu
là không gian riêng t, cá nhân” (4) . Có thể coi “ Năm sào vờn ở bãi sơng” ấy là khơng
gian sèng riªng t, cá nhân của Chí Phèo. ở<sub> không gian ấy, Chí PhÌo cã mét tóp lỊu,</sub>
trớc đó hắn thờng ở “ Cái miếu con ở bờ sơng, vì vốn từ trớc đến nay khơng có nhà”.
Túp lều ấy có thể coi là “ khơng gian căn phịng” của Chí. Chính ở không gian riêng
ấy, nhân vật của Nam Cao mới thực sự đối mặt với chiều sâu nội tâm của chính mình
và theo Trần Đăng Suyền “ Đời sống thật của các nhân vật hiện lên cụ thể, chân thật,
sinh động trong cái khơng gian riêng t” (5) . Tính chất riêng t, căn phịng của khơng
gian sống ấy càng rõ hơn khi “ trớc kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sống tắm
giặt hay kín nớc. Nhng từ khi hắn đến, ngời ta thơi dần, tìm một lối khác đi xa hơn”.
Nhà văn Nam Cao đã rất có ý thức nghệ thuật khi khắc hoạ khơng gian sống lơng
thiện của Chí Phèo trong thế đối lập với mơi trờng phi nhân tính trong làng Vũ Đại.
<i><b>Thứ hai, </b></i>khơng gian sơng của Chí Phèo nằm cạnh bờ sơng, nơi con nớc trong
lành, nơi duy trì nguồn sống của con ngời, nơi có ánh trăng vàng rực rõ, ấm áp, có
tiếng chim hót ríu rít, nơi có tiếng nói cời vui vẻ của những ngời hàng xóm đi chợ
về…ở<sub> đấy, vào “ những đêm trăng nh đêm nay, cái vờn phẳng ngổn ngang những</sub>
bóng chuối…Những tàu chuối nằm ngửa, ỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời
rợi nh là ớt nớc, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành đạch nh là hứng tình”.
Khơng gian ấy là khơng gian địi sống, tình tự của vạn vật, huống chi nữa là ngời.
<i><b>Thứ ba,</b></i> trong khơng gian ấy, Chí sống ngun vẹn với phần lơng thiện của mình,
với cái bản tính thờng ngày bị che lấp bởi rợu, tiếng chửi và những âm mu…Chí về
nhà chỉ để ngủ, “ Ai có thể ác trong khi ngủ”! Nên Thị Nở thấy Chí hiền khơ, mỗi lần
đi kín nớc, thị ln ngạc nhiên vì sao ngời làng lại ghê sợ và xa lánh một ngời hiền
lành nh hắn. Có lần, Thị Nở xin rợu để bóp chân “ Hắn mải ngủ càu nhàu bảo thị
rằng: ở xó nhà ấy, muốn rót bao nhiêu thì rót, để n cho hắn ngủ”. Mà rợu với Chí là
<i><b>Thứ t</b><b> , </b></i> không gian lơng thiện ấy giúp Chí Phèo thức tỉnh bản tính lơng thiện của
mình một cách sâu sắc và đầy đủ. Sau cái đêm gặp Thị Nở, mọi chiều kích của thời
gian đã trở về với Chí, cịn trớc đó Chí đã hoàn toàn mất ý thức về thời gian, về bản
thân, “ Cha bao giờ hắn tỉnh…để nhớ rằng có hắn ở đời”. Chí nhận ra cái hiện tại th
-ờng ngày qua ánh nắng và mặt trời ấm áp, tiếng chim hót, tiếng cời nói của ngời đi
chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Quá khứ cũng hiện về trong nỗi buồn
nao nao. Cái quá khứ êm dịu và lơng thiện “ Hình nh có một thời hắn đã ao ớc có một
gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mớn cày thuê, vợ dệt vải”. Và cả tơng lai xa xơi với
tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc cũng hiện ra với bao ám ảnh. Nhng quan trọng hơn
hết, Chí nghĩ nhiều về cái hiện tại, về bát cháo hành của Thị Nở, về việc “ Thị Nở sẽ
mở đờng cho hắn” trở về với lơng thiện, về cái nguyện vọng “ Hay mình sang đây ở
với tớ một nhà cho vui”. Sống sâu sắc ở hiện tại, Chí đã cảm nhận hết ý nghĩa của
cuộc sống lơng thiện. Trong hắn rát bỏng khát khao “ thèm lơng thiện”, “muốn làm
hoà với mọi ngời”, hắn muốn mọi ngời “ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân
thiện của những ngời lơng thiện.”
<i><b>Thứ năm,</b></i> trong khơng gian u thơng, tình ngời ấy, Chí Phèo và Thị Nở đã có thể
sống trong tình u, hạnh phúc năm ngày trọn vẹn. Bao tâm tính ngời trở về với Chí
một cách dồn dập. Chí khóc, cời, thấy lịng thành trẻ con, muốn làm nũng với Thị Nở
nh với ngời mẹ hiền. Và Thị Nở đột nhiên khơng cịn xấu xí đến ma chê quỷ hờn nữa
mà thành ngời đàn bà có dun trong mắt Chí. Hai con ngời xấu số đã tìm thấy mảnh
đời hạnh phúc của mình. Vợt ra khỏi khơng gian ấy, tình u của hai con ngời khốn
khổ khơng thể sống sót bởi những định kiến ác nghiệt của dân làng, vợt ra khỏi không
gian ấy Chí Phèo lại ngun hình là con thú dữ.
r-ợu, nếu có uống cũng uống thật ít, để còn tỉnh tảo mà yêu nhau. Ngay cả khi bị từ
chối chung sống cùng Thị Nở, Chí khơng thể mợn rợu để say, để quên đi năm ngày
Trong khoảng 25 trang truyện, Nam Cao đã dành ra ít nhất một nửa số trang để
tái hiện sáu ngày cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. Và trong sáu ngày ấy, Chí sống
trọn vẹn trong khơng gian riêng, đầy tình ngời, ấm áp tiếng cời, niềm vui. Miêu tả
quãng đời ấy của nhân vật, Nam Cao đã bộc lộ rõ sở trờng phân tích tâm lý. Nhân vật
Chí Phèo hiện ra với một thế giới nội tâm phong phú đáng kinh ngạc.
Sáng tạo ra hai khơng gian có tính đối lập gay gắt trong tác phẩm nh trên đã chỉ
ra, Nam Cao cố gắng thể hiện một cách nghệ thuật đến ám ảnh lời kêu cứu khẩn thiết
của mình, của thời đại mình: Hãy trả về cho con ngời môi trờng sống, điều kiện sống
tốt lành, để ở đó, con ngời đợc sống đích thực với giá trị ngời<sub> của mình.</sub>
***********************************************************
Chó thÝch:
(1) ChÝ Phèo Ngữ Văn 11 tập một - NXB Giáo dục
(2),(6) Nhiều tác giả: Từ điển thuật ngữ văn học -Nhà xuất bản giáo dục-1972.
(3),(4),(5) Trần Đăng Suyền : Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao- Nhà xuất bản Khoa
học xà héi -2004.
<i><b>ThS: </b><b> Ngun Ngäc Ph¬ng</b></i>