Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Dân tộc học đại cương: Dân tộc Ba Na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.39 KB, 21 trang )

KHÁM PHÁ DÂN TỘC BA NA
I.

KHÁI QUÁT CHUNG
Tên tự gọi : Ba-na.
Tên gọi khác : Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kơng, Kpang Kơng...
Nhóm địa phương : Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar, Krem.
Dân số : 174.456 người.
Ngơn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngơn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử : Dân tộc Ba-na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn -Tây Nguyên đã kiến
lập nên nền văn hóa độc đáo ở đây,Họ là tộc người có dân số đơng chiếm vị trí rất quan trọng trong các
lĩnh vực văn hóa xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta
Địa bàn cư trú:của người Ba-na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Bình Định, Phú n và Khánh
Hịa. Họ cư trú trên những nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình
sừng ,ở giữa làng có một ngơi nhà cơng cộng – gọi là nhà Rông.

II. KINH TẾ
1.

Nông nghiệp

- Trồng trọt: Họ sinh sống bằng nghề trồng lúa trên ruộng khô, chỉ khoảng 80 năm trở lại đây mới quen
với tập quán trồng lúa nước. Với ruộng khơ thì việc thâm canh khơng bỏ hóa là đặc điểm khác với
rẫy .Ruộng khơ thường ở vùng ven sông suối. Người Bana biết tiếp thu kỹ thuật canh tác và gieo trồng
hoa mầu trên nương rẫy theo chu kỳ khép kín, họ có trình độ phát triển kinh tế xã hội khá cao. Do làm
ruộng khô trồng lúa thường ở những nơi ven sông ven suối, ruộng khô khác với rẫy, nên muốn tận
dụng hết diện tích thâm canh khơng bỏ hoang, phải dùng quốc- loại cơng cụ lao động có hiệu quả.
Quốc là nơng cụ chủ yếu của dân tộc này.
Vườn của người Bana theo mơ hình đa canh tồn diện ,phổ biến là trồng cây bông ,tràm,thuốc lá đan
xen với cây lương thực như ngơ khoai ,sắn...Việc canh tác tính theo nơng lịch được tuân thủ thực hiện
một cách rất chặt chẽ một năm lao động trong 10 tháng, dành ra 2 tháng để ăn chơi nghỉ ngơi vui hội


hè để làm những công việc cưới hỏi sửa sang nhà cửa,cúng lễ trao đổi hàng hóa sản vật, thời gian nghỉ
ngơi do mỗi địa phương mỗi gia đình lựa chọn
- Chăn ni: gia súc ,gia cầm như trâu bò ,lợn ,gà...
- Đánh bắt người Ba na bắt cá bằng chài, lưới,vó, vợt, nơm. Họ dùng cả mũi lao để đâm cá, dùng nỏ
để bắn cá, ít khi họ dùng cần câu. Phụ nữ thường xúc cá nhỏ, tôm bằng rổ. Để bắt chim, dơi ho dùng
lưới chụp, dùng nhựa dính. Để săn thú họ dùng lao, giáo, mác, nỏ, thò, xà gạc…
- Nghề thủ cơng: như đan ,dệt ,gốm ... Trong đó nghề dệt thủ cơng của người Bana đã có từ lâu đời .
1


Sản phẩm thổ cẩm dệt bằng tay của người Bana nổi tiếng bởi những trang trí hoa văn rất tinh tế. Khơng
chỉ đẹp về hình thức trang trí, trong mỗi sản phẩm dệt truyền thống của người Bana còn ẩn chứa sắc
thái văn hoá, thể hiện tâm hồn phong phú của người Bana. Các cô gái Bana đều được bà và mẹ chỉ
cho cách dệt vải, dệt thổ cẩm từ lúc 12-13 tuổi. Để khi đi lấy chồng, các cô phải tự dệt cho mình một bộ
y phục thật đẹp ra mắt mọi người. Để dệt bộ y phục này, các cô gái phải tốn rất nhiều công sức và tâm
huyết. Thế nên, hầu như mọi phụ nữ Bana đều biết dệt thổ cẩm. Phụ nữ Bana nổi tiếng bởi kỹ thuật dệt
tinh tế làm ra những bộ trang phục, những tấm chăn, tấm thảm mang nét đặc trưng riêng.Trải qua năm
tháng, đổng bào Bana ln có ý thức duy trì nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình.
III. VĂN HĨA VẬT THỂ
1.

Nhà cửa và các cơng trình kiến trúc

- Nhà cửa:
Người Bana ở nhà sàn ( nhà sàn dài). Trước đây khi mơ hình gia đình lớn cịn thình hành, họ thường
có những căn nhà dài hàng trăm mét, gồm nhiều thế hệ cùng chung sống.
Người Bana sống chủ yếu ở vùng đồi núi, vì thế họ lấy những vật liệu từ tự nhiên để dựng nhà như gỗ,
te, nứa, lồ ô…
Nhà sàn người Bana cao, thẳng, sàn cách mặt đất khoảng mộtt đến hai mét. Nhìn tổng thể, nhà có hình
chữ nhật, dài trung bình khoảng 12 mét. Thường thì có 12 cột nhà, chia đều cho mỗi bên sáu cột tạo sự

vũng chãi, cân bằng. Cột nhà được làm bằng gỗ cây cà chit- một loại gỗ có cứng chắc, ít muối mọt.
Một ngơi nhà sàn gồm hai mái chính với hai mái phụ ở hai đầu là chái. Vách nhà đan bằng nứa hoặc
lồ ô, có khi vách được trét bằng đất trộn với rơm. Nhà có sáu gian nhưng chỉ có gian đầu hoặc gian
cuối có vách ngăn phịng dành cho cha mẹ. Người Bana có tập quán xây nhà theo hướng nam, của
chính ngay ở gian giữa. Người Bana dùng gian giữa, là nơi trang trọng nhất để tiếp khách.
Một phần không gian khơng thể thiếu đó là nhà chồ hnam pra. Có hai mái được lợp bằng tranh hoặc
ngói. Để lên nhà chồ, người ta bắc một cầu thang bằng gỗ hương, cao to. Sàn nhà chồ làm bằng gỗ
ván to, dày. Nhà chồ là nơi phụ nữ giã gạo vào sáng sớm hoặc tối khi đi làm về. đây cũng là nơi gia
đình ngồi chơi, hóng mát trong những đêm hè nóng nực.
Ngày nay, hầu như khơng cịn thấy ngơi nhà dài mà chỉ thấy ngôi nhà nhỏ hơn từ 7,8 – 12m, quay
hướng bắc, mở một của ra vào giữa sườn nhà, qua cầu thang lên sân phơi rồi mới vào nhà. Trong nhà
chia làm 3 phần. Phần đầu nhà bên phải phía đơng được quan niệm là phía của sự sống, chỗ nằm của
vợ chồng chủ nhà, cạnh đó đặt một bếp nhỏ và một hịn đá. Gian giữa là nơi tiếp khách, khách ngủ lại
qua đêm. Có bếp lớn nấu ăn. Đầu nhà phía tâ là chỗ nằm của vợ chồng con gái lớn.
- Kiến trúc:
2


Nhà Rơng của người Bana là cơng trình kiến trúc độc đáo, là nơi sinh hoạt văn hoá cộng đồng của
đồng bào Bana. Đây không chỉ là nơi thể hiện sự đồn kết, gắn bó cộng đồng, thích ứng với mơi trường
thiên nhiên, mà cịn là nơi tránh thiên tai thú dữ, bảo vệ sự sống của các thành viên trong bn
làng. Mỗi bn làng của người Bana đều có nhà Rơng. Giống như ngơi đình của người Kinh của người
Việt ở vùng đồng bằng, đây là nơi sinh hoạt chung của dân làng. Tuy nhiên, khác với đình làng, nhà
Rông không phải là nơi thờ tự. Người Bana thường tìm chọn các gỗ quý trên rừng như: lim, gụ…để làm
nhà Rông.
Kết cấu nhà Rông của người Bana rất độc đáo, khơng có vì kèo. Người Bana chỉ dùng các dây rừng,
dây mây, tre cột, kết nối khung nhà lại với nhau, nhưng ngôi nhà vẫn rất kiên cố và chắc chắn. Những
ngôi nhà Rông thường khá giống nhau về hình dáng và kiến trúc, thường có hành lang rộng phía trước,
mái lợp bằng cỏ tranh dày khoảng 20 cm, hai mái ốp vào nhau thành hình lưỡi búa vươn lên bầu trời,
thể hiện sức mạnh của con người trước thiên nhiên. Nhà Rông cao khoảng 12 mét, dài 12 mét, rộng 8

mét và có sức chứa khoảng 80-100 người. Cá biệt, có làng Bana cất nhà Rơng cao tới 18 mét như thể
hiện sức mạnh và sự giàu có của làng. Để chống đỡ sức nặng của mái, bên trong mái được đan chéo
bằng rất nhiều cây gỗ tròn thẳng, dài hàng chục mét. Cách làm mái đan chéo các cây gỗ với nhau tạo
cho ngôi nhà rất kiên cố vững chãi và chịu được sức gió mùa mưa bão. Sàn nhà cách mặt đất khoảng
2 mét, có hai cầu thang đi lên xuống. Cầu thang dành cho nam gồm 7 bậc ở bên trái và cầu thang dành
cho phụ nữ gồm 9 bậc ở bên phải. Ngoài ra, cịn có cầu thang ở chính giữa, thường dành cho già làng
trong các buổi lễ linh thiêng.
Nhà Rông là nơi lưu giữ các vật linh thiêng của làng và chỉ đàn ông, con trai mới được phép ngủ ở Nhà
Rông. Bởi người Bana quan niệm rằng đây là nơi bàn bạc những công việc quan trọng của làng, nơi
các già làng truyền dạy những kinh nghiệm, dạy dỗ con cháu về truyền thống văn hoá của làng. Nhiều
đồ vật linh thiêng quý giá của cả làng được lưu giữ ở nhà Rông. Bởi vậy, khi đến thăm Nhà Rông, du
khách phần nào hiểu được tập tục văn hoá của người Bana. Trong đời sống của đồng bào Bana, nhà
Rông thực sự là cơng trình kiến trúc nghệ thuật, là bộ mặt, niềm tin và lịng kiêu hãnh của cả bn làng.
Nhà Rơng cịn là khơng gian linh thiêng, nơi quy tụ sức mạnh tâm linh, thể hiện bản sắc văn hố của
đồng bào Bana.
Khơng chỉ nhà Rơng mà nhờ thờ gỗ ở thành phố Kon Tum, tỉnh Gia Lai cũng là một kiến trúc độc đáo.
Nhà thờ do một linh mục người Pháp xây năm 1913 và hoàn thành năm 1918. Coogn trình được xây
dựng theo phương pháp thủ cơng, kết hợp phong cách Roman và kiểu nhà sàn của người Bana. Đây là
một biểu hiện cho sự giao thoa văn hóa Tây Nguyên và văn hóa Châu Âu.
2.

Trang phục

Trang phục của người Bana rất giản dị. Đàn ông mặc áo màu đen hoặc chàm chui đầu, cổ xẻ, hở ngực
cộc tay, có đường sọc ngang tắng đỏ ở quanh thân và ờ gấu. Đóng khố hình chữ T, theo cách một đầu
3


để dài trước bụng, một đầu khố quấn quanh bụng luồn qua hang, rồi đưa lên buộc vào đầu khố để
thẳng trước bụng. Mùa rét có quấn them khăn trên đầu và quàng chăn mỏng.

Phụ nữ mặc áo chui đầu nhưng khơng xẻ cổ, ống tay có thể cộc hoặc dài. Áo cũng có những sọc ngang
nhiều màu ở khuỷu tay, cổ tay, ở thân và gấu áo. Váy có thể ngắn tới bắp chân, hoặc ngang đến mắt cá
chân. Váy chỉ là một tấm vải màu đen hoặc chàm

có sọc ngang ở thân và gấu. Khi mặc thì quấn tấm

vải quanh bụng đè chặt góc vải đầu kia rồi quấn q vịng ra sau lưng, bên ồi thắt vải dút. Ngày nay
thì váy được khâu khép kín, mặc chui qua đầu.
Ngay từ thời xa xưa, người Bana đã biết trồng bơng, dệt vải.Khơng chỉ vậy, họ cịn biết cách tạo mùi
hương đặc trưng cho sản phẩm từ các hương liệu tự nhiên. Với tư duy đơn giản, các hoa tiết trong
trang phục của người Bana là những hình khối đối xứng mang tính biểu tượng cao. Những họa tiết đối
xứng đó phản ánh quan niệm về vũ trụ, đất trời, âm dương, lấy thiên nhiên làm hình mẫu. Mỗi tấm vải
thổ cẩm được ví như một bắc tranh thiên nhiên thu nhỏ từ những nét điệu hình học. Khăn đội đầu của
các thiếu nữ Bana là nét điểm tô theme phần dun dáng. Trên khăn có đính hang cúc trắng, chuỗi
cườm tua tủa, cúc bạc lung linh để thể hiện tình yêu thủy chung và niềm mơ ước hạnh phúc.
3.

Ẩm thực

Người Bana ăn cơm tẻ, một số vùng ăn cơm nếp. Ngày xưa người dân Bana thường làm cơm lam
bằng cách nhồi gạo vào ống lồ ô non, nút lá chặt, đem đốt vào trong đống lửa. Gạo chín bằng nước từ
ống lồ ô non. Ngày nay, người Bana nấu bằng xoong nhôm để nhanh hơn, tiện hơn. Người Bana ưa
đốt lửa nướng các thức như ngô, khoai, sắn. Ngày thường họ ăn cơm với rau rừng có tép, ếch, cơn
trùng, thit thú rừng. Cịn gia súc, gia cầm chỉ giết thịt khi cúng lễ. Thịt các súc vật ưa đem nướng.
Ngồi những món ăn ngày thường, người Bana có những món đặc sản: thức chấm làm từ vèo của
trâu, bò, dê… lấy ở phần gần cổ hũ, buộc kín hai đầu, luộc chín. Sau đó thái ra như miếng dồi. Phần
gần ruột già thì bóp ra trộn với thịt chín băm, trộn với sả, hành, muối dùng để chấm có vị rất lạ. Cũng
như các dân tộc khác ở Trường Sơn – Tây Nguyên, người Bana coi rượu cần là sản phẩm của thần
linh. Ché ủ rượu cần có cái đổi được vài con trâu. Một điều đặc biệt nữa là bất kể đàn ông hay đàn bà,
người già hay trẻ nhỏ đều hút thuốc bằng tẩu cán dài.

IV.

VĂN HĨA PHI VẬT THỂ

1.

Ngơn ngữ

- Về tiếng nói: các nhánh người Bana có cung một thứ tiếng, tuy nhiên cũng có sự thay đổi theo từng
địa phương.
- Về chữ viết: người Bana là dân tộc thiểu số đầu tiên ở Tây Nguyên biết đọc, biết viết và biết làm tính.
Năm 1861, chữ Bana viết theo mẫu tự latinh như chữ quốc ngữ được đặt ra và tồn tại, phát triển cho
đến ngày nay.
4


2.

Tơn giáo, tín ngưỡng

Các nhà xã hội học cho rằng ý thức tơn giáo đến với lồi người twh những khiếp hãi ngoại vật, như
nhũng ngon núi lầm lì, những thcs nước đổ ào ạt…tạo thành một lực lượng siêu nhiên huyền bí đe dọa,
ám ảnh họ. Do đó họ phải tìm một nơi quyền lực để che chở. Từ đó trong đầu óc họ nảy sinh ra những
vị thần đầy sức mạnh, đầy quyền uy sẵn sàng giúp đỡ họ chống lại sự hăm dọa của thiên nhiên. Khi
con người khơng giải thích được các hiện tượng tự nhiên như sấm sét, mưa gió.. thì họ nghĩ các vị
thần đã tạo ra điều đó.
Với tâm hồn giản dị, họ nghĩ rằng thần cũng như con người. được cúng nhiều lễ vật thì thần vui vẻ,
bênh vực che chở cho họ. Nếu lỡ làm thần giận thì phải lo lễ tạ.. Vị thần quyền uy tối cao nhất trong
tâm thức người Bana là Yang, sau đó mới đến các vị thần. Yang có quyền lực tối cao với con người, có
thể giáng phúc, gieo họa cho bất kì ai. Do đó, trước khi làm những cơng việc quan trọng họ thường

cúng Yang để cầu mong che chở. Tuy khơng có hệ thống sắp xếp rõ ràng giữa các vị thần nhưng căn
cứ vào cách lễ bái, cúng tế có thể thấy cư dân bản địa cầu xin các thần như sau:
• Thần tạo hóa: gồm Bok Kơi Dơi và Kon Keh lấy nhau sinh được ba con. Một người ở lại trên trười,
hai người xuống đất là tổ tiên của lồi người.
• Thượng đẳng thần: gồm thần sấm sét, thần nước, thần lúa, thần núi. Các vị thần này có uy quyền
lớn và lien hệ trực tiếp với đời sống hằng ngày của người dân. Việc cúng các vị thần được quy định vào
những ngày mùa trong năm.
• Hạ đẳng thần: là thần thú vật hay các đồ dùng trở thành linh thiêng bao gồm vô số thần như thần hổ,
thần voi, thần cóc, thần ghè, thần cây… Theo quan niệm của đồng bào thì thần hổ rất linh thiêng, có thể
giả tiếng súc vật khác hay biến thành con người. Việ cúng các vị thần được làm theo chỉ định của thầy
cúng trong những lúc có người đau ốm, hoạn nạn.
Thầy cúng là người trung gian giữa loài người và thế giới thần linh. Có nơi gọi là thầy phù thủy, thầy
mo, thầy Bồi dâu… đồng thời là thày lang chữa bênh cho dân làng. Tất cả các cuộc lễ tế lơn nhỏ trong
làng đều do thầy làm chủ tế. Do đó các vị thần này rất được dân lang tin tưởng, kính trọng và thường
cũng vì thế mà các thầy là những người giàu có nhất trong làng.
Trước đây, mỗi khi có người trong nhà đau ốm người dân không lo chạy chữa bằng thuốc men mà chỉ
lo đi mời thầy cúng, sắm sửa lễ dâng lên thần thánh để cầu mong con bệnh mau lành hay để yểm trừ
ma quỷ. Khi khách đến nhà, gia chủ cũng phải mời thầy cúng xin Yang cho khách vào nhà và ở lại bình
yên. Chủ nhà làm một con gà, để thầy cúng xem quẻ bằng lưỡi và đùi gà. Chủ nhà sẽ đối đãi thân thiết
hay lạnh nhạt tùy vào lời giải đoán của thầy cúng. Lưỡi gà ngay thẳng thì thì là người khách tốt, tin
tưởng được.Cịn lưỡi gà cong thì người khách xảo trá, cần đề phịng. Chân gà co rúm là khách sẽ
mang bệnh tật hay điều xấu cho gia chủ.
5


Ngồi ra, người Bana cịn có tục xem, giị gà để đoán điều họa phúc trong nhà. Chủ nhà bắt con gà
mới nở 10 ngày để sống căt lấy hai chân, đến đầu gối rồi buộc hai cặp giò lại nhúng vào nước sơi ba
lần, sau đó đem ra để thầy phán đoán. Nếu bốn chân chụm vào nhau là điềm tốt, tai qua nạn khỏi. Nếu
ngón út của giị cong queo và các ngón khơng chụm vào nhau là điềm chẳng lành. Sau đó tùy theo tình
hình mà thầy cúng chỉ định gia chủ phải cúng thần gì tiếp theo, phải dâng lễ bò, dê hay lợn..

3.

Lễ hội

Lễ hội đân trâu
Lễ hội đâm trâu được người Bana goi là x’trăng, là một lễ hội tế thần linh ăn mừng chiến thắng, mừng
mùa màng bội thu. Lễ đâm trâu thường được tổ chức vào khoảng thời gian từ tháng Chạp cho đến
tháng 3 âm lịch. Đó là là khi mùa màng thu hoạch xong, thóc đã được đưa vào bồ, các gia đình được
nghỉ ngơi. Người Bana tổ chức lễ đâm trâu là để tạ ơn thần linh, đón mừng năm mới, cầu mong sức
khỏe cho mọi người và cầu chúc cho một năm mới mùa màng tươi tốt. . Lễ hội đâm trâu (còn gọi là lễ
hiến sinh) phải trải qua nhiều nghi lễ nhỏ với nhiều hình thức như: lễ cúng thần linh, nghi lễ uống rượu
cần, diễn tấu cồng chiêng và có bài khóc trâu. Lễ hội đâm trâu chỉ được dùng trong cúng thần linh. Lễ
đâm trâu thường diễn ra trong 3 ngày đêm. Để chuẩn bị cho lễ đâm trâu, người Bana phải chuẩn bị
hàng tháng trời. Những người đàn ông khoẻ mạnh trong buôn được cử vào rừng chọn những cây gỗ
Pơlang thẳng, đẹp nhất để làm cột Gưn, chọn những cây mây vàng bóng để bện thành sợi dây vững
chãi buộc trâu trong ngày lễ. Thường thì lễ đâm trâu tế Yang (Thần linh) được tổ chức vào sáng sớm,
lúc mặt trời vừa lên. Dân làng chọn một con trâu khỏe mạnh làm vật hiến sinh, con trâu này được coi
như vị sứ giả chuyển lời cầu khấn, ý nguyện của bà con tới các vị thần. Vào ngày lễ, trâu được đưa đi
tắm rửa sạch sẽ và cho ăn uống no nê rồi đem buộc bằng dây mây vào cột Gưn mà người Ba Na gọi
cây cột này là gưng sakapô. Đây là một cây cột gỗ cao trên 5 mét, được trang trí hoa văn, hoa rừng và
cờ rất đẹp. Trên đỉnh cột thường đặt một biểu trưng hình chim Phượng hoàng bằng gỗ. Khi con trâu
được cột vào Gưng, làng cử đại diện gồm: già làng, thanh niên nam, nữ, trẻ nhỏ dắt trâu đi vòng quanh
cột vừa đi vừa nói những điều tốt đẹp. Đây cũng là lúc bà con trong buôn tập trung lại và những nghi
thức của buổi lễ bắt đầu.
Chủ lễ là già làng, người có uy tín nhất cộng đồng đọc lời khấn trời đất, cầu chúc mưa thuận gió hịa,
dân làng khỏe mạnh, hoa trái mùa màng tốt tươi… Khấn Giàng xong, con trai, con gái nhảy múa vòng
tròn theo nhịp cồng chiêng rộn rã, âm vang khắp núi rừng. Một người lớn tuổi được cử ra để mời bà
con và khách uống rượu cần thể hiện lòng hiếu khách. Tâm điểm của lễ hội là các chàng trai trong buôn
biểu diễn các màn võ truyền thống quanh cột Gưn buộc trâu, trong khi các cơ gái nối thành vịng xoang
nhảy múa theo nhịp cồng chiêng. Sau một đêm nhảy múa, ca hát, buôn cử 5 người đại diện gồm 3

thày cúng và 2 già làng làm lễ hiến sinh đọc thần chú, xin dâng cúng trâu cho thần linh và cầu nguyện
những điều tốt đẹp cịn mọi người ngồi nói chuyện, uống rượu cần.
6


Suốt đêm hôm ấy bà con dân làng thức với con trâu, khóc thương con trâu, bày tỏ tình cảm của mình
với con trâu bằng bài hát "Khóc trâu". Bài hát với lời : lâu nay trâu sống cùng với con người, giúp đỡ
người trong công việc đồng áng nặng nhọc, nhưng vì làng có việc trọng đại, cần đến trâu để tạ ơn
Giàng, mong trâu vui vẻ thực hiện nhiệm vụ của mình. Sau buổi lễ, thịt trâu được chia đều cho tất cả
mọi người, từ già đến trẻ nhỏ trong bn và cả khách mời, ai cũng có phần đem về nhà, mang may
mắn cho mọi người. Lễ đâm trâu của người Bana cũng là dịp để con cháu ôn lại truyền thống hào hùng
của dân tộc, giúp lớp trẻ hình dung các bước thực hiện lễ đâm trâu để lưu giữ truyền thống tổ tiên.
Lễ cầu an
Lễ cầu an theo tiếng Ba Na gọi là Puh hơ drih. Đây là lễ hội truyền thống có từ lâu đời mang tính cộng
đồng sâu sắc và là một trong những lễ hội đặc sắc của người Ba Na liên quan đến con người và mùa
màng. Lễ hội cầu an được tổ chức sau khi dân làng đã thu hoạch hết những hạt lúa ở nương rẫy trong
khoảng thời gian tháng 11, tháng 12 dương lịch với mong muốn cầu cho dân làng ấm no, khỏe mạnh,
tránh khỏi chiến tranh, dịch bệnh, xua đuổi các thế lực siêu nhiên xấu, các loại ma xấu, xua đuổi những
xui xẻo, tai họa đến với dân làng… Để bn làng n bình, khỏe mạnh, dân làng ăn cơm mới được no
đủ không bị đói, cầu cho mùa màng được mùa. Bắt nguồn từ truyền thuyết ngày xưa trong làng bị đại
dịch, khơng có thuốc men, dân làng chết nhiều. Người dân bắt dê làm vật tế thần, cầu mong thần linh
xua đuổi tà ma. Kể từ khi đó hết dịch bệnh, khơng cịn ai chết nữa nên lễ hội được duy trì hàng năm
Trước khi tổ chức lễ hội, già làng tổ chức cho dân làng phát dọn đường đi sạch sẽ, sửa sang nhà Rông,
bến nước, dọn vệ sinh sạch sẽ trong thơn làng. Dân làng chuẩn bị 4 hình nộm người làm bằng các vật
liệu sẵn có trong tự nhiên cũng như sản phẩm từ nông nghiệp… để phục vụ trong lễ hội. Già làng là
người chủ trì buổi lễ, tập trung người dân tại nhà Rông để làm lễ cúng. Lúc này, già làng chọn những
người ưu tú nhất, hiền đạm nhất để đảm trách những công việc như: Già làng cầm khiên, đao đi đầu;
bên cạnh là một thanh niên đeo mặt nạ cầm mác; tiếp sau là 4 người thanh niên mang theo hình nộm.
Tiếp nữa là 2 thiếu nữ, mỗi người cầm cây lá đót. Cuối cùng là đội cồng chiêng cùng với dân làng.
Già làng bắt đầu làm lễ cầu khấn các thần linh phù hộ, cùng dân làng đuổi các tà ma, bệnh dịch…Làm

lễ xong, già làng dẫn đầu cùng đoàn người đi khắp làng để đuổi tà ma… Già làng vừa đi, vừa hú, vừa
chỉ chỗ cho dân làng biết vị trí của những con ma đang cư ngụ để đuổi đi. Sau những lời chỉ trỏ, già
làng thúc giục dân làng đuổi theo, dân làng hú và đuổi theo.
Đuổi được một đoàn, tiếng cồng chiêng dồn dập nổi lên, già làng cùng toàn thể dân làng nhảy múa
cùng nhịp chiêng trống. Sau tiếng cồng chiêng, già làng tiếp tục chỉ chỗ của những con ma và thúc giục
dân làng đuổi theo, rồi cồng chiêng tiếp tục nổi lên.
7


Việc xua đuổi những con ma xấu cứ tiếp tục diễn ra cho đến khi đuổi hết khắp thôn làng, rồi đuổi dồn
về cuối làng theo con đường chính ở đầu làng. Sau đó, họ tiếp tục làm lễ cầu khấn mời các thần linh
bảo vệ con người xuống cùng ăn, cùng uống, chung vui với dân làng đã đuổi hết tà ma, và xin các thần
linh phù hộ cho dân làng được khỏe mạnh, có cuộc sống ấm no, dân làng khơng bị đói, bảo vệ dân làng
khơng bị các con ma xấu, các bệnh dịch, những xui xẻo, tai họa… đến với dân làng.
4. Văn học dân gian
Tiêu biểu trong nền văn học dân gian dân tộc Bana là hămon ( trường ca, hay sử thi). Các thần thoại
được truyền kể từ đời này đến đời khác. Người kể thường là già làng, được gouj là Book Hămon. Đây
khơng phải là ngơn ngữ nói bình thường mà là hình thức diễn xướng độc đáo, đạt tính biểu cảm cao.
Già trẻ gái trai, co khi cịn có người của buôn khác đến vây quanh bếp lửa, ra tận cầu thang nhà rông
để nghe kể hmon. Bên ánh lửa bập bùng mờ tỏ, book hmon kẻ lúc nhanh lúc chậm, lúc trầm lúc bổng,
khi giọng nam khi giọng nữ, từng nhân vật từng tích truyện hiện ra theo trí tưởng tượng của người
nghe.
Có các sử thi tiêu biểu như Đăn soi, sử thi Bana, giong nghèo tám vợ…
Ngoài văn học, đời sống văn nghệ cũng rất phong phú. Nổi bật hơn cả là vũ điệu xoang. Múa xoang
xuất hiện hầu hết trong các dịp lễ hội nhưng tùy vào tính chất của từng lễ hội mà cũng có những thay
đổi. Múa xoang trong lễ cũng cơm mới thì sơi nổi, hào hứng, rộn rã suốt 3 ngày liền. trong lễ bỏ mã thì
điệu xoang chậm rãi, u buồn. Trong lễ đâm trâu thì vũ điệu xoang dành cho những chiến binh mạnh mẽ,
thể hiện sức mạnh công đồng… Bên cạnh đó, người Bana cịn có các trị chơi dân gian như tahr diều,
đá cầu, đi cà kheo…
V. VĂN HÓA XÃ HỘI

1. Tổ chức làng
Làng Ba Na không phải là cộng đồng 1 huyết thống ,đó là cơng xã láng giềng, gồm nhiều gia đình tự
nguyện chung sống bên nhau.Tất cả dân làng có trách nhiệm và quyền lợi với làng.Tất cả rừng rú ,đất
đai ,sơng ngịi …đều là của chung.Nương rẫy gia đình nào khai phá gia đình đó có quyền chiếm hữu.
Điều hành công việc trong làng do hội đồng già làng,đứng đầu là Chủ Làng(chỉ thấy rõ ở Kontum,Măng
giang,cịn An Khê,Cơng plong chưa thấy rõ) .Tom Play được coi là gốc của làng là người được dân tín
nhiệm và am hiểu phong tục tập quán. Chủ làng ở đây theo tục cha truyền con nối,đôi khi được dân
cử.Người ba na tin rằng chủ làng do thần linh thừa nhận để hướng dẫn làng những điều tốt đẹp.
8


Các Kra play là những cụ già có uy tín được dân làng suy tôn và tham gia vào hội đồng già làng. Chủ
làng và hội đồng già làng điều hành việc sản xuất ,chiến đấu ,nghi lễ tôn giáo dựa trên sự nhất trí của
tồn làng. Ý thức làm chủ tập thể ở đây tuy còn đang sơ khai nhưng đã được khá triệt để.Khi công việc
đã được bàn bạc và quyết định thì cả làng tự giác thi hành dưới sự điều chỉnh của già làng
Làng xã ba na có 2 hình phạt đối với người có tội đó là :bồi thường và tạ lỗi .Bồi thường người bị gây
vạ và tạ lỗi với các thần linh trước dân làng.Ngay cả việc cố ý giết người tội phạm phải chịu phí tổn cho
đám tang và đền gia chủ 5 con trâu.
Trong 1 vùng thường có quan hệ hữu nghị,nhất là các làng có quan hệ hơn nhân,nếu có xích mích thì
cả 2 chủ làngà hội đồng già làng xét sử
Trong mỗi làng thường có người giàu (mđơng),người nghèo (đnú,dune),sự giàu nghèo phụ thuộc vào
lực lượng lao động của từng gia đình và được so sánh bằng số lượng chiêng ,ché quý trong nhà ,đàm
trâu ngoài đồng và số lượng người mướn ,người tớ.
Xưa kia do sinh sống trong 1 xã hội ít quan hệ rộng rãi,ngồi quan hệ xón thơn ,gia đình ,người Ba Na
có tục kết bạn hay kết họ hàng dưới nhiều hình thức ,krao pơ hay tỏ póc là nhận cha hay mẹ đỡ đầu.
Khi kết nghĩa giữa 2 làng thì phải tổ chức 1 nghi lễ to lớn hơn ,lễ đâm trâu ,mở hội trong năm ,3 ngày.
Quan hệ hàng xóm trong xã hội hiện nay là quan hệ bình đẳng các già làng vẫn được coi trọng ,nhưng
những cán bộ cách mạng do dân bầu ra là người điều hành công việc xã hội.Lớp trẻ được học hành
,nhà rông là nơi để hội họp dân làng bàn về việc sản xuất và sẵn sàng chiến đấu với giặc ngoại xâm,là
nơi vui chơi giải trí .

Mỗi làng Ba Na bao gồm nhiều nhóm gia đình ruột thịt ,nhưng nhóm cùng chung 1 ơng bà xa xưa thì ở
chung dưới 1 nóc nhà ,nay được chia thành những gia đình nhỏ.
2.
Tổ chức gia đình
Người Ba Na ưa thích 1 gia đình con đàn cháu đống ,nguyệ vọng đó ít được thực hiện vì xưa kia nạ
hữu sinh vô dưỡng ,dịch bệnh chiến tranh, điều kiện thuốc men ,vệ sinh thấp kém. Những thành viên
trong gia đình thường lao động chung,ăn chung,có tài sản chung.
Mọi việc được sắp xếp theo sự điều khiển của chủ nhà ,thực ra họ thực hiện 1 cách khá tự giác ,có tập
qn phân cơng lao động theo giới .Bên cạnh những tái sản chung cũng có những tài sản riêng do lao
động làm thêm. - Người già được kính trọng tuy họ đã mất khả năng lao động nhưng là người có kinh
nghiệm và thường đưa ra những ý kiến đúng đắn ,trẻ em được chiều chuộng ít bị nặng lời ,chia tài sản
đồng đều và cùng nhau chăm sóc trẻ nhỏ
VI.

PHONG TỤC TẬP QN

1.

Hơn nhân và gia đình

Người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời, cha mẹ tôn trọng ý kiến của các con, việc
cưới xin đều theo nếp cổ truyền, đó là nguyên tắc 1 vợ 1 chồng, sống chung thủy, có nghĩa vụ yêu
9


thương, cùng nhau nuôi dạy con cái. Việc li dị có thể xảy ra nhưng rất hiếm và phải được sự đồng ý
của gia đình cũng như hội đồng già làng
Nghiêm cấm kết hơn những người cùng có chung dịng máu trực hệ có huyết thống trong vịng 3 đời
Trước đây, trai gái Ba Na khi đến tuổi 14,15 thì làm lễ trưởng thành thông qua tục cà răng, sau đó họ
được tự do u thương, tìm hiểu lẫn nhau. Người Bana có 2 thuật ngữ để chỉ hơn nhân. Trong tường

hợp trai gái tự do yêu đương và tìm người bạn đời tiến tới hôn nhân, người dân gọi là hôn nhân tự
chọn; trường hợp cha mẹ quyết định gả bán con theo ý kiến riềng của mình, người dân gọi là hôn nhân
gả bán.
-

Tiêu chuẩn để lựa chọn một người bạn đời là người con gái phải biết đan lát, dệt vải, người con
trai phải khỏe mạnh, trung thực, làm rẫy giỏi và biết săn bắn

- Nhóm người Rơ Ngao ở Kon Tum có 1 tục đó là cô gái trước khi lấy chồng phải đi kiếm đủ 100 bó
củi, gọi là củi hứa hơn. củi hứa hơn bắt buộc phải là củi lấy từ cây dẻ khỏe mạnh. Vì củi của cây dẻ
săn chắc nên rất đượm, nhất là than của nó ln giữ ấm, đặc biệt củi dẻ thẳng và sn nên rất thích
hợp với việc nấu nướng và sưởi ấm. Nếu người con gái nào lấy củi từ cây dẻ bị cụt ngọn, thì đó sẽ là
điềm xấu cho hơn nhân sau này. Chính vì vậy, khi đi kiếm củi hứa hôn, dù vất vả mấy, các cô gái cũng
không bao giờ chặt những cây dẻ xấu xí hay bị cụt ngọn. Mỗi thanh củi phải có chiều dài từ 70-80cm,
thẳng, chắc, tất cả vỏ ngoài phải được lột sạch sẽ, đầu của mỗi thanh củi phải được chặt bằng hoặc
nhọn tất cả. Nhìn đống củi người ta sẽ biết được chủ nhân của nó sẽ là một cô đảm đang, cần cù, cẩn
thận và chịu khó hay khơng, hay chỉ là một cơ gái vụng về, hời hợt. Từ đó, có thể đánh giá về phẩm
hạnh của cơ gái
Trước khi chính thức trở thành vợ chồng thì đơi nam nữ buộc phải trải qua 2 lễ lớn là:
+, Lễ pơ xít hay cịn gọi là Lễ cật rêng
Khi tình u giữa cơ gái và chàng trai Ba Na đã chín muồi, muốn về với nhau cùng một nhà, thì trước
hết phải làm lễ “pơ xít” ( nghĩa là “trao vịng”), tương tự như lễ đính hơn của người Kinh. Theo phong
tục, cha chàng trai hỏi ý kiến của con trai mình, cịn bà mẹ của cơ gái thì hỏi ý kiến của con gái mình.
Nếu cả đơi bên gia đình ưng thuận, nhà trai sẽ tìm một ơng mối. Chọn ngày lành tháng tốt, dưới sự chủ
trì của ơng mối, nhà trai sẽ mời nhà gái đến, cùng chứng kiến lễ trao vòng của đôi trẻ. Theo phong tục
lâu đời, chàng trai trao cho cơ gái chiếc vịng nhơm, cơ gái trao cho chàng trai chiếc vịng đồng. Thêm
vào đó, vật đính hơn của chàng trai cho cơ gái cịn thêm một chuỗi hạt cườm đeo cổ và một số kỷ vật
do chính tay mình làm ra. Từ khi trao vịng, dân làng sẽ xem như chàng trai và cơ gái có sự gắn kết
chặt chẽ, khơng được có tình cảm với người khác. Nếu một trong hai bên hủy bỏ hôn ước, họ phải nộp
cho ông mối một con gà, phải trả lại vòng và bồi thường danh dự cho bên kia bằng một số lễ vật theo

10


quy định.
Lễ pơ koong
Sau lễ trao vịng, ơng mối và gia đình hai bên lại bàn bạc, ấn định ngày tiến hành lễ cưới. thường tiến
hành vào cuối năm, khi thu hoạch mùa màng xong, tương đương với tháng 12, tháng 1 dương lịch, lúc
đó dân làng đang lúc nơng nhàn, thóc gạo, gia súc đã được chuẩn bị đầy đủ. Lễ cưới được tổ chức
ngày giữa tháng, ngày trăng tròn - thời điểm được coi là may mắn nhất. Lễ vật bao gồm: một ché rượu
cần, một con gà với bộ gan luộc chín và một đĩa tiết sống. Trong khơng khí trang nghiêm, trước sự
chứng kiến của dân làng và hai họ, già làng đọc bài khấn, nhờ thần linh chứng giám cho đôi trẻ trở
thành vợ chồng, rồi lấy tiết gà bôi lên đầu cô dâu và chú rể. Tiếp đó, ơng mối cầm tay có đeo vịng của
đơi tân hơn chạm vào nhau, chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ, đưa cho hai người ăn chung một đùi gà,
một miếng gan gà, uống chung một bát rượu cúng. Sau nghi lễ ở nhà Rông, đám cưới được tiếp tục tại
hai gia đình với sự góp vui của toàn thể dân làng. Rượu cần và thức ăn được bày ra để thiết đãi tồn
thể dân làng, cơ dâu, chú rể sẽ mời rượu để tỏ lòng cảm ơn dân làng đã đến chung vui với đôi vợ
chồng trẻ. Buổi tối, ông mối dắt cô dâu về nhà trai, giao cho chú rể và tự tay trải chiếu cho đơi tân hơn.
Ngày hơm sau, hai gia đình thơng gia lần lượt mời ông mối đến nhà để cám ơn và trả công theo phong
tục. Trừ lễ vật ở nhà Rơng do nhà trai chuẩn bị, cịn chi phí cho bữa tiệc rượu ở gia đình nào thì gia
đình ấy lo
2.

Tang ma

Khi có người chết thì thổ táng, lúc đoạn tang (hết tang) thì làm lễ bỏ mả (vào hội nhà mả), dựng nhà mồ
và tượng mồ. Người ba na quan niệm con người chết đi hóa thành ma, ban đầu ở bãi mộ của làng, sau
lễ bỏ mả mới về hẳn với thế giới tổ tiên. Vì thế mà khi có người thân qua đời và đã chơn cất thì hằng
ngày người thân của người quá cố sẽ đem cơm, nước, rượu và vật dụng đến nhà mồ
Người Bana tin rằng cái chết chưa phải là hết. Bên cạnh cuộc sống thực tại, vẫn tồn tại một cuộc sống
khác đó là thế giới của người chết, của thần linh. Từ quan niệm này, người Bana có một lễ hội rất độc

đáo, đó là lễ bỏ mả (lễ tiễn biệt người chết về thế giới của thần linh). Cùng với ý nghĩa đó mà lễ bỏ mả
khơng phải để khóc than, mà người dân trong bn cịn đánh cồng chiêng, uống rượu cần, múa hát vui
vẻ như một nghi thức tiễn biệt lần cuối.
- Lễ bỏ mả diễn ra trong 5 ngày theo truyền thống:
Ngày đầu tiên: Việc đầu tiên bằng nghi lễ cầu xin hồn ma người chết cho dựng nhà mồ mới và sau
đó mọi người bắt tay vào dọn dẹp khu nhà mả cũ để chuẩn bị dựng nhà mả mới. Vì thế mà ngày đầu
tiên này của lễ bỏ mả gọi là ngày cuốc dọn, tính chất của nghi lễ lại rất quan trọng: báo cho hồn ma biết
là những người sống chuẩn bị làm lễ bỏ mả.

11


Ngày thứ hai : Ngày hôm sau, tức ngày làm nhà mả dân làng cùng gia đình hoặc những gia đình có
người chết (nếu năm đó có nhiều nhà làm lễ bỏ mả) ra nghĩa địa dựng nhà mả mới cho người chết. Mọi
người ngồi quây quần bên ngôi nhà mả mới ăn uống, trò chuyện và vui chơi cho tới tận khuya mới về.
Đến thời điểm này thì ngơi nhà mả mới đã xong, cơng việc cịn lại là lễ bỏ mả và bỏ ma.
Ngày thứ 3: sau khi đã thịt heo xong, gia đình cùng dân làng đem rượu, thịt tới khu nhà mả ăn uống
chia tay với người chết. Trước khi ăn uống, vui chơi, gia đình đem đồ chia vào nhà mả mới cho người
chết và khóc lần cuối cùng vĩnh biệt người thân đã khuất. Đồ chia hay đồ cho gồm các vật dụng mà
người chết thường hay dùng. Để người chết tiếp tục sống ở thế giới khác, người nhà còn đem cho
người chết các loại cây trồng như: ngơ (bị), chuối (pít), mía (ktao), lúa (ba)... Trong khi gia đình chia
của, khóc vĩnh biệt người chết, thì gia chủ dùng thịt, rượu làm lễ cúng.
Ngày thứ 4: sáng ngày hôm sau làm lễ bỏ, trâu hoặc bị được dắt ra nhà rơng của làng làm thịt. Vào
khoảng 11 giờ trưa, lúc này các con vật cúng đã được giết và làm thịt xong, gia đình đem đầu (kơl) đi
(tiêng), một xâu thịt gồm gồm, lưỡi, tim, da bụng, cổ họng của con vật và một ống rượu (ding kram) ra
nhà mả cúng và khóc lần cuối cùng với người chết (moi dưng rơng). Tới nhà mả, gia đình và người nhà
mả khóc vĩnh biệt người chết, cịn gia chủ thì làm lễ cúng.
Ngày thứ 5 : Lễ bỏ mả có thể được coi làm xong. Thế nhưng, gia đình của người chết vẫn cịn phải
tiếp tục làm cho xong một số cơng việc có liên quan tới lễ bỏ mả: sửa soạn cơm rượu đãi những người
làm và làm lễ tạ ơn các thần, rửa sạch nồi niêu.

Và một trong những thứ không thể thiếu trong lễ bỏ mả đó là dựng tượng nhà mồ. Họ chọn cây gỗ
có đường kính khoảng 30 cm trở lên để đục đẽo tượng. có tượng người đứng, người ngồi, đang ôm
nhau như khi đang sống, mỗi người một khn mặt..Hình tượng phổ biến nhất ở khu nhà mồ là tượng
người ngồi, chống tay lên đầu gối, đôi bàn tay ôm lấy má, đôi mắt như u buồn nhìn về phía xa xăm. Có
ý kiến cho rằng: hình tượng này thay cho người thân trong gia đình ngày đêm ngồi bên mộ trị chuyện,
than khóc. Nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều tượng miêu tả cảnh tượng vui vẻ của con người như:
tượng gõ trống, đánh cồng chiêng, giã gạo, người phụ nữ mang bầu, cảnh giao hoan nam nữ, đều liên
quan đến sự sinh sơi…Nhìn những bức tượng này, người xem khơng có cảm giác sợ hãi, mà còn gợi
những triết lý nhân sinh sâu sắc. Cái chết chưa phải là hết, mà còn bắt đầu cho sự sống mới.
-

Họ thường tổ chức chôn cất vào buổi tối bởi người Bana tin rằng đó là thời gian dành cho người
chết

-

Trước kia, người Bana có tục kỳ lạ, khi có người chết thì người đàn ơng trong nhà sẽ cầm dao
rạch vào đùi, còn người đàn bà thì đập đầu vào tường cho chảy máu mới thơi. Nhưng tục đó đã
dần được loại bỏ vì q nguy hiểm.
12


Người Hoa
1.Dân tộc,dân số
- Nhóm địa phương: triều châu, Phúc Kiến, Quảng Đông…
- Dân số: ~823000 người
- Sinh sống chủ yếu ở các vùng: ĐBBB, NB, ĐBSCL
3.Kinh tế
Người Hoa có nhiều phương thức mưu sinh khác nhau.Ở nông thôn,phần lớn sống bằng
trồng trọt,có sự bổ trợ của chăn ni và một vài nghề thủ cơng(đường mía,làm miến dong,mì

sợi…).Bộ phận ở các thành thị sống bằng buôn bán tạp phẩm,thuốc bắc,dịch vụ hoặc mở các
xưởng thủ công,chữa ô tô,xe máy,xe đạp.
a)nông nghiệp


Có thể nói,kĩ thuật canh tác cây trồng của người Hoa khá phát triển.Ruộng nước(thin sủi)của
họ ở miền núi phía Bắc,chủ yếu là ruộng thung lung.Xưa họ canh tác giống lúa(vổ):khẩu
lài,khẩu pét…Nay họ dùng nhiều giống lúa mới cho năng suất cao,tạo điều kiện để nơng dân



Hoa thâm canh,tăng vụ.
Đối với người Hoa,vườn đồi xưa và nay ln có một vị trí đặc biệt quan trọng.Vườn nhà là
loại hình tồn tại ở tất cả các hộ người Hoa ở nông thôn,Vườn của họ thường là trồng cải
xanh(sỉnh xoi),cải bắp(pác xoi),cải trắng(pạc xoi),đậu tương(tâu phu),hành(xếnh),tỏi(sín)….
Bên cạnh ruộng nước và vườn nhà,người Hoa ở trung du,miền núi cũng làm nương rẫy(soi



dìu).Owe đó họ trồng đậu tương(tâu phu),mía(chá),ngơ,khoai sọ,khoai lang,sắn,bầu,bí,…
Trong canh tác nơng nghiệp,người Hoa đã đạt đến trình độ kĩ thuật cao.Họ biết dung nhiều loại

phân như phân chuồng,phân bắc,phân xanh và gần đây là các loại phân hóa học hay phân vi
sinh.Mặt khác,họ cũng rất thành thạo trong việc dung thuốc trừ sâu và các loại kích thích mầm,Họ áp
dụng một chế đọ nông lịch khá chặt chẽ,phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu,thủy văn.
b)chăn ni
Chủ yếu: lợn, gà, chó. Lợn gà được ni chủ yếu phục vụ cho nhu cầu cúng bai,tết lễ,ma chay,cưới
xin hoặc để mổ bán.Mỗi gia đình thường ni một con lợn nái,các lứa lợn sau khi sinh được giữ lại
tồn bộ ni cùng lợn mẹ.Gà được nuôi tương đối phổ biến với số lượng nhiều. Họ chăn ni đại gia
súc (trâu, bị) để cung cấp sức kéo và phân bón cho trồng trọt.Nhiều người Hoa ở Trung du,miền núi

ni ong lấy mật
c)thủ cơng

đa dạng:rèn đúc,đường mía,làm kẹo,làm miến,làm mì gạo,chế tác đồ gỗ… Xưa kia nghề rèn
đúc của họ có thị trường khá rộng: dao,cuốc,liềm…đai và trục kéo mía,yên ngựa,thúng mủng,dần
sang,đồ đánh bắt thủy sản.
13


• Ơ các thành phố,thị xã,…người Hoa mở các xưởng cơ khí,các cơ sở sửa chữa xe cộ,.. nhiều nơi,
họ mở các xưởng sửa chữa tầu thuyền,…Buôn bán vật tư cơ khí,máy móc,vật tư nơng nghiệp…
- ở khu vực rừng núi,họ dung súng kíp,bẫy,nỏ…săn bắt các loại mng thú.
4.Văn hóa vật thể
a)nhà cửa,cơng trình kiến trúc


Đối với nhà cửa,những người làm nghề nơng thường sống thành thơn xóm.Làng thường ở ven chân
núi,trong cánh đồng,trải dài trên bờ biển,gần nguồn nước,giao thơng thuận tiện.Trong làng,nhà ở bố
trí sát nhau theo dịng họ.Ở thành thị,họ thường cư trú thành ngõ,phố.Ở các thị trấn,họ cư trú dọc
theo hai bên đường,tạo thành những dãy phố sầm uất,nhà quay ra mặt đường,mặt tiền của ngôi nhà

thường được sử dụng làm cửa hiệu
• Nhà ở cổ truyền của người dân tộc Hoa có những đặc trưng mang dấu ấn của người phương Bắc rất
rõ.Kiểu nhà “hình cái ấn”là rất điển hình.Nhà thường có năm gian đứng khơng có chái.Bộ khung với
vì kèo đơn giản,tường xây gạch một rất dày.Mái lợp ngói âm dương.Mặt bằng sinh hoạt với nhà
chính bao giờ cũng thụt vào một chút tạo thành một cái hiên đẹp.Gian chính giữa là nơi đặt bàn thờ


tổ tiên,đồng thời cịn là nơi tiếp khách.Các gian bên đều có tường ngăn cách với nhau.
Đến nay nhà của người dân tộc Hoa đã có nhiều thay đổi như có một số kiểu nhà là biến dạng của

nhà cổ truyền.Cũng có những kiểu của nhà người Hoa tiếp thu của người dân tộc Tày hay người
Việt.Nhà cửa thường có 3 loại như nhà 3 gian hai chai,nhà chữ Mơn và chữ Khẩu.Nhà thường xây
bằng đá,gạch mộc hay trình đất,lợp ngói máng hay lá quế,lá tre,phên lứa…Nổi bạt trong nhà ở là các
bàn thờ tổ tiên,dòng họ,thờ Phật và các vị thần cùng các câu đối,,liễn,các giấy hồng chữ Hán với nội
dung cầu phúc,cầu lợi,cầu bình n.
• Loại nhà hiện đại của người Hoa hiện nay,chủ yếu ở các đô thị,được xây duwgj bằng các vật liệu hiện
đại(xi măng,sắt thép,bê tơng…)Những ngơi nhà này đều có mái bằng bê tong,trên có thêm mái
tơn.Những ngơi có phong cách kiến trúc,bố trí mặt bằng sinh hoạt,…rất hiện đại.
b)trang phục
• nam giới bình dân người Hoa gồm:áo cổ truyền(thong choong hay xá xấu),mở phía trước ngực,cài
khuya vải,quần đùi màu đen,dài đến gối…Khi lao động họ mặc quần áo may bằng vải màu đen,đội
nón đan bằng tre có vành rộng,…Xưa kia họ để tóc dài,tết đi sam,nay cắt tóc ngắn như đàn ơng
người Kinh(Việt),một số người bịt răng vàng.Những người khá giả,mặc quần dài may bằng lĩnh
đen,chân đi giầy gấm,đầu đội mũ quả bí,hoặc đội mũ lưỡi trai may bằng nỉ,hoặc dạ.
• phụ nữ: áo slừ khoẳn,5 thân,dài q mơng,khơng có túi,cài khuya vải ở gần nách phải;áo cộc tay,thắt
lưng,quần dây rút,dài tới mắt cá chân;giầy vải(hải)…Trang sức của họ gồm:vòng cổ(hoặc dât
truyền),hoa tai,vòng tay và nhẫn,…bằng vàng,bạc,đồng và đá quý.Một số người nhuộm rang đen,ăn
trầu.
14


• Xưa kia khi làm đám cưới,chú rể người Hoa mặc áo dài,quần dài đều màu đỏ,đội mũ phớt gài hoa
giấy màu vàng;cô dâu mặc áo dài màu đỏ bằng gấm dài sát đất,thắt lung vaair lụa màu chàm
đen,đầu quấn khan vành rế,tay cầm quạt giấy để che mặt.Cả dâu và rể đều quàng một dải khan


hồng,vắt chéo từ vai btrais xuống dưới nách phải,trên ngực áo gài hoa đỏ.
Phụ nữ thường mặc áo cổ viền cao, cài khuy một bên, xẻ tà cao hoặc một chiếc áo "sườn xám" may
dài, ôm ngang hông, xẻ tà dưới phần đùi. Màu sắc trang phục của các thiếu nữ thường thích màu
hồng hoặc màu đỏ, cùng với các sắc màu đậm. Ðàn ông mặc áo màu đen hay xanh đậm, cài khuy vải

một bên, vai liền cổ đứng, xẻ tà hoặc kiểu áo tứ thân, xẻ giữa, cổ đứng, vai liền, có túi.
c)ẩm thực
• lương thực chính là gạo, ngồi ra cịn có mì xào, hủ tiếu... Ở các gia đình bình dân, buổi sáng điểm
tâm bằng cháo trắng với trứng vịt muối, còn những nhà khá giả hơn là hủ tiếu, bánh bao, xíu mại...
Người dân tộc Hoa có kỹ thuật nấu ăn giỏi, thích các món ăn xào mỡ với gia vị.Trong số các đồ ăn
chế biến từ rau củ quả của họ,đáng chú ý là mốn cà nà thầu,đậu phụ…Nước chấm của họ có
hương vị rất riêng,đặc biệt là ma gi(sang xíu),xì dầu(xi dỉu)…
Thức uống của người dân tộc Hoa ngồi tác dụng giải khát cịn là loại thuốc mát, bồi bổ. Các loại trà
sâm, hoa cúc.... Những dịp hội hè, lễ, tết nam giới cũng quen dùng rượu. Thuốc lá được nhiều
người hút, kể cả phụ nữ, nhất là những người phụ nữ có tuổi,trong khi đó phụ nữ Hoa lại khơng
ăn trầu.
5.Văn hóa phi vật thể
a)ngơn ngữ : nhóm ngơn ngữ Hán, ngữ hệ Hán – Tạng
b)tơn giáo,tín ngưỡng
chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tơn giáo lớn như: Phật giáo, Đạo giáo, Khổng giáo. Ngoài ra ở một
số địa phương cịn có sự ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ thành hồng của người Việt. Do việc định
cư xen kẽ với người Việt đã tạo ra sự giao thoa về các yếu tố tín ngưỡng của cả hai dân tộc.
Người Hoa quan niệm thế giới gồm 3 tầng: Tầng trên là tầng trời, ứng với nơi ở của Phật và các
vị thánh thần. Tầng giữa mặt đất ứng với trần thế nơi con người sinh sống quần tụ. Tầng dưới
cùng là dưới mặt đất ứng với nơi dành cho ma quỷ cư ngụ. Thế giới vũ trụ được phân tầng, con
người là chủ của mặt đất nhưng con người là thực thể hiện hữu, ma quỷ thì sống dưới mặt đất
(âm ty) nhưng nó vơ hình nên vẫn lên mặt đất tàng hình quậy phá, tàn hại sinh linh. Thế lực có
thể tiễn trừ được lồi ma quỷ vơ hình đó là đức Phật và chư vị thánh thần. Cho nên mỗi khi con
người bị ma quỷ làm hại thì phải cúng bái cầu xin đức Phật thế âm cùng thánh thần xuống trần
thế trừ dịch. Nhưng nếu con người mà tâm không thiện, hay làm việc ác, xấu xa thì cũng bị các
đấng thần linh trừng trị.
Hơn nữa, đồng bào dân tộc Hoa đều quan niệm vạn vật đều có linh hồn, linh hồn thác khỏi muôn
15



vật đó là sự chết chóc, mà chết rồi thì tất cả đều biến thành ma quỷ. Cho nên trong đời sống tín
ngưỡng của người Hoa có rất nhiều loại ma: Ma sông, ma suối, ma rừng, ma chợ, ma núi, ma
nhà, ma bếp…. Nhưng cũng như các dân tộc khác, người Hoa cũng phân chia làm hai loại: Ma
lành và ma ác. Ma lành (ma tốt, ma giúp người) là loại ma luôn giúp và phù hộ cho con người
mạnh khoẻ, bảo vệ mùa màng, gia súc… Ma ác (ma dữ, ma hại người) luôn quậy phá, làm hại
đời sống bình yên của con người. Mỗi khi con người ốm đau bệnh tật, gia súc dịch bệnh, hoa
màu lúa má hạn hán mất mùa… thì người Hoa đều quan niệm là do ma làm cả. Khi bị ma làm hại
thì phải mời thầy cúng về, vì thầy cúng có phép thuật điều khiển âm binh, cầu xin thần Phật về
giúp đỡ, để diệt trừ xua đuổi tà ma. Ngược lại khi mùa màng bội thu, mưa thuận gió hịa, đời
sống no đủ, an khang thịnh vượng thì vào các dịp lễ tết truyền thống đồng bào lại sắm lễ tạ ơn
Thần, Phật (ma lành).
Ngoài Thần, Phật được xem là ma lành thì ma tổ tiên cũng được gọi là ma lành và được đồng
bào cúng bái rất chu đáo, nghiêm cẩn. Bởi đồng bào quan niệm về cuộc sống con người là kiếp
luân hồi sinh gửi thác về cho nên khi mất đi là lúc được về đoàn tụ cùng tiên tổ.
c)lễ hội
Đối với lễ, tết; trong một năm có nhiều ngày lễ tết khác nhau như tết Nguyên đán(Chít):là tết quan
trọng nhất btrong năm, Nguyên tiêu(Rằm tháng Giêng); Thanh minh(Xểnh mình),tổ chức vào
ngày Mồng Ba tháng Ba;Tết Ðoan ngọ(ửng nhì xó ửng),tổ chức vào ngày Mồng Năm tháng
Năm;Tết Trung nguyên…. Tết Nguyên đán được tổ chức vào những ngày của năm cũ chuyển
sang năm mới theo âm lịch và kéo dài tới ngày rằm tháng giêng (tết Nguyên tiêu). Lễ Nguyên tiêu
là loại lễ đặc trưng trong các loại lễ tết của người dân tộc Hoa; mọi hoạt động tập trung của tín
ngưỡng và văn hố truyền thống đều được biểu hiện trong dịp này.
d)Văn học dân gian
Người Hoa cò kho tàng văn nghệ dân gian phong phú,nhất là dân ca.Hát sơn ca(sán cố),là loại
hình văn nghệ cổ xưa gọ rất u thích.Loại hình dân ca này thường được biểu diễn vào các dịp lễ
tết,đầu xuân.Ngoài sơn ca,người Hoa cịn coa ca kịch,được nhiều người ưa thích.Khi biểu
diễn,họ dung sáo.kèn.tiêu,nhị,đàn tì bà…hồ âm,diễn tấu.Trong các dịp lế tế lớn,họ thường múa
sư tử,múa lân,quyền thuật,vật,cờ người,đanh đu,…

6.Văn hóa xã hội

a)tổ chức làng bản
- cộng đồng người Hoa cư trú khá phân tán,đơng nhất ở thành phố Hồ Chí Minh,rải rác ở các địa
16


phương khác.Trước năm 1945 các thôn trại của người Hoa,các công xã nông thôn,tụ cư trên cơ sở
qua hệ láng giềng.Đó là hình thức xã hội tự quản cao nhất của họ.
-Thời thuộc Pháp,tổn chức xã hội của người Hoa khá chặt chẽ.Tại Việt Nam,cộng đồng người Hoa
có nguồn gốc thuộc một tỉnh ở Trung Hoa,đều thuộc về một bang.Bang là tổ chức tự quản lớn nhất
của người Hoa ở Việt Nam,Mỗi bang có một bang trưởng đứng đầu.Các thơn trại người Hoa đều
thuộc về một bang nào đó,do trưởng trại đứng đầu
b)tổ chức dòng họ
-Dòng họ của người Hoa là hình thức tơng tộc khép kín,huyết thống tính theo dịng cha.Tại những
vùng q cũ,thiết chế dịng họ có truyền thống lâu đời và có tác dụng rất lớn đến đời sống của mỗi gia
đình.Tuy nhiên,với những lưu dân đến Việt Nam lập nghiệp,dịng họ có xu hướng ngày càng xa nhóm
gốc,các chi ngành cũng ngày càng xa nhau.Hầu hết các dịng họ Hoa đều khoonbg có lien hệ với
những người cùng tông tộc ở Trung Hoa.
-Người Hoa coi trọng việc chép gia phả của dịng họ mình
-Đứng đầu mỗi dịng họ có tộc trưởng.Thế lực của các tộc trưởng trong người Hoa còn khá
mạnh,nhất là những tộc trưởng dòng họ lớn.Hàng năm,các dịng họ thường phải đóng góp để cúng
giỗ họ.Tộc trưởng còn là người giữ và ghi chép tộc phả.Cũng trong ngày giỗ họ,các sự kiện lớn trong
năm của dịng họ và mỗi gia đình sẽ được bổ sung vào tộc phả.
c)tổ chức gia đình
-Cho đến trước năm 1954,người Hoa ở một vài nơi vẫn còn tồn tại những gia đình lớn,gồm 3-4 thế
hệ với 30-40 nhân khẩu.Về bản chất,gia đình người Hoa là loại gia đình phụ quyền, hiện tượng đa
thê xưa kia tương đối nhiều.trong gia đình,người cha hay người chồng là người quyết định mọi
việc.Trong gia đình người Hoa,sự rang buộc chặt chẽ nhất thẻ hiện ở mỗi quan hệ cha mẹ,con cái.
7.Phong tục tập quán
a)hôn nhân: do cha mẹ quyết định
-Chế độ hôn nhân một vợ một chồng ở người Hoa khá bền vững.đối với người Hoa,ngoại hơn dịng

họ là ngun tắc bắt buộc,hơn nhân với những người khác dân tộc ít thấy.Họ cũng nghiêm cấm hơn
nhân giữa con cơ-con cậu,con dì-con già,hơn nhân chi em vợ,và hôn nhân anh em chồng…Hôn nhân
của con cái thường do bố mẹ sắp đặt,môn đăng hộ đối được đặt lên hàng đầu.
-.Nạn tảo hôn trước đây phổ biến thì nay hầu như hiếm thấy.So với các dân tộc cận cư(Tày,Chăm…)
tuổi kết hôn của nam nữ thanh niên Hoa cao hơn(nam 22-24,nữ 20-22)
- Quan niệm hôn nhân của người Hoa thuở xưa cũng địi hỏi có sự "mơn đăng hộ đối". Khi một thanh
niên người Hoa vừa ý một cơ gái nào đó thì anh ta về thưa với cha mẹ, sau đó cha mẹ sẽ bàn bạc lại
với nhau, xem cơ gái có ý tứ khơng, có đảm đang việc nhà khơng… rồi sau đó mới quyết định. Và khi
cha mẹ thỏa thuận với nhau rồi mới đem chuyện cưới hỏi bàn với bà con dòng họ. Khi tất cả đều
17


đồng ý thì cha mẹ của chàng trai mới nhờ bà mai sang nhà gái ngỏ lời dạm hỏi. Bà mai phải là người
"mát tay", gia đình hạnh phúc, hịa thuận. Và quan trọng là các đám do bà mai làm mối trước kia phải
có cuộc sống hịa thuận, làm ăn phát đạt thì bà mai đó mới được chọn. Nhiệm vụ của bà mai rất quan
trọng, phải nói tốt cho cả hai đàng, thuyết phục bằng mọi cách để hai bên làm thông gia với nhau.
Trong trường hợp này, có khi người con gái khơng biết mặt người chồng tương lai của mình. Khi nhà
gái đã đồng ý thì bà mai mới về báo lại cho nhà trai là mọi chuyện tốt đẹp, để nhà trai chuẩn bị lễ vật
sang dạm hỏi. Lúc này nhà gái có quyền thách cưới nhà trai. Song, nhà trai có quyền "trả giá", những
lễ vật và tiền cưới thường được thách là có con số 9 ở sau cùng. Vì người Hoa quan niệm con số 9 là
con số tốt, may mắn, cát tường. Lúc này, bà mai đóng vai trị trung gian, "hòa giải" để cuối cùng hai
bên đi đến thỏa thuận. Sau đó tiến hành thêm một số nghi lễ cần thiết nữa, rồi sau đó cử hành hơn lễ.
Lễ vật mà nhà trai ra mắt nhà gái thường được để vào thùng, thúng… khiêng từ nhà trai đến nhà gái.
Trong ngày cưới, gia đình nhà trai chọn giờ tốt để rước dâu, rồi sau đó báo cho nhà gái biết giờ mà
nhà trai đến rước dâu. Khi đi rước dâu, cha mẹ nhà trai không được đi theo. Mà chỉ có bà mai và họ
hàng của nhà trai cùng đi với chú rể. Vì theo họ, đám cưới là của con, con và dâu ăn đời ở kiếp với
nhau, nhiệm vụ của cha mẹ là tổ chức, nên họ không đi theo, mà chỉ ở nhà dọn dẹp nhà của, sửa
soạn để đón dâu. Ngày xưa, khi cơ dâu về nhà chồng thì trên đầu có đội khăn che màu đỏ, phủ cả
mặt, do bà mai cõng hoặc ngồi lên kiệu. Đi đến cổng nhà trai, cả đoàn phải dừng lại, đợi nhà trai đốt
xong tràng pháo chào mừng rồi mới được vào. Trước cổng có gắn bảng "Tân hơn", hai cột cổng có

dán hai câu liễn đối bằng giấy hồng điều, hoặc bằng vải đỏ, với nội dung chúc phúc, chúc những điều
tốt lành. Hai bên cổng có gắn hai lồng đèn màu đỏ hai đầu hướng vào nhau như vịm cổng đón chào.
Có nơi người ta đặt một cà ràng hoặc một nồi lửa nhỏ ở ngạch cửa cho cô dâu bước vào để tống khứ
mọi điều xui xẻo, đón rước những điều tốt lành đến với mình. Hoặc người ta đặt hai lu nước ở hai bên
cửa, người trưởng tộc của nhà trai đứng giữa hai lu nước đó, hai tay cầm hai gáo múc ở hai lu sang
qua, sang lại rồi đưa cho hai ông sui mỗi người hớp một miếng. Ngụ ý, tình cảm chan hịa của hai bên
sui gia, thơng gia giao hảo, bền chặt suốt đời. Đến giờ hành lễ, cô dâu và chú rể bái thiên địa, bái gia
tiên… rồi quay ra tiếp khách. Trong những lúc công việc bận rộn, bạn bè của cơ dâu, hoặc chú rể có
thể cất giấu một vài vật dụng cần thiết của cô dâu, chú rể như: giày dép, trang phục hay vật dụng
trang sức… để bắt buộc cô dâu chú rể làm những việc theo ý mình, như: chú rể phải hơn cơ dâu
trước mặt mọi người, hay chéo tay uống rượu, chú rể đút thức ăn cho cô dâu bằng miệng… hoặc dẫn
bạn bè đi xem phim, hoặc đãi mọi người ăn sau khi hết tuần trăng mật. Đặc biệt trong hôn lễ của
người Hoa, người ta có mua một cặp gà trống, mái thật già, một cặp dừa khô để trong nhà, với mong
ước đôi tân lang và tân giai nhân sẽ sống với nhau đến răng long đầu bạc. Hoặc cúng một con gà
luộc, chéo cánh, miệng ngậm cộng hành sống, với quan niệm gia đình thơng suốt trong tư tưởng,
khơng có sự cãi vã nhau, sống êm đềm, hạnh phú, một cặp vịt trắng, cổ có buộc một sợi chỉ đỏ, cùng
18


vô số liễn đối, cũng màu đỏ dán quanh nhà. Tất cả đều nhằm hướng tới cuộc sống bình an, hạnh
phúc sau này; Chữ "song hỷ" được cắt thật to, bằng chữ Hán, giấy đỏ, dán giữa nhà. Khi cắt, người ta
rất cẩn thận không để bị đứt lằn ngang nối hai chữ "hỷ", vì sợ bị đứt đoạn, chia lìa… Và điều bắt buộc
phải có đối với đơi vợ chồng mới cưới này là, trong đêm động phòng phải có tấm vải trắng lót trên
giường, để xem cơ dâu có cịn trong trắng hay khơng. Ngày nay, trước cuộc sống nhộn nhịp của thời
kinh tế thị trường, người ta khơng có thời gian tổ chức cho đủ lễ, nên một số lễ không cần thiết đã bị
giảm bớt, những hình tượng cát tường cũng như những ý niệm về những điều tốt lành cũng mai một
dần. Sau này, Những nghi thức rườm rà dần dần bị loại bỏ, quan niệm "mơn đăng hộ đối" cũng khơng
cịn thịnh hành. Nam nữ được tự do yêu đương để đi đến hôn nhân. Đám cưới được tổ chức giản tiện
hơn, phù hợp với kinh tế gia đình và đặc điểm địa phương. Khơng câu nệ về hình thức nhưng vẫn
đảm bảo được các nghi thức trọng yếu và vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa Hoa trong sự giao thoa

với văn hóa các dân tộc anh em.
-Theo Lễ ký,cưới xin của các dân tộc Hoa gồm các nghi thức:nạp thái,vấn danh,nạp cát,nạp
trưng,thỉnh kì,thân nghinh.
-Trong đám cưới cổ truyền,cơ dâu mặc xiêm áo màu hồng bẳng gấm thêu.Cơ dâu bới tóc,thoa dầu
bóng,dắt tram hình cành hoa đỏ và lá trắc bá diệp tươi trên đầu đội mũ phụng.Chú rể mặc xiêm áo
bằng gấm hồng theu hình rồng,trên đầu đội mũ quả bí,trên ngực cài bông hoa to.Màu chủ đạo là màu
đỏ tượng trưng cho sự may mắn,hạnh phúc.
c)tang ma
-Theo phong tục của người Hoa,khi có người chết,tang chủ cho người đi mời thầy cúng về tổ chức
đám tang.Đám tang của người Hoa gồm các nghi thức:báo tang,phát tang,khâm liệm,mở đường cho
hồn người chết thốt khỏi trần gian ,chơn cất,đưa hồn người chết về Tây Thiên Phật Quốc,và đoạn
tang.Khi chon cất,họ chú trọng việc chọn ngày,giờ(tránh trùng tang,xui xẻo cho con cháu,…)
- Hấp hối: Khi trong gia đình có ơng, bà hay cha mẹ sắp chết con cháu phải đem người đó đến chỗ
chính tẩm ( nơi trang trọng nhất trong nhà) đặt nằm ngay ngắn hỏi han xem người đó có trăn trối gì
khơng, dùng nước sạch lau cho thân thể, thay quần áo mới. Khi người chết đã trút hơi thở cuối cùng,
thi hài được đặt ngay ngắn giữa nhà, tuy nhiên phải tránh nơi thừa tự, đắp cho người chết từ mặt đến
chân. Người Phúc Kiến không đậy mặt cho người chết tầm liệm, Người Hoa Hải Nam dùng một chiếc
khăn vuông màu đỏ để đậy mặt, người Triều Châu không dùng gối để gối đầu cho người chết mà
dùng hai thỏi giấy tiền vàng mã: một đầu vàng một đầu bạc…
- Y phục cho người chết. Nếu là nam: áo 5 lớp (trắng, xanh,xanh, đỏ, đỏ), nữ: áo 3 lớp
(trắng, xanh, đỏ). Theo phong tục của người Triều Châu, trong gia đình có người trên 60 tuổi thì
19


người ta thường may sẳn quần áo, đề phòng lúc có điều khơng may. Quần áo gồm 5 thứ (3 áo, 2
quần), áo thường là 3 lớp : xanh, trắn, nâu, lớp ngồi cùng màu xanh.
Người Quảng Đơng mặc quần ái cho người chết gồm : 3 quần, 2 áo theo thứ tự trắng, đen,
xanh, xám, tro và một áo bằng vải gấm ở ngoài cùng. Ngoài ra người ta cịn cắt tóc cho người
chết.
- Tang phục của các nhóm người Hoa cũng có nhiều điểm khác nhau. Tang phục của người

Phúc Kiến được phân làm nhiều loại. Đối với con trai: áo dài đến chân khơng có nút, bên ngồi là
một áo nhỏ ngắn (có cài nút vải), con trai cầm gậy bằng dọng, tục xưa mặc áo vải bố bên ngoài
nhưng hiện nay chỉ vá một miếng vải bố tượng trưng. Đối với con gái: cũng mặc áo dài, đội khăn
ba góc, có khâu một miếng vải bố trên khăn. Con rể mặc đồ tang màu trắng nhưng có một chấm
đỏ để phân biệt họ khơng phải là con ruột. Ngồi ra cịn một miếng vải trắng chéo qua thân, ở
giữa chấm màu đỏ. Cháu nội đội khăn xanh có chấm xanh. Cháu nội đức tơn thì mặc áo dài màu
vàng, khăn tang cũng màu vàng có chấm xanh. Cháu ngoại thì khăn tang có chấm đỏ…
Người ta thường tế người chết bằng heo quay, ngũ quả, nhang đèn.. nhiều đám cịn có cả
một đội nhạc. Ban nhạc phải phù hợp với người quá cố. Theo quan niệm của người Phúc Kiến,
nếu người quá cố trên 60 tuổi thì ban nhạc mặc áo đỏ, đầu đội nón lá lớn,vì người trên 60 tuổi thì
tang lễ là đại lễ, nếu ngược chết dưới 60 tuổi thì ban nhạc mặc áo màu xám tro. Ngưới Hải Nam
cho rằng nếu người quá cố trên 60 tuổi thì được cho là tang vui. Người Hoa thường treo đèn lồng
khi trong nhà có người chết. Trên đèn lồng thường ghi tên họ của người chết.
- Động quan: Giờ động quan phải được xem và chọn trước. Khi rước linh cữu lên đường tang
gia phải làm lễ cáo thần bằng các tuần rượu… Đến giờ, các đô tuỳ theo lệnh của một người cầm
sênh, chấp hiệu và gõ nhịp.
Khi linh cửu được chuyển đi chậm rãi thì con, cháu, anh, em.. tay nắm vào quan tài mà khóc
lóc thảm thiết thể hiện lịng thương tiếc vô hạn đối với ngưới chết. Tiếp đến là bạn bè, thân hữu đi
sau. Theo phong tục của người Phúc Kiến, nếu người quá cố trên 80 tuổi thì đây là tang vui, vì
vậy con cháu được đi trước xe tang. Nếu người chết dưới 80 thì là tang buồn, con cháu và mọi
người phải đi sau xe tang. Theo phong tục, lúc đưa quan tài thì con trai cầm bát nhang và cây
dong, con trai thứ cầm hình người quá cố. Còn cháu thường phải bò từ nhà ra đến xe tang. Điều
đó nói lên lịng hiếu thảo của con cháu đối với người quá cố. Người Triều Châu có phong tục là
khi đám tang đi trên đường người ta rắc những thỏi vàng mã bằng giấy, tiền giấy trên đường.
Người Hoa tin rằng việc rắc những thứ đó trên đường để cản ma quỷ vào bu quanh người chết.
Nghi lễ quan trọng nhất của người Triều Châu là nghi lễ qua cầu. Người ta làm một chiếc cầu
bằng giấy, một con sông tượng trưng bằng một thau nước, một rương đựng quần áo. Sau đó, con
cháu người quá cố lần lượt sắp hàng theo thứ tự: con trai cầm lư hương làm động tác qua cầu…
20



lần lượt như vậy cho tới người cuối cùng. Lúc qua cầu người ta rắc tiền xuống cầu và sông. Theo
sự giải đồng bào, lễ qua cầu có ý nghĩa rửa tội cho người chết, tiễn đưa người chết sẽ dùng
những đồng tiền ấy.
- Hạ huyệt: Trước khi hạ huyệt, người ta làm lễ tế thần thổ địa. Đồ lễ gồm: nhang, đèn, trái
cây… Trước giờ hạ huyệt, người ta rắc các loại đậu, khoai môn… xuống huyệt.
- Mở cửa mả: Thông thường người ta mở cửa mả vào ngày thứ ba sau khi chôn. Khi mở của
mả người ta chuẩn bị nhang, đèn, hương hoa.. Sau khi an táng, ngày nào cũng phải cúng cơm
cho người chết đến hết 100 ngày. Sau 49 ngày, gia đình sẽ mời tăng sư đến để tụng kinh sám hối
cầu siêu cho người chết. Người Hoa Phúc Kiến khi làm giỗ chỉ tổ chức trong gia đình mà khơng
mời người ngồi. Người Hoa cho rằng sự báo hiếu đối với ông bà, cha mẹ quan trọng nhất lúc họ
còn sống, khi mất rồi thì ăn uống linh đình là khơng cần thiết.
- Thời gian để tang là 3 năm đối với con trai, con gái là một năm. Trước đây người Phúc Kiến
còn có tục trong thời gian để tang khơng được cạo râu, hớt tóc… gia đình khơng có tiệc vui. Ngày
nay các phong tục như để râu, tóc khơng cịn nữa.
-Xưa kia,họ quàn thi hài trong nhà hàng tuần,nên họ thường cho rất nhiều chè khô vào quan tài.Hiện
nay,khi làm ma,họ chỉ để trong nhà 1-2 ngày.Họ thường chon theo vật dụng của người q cố.Họ
cũng có tục chơn theo người quá cố một nửa chiếc đòn gánh.Sau khi chon cất,họ làm chay cho
người quá cố.

21



×