TRƯỜNG ĐẠI HỌC .. …
…..
….
….
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_OoO_
lơgo
ĐỀ TÀI: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀ SỰ VẬN
DỤNG QUY LUẬT VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA
VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Tiểu luận cuối kỳ
(Mơn học: Triết học Mác – Lênin)
MÃ SỐ LỚP HP:
NHĨM THỰC HIỆN:
BUỔI: chiều thứ
TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC …. ….
…… …..
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_OoO_
ĐỀ TÀI: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀ SỰ VẬN
DỤNG QUY LUẬT VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA
VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Tiểu luận cuối kỳ
(Mơn học: Triết học Mác – Lênin)
GVHD:
SVTH:
TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2020
ĐIỂM: …………
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………
GIÁO VIÊN KÝ TÊN
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................1
1) Lý do chọn đề tài:..................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài:.....................................................................2
B.PHẦN NỘI DUNG......................................................................................3
Chương 1: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC-LENIN VỀ QUY LUẬT
PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH......................................................................3
1.1, Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật...................................3
1.2, Quy luật phủ định của phủ định trong PBCDV................................3
1.3, Nội dung.............................................................................................4
1.4, Ý nghĩa phương pháp luận:...............................................................5
Chương 2: XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN MANG ĐẬM BẢN
SẮC DÂN TỘC..............................................................................................9
1.1, Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập thế giới...............................9
1.2 Vận dụng quy luật vào việc xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc...............................................................................9
1.2.1 Từ những định nghĩa khác nhau về văn hóa và từ quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nổi lên những
đặc trưng cơ bản sau đây:......................................................................11
1.2.2 Sự cần thiết phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.......................................................................................11
1.2.3Đề cương văn hóa Việt Nam là sự khẳng định tư tưởng của Hồ Chí
Minh:......................................................................................................12
1.2.4Những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm14
đà bản sắc văn hóa dân tộc.....................................................................14
1.2.5 Nền văn hóa tiên tiến.....................................................................15
KẾT LUẬN...................................................................................................16
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1) Lý do chọn đề tài:
Trải qua hơn 55 năm trên chặng đường phát triển văn hóa, từ văn kiện đầu
tiên “Đề cương văn hoá năm 1943”, Đảng và nhà nước ta đã tích luỹ kinh
nghiệm thực tiễn và lý luận để lại dấu ấn lịch sử, dấu ấn thời đại về tư duy văn
hố. Khơng phải ngẫu nhiên mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp
hành TW khoá VII Đảng ta đã xác định văn hố khơng chỉ là kết quả mà cịn là
ngun nhân của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Phát triển quan điểm trên, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành TW Đảng khoá
IX tiếp tục xác định mục tiêu cần phải đạt tới là tạo được sự phát triển đồng bộ
về chất lượng văn hoá “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng cao
văn hố - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh
vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và
bền vững của đất nước” (Văn kiện Hội nghị TW 10 khố IX). Nghị quyết Đại
hội Đảng tồn quốc lần thứ X tháng 4 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định: “...Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu
phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua gần 20 năm với đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với công cuộc đổi
mới và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước vững chắc đạt được
những thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng; nền dân chủ XHCN với nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định. Bên cạnh việc hội nhập
kinh tế, tiến trình hội nhập văn hóa cũng là một tất yếu khách quan. Tiến trình
giữa hội nhập kinh tế và hội nhập văn, nếu coi nhẹ hội nhập kinh tế thì đất nước
sẽ chậm thốt nghèo. Cịn coi nhẹ hội nhập văn hóa đơi khi lại nguy hiểm hơn
bởi có thể bị các nền văn hóa khác đồng hóa. Vì vậy bên cạnh chiến lược phát
triển kinh tế, chúng ta cần có chiến lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc
1
dân tộc phù hợp với phát triển kinh tế. Tất nhiên đậm đà bản sắc dân tộc khơng
thể đóng cửa nền văn hóa, mà chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân
loại để làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc của
đất nước mình. Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một
văn hóa cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất tồn cầu hóa và hơi
nhập, tồn cầu hóa như một tất yếu.
Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dân tộc, một dân tộc, nếu không
giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí khơng cịn
dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hố mà cịn là
trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội. Tôi quan tâm và chọn đề tài:
“Quy luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” để làm đề
tài cho tiểu luận này.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về Thế
Giới, về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng
trong lịch sử phát triển của triết học.
Vì vậy khi được dịp nghiên cứu và tiếp cận triết học Mac-Lenin ở một góc độ
sâu hơn, tôi đã nhận thấy ra được rất nhiều điều bổ ích từ chính việc nghiên cứu
này, và tơi cũng mong muốn được chia sẻ một trong số các điều đó trong tiểu
luận này với nội dung là “QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH TRONG
PBCDV CỦA TRIẾT HỌC MAC-LENIN VÀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA
TIÊN TIẾN MANG ĐẬM BẢN SẮC DÂN TỘC”.
B. PHẦN NỘI DUNG
2
Chương 1: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC-LENIN VỀ QUY LUẬT PHỦ
ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH.
1.1, Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật
Trong chủ nghĩa Mac-Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối
liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo qui luật của các sự
vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, trong
đó biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất; còn biện chứng
chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con
người.
Theo Ăngghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong tồn bộ
giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là
sự phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên…”
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lý, qui luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy,
phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập
với phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới
trong trạng thái cô lập và bất biến.
1.2, Quy luật phủ định của phủ định trong PBCDV
Phủ định có thể hiểu là sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất
đi, đượcthay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này
bằng hình thái tồntại khác của cùng một sự vật trong q trình vận động phát
triển của nó. Mọi q trìnhvận động và phát triển trong các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội hay tư duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là
mắt khâu của quá trình dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ Mọi quá
trình vận động và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn
3
rathơng qua những sự thay thế, trong đó có sự thay thế chấm dứt sự phát triển,
nhưng cũng có sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triẻn của
sự vật. Nhữngsự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề cho qúa trình phát triển của sự
vất thì gọi là phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng khơng bao hàm mọi sự phủ định nói chung mà nó chỉ
bao hàm những phủ định là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong sự
vật, hiện tượng tạo ra bước nhảy về chất, tạo tiền để, điều kiện cho sự phát triển,
cái mới ra đời thay thế cái cũ.
1.3, Nội dung
Đây là 1 trong 3 qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó phản ánh
về khuynhhướng chung của sự vận động phát triển và tiến lên thơng qua 1 chu kì
phủ định biện chứng thì sự vật hiện tượngmới sẽ ra đời thay thế cho sự vật hiện
tượng cũ nhưng ở trình độ cao hơn cái cũ.
Trong quá trình vận động và phát triển, sự vật mới được ra đời trên cơ sở
khẳng địnhvà phủ định sự vật cũ. Khi hai mặt mâu thuẫn đấu tranh với nhau mà
vượt qua giới hạn độ thì sự vật mới ra đời, phủ định biện chứng có mặt. Thế
nhưng sự vật khơng dừng lại ở đó mà nó lại tiếp tục đấu tranh giữa các mặt mâu
thuẫn mới và một lần nữa cái mới đó bị cái mới hơn phủ định. Quá trình phủ
định hai lần đó được gọi là Phủ định của phủ định và từ đây “sự vật mới hoàn
thành một chu kỳ phát triển”. Ví dụ: Sự phát triển tuần hồn thành vịng của quả
thông.
Quy luật phát triển liên tục, điểm kết thúc của chu kỳ này lại là điểm bắt đầu
của mộtchu kỳ mới. Do vậy, kết quả phủ định cái phủ định ln ln bao giờ
cũng có hình thức mới hơn, có nội dung tồn diện và phong phú hơn những cái
ban đầu.
Qui luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự
phát triển: đó khơng phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng,
mà phát triển theohình thức con đường “xốy ốc”. Lênin đã khái quát con đường
4
đó như sau: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới
một hình thức khác, ở mộttrình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát
triển có thể nói là theo đường trịnxốy ốc chứ không phải theo con đường
thẳng…”
Khuynh hướng phát triển theo đường xốy ốc thể hiện tính chất biện chứng
của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vịng mới
của đường xốy ốc phản ánh q trình phát triển vơ tận tù thấp đến cao của sự
vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định
biện chứng đã đóng vai trị là những “vịng khâu” của q trình đó.
Từ sự phân tích đã được nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ bản
của quy luật phủ định của phủ định như sau:
Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái
khẳng định vàcái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát
triển; nó bảo tồnnội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung thêm
những thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi theo đường "xoáy ốc".
1.4, Ý nghĩa phương pháp luận:
a) Khái quát phương pháp luận: hiện nay, có nhiều cách hiểu gần giống
nhau về phương pháp luận. Có ba cách hiểu phổ biến nhất:
+ Luận về một phương pháp
+ Hệ thống các phương pháp
+ Khoa học hoặc lý thuyết về phương pháp
Nếu xác định vị trí, thì phương pháp luận “là một bộ phận của logic học,
nhằm nghiên cứu một cách hậu nghiệm về các phương pháp”.
Phương pháp luận không đề xuất, tạo ra các phương pháp, nó chỉ chọn
lọc hoặc tổng hợp những phương pháp. “Đứng trước những con đường khác
nhau dẫn đến cùng một mục tiêu, phương pháp luận sẽ chỉ cho ta con đường
nào là con đường ngắn nhất, tốt nhất”.
5
Như vậy, phương pháp luận được hiểu là hệ thống các nguyên lý, quan
điểm (trước hết là những nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan)
làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các phương pháp, xác định phạm
vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu
tìm tịi cũng như việc lựa chọn, vận dụng phương pháp. Nói cách khác thì
phương pháp luận chính là lý luận về phương pháp, bao hàm hệ thống các
phương pháp, thế giới quan và nhân sinh quan của người sử dụng phương
pháp và các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đã đặt ra có hiệu quả cao
nhất.
Cũng như phương pháp, có thể phân ra các cấp độ phương pháp luận.
Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau: phương pháp luận ngành là
phương pháp luận của các ngành khoa học cụ thể; phương pháp luận chung
là các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định
phương pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên
cứu chung nào đó; phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết
học) khái quát các quan điểm, nguyên tắc chung nhất làm cơ sở cho việc xác
định các phương pháp luận ngành, chung và các phương pháp hoạt động cụ
thể của nhận thức và thực tiễn. Vì phương pháp luận mang tính lý luận cao
nên nó có màu sắc triết học, tuy nhiên, không thể đồng nhất phương pháp
luận và phương pháp luận triết học.
Phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin đáp ứng những đòi hỏi của
nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt động cải tạo và xây dựng thế giới
mới.
Qua phân tích các khái niệm, phương pháp chính là cách thức con người
sử dụng để đạt được những mục đích đặt ra; phương pháp hệ là nhóm các
cách thức con người sử dụng để hồn thành những nhiệm vụ, thơng thường
nó liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học. Phương pháp và phương
pháp hệ gắn trực tiếp với quá trình hoạt động thực tiễn. Còn phương pháp
6
luận là lý luận về phương pháp, nghĩa là nó gắn liền với q trình tư duy,
khơng trực tiếp đến hoạt động thực tiễn được đề ra. Điểm phân biệt giữa
phương pháp luận và phương pháp luận triết học chính là phân loại cấp độ.
b) Vai trò hay ý nghĩa của phương pháp luận:
Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn thể
hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các
phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trị
định hướng trong q trình tìm tịi, lựa chọn và vận dụng phương pháp.
Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó, triết học đóng vai trị
là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học giữ vai trò định hướng cho
quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan đúng đắn mới chỉ là một mặt của
triết học Mác - Lênin. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con
người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, triết học thực
hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận của triết
học Mác - Lênin đã góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Chính vì những điều trên, trong quá trình giảng dạy triết học, giảng viên
cần phải chú trọng hơn vào phần ý nghĩa phương pháp luận, tập trung làm rõ
nội dung ý nghĩa phương pháp luận.
Trong kết cấu, phần ý nghĩa phương pháp luận nằm ở cuối bài, ngay sau
phần nội dung. Phần này định hướng cho học viên áp dụng kiến thức lý luận
đã học vào trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo logic thì đây chính
là phần cần thiết nhất, phục vụ trực tiếp cho người học. Học viên cần phải
nắm vững và ghi nhớ phần này. Để làm được điều đó, giảng viên cần phải
chỉ rõ cơ sở lý luận để rút ra ý nghĩa phương pháp luận đó, như thế học viên
mới có cơ sở để thừa nhận ý nghĩa phương pháp luận đó bằng sự hiểu biết có
7
cơ sở khoa học chứ không phải bằng sự áp đặt. Cơ sở của ý nghĩa thường
nằm ở phần nội dung, chẳng hạn cơ sở của quan điểm khách quan chính là
tính thứ nhất của vật chất, cơ sở của quan điểm toàn diện là ở mối liên hệ
phổ biến. Vì vậy, giảng viên cần phải chỉ ra mối liên hệ giữa nội dung và
phần ý nghĩa, qua đó, họ viên có sự liên tưởng logic hơn.
Khi giảng nội dung ý nghĩa phương pháp luận, giảng viên cần lấy ví dụ
để làm rõ nội dung. Từ một hiện tượng, nhiệm vụ cụ thể, giảng viên phải chỉ
ra trong nhận thức học viên cần phải như thế nào, và có những hành động gì
để hiện thực hóa lý luận đã học. Ví dụ: từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,
giảng viên phải chỉ cho học viên quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong
nhận thức, đồng thời phải có những tác động vào từng mối liên hệ, có trọng
tâm trọng điểm, tránh cào bằng, dàn trãi trong hành động. Đồng thời với đó,
giảng viên chỉ ra những quan điểm đối lập, những hạn chế cần phải khắc
phục trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Ví dụ: trong khi nhấn mạnh vai
trị của thực tiễn thì phải chỉ ra cách phòng chống bệnh kinh nghiệm, đề cao
vai trị lý luận thì phải tránh bệnh giáo điều, …
Những luận điểm trên đã minh chứng phải hiểu đúng và phương pháp và
phương pháp luận, từ đó có thái độ đúng đắn với phương pháp luận triết học
Mác – Lênin, đồng thời giúp học viên học chương trình Trung cấp LLCTHC ở các trường chính trị có cách nhìn các sự vật, hiện tượng trong đời sống
kinh tế - xã hội và có cách giải thích, giải quyết hợp lý, cách biến tư duy
thành hành động, biến lý luận khoa học thành thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã
hội
8
Chương 2: XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN MANG ĐẬM BẢN
SẮC DÂN TỘC
1.1, Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập thế giới
Việc chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN yêu
cầu Việt Nam trường định hướng XHCN yêu cầu Việt Nam phải hội nhập kinh
tế quốc tế phải hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, thì xu hướng tồn cầu hố
hiện nay u cầu thì xu hướng tồn cầu hố hiện nay u cầu các quốc gia
không chỉ giao lưu về kinh tế mà các quốc gia khơng chỉ giao lưu về kinh tế mà
cịn về nhiều mặt khác như văn hố, xã hội, cịn về nhiều mặt khác như văn hố,
xã hội, mơi trường,...mơi trường,...Trong thời đại hội nhập thì việc hồ nhập mà
Trong thời đại hội nhập thì việc hồ nhập mà khơng bị hồ tan là một vấn đề
lớn, việc đó chỉ khơng bị hồ tan là một vấn đề lớn, việc đó chỉ có thể thực hiện
được nhờ phát triển bền vững có thể thực hiện được nhờ phát triển bền vững bản
sắc văn hoá truyền thống của dân tộcbản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc..
1.2 Vận dụng quy luật vào việc xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần
lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ thay thế
cái lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những cái gì tích cực của
cái cũ. Và phủ định của phủ định là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề
cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ.
Trong công tác, chúng ta cần phải biết phát hiện ra và quý trong cái mới,
phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới, mặc dù lúc đầu nó cịn ít ỏi,
yếu ớt, phải ra sức bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến
thắng cái cũ. Và trong q trình đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc,
biết giữ lấy những cái gì là tích cực, là có giá trị của cái cũ cho phù hợp với điều
kiện mới, phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sử,
đánh giá quá khứ.
9
Phủ định của phủ định được thực hiện thông qua giải quyết mâu thuẫn. Vì
nguyên nhân của phủ định của phủ định là do những mâu thuẫn nội tại của sự
vật, hiện tượng quy định. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật sẽ
đưa đến sự chuyển hóa lẫn nhau, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Q trình đó
diễn ra thường xun ngồi ý muốn của con người và đó cũng là yếu tố tất yếu
của sự phát triển. Phủ định biến chứng là sự phủ định mang tính khách quan. Đó
là sự tự phủ định của sự vật và hiện tượng không phải do chủ quan của con
người, cũng không phải do Thượng đế hay Chúa điều khiển.
Trong thực tế, sự phát triển có cả bước tiến lẫn bước thụt lùi, cả tiến bộ lẫn
thối hóa, sự phát triển đơi khi khơng phải là một đường thẳng tắp mà đơi khi có
bước quanh co, thụt lùi tạm thời. Ở đây chúng tôi muốn nói nhấn mạnh sự ra đời
của cái mới trên cơ sở của cái cũ, nhưng cái mới sẽ có trình độ phát triển cao
hơn trình độ mà cái cũ đã đạt được và quá trình cái mới phủ định cái cũ để
khẳng định sự tồn tại của nó khơng phải là q trình đơn giản và nhanh chóng.
Mức độ ảnh hưởng của cái cũ trong hiện thực, quá trình ra đời cái mới, điều kiện
khách quan và chủ quan để cái mới ra đời thay thế cho cái cũ.
Tất cả những điều đó sẽ quyết định q trình tự phủ định cái cũ và khảng
định cái mới là quá trình lâu dài.
Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, là sự phủ định có tính chất kế thừa,
nó khơng làm cho sự vật cũ bị diệt vong hay biến mất hồn tồn. Nó là sự phủ
định có giữ lại, có bảo tồn. Cái cũ và cái mới khơng tuyệt đối tách rời, đối lập
nhau mà có sự gắn liền giai đoạn sau với giai đoạn trước, bằng cách bảo tồn
những mặt tích cực của giai đoạn trước, cải biến và chuyển hóa nó trong giai
đoạn sau.
Điều đó địi hỏi chúng ta khi vận dụng quan điểm biện chứng mác- xít về
phủ định biện chứng trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc phải biết phát hiện cái mới, cái hợp quy luật, nhưng đồng thời cũng
phải thấy được những cái “mới” không phải được áp đặt từ đâu đó vào mà nó là
10
kết quả của phủ định biện chứng. Đồng thời phải chống lại những thái độ phủ
định sạch trơn, hoặc kế thừa một cách nguyên si, cản trở tới sự phát triển văn
hóa của đất nước cũng như của từng dân tộc. Vấn đề là ở chỗ phải biết kế thừa
có phê phán, có chọn lọc những cái vốn là tinh hoa văn hóa nhân loại, sử dụng
chúng như là tiền đề nảy sinh cái mới, tiến bộ hơn trong sự vận động tiến lên của
văn hóa dân tộc
1.2.1 Từ những định nghĩa khác nhau về văn hóa và từ quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nổi lên những đặc
trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, văn hóa là phản ánh những giá trị nhân văn. Văn hóa được hình
thành và phát triển trong mối quan hệ cải tạo với tự nhiên và đấu tranh xây dựng
xã hội. Do đó bản chất của văn hóa là phản ánh các giá trị nhân văn là xử lý mối
quan hệ giữa con người với con người, đề cao giá trị của con người.
Thứ hai, văn hóa mang tính dân tộc. Văn hố mang bản chất nhân văn nhưng
lại mang bản sắc riêng của từng dân tộc và dấu ấn riêng của từng giai cấp.
Thứ ba, văn hóa cịn được thể hiện trong sự giao lưu văn hóa giữa các dân
tộc giữa các quốc gia.
Thứ tư, văn hóa là một hiện tượng mang tính lịch sử. Trải qua mỗi thời kì
lịch sử sẽ có một nền văn hóa tương ứng với mỗi thời kì lịch sử đó.
1.2.2 Sự cần thiết phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
Trong suốt chặng đường lãnh đạo nhân dân, tiến hành thắng lợi các cuộc
kháng chiến chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm toàn diện, nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị và
sức mạnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Ý thức rõ về
sức mạnh văn hóa đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của đế
quốc xâm lược, “Đề cương văn hóa Việt Nam” tháng 2 năm 1943 - Cương lĩnh
văn hoá đầu tiên của Đảng đã ra đời, làm nền tảng lý luận cho sự nghiệp xây
11
dựng nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc những năm tiếp theo, xác định: văn
hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa vì vậy, phải hồn thành
cách mạng văn hóa mới hồn thành được cơng cuộc cải tạo xã hội và “Đảng tiên
phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong”; đồng thời Đảng ta cũng xác định nền
văn hóa Việt Nam có ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Tính chất “khoa
học” cũng chính là nói tới tính tiên tiến của văn hóa.
1.2.3 Đề cương văn hóa Việt Nam là sự khẳng định tư tưởng của Hồ Chí
Minh:
Văn hố “soi đường cho quốc dân đi”, góp phần động viên, tập hợp đội ngũ
trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu quốc, tạo sức mạnh to lớn làm nên
cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Trong cuộc
kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược, sức mạnh nội sinh của văn hóa được
phát huy mạnh mẽ, trở thành niềm cổ vũ to lớn chiến sĩ và nhân dân ta. Trên nền
tảng văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời đại, những tác phẩm thơ, văn, ca,
múa, nhạc, họa được sáng tác, phục vụ kịp thời, tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc,
thôi thúc phong trào thi đua mạnh mẽ giữa tiền tuyến và hậu phương, góp phần
giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thời kỳ hịa bình, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội IV của Đảng
đã tiếp tục khẳng định: Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó tập
trung “Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa” với những
giá trị đạo đức, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống cao đẹp.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới tồn diện về kinh tế,
chính trị, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Đảng đã chủ trương đổi mới tư
duy trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 05 về văn hóa-văn nghệ trong cơ chế thị trường và những chỉ thị quan
trọng về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học - nghệ thuật, công tác
quản lý văn học - nghệ thuật và một số nhiệm vụ văn hóa - văn nghệ. Đến Hội
12
nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) tháng 7 năm 1998, Đảng ra Nghị quyết chuyên
đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, khẳng định vai
trị của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước. “Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội” với mục đích “Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn
bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra
trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp [8, tr.50]. Hội nghị Trung ương 10
(Khóa IX) khẳng định: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện
quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”[10,
tr.114 - 115]; Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát
triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn
hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”[11,tr.106].
Trong quá trình hội nhập và phát triển, bên cạnh những cơ hội thuận lợi,
Đảng ta đã ý thức về tính chất nguy hiểm trước vấn nạn của “luồng văn hóa độc
hại” xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường khác nhau, kịp thời ban hành
Nghị quyết 23 –NQ/TƯ: Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới và Chỉ thị số 46-CT/TƯ của Ban Bí Thư Trung ương Đảng,
định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ
“bản sắc văn hố” trong thời kỳ hội nhập quốc tế; yêu cầu các Cấp ủy Đảng,
Chính quyền, Mặt trận, Đồn thể và đội ngũ đảng viên, cán bộ chung tay góp
sức, kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn
hóa độc hại, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội.
13
Tiếp thu và phát triển đường lối văn hóa của Đảng, Dự thảo Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung và phát
triển trong năm 2011 đã nêu lên định hướng về văn hóa đó là: Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh
nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn
hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa của nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao. Những năm qua, lĩnh vực văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống - lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có
những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, do những tác động tiêu cực từ mặt trái
của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, lĩnh vực văn hóa cũng đã bộc lộ
những hạn chế nhất định, tác động khơng nhỏ đến văn hóa truyền thống của dân
tộc. Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh
tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những
nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng
Đảng. Tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, coi thường pháp luật,
…. những biểu hiện “thương mại hóa", xu hướng vọng ngoại, lai căng, xa rời
bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc ở một bộ phận chưa được ngăn chặn một
cách hữu hiệu. Những sáng tạo văn học nghệ thuật mới có giá trị nghệ thuật cao
chưa nhiều. Thực trạng đó là những nguy cơ tiềm ẩn làm xói mịn văn hóa - nền
tảng tinh thần của xã hội, làm cản trở bước đường đi tới hạnh phúc và phồn vinh
của dân tộc ta. Chính vì vậy, việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc trong thời đại mới là vấn đề quan trọng có ý nghĩa hàng đầu.
14
1.2.4 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN
ĐẬM
ĐÀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu cơ
giữa tính tiên tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của việc tổng
kết kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm qua. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể,
Đảng ta đều đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, phù hợp với yêu
cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa
khơng mâu thuẫn với bản sắc văn hóa dân tộc, ngược lại, hai đặc tính thống nhất
biện chứng với nhau, tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Tuy nhiên, để tìm
hiểu đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có thể
cần làm rõ từng nội dung “tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc”.
1.2.5 NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN
Việt Nam là nước đang trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó
chúng ta có lợi thế là có điều kiện học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu,
phù hợp với đất nước từ các nước đi trước. Trong bối cảnh đó địi hỏi chúng ta
phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến, phù hợp với giai đoạn phát triển mới của
đất nước. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII) đã xác định,
bản sắc văn hóa dân tộc không được tách rời, càng không thể đối lập với tính
tiên tiến của nền văn hóa nhân loại. Tính tiên tiến và văn hóa dân tộc phải gắn
liền, thống nhất hữu cơ với nhau.
15
KẾT LUẬN
Quy luật phủ định của phủ định mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
mọi hoạt động thực tiễn. Nó khẳng định thêm tính đúng đắn, chắc chắn của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt trong q trình phát
triển của Việt Nam khơng gì khác là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Quy luật khẳng định niềm tin
vào xu hướng tất yếu là phat triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của
thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng.
16
17
Tài liệu tham khảo
Trang web:
+ www.linux.org
+ www.microsoft.com
+ www.en.wikipedia.org/wiki/Ms-Dos
Tài liệu:
+ HCM toàn tập, tập 7 NXB sự thật, Hà Nội,1978.
+ Lênin toàn tập, tập 29 trang 230 NXB Tiến Bộ.
+ TS. Lê Thanh Sinh, “Triết học thực tiễn” (tập II) (trang 5-50), NXB
tổng hợp TP.HCM.
+ PGS. Vũ Ngọc Pha “Triết học Mac- Lênin” (tập I) ( trang 5-6 ).
HẾT
2