ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------NGUYỄN THỊ LIÊN
CON NGƯỜI VÀ THƠ VĂN PHAN THANH GIẢN –
150 NĂM NGHỊ LUẬN, PHẨM BÌNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.23.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh, 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------NGUYỄN THỊ LIÊN
CON NGƯỜI VÀ THƠ VĂN PHAN THANH GIẢN –
150 NĂM NGHỊ LUẬN, PHẨM BÌNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.23.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN: TS. LÊ QUANG TRƯỜNG
Thành phố Hồ Chí Minh, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan:
Những nội dung được trình bày trong luận văn này là cơng trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Quang Trường.
Các tham khảo, trích dẫn sử dụng trong luận văn có ghi nguồn gốc cụ thể
(tên tác giả, tên cơng trình, thời gian, hình thức cơng bố).
Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, tơi xin chịu hồn tồn
trách nhiệm.
Học viên
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình học tập và hồn thành luận văn này, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của quý thầy cô, anh chị, bạn bè. Xin bày tỏ lòng
cảm ơn chân thành và sâu sắc tới:
Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường
Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
TS. Lê Quang Trường – cán bộ hướng dẫn, đã nhiệt tình đã chỉ dẫn, giúp
đỡ, động viên và khuyến khích để tơi có thể hồn thành luận văn này.
Ban Giám hiệu, Trung tâm Thông tin của Trường Đại học Văn Lang – nơi
tôi đang công tác – đã tạo điều kiện về mặt thời gian và công việc để tôi thực hiện
luận văn.
Hậu duệ của cụ Phan Thanh Giản: bà Phan Thanh Ty Ty, gia đình luật sư
Trần Phan Việt Dũng, chú Trương Quang Thao đã cung cấp nhiều thông tin, tư liệu
về cụ Phan Thanh Giản.
Chú Trần Văn Sung – Trưởng Ban Quý tế Lăng Ông Lê Văn Duyệt đã tạo
điều kiện giúp đỡ nhiều về mặt tư liệu về cụ Phan Thanh Giản.
Gia đình và bạn bè – những người đã động viên tơi học tập, làm việc và
hồn thành luận văn.
CÁC QUY ĐỊNH, KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
Tp. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
H. : Hà Nội
ĐH
: Đại học
ĐHQG : Đại học Quốc gia
KHXH : Khoa học Xã hội
KHXH&NV
: Khoa học Xã hội và Nhân văn
NXB
: Nhà xuất bản
tr. : trang
bs : biên soạn
bk : biên khảo
sđd
: sách đã dẫn
cb : chủ biên
LV
: Luận văn
MỤC LỤC
DẪN NHẬP .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Đối tượng, phạm vi của đề tài ........................................................................... 2
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 12
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 12
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 13
Chương 1 ................................................................................................................ 14
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................................. 14
1.1. Vài nét về Lý thuyết tiếp nhận ......................................................................... 15
1.2. Bối cảnh lịch sử và thân thế sự nghiệp, thơ văn Phan Thanh Giản ................. 17
1.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội thế kỷ XIX ........................................................ 17
1.2.2. Thân thế, sự nghiệp và tư tưởng Phan Thanh Giản................................... 20
Chương 2 ................................................................................................................ 54
LỊCH SỬ TIẾP NHẬN VẤN ĐỀ CON NGƯỜI PHAN THANH GIẢN ........ 54
2.1. Nghị luận và phẩm bình về Phan Thanh Giản giai đoạn 1867 – 1954 ............ 54
2.2. Nghị luận, phẩm bình về Phan Thanh Giản giai đoạn 1955 - 1975................. 79
2.3. Nghị luận, phẩm bình về Phan Thanh Giản giai đoạn 1976 - 1986................. 90
2.4. Nghị luận, phẩm bình về Phan Thanh Giản giai đoạn 1986 - nay ................... 93
Chương 3 .............................................................................................................. 107
LỊCH SỬ TIẾP NHẬN THƠ VĂN PHAN THANH GIẢN ............................ 107
3.1. Nghị luận, phẩm bình thơ văn Phan Thanh Giản giai đoạn 1867 - 1886 ...... 107
3.2. Nghị luận, phẩm bình thơ văn Phan Thanh Giản giai đoạn 1886 - 1954 ...... 114
3.3. Nghị luận, phẩm bình thơ văn Phan Thanh Giản giai đoạn 1954 - 1975 ...... 118
3.4. Nghị luận, phẩm bình thơ văn Phan Thanh Giản giai đoạn 1975 - 1986 ...... 126
3.5. Nghị luận, phẩm bình thơ văn Phan Thanh Giản giai đoạn 1986 - 2016 ...... 127
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 140
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 144
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
“Văn học triều Nguyễn như miếng vá gấm trong một chiếc áo đã cũ kỹ, mục
nát”. PGS.TS. Đồn Lê Giang đã lấy hình ảnh đó để nói về văn học triều Nguyễn,
trong một chuyên đề về văn học trung đại, khiến chúng tôi ấn tượng, nhớ mãi.
Hơm nay, có cơ hội tìm hiểu sâu hơn giai đoạn này, qua trường hợp tác giả Phan
Thanh Giản, chúng tơi thấy nhận xét trên là có cơ sở, thuyết phục. Công – tội của
Triều Nguyễn thế nào, các nhà sử học đã có những cơng trình nghiên cứu chuyên
sâu, xin không luận bàn ở đây, nhưng những đóng góp của triều Nguyễn về mặt
văn hóa, đặc biệt là về văn học đạt đến trình độ mẫu mực, nhất là thơ ca, ở cả chữ
Hán và chữ Nôm, là điều khơng thể phủ nhận. Những cơng trình, tuyển tập lớn,
những tác giả lớn của văn học Việt Nam như vua Tự Đức, Tùng Thiện Vương
Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên Trinh, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá
Quát, Nguyễn Công Trứ… đều xuất hiện trong giai đoạn này. Thế nhưng thực tế,
giới nghiên cứu hầu như đã “cày nát” mảnh đất văn học Đàng Ngoài (văn học Bắc
Hà), còn văn học Đàng Trong – miền đất mới – văn học Nam Hà hầu như còn bỏ
ngỏ. Phan Thanh Giản là một trong số đó.
Phan Thanh Giản (1796 -1867), sinh ra và lớn lên trong bối cảnh lịch sử
phức tạp của thế kỷ XIX, thời điểm cả thế giới và Việt Nam đều có những biến
động lớn. Ơng là người Nam Kỳ đầu tiên đậu tiến sĩ, bước vào hoạn lộ hanh thông
ở cả ba triều vua bắt đầu từ tài năng văn chương thi phú. Làm quan trong bối cảnh
ấy, Phan Thanh Giản đã chứng tỏ được năng lực, thể hiện được phẩm chất của một
vị quan tốt, nhưng cũng bộc lộ những hạn chế về tư tưởng, đưa đến cách hành xử
khó hiểu, gây nên tấn thảm kịch của đất nước và bi kịch cho chính mình.
Phan Thanh Giản mất ngày nay đã 149 năm tròn, nhưng những phẩm bình
về con người và thơ văn của ơng vẫn chưa có một sự nhận định thống nhất, một kết
luận cụ thể, sau cùng. Cái nhìn của người đương thời và hậu thế về Phan Thanh
Giản luôn chứa đựng sự đa chiều, các sắc thái cung bậc theo đó cũng đa dạng, từ
khen – chê cho tới yêu – hận, các khuynh hướng đan xen như một bức tranh với
những mảng màu sáng – tối khác nhau. Và hôm nay, đề tài về Phan Thanh Giản
vẫn mang tính thời sự và có sức hút với giới nghiên cứu nhiều khoa học xã hội.
1
Phải chăng vì Phan Thanh Giản có cuộc đời thăng trầm, kèm theo hành trạng tương
đối phức tạp, nhất là cách hành xử những năm cuối đời khởi đi từ việc ký Hịa ước
1862 “cắt” ba tỉnh miền Đơng Nam Kỳ và năm năm sau gián tiếp để mất ba tỉnh
miền Tây Nam Kỳ (1867) để rồi tự xử mình bằng chén thuốc độc và lời trối lúc
cuối đời gây nhiều tranh cãi suốt từ ngày ơng mất đến nay.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Con người và thơ văn Phan
Thanh Giản – 150 năm nghị luận, phẩm bình để nghiên cứu và thực hiện luận văn
này, với mục đích cung cấp cái nhìn tổng quan xoay quanh câu chuyện nghị luận,
phẩm bình về con người, thơ văn của một tác giả triều Nguyễn, bị bỏ ngỏ lâu nay.
2. Đối tượng, phạm vi của đề tài
Với đề tài Con người và thơ văn Phan Thanh Giản – 150 năm nghị luận,
phẩm bình, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu chính là những phẩm bình của
người đương thời và hậu thế về Phan Thanh Giản và thơ văn của ơng. Phạm vi
nghiên cứu là tồn bộ phẩm bình về Phan Thanh Giản ở khía cạnh là một tác giả
văn học và những phẩm bình về thơ văn của ông từ năm 1867 đến nay.
Con người Phan Thanh Giản có thể hiểu trên hai bình diện: một nhân vật
lịch sử sống trong bối cảnh chính trị phức tạp triều Nguyễn, hai là một tác gia văn
học triều Nguyễn. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu ở bình diện thứ hai của ông,
nghĩa là chỉ dừng lại ở phạm vi thơ, văn viết về ông trong gần hai thế kỷ qua, dưới
góc nhìn của “tịa án” văn học, văn hóa, có điểm lược và liên hệ với con người
Phan Thanh Giản ở bình diện thứ nhất - con người lịch sử - văn hóa.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1. Nghiên cứu Phan Thanh Giản ở góc độ con người lịch sử - văn hóa
Nghiên cứu về Phan Thanh Giản trước 1975, có nhiều quan điểm khác
nhau, thậm chí đối lập. Chúng tơi có thể điểm một số cơng trình đáng chú ý sau:
Đầu tiên, chúng ta có thể kể đến nhận xét của người đương thời về Phan
Thanh Giản, nhất là sau sự kiện Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử năm1867.
Trong các cơng trình sử học của Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam
thực lục chính biên, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam thực lục… viết về Phan Thanh
Giản là một vị quan đầu triều, có những tính cách nổi bật: liêm khiết, chun tâm
2
với cơng việc, ơn hịa, khiêm nhường, được trọng dụng ở cả ba triều vua – Minh
Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Nhưng sự đánh giá Phan Thanh Giản ở ba nhân vật này
cũng đã có sự khác nhau ở từng người, và trong mỗi người trong từng thời điểm
khác nhau cũng có sự đánh giá khác nhau. Sau vua là các đình thần, và nhà nho –
trí thức đương thời cũng có sự đánh giá khơng giống nhau về Phan Thanh Giản.
Giới quan chức người Pháp, cái nhìn về Phan Thanh Giản cũng không thống nhất.
Trong số nhà nho – trí thức đương thời thuở ấy, tiêu biểu là Nguyễn Đình
Chiểu – người vốn rất rạch rịi giữa địch và ta. Khi Phan Thanh Giản mất, Đồ
Chiểu đã viết Điếu Đông các Đại học sĩ Phan Công nhị thủ (một bài thơ chữ Nôm
và một bài thơ chữ Hán), sau đó trong bài Điếu Phan Tịng và sau này trong Văn tế
lục tỉnh nghĩa sĩ trận vong đều nhắc đến Phan Thanh Giản, là một người đáng được
trân trọng. Đây là một trường hợp khiến chúng ta suy nghĩ, trăn trở nhiều.
Sang thế kỷ XX, một trong những cơng trình sử học đầu tiên đề cập đến
Phan Thanh Giản là bài viết “Ngài Phan Thanh Giản – Thượng Thư An Nam
(1789-1867)” của Tuần vũ tỉnh Quảng Trị - Đào Thái Hanh, trích in trong cuốn
Những người bạn cố đơ Huế (Bulletin des Amis du Vieux Hué), tập 2, 1915. Đây là
một bài viết chi tiết về cuộc đời, thâu tóm con đường làm quan nhiều thăng trầm
của Phan Thanh Giản, cùng với đó là những nhận định về tài năng, phẩm chất cao
quý của một vị quan đầu triều: lỗi lạc về trí thức văn chương, là khoa bảng văn đầu
tiên ở Nam Kỳ, một vị quan nghiêm khắc, liêm chính, được triều đình trọng vọng,
và nhiệm vụ bất khả kháng ở Nam Kỳ, dẫn đến cái chết.
Bốn năm sau, 1919, Trần Trọng Kim biên soạn Việt Nam sử lược, một cơng
trình sử học được đánh giá cao về tính khách quan, đề cập đến hai khía cạnh: đức
thanh liêm và bi kịch cuối đời của Phan Thanh Giản. Đây cũng là hai vấn đề gây
tranh cãi suốt nhiều năm sau đó.
Bàn về Phan Thanh Giản, trong giai đoạn này, không thể bỏ qua hai sự kiện
lớn ở hai miền của đất nước Bắc - Nam, sự nhận định cũng khác nhau.
Đó là năm 1962-1963, tại Hà Nội, giới Sử học tổ chức cuộc tranh luận về
Phan Thanh Giản, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. Chúng ta có thể điểm
nhanh các bài viết tiêu biểu: Nhuận Chi (1963): “Cần vạch rõ hơn nữa trách nhiệm
của Phan Thanh Giản trước lịch sử”, Trương Hữu Kỳ (1963): “Đánh giá Phan
3
Thanh Giản thế nào cho đúng?”, Nguyễn Anh (1963): “Về nhân vật lịch sử Phan
Thanh Giản”, Đặng Việt Thanh (1963): “Cần nhận định và đánh giá Phan Thanh
Giản như thế nào?”, Nguyễn Khắc Đạm (1963): “Đánh giá Phan Thanh Giản thế
nào cho đúng?”, Chu Quang Trứ (1963): “Cần nghiêm khắc lên án Phan Thanh
Giản”, Trần Huy Liệu (1963): “Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh
Giản”. Các bài viết tập trung vào luận điểm cho rằng Phan Thanh Giản chính là
một người có tư tưởng “hàng giặc, bán nước”, xu hướng tập trung vào phê phán và
lên án Phan Thanh Giản, nhất là bài tổng kết của Trần Huy Liệu “… cơng đức đã
bại hoại rồi thì tư đức cịn có gì đáng kể… Bản án Phan Thanh Giản nằm trong hồ
sơ hàng giặc, bán nước của triều Nguyễn” [100, tr.19].
Năm năm sau (1967), nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của Phan Thanh
Giản, cũng là 100 năm ngày Pháp chiếm Nam Kỳ Lục Tỉnh, tại Sài Gịn, nhóm
giáo sư và sinh viên Trường ĐH Sư phạm Sài Gòn (thuộc Viện Đại học Sài Gòn)
ra số báo đặc biệt: Đặc khảo về Phan Thanh Giản (1796 - 1867) (số 7, 8). Tập san
Sử Địa đã nhận được sự hưởng ứng tích cực của nhiều cây bút, ở nhiều lĩnh vực, có
thể kể ra một số bài viết như: Trương Bá Cần: “Phan Thanh Giản đi sứ ở Paris”,
Nguyễn Thế Anh: “Phan Thanh Giản dưới mắt người Pháp”, Lãng Hồ: “Một nghi
vấn về tập Tây phù nhật ký”, Phù Lang Trương Bá Phát: “Kinh lược Đại Thần
Phan Thanh Giản với sự chiếm cứ ba tỉnh miền Tây”, Phạm Văn Sơn: “Chung
quanh cái chết và trách nhiệm của Phan Thanh Giản trước các biến cố của Nam Kỳ
cuối thế kỷ XIX”, Trần Quốc Giám: “Cuộc đời Phan Thanh Giản”, Lê Văn Ngôn:
“Nhơn cuộc du xuân, may gặp kho tàng quý giá về Cụ Phan Thanh Giản”, T.Q.G:
“Thái độ của triều đình Huế đối với Phan Thanh Giản”… Những bài viết trên Tập
san Sử Địa đề cập đến nhiều khía cạnh, có tính đối thoại với tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử: không đồng ý với quan điểm: Phan Thanh Giản là người bán nước.
Hai cuộc “bút chiến” đáng kể trên được viện dẫn ở hầu hết các cơng trình
nghiên cứu liên quan đến Phan Thanh Giản. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi
xin không đi sâu, chỉ xin điểm lược như vậy để thấy sự liên tục của lịch sử, để thấy
vấn đề về Phan Thanh Giản chưa khi nào bị lãng quên, nhất là trong những thời
điểm nhạy cảm của đất nước.
4
Ngồi hai cuộc tranh luận trên, chúng ta tơi xin kể tên những cơng trình
khác nghiên cứu về Phan Thanh Giản trong giai đoạn này.
Chân dung Phan Thanh của Nguyễn Duy Oanh (1974) là cơng trình cần kể
đến, một cuốn tổng tập đầu tiên về Phan Thanh Giản – phản ánh trung thực về
Phan Thanh Giản (cuộc đời, sự nghiệp, thơ văn, những phẩm bình về Phan Thanh
Giản từ ngày mất đến năm 1974). Đây là tập tài liệu tham khảo có giá trị tham
khảo, đáng tin cậy, đã được nhiều cơng trình nghiên cứu viện dẫn.
Bên cạnh nguồn tài liệu sử học kể trên, những câu chuyện lưu truyền trong
dân gian (những giai thoại, những bài thơ kể về một ông quan liêm khiết, yêu dân,
gần dân, sẵn sàng xả thân vì dân, thể hiện trong các tác phẩm văn học, những giai
thoại lịch sử). Xin điểm lược một số cơng trình sau:
Năm 1927, Thái Hữu Võ viết Phan Thanh Giản truyện, với 73 trang sách
(lời tựa, chuyện về Phan Thanh Giản, phần cơng luận phẩm bình) đã khắc họa cuộc
đời của Phan Thanh Giản – bằng cái nhìn từ tâm thức của người dân Nam Bộ, mộc
mạc, dung dị, nhưng thành kính. Cuốn sách giúp ta hiểu trong lịng người Nam Bộ,
Phan Thanh Giản có một vị trí thật sự bền vững.
Năm 1945, tại Hà Nội, Tam Thanh và Hoành Hải viết Phan Thanh Giản
(1796 – 1867 với một thái độ trân trọng, sùng kính. Phan Thanh Giản được suy tôn
thành “lão anh hùng”, “nhà đại ái quốc thức thời”, “bậc vĩ nhân”. Cuốn sách này
không phổ biến trong giới nghiên cứu, không nhiều người nhắc đến.
Bằng cái nhìn cảm thơng, trân trọng, Nam Xn Thọ viết Phan Thanh Giản
(1796 -1867), Tân Việt, Sài Gòn xuất bản năm 1950. Cuốn sách dựng lại chân
dung Phan Thanh Giản, dẫn ra những nghị luận, phẩm bình về cụ Phan.
Báo chí cũng góp phần mình bằng các bài viết đăng rải rác trên các tờ tạp
chí từ Bắc chí Nam: Tri tân, Đơng Dương, Đại Việt tập chí, Nam Kỳ tuần báo,
Giáo dục Phổ thông, Đồng Nai văn tập... Phần lớn các bài viết chủ yếu là đánh giá
về con người lịch sử, liên quan đến sự kiện Hiệp ước 1862 và sự kiện để mất thành
Vĩnh Long vào tay Pháp (1867), quy kết, lên án Phan Thanh Giản.
Từ sau 1975 đến trước thời kỳ đổi mới, tình hình nghiên cứu về Phan Thanh
Giản khơng sơi động như trước đó. Giai đoạn này, các trường học, tên đường, các
5
cơng trình mang tên Phan Thanh Giản đều bị gỡ bỏ, khơng có cơng trình viết về
Phan Thanh Giản đáng kể tới ngoài luận án tiến sĩ: Nước Đại Nam đối diện với
Pháp và Trung Hoa, 1847 – 1885 (1982), của một người Nhật, Yoshiharu Tsuboi.
Tác giả cơng trình dành một chương về Phan Thanh Giản, so sánh với Nguyễn Tri
Phương, Trương Đăng Quế, dành nhiều thiện cảm cho cụ Phan, đánh giá cao vị
tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ, có những phát hiện mới, từ điểm nhìn của người nước
ngoài về lịch sử Việt Nam.
Năm 1986, Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện chính sách đổi mới, cái
nhìn về các vấn đề cũ cởi mở hơn, nhiều nhà khoa học thấy cần phải đánh giá lại
Phan Thanh Giản một cách khách quan và đầy đủ hơn, như bài viết của Huỳnh Lứa
(1987) đăng trên tạp chí Tổ Quốc với tựa đề “Thử đánh giá lại nhân vật Phan
Thanh Giản”; Việt Chung chỉ ra những vấn đề về Phan Thanh Giản trong bài viết
“Chung quanh cái chết của Phan Thanh Giản”, Thế giới Những điều bí ẩn (1992).
Năm 1994, tỉnh Vĩnh Long tổ chức Hội thảo về Phan Thanh Giản, Tỉnh ủy,
ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre phối hợp với Trung tâm KHXH & NV
Quốc gia, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Ban KHXH Thành ủy Tp. HCM, có sự
tham gia của nhiều nhà khoa học. Các bài tham luận đã “chỉ ra trách nhiệm của
Phan Thanh Giản trong trách nhiệm chủ yếu thuộc về Tự Đức và triều Nguyễn, và
đều nhất trí: khơng nên quy kết tội “bán nước”, hay “phản bội tổ quốc” [68, tr.288]
cho Phan Thanh Giản. Đáng chú ý nhất là bài tổng kết của Phan Huy Lê – Chủ tịch
Hội khoa học Lịch sử Việt Nam “Phan Thanh Giản (1796-1867): Con người, sự
nghiệp và bi kịch cuối đời”, như một sự tổng kết lại những chặng đường đánh giá
về Phan Thanh Giản. Ngồi ra, chúng ta có thể tìm thấy những câu chuyện, những
nội dung viết về Phan Thanh Giản trong các cơng trình: Địa chí Bến Tre (Thạch
Phương, Đồn Tứ (1991), Chuyện đi sứ - Tiếp sứ thời thời xưa (2001) và Bang
giao Đại Việt – Triều Nguyễn (2005) của Nguyễn Thế Long.
Sang thế kỷ XXI, Hội thảo về Phan Thanh Giản được gọi dưới một cái tên
gắn liền với mốc thời gian: Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản,
tổ chức năm 2003, đánh dấu một chặng đường mới trong nhận định về Phan Thanh
Giản, tiếp tục đào sâu và khẳng định những vấn đề đã nêu trong Hội thảo năm
1994. Hội thảo thu hút nhiều nhà nghiên cứu trong giới Khoa học xã hội và nhân
6
văn, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt tham gia. Các bài tham luận trình bày tại Hội thảo
được soi chiếu dưới góc nhìn sử học, hay văn học, văn hóa, thậm chí cả tâm lý,
ngồi việc viện dẫn minh chứng từ nguồn sử liệu (của cả người Việt và người
Pháp), có tham chiếu đến thơ văn của Phan Thanh Giản, để hiểu thực hơn về bối
cảnh xã hội lúc đó. Nhiều bài nghiên cứu sâu về thơ văn Phan Thanh Giản: lòng
yêu nước, thiên nhiên, thơ đi sứ của Phan Thanh Giản với nhiều ý kiến khá sâu sắc
của những nhà nghiên cứu đầu ngành về sử học, văn học, nhà phê bình văn học,
nhà báo, nhà văn hóa học, nhà giáo… Tư liệu phong phú, cái nhìn nhiều chiều, cởi
mở, Phan Thanh Giản được đặt trong bối cảnh xã hội – thời đại ông sống, tư tưởng
ông theo, sự đánh giá bớt khắt khe hơn. Ba năm sau, năm 2006, cuốn sách Thế kỷ
XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản được phát hành, tập hợp các bài
viết đã trình bày trong hội thảo năm 1994 (Vĩnh Long) và năm 2003 (Tp. HCM) là
một nguồn tư liệu quý đáng kể trong việc tìm hiểu, nghiên cứu, làm cơ sở để đánh
giá về Phan Thanh Giản, gợi mở hướng nghiên cứu sâu hơn về Phan Thanh Giản.
Từ đây, các hoạt động sưu tầm, tơn tạo các cơng trình, chăm sóc mộ phần về Phan
Thanh Giản trên quê hương Bến Tre, tỉnh Vĩnh Long và những địa điểm thờ Phan
Thanh Giản đã mang luồng sinh khí mới.
Năm 2008, sự kiện tỉnh Bến Tre cho dựng tượng Phan Thanh Giản đã dấy
lên trong dư luận hai luồng ý kiến trái chiều. Các vấn đề của lịch sử một thời bị
“xới lại” từ các trang báo điện tử uy tín như Tuổi trẻ, Thanh niên, Người Lao động,
Tiền Phong, cho tới Cổng thông tin điện tử tỉnh Bến Tre, Cần Thơ, Bình Dương,
Vĩnh Long, đáng chú ý là cuộc bút chiến trên tạp chí Xưa & Nay, Hồn Việt, Văn
nghệ Tp. HCM, Văn nghệ Bến Tre. Cái khơng khí đối lập ấy một lần nữa bùng phát
khi Phạm Quang Long và Thanh Vân dựng vở cải lương Nợ non sông, đưa Phan
Thượng thư (tức Phan Thanh Giản) lên sâu khấu, công chiếu tháng 11/2013.
Như vậy, có thể nói Phan Thanh Giản trong vai trò là một nhân vật lịch sử
đã nhận được rất nhiều ý kiến đánh giá từ phía các nhà nghiên cứu, tuy nhiên, vấn
đề công nhận hay công kích vai trị của Phan Thanh Giản đối với lịch sử dân tộc
vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi, nhiều băn khoăn.
7
3.2. Nghiên cứu Phan Thanh Giản trong vai trò một tác giả văn học
Phan Thanh Giản là một nhà văn, một nhà thơ triều Nguyễn, tuy nhiên
những cơng trình nghiên cứu sâu về thơ văn của Phan Lương Khê chưa nhiều.
Chúng ta cần kể đến những đánh giá về thơ văn Phan Thanh Giản của
những người đương thời, là vua Tự Đức, là các văn sĩ như Tùng Thiện Vương
Miên Thẩm, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, cho tới người nước ngoài như
Chánh sứ Lao Sùng Quang (Trung Hoa)… Quốc sử quán Triều Nguyễn ghi lại
những câu chuyện về đối đáp văn chương giữa Phan Thanh Giản và những người
đương thời. Tự Đức khen văn của Giản “cổ nhã”, Trương Đăng Quế xác nhận “tài
thơ không bằng Phan Thanh Giản”. Bài chế của vua Đồng Khánh (1886), vừa là sự
xác nhận nỗi oan của Phan Thanh Giản, trong hai mươi năm, chính thức được cởi
bỏ, bằng việc khơi phục chức tước, phẩm hàm, khắc lại tên trên bia tiến sĩ, khép lại
nhận định về thơ văn của Phan Lương Khê của người đương thời, khép lại câu
chuyện nghị bình về Phan Thanh Giản trong thế kỷ XIX.
Hai mươi năm đầu thế kỷ XX, xuất hiện rải rác các cơng trình nghiên cứu
về thơ văn Phan Thanh Giản, đặc biệt ở mảng thơ chữ Nôm. Năm 1903, biên soạn
Quốc âm thi hiệp tuyển, Lê Quang Chiểu trích đăng bài thơ Nơm Giã vợ đi làm
quan. Sau này trong nhiều cơng trình của các tác giả khác cũng trích đăng và bình
về bài thơ này như Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca và Điếu cổ hạ kim thi tập
của Nguyễn Liên Phong (1909), Việt âm văn tuyển (1919) của Lê Sum, Ngơ Tất Tố
trong cuốn Thi văn bình chú (1943).
Khảo sát các cơng trình nghiên cứu về Phan Thanh Giản, chúng tơi thấy thơ
văn cụ Phan được đưa vào chương trình học bậc phổ thơng, trong một số cơng
trình của Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đức Hiển, Nguyễn Tường Phượng.
Dương Quảng Hàm, khi biên soạn cuốn Quốc văn trích diễm (1925) trích
dẫn một số bài thơ Nôm của Phan Thanh Giản. Sau đó khi biên soạn Việt Nam văn
học sử yếu (in lần đầu năm 1941) và Việt Nam thi văn hợp tuyển (in lần đầu năm
1942) đều coi Phan Thanh Giản là một tác giả văn học triều Nguyễn.
Năm 1953, biên soạn Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ XIX dành cho học
sinh trung học trường Nguyễn Khuyến (Hà Nội), Nguyễn Tường Phượng, Phan
Văn Sách, Bùi Hữu Sủng xếp Phan Thanh Giản ngay ở chương 1, phần thứ nhất,
8
trích đăng và diễn giải chi tiết, kèm theo phần câu hỏi gợi ý về sáu bài thơ: Giã vợ
đi làm quan, Qua rừng vắng, Đi sứ sang Pháp, Tự thán, Tuyệt cốc, dẫn lời bình
của Ngơ Tất Tố và Phan Khôi.
Năm 1958, Chu Đăng Sơn, Nguyễn Đức Hiển biên soạn cuốn Luận đề về
các thi sĩ miền Nam, dành cho các kỳ thi THPT của học sinh miền Nam. Tác giả
mặc định Phan Thanh Giản là một tác giả văn học lớn của Nam Bộ, xếp Phan
Thanh Giản vị trí đầu tiên, kế đến là Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc, Nguyễn Đình
Chiểu và Bùi Hữu Nghĩa. Viết về Phan Thanh Giản, tác giả cuốn sách giới thiệu
vắn tắt về tiểu sử, thơ văn, thêm phần đề thi và phần gợi ý dành cho học sinh.
Song song với các hoạt động trên, việc sưu tầm, dịch thuật, viết tiểu sử, tìm
hiểu về cuộc đời, thơ văn Phan Thanh Giản khá phổ biến trên các báo, tập san, tạp
chí ở cả hai miền Bắc và Nam, có thể kể ra một số bài báo như: Lê Thọ Xuân
(1933): “Cụ Phan Thanh Giản” (Đồng Nai văn tập); Lê Thọ Xuân (1943): “Lại bài
thơ từ thuở vương xe” (Tạp chí Tri tân); Trực Thần (1943): “Nhân ngày giỗ cụ
Phan Thanh Giản trở lại bài Từ thuở vương xe mối chỉ hồng” (Tạp chí Tri tân).
Khng Việt (1943): “Hai mươi lăm ngày đi tìm dấu người xưa” (Nam Kỳ tuần
báo); Duy Liên và K.X.T (1952): “Tâm sự Phan Thanh Giản” (Đồng Nai văn tập);
Mai Chưởng Đức (1966), “Giới thiệu Lương Khê thi thảo”, Tập san Sử Địa, số 7,8,
Mộng Tuyết (1967): “Lời cây liễu – một áng thơ được Phan Thanh Giản trân trọng:
Dương liễu từ của Lê Bích Ngơ” (Tập san Sử Địa, số 7,8)… Ngồi ra, chúng ta có
thể thấy thơ văn Phan Thanh Giản trong tập truyện của Thái Hữu Võ (1927), Tam
Thanh, Hoành Hải (1945), Nam Xuân Thọ (1950).
Như vậy, trước năm 1974, nhìn một cách tổng quan, giai đoạn này khơng có
một cơng trình nghiên cứu quy mơ, bài bản về thơ văn của Phan Thanh Giản. Thực
tế, hầu hết các hoạt động nghiên cứu về thơ văn Phan Thanh Giản chỉ dừng lại ở
việc: trích dẫn và bình một vài tác phẩm thơ Nôm được truyền tụng (nhưng lại xảy
ra tình trạng một bài thơ có nhiều dị bản), chưa quan tâm đến mảng thơ chữ Hán
(từ việc dịch Lương Khê thi văn thảo được khắc in, lưu trữ tại trong các viện
nghiên cứu, cho tới hoạt động sưu tầm tác phẩm thơ văn bị thất lạc), chỉ dừng ở
việc chia sẻ dữ liệu trên các báo, tạp chí. Điều này lý giải tại sao trong các cơng
trình nghiên cứu về thơ văn Phan Thanh Giản giai đoạn này thường giống nhau,
9
phần lớn chỉ trích dẫn những bài thơ Nơm, kèm lời bình ngắn, hoặc dẫn lại lời bình
của một số tác giả có tên tuổi như Phan Khơi, Ngơ Tất Tố. Dù chưa có những dấu
ấn thật sự sâu sắc, nhưng bước đi đầu tiên như thế đã góp phần hình thành nên
cuốn tổng tập về Phan Thanh Giản của Nguyễn Duy Oanh sau này.
Trong năm 1974, xuất hiện một số cơng trình lớn, bước đầu tập hợp thơ văn
Phan Thanh Giản thành một hệ thống, đáng kể nhất là Chân dung Phan Thanh
Giản của Nguyễn Duy Oanh và Văn học miền Nam lục tỉnh, tập 2 – Văn học Hán
Nôm khai mở và xây dựng đất mới của Nguyễn Văn Hầu.
Chân dung Phan Thanh Giản của Nguyễn Duy Oanh (1974) ra đời đã bù
đắp cho sự thiếu hụt ấy, như một tổng tập đầu tiên về thơ văn Phan Thanh Giản.
Nguyễn Duy Oanh đã làm của công việc của một nhà viết sử: tập hợp, thống kê,
sàng lọc, sắp xếp theo trình tự thời gian, chú rõ nguồn, giúp hậu thế hình dung
được những chặng đường sáng tác thơ văn Phan Thanh Giản. Với cơng trình này,
Nguyễn Duy Oanh đã phác họa lên chân dung một chính khách Phan Thanh Giản,
đồng thời phác họa luôn chân dung thi sĩ Phan Lương Khê.
Biên soạn Văn học miền Nam lục tỉnh, tập 2 – Văn học Hán Nôm khai mở
và xây dựng đất mới, Nguyễn Văn Hầu dành một chương về Phan Thanh Giản
(cuộc đời, về thơ văn). Tác giả có những phát hiện, kiến giải khá thú vị về thơ văn
của cụ Phan. Nhưng hơi tiếc, thời điểm ấy tác giả không công bố, phải đợi đến năm
2012 khi con trai của tác giả tìm được trong tập bản thảo của ơng.
Từ năm 1975 trở đi, có một số cơng trình nghiên cứu có đề cập đến thơ văn
Phan Thanh Giản như Nguyễn Q. Thắng viết “Văn mạch miền Nam với thơ Phan
Văn Trị” (năm 1985), có đề cập tới Phan Thanh Giản khi so sánh Phan Văn Trị với
các văn sĩ đương thời và nhận định. Trong Địa chí Bến Tre xuất bản năm 1991,
Thạch Phương, Đoàn Tứ điểm lược về thơ văn Phan Thanh Giản.
Phạm Thiều, Đào Phương Bình biên soạn Thơ đi sứ (1993), liệt kê tác phẩm
được cho là của Phan Thanh Giản viết trên đường đi sứ gồm Bình Nam phỏng cổ,
Dạ bạc văn địch, Lão phụ đường vãn bộ, Nhạc Dương dạ bạc, và khái quát đặc
điểm nội dung thơ đi sứ của Phan Thanh Giản.
Bùi Đức Tịnh chỉ ra sự khác biệt giữa thơ chữ Hán và Nôm của cụ Phan khi
biên soạn Lược khảo lịch sử Văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỷ XX.
10
Sang thế kỷ XXI, cơng trình Tinh tuyển văn học Việt Nam – Văn học thế kỷ
XIX, tập 6, Hoàng Hữu Yên chủ biên, xuất bản năm 2004, đề cập đến tác giả Phan
Thanh Giản, trích dẫn bốn bài thơ (Hán, Nôm): Từ giã vợ nhà đi làm quan, Tuyệt
cốc, Vọng vũ, Phóng lơ từ hí vịnh. Bên cạnh đó, tác giả cơng trình giới thiệu ngắn
về tiểu sử, về di cảo thơ văn của Phan Thanh Giản.
Năm 2005, Hội Nhà văn xuất bản cuốn Thơ văn Phan Thanh Giản của Phan
Thị Minh Lễ và Chương Thâu là một sự kiện đáng lưu ý. Đây có thể coi là một
cơng trình quy mơ lớn thứ hai sau Chân dung Phan Thanh Giản của Nguyễn Duy
Oanh (1974). Cuốn sách tập hợp gần 500 bài thơ và hơn 100 bài văn, thêm phần bổ
di, có in thêm phần chữ Hán và bài “Giới thiệu Di cảo Phan Thanh Giản - Lương
Khê thi văn thảo” của Chương Thâu. Bài viết đã nêu khái quát nội dung thơ văn
Phan Thanh Giản, khẳng định: thơ văn Phan Thanh Giản giúp hình dung “khn
mặt của một danh sĩ – chính khách tầm cỡ của nước ta thời cận đại.” [98, tr.20].
Năm 2007, nhóm tác giả Phan Trọng Thưởng, Trần Nho Thìn trong cơng
trình Mười thế kỷ bàn luận về văn chương (từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX),
trích đăng bài bạt Phan Thanh Giản viết cho Mộng dương thi tập của Hà Tông
Quyền. Bên cạnh đó, một số cuốn sách khác như tuyển tập Nguyễn Thơng, tuyển
tập Trương Đăng Quế đều có bài tựa, bạt của Phan Thanh Giản viết tặng.
Năm 2011, Nguyễn Kh và Cao Tự Thanh biên soạn một cơng trình khá
thú vị: 100 câu hỏi đáp về Gia Định – Sài Gịn Tp. HCM: Văn học Hán – Nơm ở
Gia Định – Sài Gòn, tác giả nhiều lần nhắc đến Phan Thanh Giản trên cả hai bình
diện: con người lịch sử - văn hóa, và khía cạnh là một tác giả văn học, giới thiệu
Lương Khê thi văn thảo, chỉ ra tính cổ nhã trong văn chương của Phan Thanh Giản,
cũng như khái quát đặc điểm thơ chữ Hán của Phan Lương Khê.
Như vậy, trong vai trò một tác giả văn học, có thể nói, tính đến thời điểm
này những nghiên cứu về thơ văn Phan Thanh Giản đã có nhiều cơng trình đề cập
đến, nhưng vẫn cịn thiếu một cơng trình lớn, chun sâu, hoặc một cơng trình tổng
quan về những nghị luận, phẩm bình về thơ văn của Phan Thanh Giản. Tuy nhiên,
với những gì như đã kể trên của một nhân vật cịn nhiều tranh cãi, thì những bước
đầu như thế cũng đã góp phần phác họa chân dung thi sĩ Phan Thanh Giản – một
tác gia văn học cuối thế kỷ XIX.
11
Trên đây, chúng tơi điểm qua những cơng trình nghiên cứu về con người và
thơ văn Phan Thanh Giản. Qua khảo sát thực tế, bước đầu chúng tôi nhận thấy:
phần lớn tài liệu (chúng tôi tiếp cận được) tập trung vào vấn đề con người Phan
Thanh Giản; những cơng trình nghiên cứu, bình luận về thơ văn Phan Thanh Giản
chưa nhiều, chưa sâu. Đó là một thực tế khơng khó để nhận ra. Khi thực hiện luận
văn này, chúng tôi mong muốn có thể phác thảo bức tranh tồn cảnh về Phan
Thanh Giản trong cái nhìn của người đương thời và cả hậu thế trong 150 năm qua,
trên cả hai khía cạnh: con người và thơ văn Phan Thanh Giản. Chúng tơi cũng
mong rằng, trong tương lai gần, sẽ có một cơng trình nghiên cứu sâu hơn về thơ
văn Phan Thanh Giản một cách khoa học, bài bản, khách quan để có một sự đánh
giá cụ thể về những đóng góp của Phan Thanh Giản về văn học.
4.Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, triển khai luận văn, chúng tôi chủ yếu sử dụng
các phương pháp sau: Phương pháp xã hội học, vận dụng kiến thức tiếp nhận văn
học, phân tích – tổng hợp.
Trên cơ sở kiến thức về Phương pháp xã hội học, chúng tơi đi vào tìm hiểu
các đặc bối cảnh xã hội, truyền thống gia đình để hiểu tinh thần, tư tưởng và quan
niệm sáng tác văn chương của Phan Thanh Giản. Chúng tôi sẽ tập hợp tư liệu, phân
tích tác phẩm để phác họa những nét cơ bản về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng thơ
văn và quan niệm sáng tác văn chương của Phan Thanh Giản trên cơ sở đánh giá
những đóng góp của Phan Thanh Giản ở lĩnh vực văn hóa, văn học.
Vận dụng kiến thức lý thuyết tiếp nhận để lý giải các khuynh hướng đánh
giá về hai vấn đề con người và thơ văn trong cái nhìn của người đương thời và hậu
thế qua các giai đoạn, gắn với “bước đi” của đất nước. Chúng tơi sẽ phân tích, so
sánh giữa các giai đoạn để thấy có mối liên hệ nội tại chặt chẽ thông qua đối thoại
giữa các thời kỳ, các thế hệ trong một mối quan tâm chung: Phan Thanh Giản.
5.Đóng góp của luận văn
Thực hiện luận văn này, chúng tôi mong muốn hai điều:
Thứ nhất, chúng tôi mong muốn gợi nhắc lại bối cảnh phức tạp, nhiều biến
động thời Nguyễn, qua trường hợp Phan Thanh Giản. Bằng việc điểm lại bối cảnh
12
xã hội, tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp, con đường làm quan, tìm hiểu tư tưởng và
quan niệm văn chương của Phan Thanh Giản vừa để biết được mối liên hệ giữa con
người hoàn cảnh sống, vừa để hiểu Phan Thanh Giản ở một góc nhìn tồn diện
hơn. Qua đó, mỗi người sẽ tự tìm cho mình một đáp án cho câu hỏi Phan Thanh
Giản là ai? Có cơng hay có tội, nếu có thì tội gì, mức như thế nào? Từ điểm nhìn,
vị trí đang đứng, từ góc nhìn của mình, mỗi người sẽ đưa ra một đánh giá phù hợp.
Thứ hai, việc thống kê, phân tích và khái quát lên những xu hướng nhận
định về con người và thơ văn Phan Thanh Giản trong gần 150 năm qua sẽ giúp
phác thảo lên một bức tranh tồn cảnh cơng luận phẩm bình. Đây có thể coi là sự
tiếp nối cơng việc của Nguyễn Duy Oanh, ở khía cạnh – tổng thuật lại ý kiến của
người đương thời, từ 1975 đến nay. Qua việc tổng thuật này, sẽ giúp mọi người
nhìn ra một vấn đề: Phan Thanh Giản là một nhân vật lịch sử, nhưng vấn đề của
ông, không chỉ là của quá khứ, là chuyện của hôm nay. Những tài liệu này, sẽ góp
phần, cung cấp nguồn tư liệu cho các cơng trình nghiên cứu về sau.
6.Cấu trúc của luận văn
Luận văn Con người và thơ văn Phan Thanh Giản – 150 năm nghị luận,
phẩm bình gồm có 154 trang. Ngoài phần Dẫn nhập (13 trang), Kết luận (4 trang),
Tài liệu tham khảo (11 trang), gồm sách, báo, tạp chí, kỷ yếu, tài liệu trên mạng
internet), Phụ lục. Nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương.
Chương một: “Những vấn đề chung” (41 trang), luận văn đi vào ba vấn đề
chính: khái qt về tình hình xã hội; một vài nét về lý thuyết tiếp nhận, tìm hiểu về
cuộc đời – sự nghiệp và tư tưởng Phan Thanh Giản. Đây là kiến thức nền để cho
bức tranh nghị luận phẩm bình về Phan Thanh Giản trong 150 năm qua.
Chương hai: “Lịch sử tiếp nhận vấn đề con người của Phan Thanh Giản”
(51 trang), của luận văn đề cập đến nghị luận, phẩm bình về con người Phan Thanh
Giản cụ thể, nổi lên các xu hướng – điểm nhìn của các giai tầng trong xã hội.
Chương ba: “Lịch sử tiếp nhận thơ văn Phan Thanh Giản” (32 trang), luận
văn đi vào tìm hiểu những nghị bình về thơ văn Phan Thanh Giản trong 150 năm.
13
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
“Phan Thanh Giản là nhân vật lịch sử của Nam Bộ, của cả nước chứ
không phải riêng gì của Vĩnh Long và Bến Tre. Vì vậy, việc nghiên cứu,
nhận định, đánh giá ông, đây là trách nhiệm chung cho tất cả chúng ta chứ
không phải của riêng ai.” [Dẫn lại, 98, tr.5].
Đó là những trăn trở của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt sau buổi hội thảo “Thế
kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” tại Tp. HCM, năm 2003.
Phan Thanh Giản “là người khai khoa tiến sĩ cho Lục tỉnh Nam Kỳ” [71,
tr.1396], lão thần ba triều Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, nắm giữ nhiều chức vụ
quan trọng thuộc nhiều lĩnh vực. Bên cạnh sự nghiệp chính trị thăng trầm, ơng cịn
là một nhà văn hóa với những đóng góp thiết thực cho sử học và văn học của dân
tộc. Con người tài năng, nhưng truân chuyên ấy đã chọn cái kết đời mình bằng
chén dấm thanh pha thuốc phiện sau mười bảy ngày tuyệt thực, như một cách để
bày tỏ sự tiếc hận, một cách trả món nợ non sơng, khi để mất ba tỉnh miền Tây
Nam Kỳ. Tưởng rằng uống cạn chén độc dược ấy, ông được yên nghỉ, sẽ khép lại
bi kịch của vị quan “Liêm, Bình, Cần, Cán”1. Nhưng thực tế, ông vẫn bị vực dậy,
để nghe “thiên tử chiếu”, để “nêu gương” răn dạy, cảnh tỉnh người đời.
Bàn về nhân cách, luận về tư tưởng, quan điểm và hành vi chính trị, phẩm
bình về thơ văn của Phan Thanh Giản là một câu chuyện dài, đan xen nhiều xu
hướng. Đã bao lần tự nhủ và tự hỏi: vì sao Phan Thanh Giản, một nhân vật lịch sử
thời cận đại lại có “sức hút” đến vậy? Vì sao hơn một thế kỷ đã trôi qua, thời thế đã
có nhiều đổi khác, nhưng vấn đề Phan Thanh Giản vẫn cịn đó: khen - chê - phê
phán, thậm chí căm hận? Điều gì đã tạo nên cách nhìn khác nhau đó, điều gì tạo
nên những khuynh hướng đó? Câu hỏi này vẫn đau đáu hằng ngày trong suốt gần
hai năm qua mỗi khi nhìn vào bức di ảnh, đọc những phẩm bình trên các trang
sách, bài báo về ơng.
Chúng tôi cũng hiểu để lý giải những vấn đề này một cách thấu đáo là điều
thật khơng dễ dàng gì. Hiểu rồi nên biết rằng ý định phác thảo nên một bức tranh
1
Năm 1852, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương dâng sớ điều trần tám việc. Xem xong sớ, Tự Đức thưởng một tấm
kim khánh lớn bằng vàng khắc bốn chữ “Liêm, Bình, Cần, Cán”.
14
tồn cảnh về những phẩm bình của người đời xung quanh Phan Thanh Giản từ sau
ngày mất đến nay không thật dễ dàng. Đã có trăn trở, băn khoăn để tìm lối đi, loay
hoay giữa những bộn bề phẩm bình về ông trong 150 năm qua.
Lần giở những trang sử liên quan đến cuộc đời Phan Thanh Giản, tìm hiểu
bối cảnh lịch sử xã hội thời ông sống, khảo sát văn chương, chúng tơi mong muốn
tìm được những sự thật và hiểu con người, tư tưởng và lập trường chính trị của
Phan Thanh Giản, để tiếp cận gần hơn với sự thật. Tiếp cận những kiến thức lý
luận văn học từ lý thuyết tiếp nhận văn học cho tới phương pháp xã hội học phương pháp lịch sử - xã hội (dựa trên cơ sở là hoàn cảnh và điều kiện xã hội phân biệt với các phương pháp xã hội học thuần túy) chúng tơi mong có thể hiểu và
lý giải được vì sao trong từng thời điểm lại có những cách nhìn, quan điểm, đánh
giá về Phan Thanh Giản khác nhau đến thế. Từ những điểm tựa này, chúng tơi có
thể vững tâm hơn, cùng với đó là một ước mong giản dị nhưng để làm được thật
không dễ dàng chút nào là: có thể phác họa một phần nào đó bức tranh tồn cảnh
hậu thế luận bàn về ơng, để có thể lý giải phần nào đó các xu hướng, đặc điểm tiếp
nhận Phan Thanh Giản trên hai bình diện con người và tác phẩm thơ văn.
1.1. Vài nét về Lý thuyết tiếp nhận
Mỗi tác phẩm văn học là kết quả của quá trình sáng tạo nghệ thuật, nơi ký
thác những nỗi niềm tâm sự, gửi gắm khát vọng hướng tới chân – thiện – mỹ; và lẽ
tất nhiên, sẽ hằn in dấu ấn cá nhân, thể hiện quan điểm của nhà văn và mang dấu
vết của thời đại. Nhưng dù ở thời nào, hay quan điểm sáng tác của mỗi người có
khác nhau thì đích đến chỉ có một là: độc giả – cơng chúng tiếp nhận, có thể
thưởng thức và thẩm định đúng giá trị tác phẩm văn chương.
Trên thực tế, tác phẩm văn học là do cá nhân nhà văn sáng tác – một người,
nhưng khi rời khỏi nhà văn, đến với công chúng – nhiều người, nó sẽ có một “đời
sống” riêng, sơi nổi. Bạn đọc, bằng tầm hiểu biết, vốn sống, vị trí xã hội của mỗi
người, sẽ tiếp nhận tác phẩm theo một cách riêng, cách đánh giá không giống nhau,
từ nền tảng văn hóa, vốn kiến thức và tùy theo mục tiêu mỗi người. Hàng ngàn
người tiếp nhận sẽ có hàng vạn nhận định, sẽ quyết định trực tiếp đến “đời sống”
của một tác phẩm, gián tiếp quyết định số phận “cha đẻ” của nó – nhà văn. Nói
15
theo cách của Vinhi: người đọc có thể “làm chết đi những người đang sống và làm
sống lại những kẻ đã chết”.
Câu chuyện vai trò người đọc – chủ thể tiếp nhận, không phải hôm nay mới
bàn đến, mà đã từ rất lâu, ít hoặc nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp, tồn diện hoặc một
vài khía cạnh, người ta đã chú ý đến mối quan hệ giữa tác phẩm với bạn đọc, tức
tiếp nhận tác phẩm văn học của bạn đọc – chủ thể tiếp nhận văn học. Nhưng trước
đây, sự thực là, dù là văn học sử hay lý luận văn học, khi lý giải quy luật phát triển
của văn học hay luận về bản chất của văn học, giới nghiên cứu thường chỉ tập
trung mô tả sự ra đời và phát triển của các thể loại gắn với tên tuổi nhà văn, nhà
thơ hoặc nghiên cứu quá trình sáng tác tác phẩm. Vấn đề người đọc – công chúng
tiếp nhận chỉ được “lấp đầy” khi lý thuyết tiếp nhận ra đời.
Xuất hiện vào thập niên 60 của thế kỷ XX, gắn với các tên tuổi Hans Robert
Jauss và một số tên tuổi của trường phái Konstanz (Đức), lý thuyết tiếp nhận ra đời
trên cơ sở kế thừa, phát triển và kết hợp những lý luận của nhiều trường phái trước
đó, đánh dấu bước phát triển mới của lý luận văn học, khẳng định một đường
hướng mới, một phương diện mới để tiếp cận văn học nghệ thuật. Quan điểm, cách
nhìn nhận và tiếp cận văn học của lý thuyết tiếp nhận được thể hiện thông qua hệ
thống khái niệm như “tầm đón đợi”, “kinh nghiệm thẩm mỹ”, “khoảng cách thẩm
mỹ” và “công chúng”. Trong số các khái niệm nêu trên, chúng tơi chú ý đến “tầm
đón nhận” - một khái niệm quan trọng có thể vận dụng khi thực hiện luận văn.
Theo Hans Robert Jauss “tầm đón nhận” của cơng chúng là “hệ quy chiếu
có thể trình bày một cách khách quan đối với mỗi tác phẩm ở thời điểm lịch sử
xuất hiện của nó. Hệ quy chiếu đó được rút ra từ ba yếu tố cơ bản: kinh nghiệm có
trước của cơng chúng về thể loại, hình thức và hệ đề tài của tác phẩm; và sự đối lập
giữa ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ thực tế, giữa thế giới tưởng tượng và thực tế
hàng ngày” [24, tr.201-202]. Nghĩa là, mỗi độc giả đều có một tầm hiểu biết của
mình về mặt văn học và tầm hiểu biết đó sẽ ln thay đổi theo lịch sử và tùy thuộc
vào tác động của tác phẩm được tiếp nhận. Việc tái lập tầm đón nhận ứng với một
tác phẩm với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật tùy thuộc vào tính chất, mức độ
và tác động của nó đến loại cơng chúng nhất định.
16
Khi phân tích về “tầm đón đợi”, Hans Robert Jauss đã ra ba luận điểm quan
trọng ảnh hưởng đến việc tiếp nhận tác phẩm: “Động cơ tiếp nhận”, “tâm thế tiếp
nhận”, “mơi trường tiếp nhận”, trong đó, “động cơ tiếp nhận” là một nhân tố quan
trọng tạo nên sự phong phú của đời sống, làm nên những loại người đọc, cách đọc
khác nhau, “tâm thế tiếp nhận”, “môi trường tiếp nhận” [24, tr.202] có ý nghĩa
trong việc tiếp xúc với tác phẩm.
Phan Thanh Giản là một nhà nho, một mệnh quan triều Nguyễn, do đó, tư
tưởng và quan niệm sáng tác văn chương của ông sẽ chịu ảnh hưởng bởi ý thức hệ
nho giáo và tinh thần thời đại. Đó là lý do vì sao, khi tìm hiểu về Phan Thanh Giản,
cần đặt trong bối cảnh thời đại của ông. Đó cũng là lý do khi tìm hiểu về những
nghị luận phẩm bình về con người và thơ văn Phan Thanh Giản (chúng tơi sẽ nói
sâu hơn ở chương hai và chương ba), chúng tôi phân chia theo giai đoạn gắn với
tình hình thực tế của đất nước. Mỗi thời kỳ đặt ra những nhiệm vụ và tư tưởng
không đồng nhất sẽ chi phối cách nhìn, cách hiểu của người đương thời về Phan
Thanh Giản. Đây cũng là điều Hans Robert Jauss nhắc nhở khi tìm hiểu văn học
trung đại: “Khi chúng ta không nắm vững được về tác giả văn học cổ, về dự định
tác giả, về quan hệ của anh ta với các nguồn gốc tạo nên tác phẩm thì phương diện
tốt nhất để trả lời câu hỏi: phải hiểu văn bản như thế nào để được coi là hiểu đúng
tức là phù hợp với thời đại và dự kiến của tác giả?”.
1.2. Bối cảnh lịch sử và thân thế sự nghiệp, thơ văn Phan Thanh Giản
1.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội thế kỷ XIX
Bối cảnh lịch sử xã hội thế kỷ XIX có nhiều biến động và diễn biến phức
tạp, các nước châu Âu, giai cấp tư sản đã lần lượt lên nắm chính quyền. Với sự hậu
thuẫn của khoa học kỹ thuật, các nước tư bản phương Tây đã tạo ra một lượng
hàng hóa khổng lồ, gấp nhiều lần so với các thời kỳ trước cộng lại, đòi hỏi phải
một thị trường rộng lớn hơn bên ngoài. Châu Phi, châu Á rơi vào tầm ngắm, dần
dần trở thành “sân sau” của tư bản phương Tây, bởi hai châu lục này, khi ấy, về cơ
bản, vẫn là xứ nông nghiệp, với đất rộng, người đông, nguồn tiêu thụ hàng lớn,
giàu tài nguyên và nguồn nhân cơng rẻ.
Nước Pháp, thế kỷ XIX, thuộc nhóm các nước tư bản phát triển, sở hữu
phần lãnh thổ thuộc địa rộng lớn ở một số nước châu Á, châu Phi. Nhưng thời kỳ
17
này, Pháp đang lâm vào khủng hoảng cả về kinh tế lẫn chính trị, ln bị tư sản Anh
chèn ép, hớt tay trên phần thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ, Canada. Bù lại sự thiếu hụt
ấy, Pháp nuôi ý đồ xâm lược các nước Đông Nam Á, tâm điểm là Việt Nam. Để
hợp thức hóa hành vi của mình, Pháp tung ra chiêu bài “truyền giáo” và hoạt động
thông thương bn bán, từng bước can thiệp chính trị bằng việc “chống lưng” cho
Nguyễn Ánh lật đổ triều Tây Sơn. Và sau này, Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, lập
ra triều Nguyễn, thực dân Pháp đã đòi chia quyền lợi, dã tâm xâm lược lộ rõ bằng
hành động gây hấn ở Đà Nẵng năm 1858 - 1859.
Việt Nam, thế kỷ XIX, về cơ bản, vẫn là một nhà nước phong kiến chuyên
chế thống nhất. Đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên cai trị đất nước, đóng đơ tại
Huế, bắt tay xây dựng đất nước với niềm hy vọng sẽ tạo dựng được một vương
triều hùng mạnh, vững bền. Nhưng trên thực tế, khi lên ngơi trị vì, các đời vua triều
Nguyễn nối tiếp nhau đã thiết lập chính sách “truyền thống, lối mịn”: chun chế,
khép kín, sớm bộc lộ những hạn chế, khơng cịn phù hợp với bối cảnh lịch sử mới,
nhanh chóng bị lịch sử bỏ qua.
Về đối nội, dựa trên nền tảng học thuyết nho giáo để cai trị đất nước, triều
Nguyễn duy trì chế độ phong kiến chuyên chế, vua nắm mọi quyền hạn trong tay,
giúp vua là hệ thống đình thần. Từ Gia Long cho tới Tự Đức, các ông vua Nguyễn
thống nhất chủ trương “trọng nơng, ức thương”, khước từ mọi canh tân nhằm duy
trì nền kinh tế tự cấp, tự túc. Nhưng văn hóa ở triều Nguyễn rất được chú trọng,
điều này đã giúp lý giải hiện tượng vì sao dưới triều Nguyễn, văn hóa, văn học đạt
được những thành tựu rực rỡ. Có thể coi, văn hóa, văn học chính là điểm sáng, là
đóng góp lớn nhất của triều Nguyễn cho dân tộc.
Với chính sách đối nội trên, nền kinh tế đất nước thêm nghèo nàn, bức tranh
xã hội thêm u ám, đời sống nhân dân cơ cực, đẩy những mâu thuẫn vốn đã âm ỉ
bấy lâu càng trở nên sâu sắc, khởi nghĩa nơng dân, binh lính nổ ra khắp nơi, chỉ
tính riêng triều Tự Đức, năm 1862, đã xảy ra hơn bốn mươi cuộc nổi dậy, rồi hạn
hán, thiên tai, bệnh dịch diễn ra khắp nước, đẩy người dân vào nạn đói thương tâm:
“Vợ con thì nheo nhóc
Chồng phải đi phu phen
Muốn vạch cả trời lên
18
Kêu gào cho hả dạ.
…Cơm thì khơng có
Rau cháo cũng khơng
Cịn một bộ xương sống.
...Vơ vất đi ăn mày,
Rồi xó chợ lùm cây
…Xác đầy nghĩa địa
Thây đói bên cầu
… Dân nghèo thì cùng kiệt
Kẻ lưu lạc tha phương
Người chết chợ chết đường
… Là cái thời Tự Đức.” [Dẫn lại, 120, tr.32]
Những cảnh tượng nheo nhóc trên, gợi nhắc về một thời huy hồng xưa: đời
vua Thái Tổ, Thái Tơng trị vì. Khi ấy, nước ta vẫn là chế độ phong kiến, vẫn lấy
nông nghiệp làm nền tảng, nhưng nhân dân được yên hưởng thái bình, no ấm:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tơng
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”.
Xưa là thế. Nhưng nay, nhìn đâu cũng thấy cảnh khốn cùng, điêu linh: hoặc
là trụ lại ở những xóm làng tiêu điều, xơ xác, hoặc vất vưởng tha hương chịu cảnh
li tán, chịu kiếp sống của những lưu dân. Nhưng ở đâu trên đất nước này, người
nông dân vẫn là những người khốn cùng nhất. Họ phải làm việc quần quật, mà
khơng đủ ăn bởi tệ nhũng nhiễu quan lại, vì loạn lạc, mất mùa, vì nạn phu phen tạp
dịch nặng nề để xây thành, đắp lũy, cung điện nguy nga cho các ơng hồng, bà
chúa. Câu ca dao “Vạn Niên là Vạn Niên nào. Thành xây xương lính, hào đào máu
dân” được viết ra từ máu và nước mắt của những người dân thấp cổ bé họng, có
sức nặng để tố cáo xã hội, là như thế.
Về đối ngoại, triều Nguyễn nhìn thấy dã tâm cướp nước của thực dân Pháp
từ rất sớm, đã đưa ra đường lối đối ngoại “bế quan, tỏa cảng” làm quốc sách.
19