ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ NHO MINH
QUAN ĐIỂM THÂN DÂN
CỦA MINH MỆNH QUA TÁC PHẨM
“MINH MỆNH CHÍNH YẾU”
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
TP. HỒ CHÍ MINH – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ NHO MINH
QUAN ĐIỂM THÂN DÂN
CỦA MINH MỆNH QUA TÁC PHẨM
“MINH MỆNH CHÍNH YẾU”
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
TP. HỒ CHÍ MINH – 2014
TRANG GHI ƠN
Để hoàn thành được luận văn, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản thân
tôi, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô, các nhà khoa học khoa
Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh, đã ân cần chỉ bảo cho tơi. Đặc biệt sự tận tâm hướng dẫn
của thầy TS. Nguyễn Trọng Nghĩa trong suốt q trình tơi thực hiện luận văn.
Sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của thầy là tiền đề cơ bản quan trọng đầu tiên
giúp tơi hồn thành bài luận văn này.
Bài luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tay của tôi và cũng là bước
đầu tôi làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, nên kinh nghiệm và khả
năng chun mơn cịn nhiều hạn chế, thiếu sót. Kính mong q thầy, cơ và
các học giả góp ý kiến bổ sung để luận văn được hồn thiện tốt hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
LÊ NHO MINH
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu độc lập của tơi.
Các trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Nếu có gì
khơng đúng, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 5 năm 2014
Tác giả
LÊ NHO MINH
MỤC LỤC
Trang
Trang ghi ơn
Lời cam đoan
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................... 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 10
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn ...................................... 11
7. Cái mới của luận văn ................................................................................... 12
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 12
Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM
THÂN DÂN CỦA MINH MỆNH .................................................................... 13
1.1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM THÂN DÂN CỦA
MINH MỆNH .................................................................................................. 13
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội ....................................................................... 13
1.1.2. Điều kiện chính trị - xã hội .................................................................... 17
1.2. TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG - LÝ LUẬN HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM
THÂN DÂN CỦA MINH MỆNH ..................................................................... 23
1.2.1. Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam .............................. 23
1.2.2. Tinh hoa tư tưởng đức trị của Nho giáo và pháp trị của Pháp gia ......... 27
1.2.3. Quan điểm thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam........................... 33
1.3. QUAN ĐIỂM THÂN DÂN CỦA MINH MỆNH QUA MỘT SỐ TÁC
PHẨM TIÊU BIỂU .......................................................................................... 41
1.3.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của Minh Mệnh ............................... 41
1.3.2. Quá trình hình thành và phát triển quan điểm thân dân của
Minh Mệnh qua các tác phẩm tiêu biểu ........................................................... 46
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................... 48
Chƣơng 2: NỘI DUNG, GIÁ TRỊ LỊCH SỬ TỪ QUAN ĐIỂM THÂN
DÂN CỦA MINH MỆNH QUA TÁC PHẨM MINH MỆNH CHÍNH YẾU ..... 51
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC PHẨM MINH MỆNH CHÍNH YẾU ..................... 51
2.1.1. Sự ra đời và kết cấu của tác phẩm Minh Mệnh Chính Yếu .................... 51
2.1.2. Tư tưởng chủ đạo của tác phẩm Minh Mệnh Chính Yếu ....................... 54
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN ĐIỂM THÂN DÂN QUA TÁC
PHẨM MINH MỆNH CHÍNH YẾU ................................................................. 55
2.2.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của dân ........................................... 56
2.2.2. Quan điểm về quyền và lợi ích của dân; sự thương cảm đối với
đời sống của dân ............................................................................................... 66
2.2.3. Quan điểm về chăm lo phát triển đời sống để an dân ............................ 73
2.2.4. Chủ trương trừng trị tham quan, tệ nhũng nhiễu dân............................. 90
2.3. GIÁ TRỊ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ QUAN ĐIỂM THÂN DÂN
QUA TÁC PHẨM MINH MỆNH CHÍNH YẾU ............................................... 97
2.3.1. Giá trị từ quan điểm thân dân của Minh Mệnh ...................................... 97
2.3.2. Bài học lịch sử trong quan điểm thân dân của Minh Mệnh .................. 100
Kết luận Chƣơng 2 ..........................................................................................102
KẾT LUẬN...................................................................................................... 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 110
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ph.Ăngghen - một trong những nhà sáng lập, nhà tư tưởng vĩ đại của
chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng khẳng định rằng: Một dân tộc muốn đứng
vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận. Và,
để phát triển, hồn thiện tư duy lý luận, thì cho tới nay khơng có một cách nào
khác hơn là nghiên cứu tồn bộ triết học thời trước. Đó là một luận điểm có ý
nghĩa phương pháp luận, định hướng cho việc tiếp cận và nghiên cứu lịch sử
tư tưởng của một quốc gia, dân tộc.
Việt Nam, trong lịch sử của mình, là một quốc gia “vốn xưng nền văn
hiến đã lâu”, từng có một giai đoạn phát triển hùng cường, thịnh vượng đứng
hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và
giữ nước, Việt Nam đã từng đánh thắng được nhiều kẻ thù lớn mạnh hơn
mình gấp bội và lập nên biết bao chiến cơng hiển hách, trong đó khơng thiếu
những chiến thắng mang tầm vóc thời đại. Trong cuộc đấu tranh lâu dài đó,
lịch sử tư tưởng Việt Nam đã hình thành nên một hệ giá trị có tính phổ biến,
thường xun chi phối sự phát triển của dân tộc, đóng góp tích cực vào cơng
cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, chống áp bức bóc lột và tiến bộ xã hội
của nhân dân ta đó chính là tư tưởng u nước, thương dân. Giáo sư Trần Văn
Giàu đã nhận xét “truyền thống lớn của ông cha ta là yêu nước, là chủ nghĩa
u nước” [33, tr.10] và “nhìn chung tồn bộ quá trình dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta, nhằm phát hiện sợi chỉ đỏ xuyên qua tất cả các giai đoạn
từ cổ đại đến hiện đại, sợi chỉ đỏ ấy là chủ nghĩa yêu nước” [35, tr.7]. Mặt
khác, xét về thực tiễn lịch sử, ông cha ta, trong hàng nghìn năm đánh giặc giữ
nước với những thắng lợi huy hồng, quyết khơng phải là những hoạt động
lịch sử một cách tự phát mà ln ln có lý luận chỉ đạo, soi đường, cho dù lý
2
luận đó chưa được khái quát thành hệ thống nhưng có vai trị to lớn và động
lực cho phong trào đấu tranh giành thắng lợi.
Trong chủ nghĩa yêu nước, thương dân là tiêu chuẩn giá trị đóng vai
trị chủ đạo, phát huy mạnh mẽ nội lực của đất nước chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược. Nó là nguồn năng lực nội sinh, chi phối và là cơ sở cho các tư
tưởng khác phát triển, trong đó có tư tưởng “thân dân” – đặt con người vào vị
trí cao nhất, khai thông mạch nguồn dân tộc, làm thăng hoa sức mạnh con
người Việt Nam. Tư tưởng “thân dân” bắt đầu từ Phật hồng Trần Nhân Tơng
(1258 – 1308, tên thật là Trần Khâm (陳昑), là vị vua thứ ba của nhà
Trần trong lịch sử Việt Nam), đóng vai trị quan trọng trong việc tạo nên khối
đoàn kết toàn dân. Đánh giá về Trần Nhân Tông và tư tưởng thân dân của
ông, nhà sử học Ngô Sĩ Liên khẳng định: “Cố kết lòng dân, sự nghiệp phục
hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua hiền của đời Trần”. Không chỉ ở
Trần Nhân Tơng, tư tưởng thân dân thời Trần cịn phát triển rực rỡ với Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1228 – 1300), vị tướng kiệt xuất của nhà Trần
và của cả dân tộc. Ơng đã để lại những chiến cơng lẫy lừng trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông (là một quốc gia do người Mơng Cổ sáng lập tồn
tại chính thức từ năm 1271 đến năm 1368, cũng thỉnh thoảng được gọi là nhà
Nguyên Mông) nhưng cao hơn là, để lại một di chúc chính trị - qn sự có giá
trị vượt qua mọi thời đại lịch sử, vượt qua không gian và thời gian: “Khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là kế thượng sách để giữ nước”.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) cũng đã khẳng định: “mến người có nhân là dân
mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân” [112, tr.203]. Kế thừa truyền thống
đó, Minh Mệnh đã phát triển thêm một bước mới về chất tư tưởng “thân dân,
lấy dân làm gốc”. Minh Mệnh cho rằng: “dân là gốc nước” [76, tr.192], bởi
vậy phải “yêu cái dân yêu, ghét cái dân ghét” [110, tr.98]. Đến thời Minh
Mệnh, chủ nghĩa yêu nước, thương dân đã phát triển thành những quan niệm
3
về nghĩa vụ đối với đồng bào, về nguồn sức mạnh, về các yếu tố cấu thành
dân tộc, về phương pháp luận đánh giặc cứu nước. Trong đó đã đúc kết thành
những ngun lý: Cùng một giống nịi thì phải có nghĩa vụ u thương nhau,
đùm bọc nhau; nếu đồn kết thì sẽ có sức mạnh, chung sức chung lịng thì sẽ
dời được non, lấp được biển. Đó là chủ nghĩa yêu nước chân chính trong lịch
sử, vừa phong phú vừa tích cực. “Lịch sử thế giới cho thấy nhiều dân tộc có
chủ nghĩa u nước của mình nhưng chắc chắn rằng ít có dân tộc nào khác lại
có nội dung yêu nước như trên” [116, tr.21].
Như sự gặp gỡ của những tư tưởng lớn, đầu những năm 20 của thế kỷ
XX, lãnh tụ cộng sản thiên tài Lênin cũng cho rằng: Chỉ trông vào bàn tay
những người cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản, đó là một tư tưởng hết
sức ngây thơ. Những người cộng sản chỉ là một giọt nước trong đại dương,
một giọt nước trong đại dương nhân dân. Và: quần chúng lao động ủng hộ
chúng ta, sức mạnh của chúng ta là ở đó. Nguồn gốc khiến chủ nghĩa cộng
sản thế giới trở thành vơ địch cũng là ở đó.
Tiếp nhận dịng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại,
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Khơng chỉ
dừng lại ở đó, Người cịn ln ln tơn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh giải thích: Dân là gốc của nước.
Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nước mà khơng có dân thì khơng thành nước. Nước do dân xây dựng nên,
do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã
cung cấp cho Đảng Cộng Sản Việt Nam những người con ưu tú nhất. Lực
lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người
4
xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân
như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như
khơng có nước. Nhân dân là người biến chủ trương, đường lối của Đảng thành
hiện thực. Về thực chất, đây cũng chính là tư tưởng thân dân. Người cán bộ giữ
được cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư, là người có ý thức phục vụ nhân
dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết, là thân dân.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chính vì
thế mà vấn đề thân dân được xem là một trong những vấn đề quan trọng của
quốc gia. Bài học tư tưởng thân dân trong lịch sử đã được Đảng và Nhà nước
Việt Nam tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng… để
cùng tác động đến đời sống, tâm lý, tư tưởng của các tầng lớp nhân dân, tạo
nên sự chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của từng
người dân. Vì thế mà đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân
không ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa được củng
cố, đẩy mạnh.
Bên cạnh những mặt tích cực, đóng góp khơng nhỏ của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc cần giải quyết liên quan
đến mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân, niềm tin của dân vào
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội… Các hiện tượng tiêu cực ngày càng gia tăng,
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống… làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước
và chế độ, làm giảm sút mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân,
gây nguy hại cho sự nghiệp cách mạng.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” khi mà
dưới tác động của nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập đã bộc lộ những
thiếu sót, khuyết điểm chủ quan trong lãnh đạo, cũng như trong công tác xây
5
dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong thời gian qua. Xu thế lịch sử là không
thể đảo ngược. Song, những bài học do quá khứ để lại, trong đó có bài học về
phép trị nước, về “lấy dân làm gốc” như là những tiền đề thành công của sự
nghiệp đổi mới đất nước, về ổn định chính trị…Những bài học từ quá khứ dù
còn nhiều hạn chế nhưng cũng đã “gợi mở cho chúng ta nhiều suy nghĩ về
mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái đã qua và cái đang đến
trong một dòng chảy lịch sử khơng phân chia” [13, tr.40]. Do đó, phải biết
“đãi cát tìm vàng”, “gạn đục khơi trong” trong kho tàng lịch sử tư tưởng nước
nhà, ở đó có tư tưởng thân dân của Minh Mệnh. Dù đây không phải là cái mới
trong tư tưởng Việt Nam nhưng đó là sự kế thừa phương pháp trị nước nối
tiếp các thế hệ trước và gợi mở ra nhiều hướng đi mới cho các giai đoạn tiếp
theo để tìm ra sức mạnh và bản lĩnh của dân tộc ta “chẳng phải ở đâu, mà
chính từ trong quá khứ của mình” [118, tr.9].
Với đề tài luận văn Quan điểm thân dân của Minh Mệnh qua tác
phẩm Minh Mệnh Chính Yếu, chúng tơi mong muốn đem đến một chuyên
luận góp phần làm rõ những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn tạo
thành sức mạnh của dân tộc trong lịch sử Việt Nam, nhất là trong giai đoạn
cận đại và hiện đại.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Đề tài về lịch sử tư tưởng Việt Nam, đặc biệt là tư tưởng của Minh
Mệnh là một đề tài lớn. Chính vì vậy, nó đã và đang thu hút sự quan tâm của
đông đảo các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và học giả.
Trong các tác phẩm lịch sử tư tưởng bộ Nho giáo của học giả Trần
Trọng Kim được ấn hành tại Hà Nội vào những năm 30 thế kỷ XX, ông coi
Nho giáo như một thứ bảo vật của dân tộc và rất đắc dụng trong việc trị quốc
an dân, là phong cách tốt nhất để thiết lập tôn ty trật tự xã hội. Qua đó ơng
6
phân tích đường lối trị quốc mà Nho giáo chiếm vị trị độc tôn của một số nhà
vua ở các triều đại trong đó có Minh Mệnh.
Gần đây, một số cuốn sách và các sách báo, tạp chí, luận văn thạc sĩ,
tiến sĩ triết học cũng đi vào nghiên cứu một số khía cạnh của các vấn đề tư
tưởng chính trị của vương triều Nguyễn nói chung và Minh Mệnh nói riêng
như: Đỗ Bang (1998), Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều
Nguyễn những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận Hóa, Huế… Đặc biệt là
cơng trình: Nguyễn Minh Tường trong tác phẩm Cải cách hành chính dưới
triều Nguyễn, ở mục III (Chương I) đã bàn về tư tưởng chính trị của Minh
Mệnh. Do vấn đề không thuộc trọng tâm của cuốn sách, nên tác giả Nguyễn
Minh Tường chỉ mới nêu những nét khái quát về tư tưởng chính trị của Minh
Mệnh, chứ chưa đi sâu vào phân tích mọi mặt của tư tưởng chính trị này. Tác
giả Nguyễn Minh Tường nhận định: “Dưới triều Minh Mệnh, tinh thần pháp
trị được đề cao hơn nữa và thực hiện rất nghiêm. Sau một thời kỳ dài mất ổn
định về chính trị để duy trì kỉ cương xã hội, để bộ máy hành chính của đất
nước hoạt động một cách hữu hiệu, phòng ngừa tham quan, lại nhũng tất yếu
phải tăng cường đề cao pháp luật” [110, tr.59].
Tiếp đó là cơng trình Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập II, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1997 do Lê Sỹ Thắng chủ biên, đã trình bày những nội dung
cơ bản của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX. Trong Chương III, Phần một:
Minh Mệnh và sách Minh Mệnh Chính Yếu, mở đầu Chương, Lê Sỹ Thắng
đánh giá cao vai trò của Minh Mệnh “là người đặt cơ sở tư tưởng và thiết chế
của triều Nguyễn” [109, tr.74].
Nguyễn Hồi Văn trong Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt
Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, trong Chương 4, khi nghiên cứu về
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và các tư tưởng chính trị Nho giáo của
Minh Mệnh, tác giả cũng đi vào so sánh tư tưởng chính trị Nho giáo của Minh
7
Mệnh với tư tưởng chính trị Nho giáo của Lê Thánh Tông và nhận định: “nhờ
vận dụng Tống Nho (hay Tân Nho giáo), Lê Thánh Tông đã tiến hành hiện
đại hố đất nước, hồn thành việc hội nhập Việt Nam, với sự lựa chọn mơ
hình cơ bản mới đó là mơ hình nhà Minh hiện đại ở Trung Quốc đưa nước
Đại Việt đạt trình độ ngang bằng với các quốc gia Âu - Á cùng loại” [114,
tr.4655]. Nhưng cũng với Tống Nho, Minh Mệnh đã đóng chặt mọi cánh cửa
mở ra với thế giới phương Tây. Bên cạnh những tác phẩm về lịch sử tư tưởng
ở trên, cịn có một số tác phẩm về lịch sử liên quan đến đề tài luận văn. Cuốn
sách Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, Hà Nội, 1951, Trần Trọng Kim đã
đánh giá rất cao những tư tưởng chính trị xã hội cũng như những việc làm mà
Minh Mệnh đã làm được. Ông viết: “Trong đời vua Thánh tổ (tức Minh
Mệnh) làm vua, pháp luật, chế độ, điều gì cũng được sửa sang lại cả, làm
thành một nước có cương kỷ… Ngài là một ơng vua thơng minh, có lịng quả
cảm, hết lịng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn, chưa có ông vua
nào làm được nhiều công việc hơn ngài” [47, tr.465].
Đặc biệt là cơng trình Lịch sử Việt Nam, tập II, do Giáo sư Phan Huy
Lê chủ biên năm 2003. Cơng trình là sự tập hợp tình hình đất nước từ đầu thế
kỷ XV đến giữa thế kỷ XIX. Trong Phần thứ sáu, Chương III: Việt Nam - Đại
Nam thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX khi nêu ra các vấn đề về kinh tế, chính
trị, văn hố của vương triều Nguyễn nói chung, tác giả nhận định: “Từ Gia
Long đến Minh Mệnh, bộ máy cai trị của nhà Nguyễn ngày càng hồn thiện,
có thêm có bớt nhưng nhìn chung khơng cồng kềnh, thậm chí có thể coi là
gọn nhẹ” [49, tr.418].
Cũng trong hướng nghiên cứu này, cịn có cuốn Đại cương lịch sử
Việt Nam (toàn tập) do Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn
chủ biên, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010. Như tên gọi, đây là cuốn sách trình
bày khái quát, và khá sâu sắc tiến trình lịch sử phát triển lịch sử Việt Nam,
8
gồm 3 giai đoạn: Lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thủy đến 1858; Lịch sử
Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945 và lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến
năm 2000. Trong đó ở các Chương 7, 8, 9, 10 thuộc Phần 4 của giai đoạn lịch
sử Việt Nam từ thời nguyên thủy đến năm 1858, các tác giả đã tập trung trình
bày và phân tích tình hình kinh tế - xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XIV và cuộc
cải cách của Hồ Quý Ly, phong trào kháng chiến chống Minh và cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Đại Việt từ thế kỷ
XIV đến thế kỷ XIX gắn liền với việc hình thành và phát triển quan điểm thân
dân của Minh Mệnh.
Đặc biệt trong hướng nghiên cứu này là tác phẩm Đại cương lịch sử tư
tưởng triết học Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Hùng Hậu chủ biên, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2002. Trong cuốn sách, ngoài lời nhà xuất
bản, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung được kết cấu thành 6 Chương:
trong Chương 6 với tiêu đề Tư tưởng triết học Việt Nam từ thế kỷ XV đến
1858. Trong chương này, các tác giả đã trình bày khái quát tư tưởng triết học
của các nhà tư tưởng như: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan, Hương Hải Thiền sư, Chân Nguyên
Thiền sư, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Ngơ Thì Nhậm, Minh Mệnh, Nguyễn
Đức Đạt và khái quát chung về thế giới quan và nhân sinh quan dưới thời
Nguyễn. Như vậy, có thể nhận thấy rằng đây là một trong số ít các cơng trình
khi đi nghiên cứu vấn đề trên đã lấy tiêu đề Lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, với 224 trang sách, nhìn chung đây là cơng trình khái qt khá tồn diện
và sâu sắc những vấn đề triết học trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Cơng trình của Mai Khắc Ứng (1996), Chính sách khuyến nơng dưới
thời vua Minh Mệnh, Nxb. Văn hóa Thơng tin, Hà Nội; Trương Hữu Qnh –
Đỗ Bang (1991), Tình hình ruộng đất nơng nghiệp và đời sống nhân dân dưới
triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, Huế… Các cơng trình trên đã đi vào tìm hiểu
9
một số khía cạnh như cải cách ruộng đất, cải cách hành chính, hoặc là đi vào
phân tích q trình độc tơn Nho giáo của Minh Mệnh trong tiến trình lịch sử
dân tộc. Tuy nhiên, việc phân tích một cách khái quát những tư tưởng chính trị
của Minh Mệnh vẫn là vấn đề cần được tiếp tục. Không những thế, những cơng
trình tiêu biểu trên đã trình bày một cách khái quát về tư tưởng của Việt Nam
qua các thời kỳ lịch sử, trong đó có tư tưởng của Minh Mệnh. Song, tư tưởng
của Minh Mệnh chỉ được các tác giả rút ra và đánh giá ở mức độ khái qt.
Tư tưởng của Minh Mệnh cịn được trình bày trong tác phẩm Lịch sử
triết học Phương Đơng, Nxb. Chính trị quốc gia, xuất bản năm 2012. Trong
đó tác giả đã trình bày, phân tích khái qt tư tưởng của Minh Mệnh trên các
mặt như: đạo làm vua, đạo làm người, chủ nghĩa yêu nước, thương dân…
Ngoài ra, những nhà khoa học, những nhà quản lý đã có cơng trình,
những bài viết về tư tưởng của Minh Mệnh, được đăng trên các tạp chí, kỷ
yếu khoa học như: Lê Cảnh Vững (2012) “Tư tưởng đề cao Nho giáo của Vua
Minh Mệnh trong Minh Mệnh Chính Yếu”, Tạp chí khoa học Đại học Huế, 3
(72A); luận văn thạc sỹ triết học của Kiều Thị Hồng Nhung (2009), Khuynh
hướng thân dân trong tư tưởng chính trị của Minh Mệnh, Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Hà Nội; Nguyễn Thị Hiếu (2009), Tìm hiểu tư tưởng
chính trị của Minh Mệnh qua một số tác phẩm tiêu biểu dưới triều Nguyễn,
Đại học khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội; Trong các cơng trình trên, các
tác giả đã đi sâu nghiên cứu tư tưởng của Minh Mệnh dưới nhiều góc độ khác
nhau. Song, vấn đề giá trị và ý nghĩa quan điểm thân dân của Minh Mệnh
chưa được đề cập một cách sâu sắc, đầy đủ và cho đến nay vẫn thiếu vắng
cơng trình khoa học trực tiếp nghiên cứu về: Quan điểm thân dân của Minh
Mệnh qua tác phẩm Minh Mệnh Chính Yếu.
Trên cơ sở kế thừa thành quả của những nhà nghiên cứu đi trước ở
những góc độ khác nhau, với những quan niệm khác nhau khi nghiên cứu về
10
tư tưởng của Minh Mệnh, luận văn cố gắng đưa ra cách tiếp cận cụ thể hơn,
chi tiết hơn về quan điểm thân dân của Minh Mệnh qua tác phẩm Minh Mệnh
Chính Yếu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn
Luận văn nhằm làm rõ quan điểm thân dân của Minh Mệnh và trên cơ
sở đó đánh giá được giá trị, hạn chế, bài học lịch sử từ quan điểm thân dân
của Minh Mệnh.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích đó, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
Một là, phân tích điều kiện, tiền đề hình thành quan điểm thân dân của
Minh Mệnh.
Hai là, làm rõ những nội dung cơ bản trong quan điểm thân dân của
Minh Mệnh qua tác phẩm Minh Mệnh Chính Yếu.
Ba, đánh giá những giá trị, hạn chế và bài học lịch sử từ quan điểm
thân dân của Minh Mệnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Thân dân là một trong những quan điểm cơ bản của Minh Mệnh trong
tác phẩm Minh Mệnh Chính Yếu. Bên cạnh quan điểm này, Minh Mệnh còn
đề cập đến nhiều vấn đề về nhân sinh quan. Mỗi một vấn đề khác nhau có
những đặc điểm riêng khác nhau. Ở đây, tác giả chọn quan điểm thân dân làm
đối tượng nghiên cứu của luận văn.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
Luận văn này được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm cơ bản của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trị và vị trí của quần chúng nhân dân, về
11
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, về tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Đồng thời, luận văn có sự tham khảo các cơng trình nghiên cứu về vai trò
quần chúng nhân dân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam…
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và thực hiện nhiệm vụ trên, luận văn dựa trên
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp diễn dịch, quy nạp, phương pháp đối chiếu, so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Những phân tích, luận giải của luận văn nhằm làm sáng tỏ những giá
trị quan điểm thân dân của Minh Mệnh và ý nghĩa của nó đối với việc xác lập
quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng và Chính phủ Việt Nam nhằm phát
huy mạnh mẽ vai trị của quần chúng nhân dân trong xây dựng và phát triển
đất nước giai đoạn hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả luận văn là tài liệu có ích, gợi mở một số bài học quý giá
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, từ đó góp
phần hoạch định các biện pháp và chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của nước ta.
Luận văn có thể dùng làm nguồn tài liệu tham khảo cho những sinh
viên, học viên chuyên ngành Triết học, Chính trị học, những người tìm hiểu
đến lĩnh vực triết học xã hội và các độc giả quan tâm.
12
7. Cái mới của luận văn
Lần đầu tiên, luận văn khái quát và hệ thống hóa những quan điểm
chủ yếu về dân, vai trò của dân, quan điểm thân dân của Minh Mệnh trong tác
phẩm Minh Mệnh Chính Yếu; nêu ý nghĩa của sự kế thừa, phát triển quan
điểm thân dân của Minh Mệnh trong việc phát huy bài học “lấy dân làm gốc”
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2
chương, 6 tiết.
13
Chƣơng 1
ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
QUAN ĐIỂM THÂN DÂN CỦA MINH MỆNH
1.1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM THÂN DÂN
CỦA MINH MỆNH
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Cuối thế kỷ thứ XVIII, Nguyễn Huệ (1753 – 1792) cịn được biết đến là
Quang Trung hồng đế (光中皇帝), vua Quang Trung hay Bắc Bình
Vương (北平王), là vị hồng đế thứ hai của nhà Tây Sơn đánh tan 20 vạn qn
Thanh lên ngơi hồng đế, lấy hiệu là Quang Trung, lập nên triều đại Tây Sơn.
Triều đại Tây Sơn tồn tại 5 năm (1788-1792) thì Nguyễn Huệ mất đột ngột,
Quang Toản (1783 – 1802) hay Cảnh Thịnh hoàng đế (景盛皇帝), là con trai
thứ của vua Quang Trung, còn nhỏ lên thay khiến nội bộ Tây Sơn lục đục, tạo
nên sự xáo trộn chính trị. Chớp thời cơ, Nguyễn Ánh (1762 – 1820), (vị hoàng
đế đã thành lập ra nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử
Việt Nam, hiệu là Gia Long) phản công và đánh bại triều đại Tây Sơn, lập ra
triều Nguyễn. Đánh giá sự kiện này, sách Lịch sử Việt Nam đã nhận xét:
“Trong lịch sử nước ta, các vương triều tiến bộ trước đây đều được thiết
lập trên thắng lợi của một cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, hoặc sau khi thiết
lập, đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân
tộc, củng cố thống nhất quốc gia. Đó là cơ sở chủ yếu tạo nên sức mạnh của
vương triều. Còn triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng nên
bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của nước
ngoài. Gia Long lên làm vua, lập ra triều Nguyễn sau khi đã đàn áp cuộc chiến
tranh cách mạng của nông dân mà nội dung cơ bản là đấu tranh cho quyền lợi
của nhân dân, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia” [50, tr.369].
14
Mặc dù được thiết lập trong một điều kiện lịch sử đặc biệt, nhưng nhà
Nguyễn cũng đã thừa hưởng những thành quả to lớn của phong trào Tây Sơn
trong sự nghiệp thống nhất đất nước, làm chủ một vùng lãnh thổ trải dài từ ải
Nam Quan đến mũi Cà Mau. Bên cạnh đó, Gia Long cũng đã tiếp nhận một di
sản nặng nề của quá khứ, đó là một hệ thống chính trị đổ nát, phong tục trong
nước bị hủy hoại. Bởi vậy, những nhiệm vụ của Gia Long thời kỳ đầu nhà
Nguyễn là hết sức nặng nề, trong nước thì phải chỉnh đốn luật pháp, sửa sang
phong tục, bên ngồi thì lo sự giao hiếu với các nước. Với mười tám năm cầm
quyền, Gia Long đã đưa xã hội dần đi vào nề nếp, kinh tế khá phát triển,
thương mại trong và ngồi nước có sự phục hồi.
Về nơng nghiệp, hàng loạt những khó khăn trong vấn đề ruộng đất
được đặt ra ngay thời kỳ nhà Nguyễn được thiết lập. Thời Gia Long, Minh
Mệnh, ruộng đất của các nước được đo đạt lại, “địa bạ” các xã được lập ra.
Trải qua chuyển biến nhiều thế kỷ, hàng loạt nông dân phiêu tán và khơng có
ruộng đất đang chờ vào khẩu phần ruộng công trong khi ruộng công ở nhiều
xã khơng cịn hoặc rất ít. Năm 1804, Gia Long ban hành phép quân điền, theo
đó tất cả mọi người đều được chia ruộng công ở xã, nhưng ưu tiên chia theo
cấp bậc, từ các vương tôn được cấp 18 phần, quan nhất phẩm được 15 phần,
tuần tự hạ mức đến dân nghèo được 3 phần. Chính sách qn điền khơng có
tác dụng đáng kể, vì làng nào làm theo tục lệ làng ấy, dân nghèo vẫn khơng có
ruộng đất. Cho đến cuối những năm 30 của thế kỷ XVIII, nhân dân tiếp tục
phiêu tán, ruộng đất hoang hóa khắp nơi mặc cho chính sách khẩn hoang của
nhà Nguyễn liên tục được ban ra.
Đồn điền được thiết lập ở nhiều nơi, nhất là ở Nam Kỳ và các tỉnh cực
nam Trung kỳ. Lực lượng đồn điền gồm binh sĩ, người bị lưu đầy, dân nghèo
Việt hay Hoa. Nhiều đồn điền sau khi khai phá xong thì được chuyển thành
làng xã, ruộng đất do xã quản và nộp thuế. Năm 1828, hình thức doanh điền ra
15
đời, trong đó có sự kết hợp giữa nhà nước với nhân dân để khai hoang. Ruộng
đất sau khi khai hoang sẽ được phân phối cho những người có cơng tùy theo
thời điểm cho phép. “Hình thức doanh điền được mở rộng ra các tỉnh phía
nam, diện tích tăng lên đáng kể, năm 1847 đã là 4.273.013 mẫu” [8, tr.1124].
Về công tác thủy lợi, trị thủy, các vua Nguyễn hiểu dụ các quan lại
kiến nghị về phương pháp trị thủy hiệu quả, cấp kinh phí cho địa phương sửa
đắp đê điều, đào kênh, sông… Tuy nhiên, do thiếu phối hợp và quy hoạch
chung, do tác động của môi trường, sinh thái, lụt lội, việc vỡ đê vẫn liên tiếp
xảy ra, kéo theo đó là mất mùa đói kém.
Về mặt sản xuất nông nghiệp, người dân tự tận dụng những kinh
nghiệm của mình để làm nơng, họ đã tiến hành nhân giống và tìm ra được
nhiều giống lúa mới có gạo dẻo, thơm nhưng không được tạo điều kiện tăng
năng xuất giống lúa mới. Họ còn trồng thêm nhiều cây lương thực, rau, củ,
quả trong vườn với nhiều giống cây nhập khẩu, cây cơng nghiệp như dâu,
đay, thuốc lá, mía… được trồng rộng khắp. “Tuy đa dạng, phong phú nhưng
việc sản xuất vẫn không vượt ra khỏi phương thức sản xuất cổ truyền nên
khơng tạo nên tình trạng ổn định cho xã hội. Trong lúc đó, thiên tai, dịch
bệnh, mất mùa ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống của người dân” [8, tr.1129].
Bộ phận thủ công nghiệp nhà nước thời Nguyễn giữ vị trí quan trọng,
phụ trách chế tạo tư liệu sinh hoạt cho hoàng gia. Bên cạnh xưởng đúc tiền
gọi là “Bắc Thành tiền cục” được thành lập năm 1803, cịn có các cơ quan
như: Ty thuyền chịu trách nhiệm đóng các loại thuyền, Vũ khố chế tạo ty
quản lý thủ công các loại, ty Doanh kiến, ty Tu tạo, ty Thương bác hỏa
dược… Thợ làm việc trong các công xưởng chủ yếu tập trung thợ giỏi ở các
tỉnh, được tổ chức theo chế độ công tượng, tập trung theo ban, hưởng lương
theo công việc nặng, nhẹ gồm gạo và tiền. Do tính chất tập trung trong lao
động dưới sự kiểm sốt chặt chẽ của các đốc cơng và do trình độ tay nghề
16
của thợ, sản phẩm làm ra đều có chất lượng tốt. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc
với cơng nghiệp cơ khí phương Tây đã kích thích tinh thần sáng tạo của
người thợ thủ công Việt Nam trong các công xưởng. Thời Minh Mệnh, thợ
thủ công đã chế tạo được xe “Thủy hỏa ký tế” dùng sức nước để nghiền
thuốc súng, làm ra máy cưa gỗ, xẻ gỗ chạy bằng sức nước, máy hút nước
tưới ruộng. Một bộ phận công nghiệp quan trọng do nhà nước quản lý đó là
khai mỏ. Việc khai thác mỏ được phân thành bốn lực lượng: mỏ do nhà nước
trực tiếp kinh doanh với số lượng thợ là binh lính, cơng tượng, dân phu đơng
đảo, tiền công thấp; mỏ do thương nhân Hoa kiều lĩnh trưng và đóng thuế với
nhân cơng phần lớn là Hoa kiều, có trình độ chun mơn; mỏ do thổ tù thiểu
số lĩnh trưng, quy mô sản xuất lớn nhưng phương pháp sản xuất lạc hậu; mỏ
do người Việt lĩnh trưng với số lượng ít, nhân cơng được trả lương cao hay
thấp do cơng việc khó hay dễ. Phương pháp sản xuất này có từ thế kỷ thứ
XVIII nhưng cịn hãn hữu và khơng có điều kiện để phát triển. Trong nhân
dân các nghề thủ công phát triển khắp nơi với nhiều đặc điểm khác nhau và
đa dạng, phong phú, số người làm nghề thủ công tăng lên. Tuy nhiên,
phương thức thủ công hầu như không thay đổi. Các làng nghề thủ cơng vẫn
gắn liền với nơng nghiệp như xưa, khơng hình thành các phường hội với quy
chế riêng như ở Tây Âu trung đại. Bên cạnh đó, nhà nước thiếu các chính
sách khuyến khích. Nhà nước giữ độc quyền mua một số sản phẩm như: sa,
lượt, lụa là, thợ thủ công vừa đóng thuế nhân, vừa phải đóng thuế sản phẩm,
đặc biệt là các sản phẩm thủ công quý.
Về thương nghiệp, đầu thế kỷ thứ XIX, đất nước thống nhất, giao
thông nối liền Nam Bắc, kênh sông được khai đào… tạo điều kiện cho trao
đổi, buôn bán phát triển. Các thức ăn đặc sản từng vùng dần trở thành quen
thuộc. Tuy nhiên, chính sách thuế khóa kiểm sốt phức tạp, chính sách ức
thương của nhà nước đã hạn chế sự phát triển của thương nghiệp.Việc buôn
17
bán với thương nhân nước ngoài suy giảm bởi tinh thần “đóng cửa” với
phương Tây của nhà Nguyễn. Mặt khác, nhà Nguyễn nắm độc quyền ngoại
thương và trên cơ sở đó tổ chức các chuyến bn và cơng cán ở một số nước
như Hạ Châu (Singapore), Giang Lưu Ba (Indonesia), Lữ Tống (Philippines),
Băng Cốc (Thái Lan)… Hàng bán đi là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng
mua về là len dạ, vũ khí, đạn dược. Nhìn chung, sự phát triển hạn chế của
công thương nghiệp ở nửa đầu thế kỷ XIX không tạo được những điều kiện
cần thiết cho sự chuyển biến xã hội.
1.1.2. Điều kiện chính trị - xã hội
Về tổ chức chính quyền, sau khi lên ngơi, xem quốc đô là Phú Xuân,
Nguyễn Ánh kiểm tra hệ thống các đơn vị hành chính cũ, đặc quan chức cai
quản. Theo đó, 11 trấn Bắc Thành (Bắc Bộ ngày nay) được hợp thành một
tổng trấn, 5 trấn cực Nam hợp thành 1 tổng trấn gọi là Gia Định thành. Gia
Long cũng cho sửa đắp hệ thống đường giao thơng chính từ các địa phương về
trung ương và đặt một hệ thống trạm dịch nhằm chuyển đệ văn thư. Từ 1831,
đời vua Minh Mệnh, để nhất thể hóa các đơn vị hành chính trong nước, hai
tổng trấn được bãi bỏ, cả nước chia thành 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên (trực
thuộc trung ương), dưới tỉnh có phủ, huyện, châu rồi đến tổng, xã. Đứng đầu là
các chức Tổng đốc và Tuần phủ, giúp việc có Bố chính ty và Án xác ty.
Hệ thống chính quyền trung ương và địa phương được phân biệt rõ
ràng, tổ chức chặt chẽ quyền hành tập trung hơn nữa vào tay nhà vua. Giúp
việc giấy tờ cho vua có Thị thư viện hay Văn thư phịng, sau này gọi là Nội
các (1829), cịn có Tơn nhân phủ phụ trách việc Hoàng gia. Bên dưới là 6 Bộ
(Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Cơng) chỉ đạo các cơng việc chung của Nhà nước,
cùng với Ngũ quân đô, Đô sát viện, Hàn lâm viện, phủ Nội viện, Thái y
viện… và một số ty, cục. Ban đầu, quan lại chủ yếu là những người có cơng,
một số cựu thần hoặc đỗ đạt nhà Lê, về sau quan lại được bổ dụng thông qua
18
thi cử. Họ hưởng ruộng đất theo phép quân điền, hưởng lương theo phẩm
hàm, chủ yếu nhận tiền và gạo. “Tuy nhiên, ở thời Nguyễn, tệ tham nhũng
vẫn không thể ngăn chặn, mặc dù các vua Nguyễn đã xử rất nặng hàng loạt
viên quan to, trong đó ít nhất 11 Trấn thủ và Hiệp trấn tham nhũng bị cách
chức hoặc xử tử” [8, tr.1127].
Về luật pháp, năm 1815, bộ “Hoàng triều luật lệ” hay “Luật Gia
Long” được ban hành do nhóm Nguyễn Văn Thành biên soạn dựa trên ý của
vua Gia Long và sao chép gần như nguyên vẹn bộ luật nhà Thanh. Luật Gia
Long gồm 398 điều, chia thành 7 Chương cùng 30 điều “Tạp tụng”, được
xem là bộ luật chính thống của thời Nguyễn. Các điều luật phản ánh thực tiễn
nước ta trong luật Hồng Đức đều không cịn, thay vào đó là những điều luật
rất hà khắc về các tội như “phản nghịch”, tuyên truyền “yêu ngôn, yêu thư”.
Về quân đội, nhà Nguyễn có 3 bộ phận: Thân binh, Cấm binh, Tinh
binh hay Biền binh. Ước tính có khoảng 4 vạn bộ binh bảo vệ triều đình
trung ương, 15.000 thủy binh và 10 vạn biền binh. Ngoài ra cịn có một đạo
tượng binh mạnh, một lực lượng pháo binh lớn và một số quân dùng súng
tay. Số lượng vũ khí lớn nhưng khơng có điều kiện đổi mới. Chế độ ruộng
lương được nhà Nguyễn đặt rất hậu nhưng tinh thần và chất lượng quân đội
ngày càng sa sút.
Về ngoại giao, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh cử sứ đoàn do Lê
Quang Định dẫn đầu sang nhà Thanh xin cầu phong, quốc ấn và quốc hiệu.
Từ năm 1804, sau khi nhận sắc phong, cứ 4 năm một lần, nhà Nguyễn cử sứ
bộ sang nộp 2 lần lễ cống. Trong quan hệ với nhà Thanh, nhìn chung, thái độ
của nhà Nguyễn là thần phục một cách mù quáng. Tuy nhiên, đối với Cao
Miên, nhà Nguyễn lại dùng lực lượng quân sự khống chế, đặt thành Trấn
Tây, bắt Lào thần phục. Bên cạnh đó, quan hệ với Xiêm cũng khơng ổn định,
lúc hịa hỗn, lúc tranh chấp.
19
Đối với các nước phương Tây, Gia Long giữ quan hệ tốt với Pháp,
lạnh nhạt với Tây Ban Nha, Anh. Từ thời Minh Mệnh trở đi cho đến khi cuộc
xâm lược của thực dân Pháp bùng nổ, nhà Nguyễn duy trì tinh thần “đóng
cửa”, cự tuyệt quan hệ với phương Tây.
Cũng như các triều đại trước, dưới thời nhà Nguyễn, xã hội Việt Nam
chia thành hai giai cấp lớn: “thống trị và bị trị” [8, tr.1131]. Giai cấp thống trị
bao gồm có vua, quan, thư lại trong hệ thống chính quyền và giai cấp địa chủ.
Vua và hoàng tộc trở thành tầng lớp đơng đảo có đặc quyền, có dinh tự, ruộng
vườn rộng rãi và được một hệ thống các cơ quan, đứng đầu là phủ Tôn nhân,
chăm lo, bảo vệ. Quan lại xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội
với tư tưởng được củng cố chặt chẽ bởi ý thức hệ Nho giáo. Giai cấp địa chủ
ở thời Nguyễn vừa là cơ sở xã hội của nhà nước vừa luôn phải dựa vào lực
lượng hào lý ở làng xã và quyền lực chính trị của nhà nước để tồn tại. Giai
cấp bị trị bao gồm toàn bộ nông dân, thợ thủ công, thương nhân, một số dân
nghèo thành thị, người bị lưu đày, nơ tì, gia quyến sống ở đồn điền.
Dân nghèo là những người có ít ruộng đất tư để cày cấy, ruộng cơng
thì nhỏ và xấu nên họ phải chạy vạy buôn bán ở các chợ, làm thủ công, gánh
vác thuê cho các nhà bn bán. Bên cạnh đó, họ cịn là người chịu những tai
họa của thiên nhiên, các thứ thuế má, sưu dịch nặng nề, chịu mọi bất công của
xã hội. Họ thường xuyên phải bỏ làng đi phiêu tán khắp nơi để kiếm ăn, chết
đói khắp nơi. Khơng tìm ra lối thoát, chất chứa căm thù vua quan nhà Nguyễn
và bọn địa chủ tàn ác, họ đã nổi dậy.
Năm 1803, một số tướng cũ của Tây Sơn do Nguyễn Văn Tuyết cầm
đầu đã nổi quân ở vùng Kinh Môn (Hải Dương). Nhân đó, hào mục nhiều nơi
cũng đã nổi dậy, khiến phố chợ Bắc Thành kinh sợ. Phong trào bùng lên
mạnh hơn vào các năm 1807 – 1808, trong đó rầm rộ hơn cả là cuộc khởi
nghĩa của Vũ Đình Lục và Đặng Trần Siêu ở Sơn Nam liên kết với quân của