Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Lân sư rồng góc nhìn văn hóa chợ lớn sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.65 MB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA/BỘ MÔN: NGỮ VĂN TRUNG QUỐC

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƢỜNG NĂM 2014

Tên cơng trình:

LÂN SƢ RỒNG
GĨC NHÌN VĂN HĨA CHỢ LỚN – SÀI GÒN

Sinh viên thực hiện:
Chủ nhiệm: Lâm Vương Pinang, Khoa Ngữ Văn Trung Quốc, Khóa 2012-2016.
Thành viên: Từ Vĩnh Hải, Khoa Ngữ Văn Trung Quốc, Khóa 2012-2016.
Tơ Thái Phong, Khoa Ngữ Văn Trung Quốc, Khóa 2012-2016.
Trần Quốc Thuận, Khoa Văn Học Ngơn Ngữ, Khóa 2012-2016.
Lương Syen Tak, Khoa Ngữ Văn Trung Quốc, Khóa 2012-2016.
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Trương Gia Quyền, Khoa Ngữ Văn Trung Quốc.


LỜI MỞ ĐẦU
Cứ đến những dịp đặc biệt, những ngày lễ lớn hay trong những ngày Tết truyền
thống như Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu, ngày khai trương kinh doanh,… thì ở
khắp mọi nơi từ chùa chiền, đền đài, đến công ty, nhà ở, từ những con phố lớn đến
những ngõ hẻm nhỏ… mọi người cũng sẽ đều nghe thấy những âm thanh quen thuộc
“tắc tắc tùng chen” của những đoàn nghệ thuật Lân – Sư – Rồng. Với những màn biểu
diễn đặc sắc, đẹp mắt và điêu luyện, nghệ thuật Lân – Sư – Rồng đã trở thành một nét
văn hóa truyền thống của các quốc gia Đơng Nam Á nói chung và của Việt Nam nói
riêng. Với nguồn gốc từ xa xưa, nghệ thuật Lân – Sư – Rồng đã được gìn giữ, bảo tồn,
duy trì và đến ngày nay.Nghệ thuật Lân – Sư – Rồng đã có sức ảnh hưởng lớn và ngày


càng phát triển hết sức mạnh mẽ trên trường quốc tế.Thậm chí nghệ thuật Lân – Sư –
Rồng đã trở thành một môn nghệ thuật chuyên nghiệp và được tổ chức thi đấu như các
môn nghệ thuật lớn khác.
Qua bài nghiên cứu này, chúng tôi muốn đưa đến các bạn đọc gần xa một số
kiến thức cần thiết để các bạn có thể hiểu rõ hơn nguồn gốc cũng như ý nghĩa của nghệ
thuật Lân – Sư – Rồng, về sự khác biệt của môn nghệ thuật này ở các quốc gia Đông
Nam Á và ở Việt Nam. Từ đó với mong muốn mọi người có thể chung tay góp sức giữ
gìn và phát triển những mơn nghệ thuật, những nét văn hóa đặc sắc, tốt đẹp (nghệ thuật
Lân – Sư – Rồng nói riêng và các mơn nghệ thuật khác nói chung).
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi chú trọng nghiên cứu Lân Sư Rồngở khu
vực Chợ Lớn – Thành Phố Hồ Chí Minh – một địa danh mà nghệ thuật Lân - Sư Rồng phát triển khá mạnh mẽ ở Việt Nam.


MỤC LỤC
Tóm tắt................................................................................................................................ 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN ............................................................................................. 2
I. Mục đích.......................................................................................................................... 2
II. Phƣơng pháp ................................................................................................................. 2
III. Ý nghĩa thực tiễn ......................................................................................................... 2
CHƢƠNG II: NGHỆ THUẬT LÂN – SƢ – RỒNG ...................................................... 3
I. NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA ....................................................................................... 3
1. Lân - Sƣ ...................................................................................................................3
2. Rồng ......................................................................................................................... 9
II. NGHỆ THUẬT LÂN – SƢ – RỒNG ........................................................................ 12
1. Đội hình – Tổ chức ............................................................................................... 12
1.1 Đội hình múa Lân...................................................................................................................12
1.2 Đội hình múa Sư tử.................................................................................................................16
1.3 Đội hình múa rồng..................................................................................................................18
1.4 Đội hình trống trận ................................................................................................................20


2. Trang phục ............................................................................................................24
3. Trƣờng phái ..........................................................................................................28
3.1 Trƣờng phái Phật Sơn: ..........................................................................................................28
3.1.1 Phật Sơn trong quá trình phát triển võ thuật của Nam Phái đã có vai trị rất lớn: ......28
3.1.2. Võ thuật của Phật Sơn đã cống hiến một phần sức không nhỏ vào cách mạng: ..........30
3.1.3 Võ thuật của Phật Sơn đã góp phần truyền bá hình ảnh của võ thuật Trung Quốc đến
thế giới: ..........................................................................................................................................33

3.2 Trƣờng phái Hạc Sơn ....................................................................................... 35
3.2.1 Sơ lƣợc về nghệ thuật múa Lân của phái Hạc Sơn: .........................................................35
3.2.2 Truyền nhân của nghệ thuật múa lân phái Hạc Sơn: ......................................................37

3.3 Thái Lý Phật ......................................................................................................38
3.3.1 Nguồn gốc và tên gọi ...........................................................................................................38
3.3.2 Đặc trƣng kỹ pháp...............................................................................................................39

3.4 Trường phái Bạch Mi ........................................................................................ 40
3.4.1 Nguồn gốc và tên gọi. ..........................................................................................................40


3.4.2 Bạch Mi phái tại Sài gòn (Việt Nam) .................................................................................43
3.4.3 Đặc trƣng kỹ pháp...............................................................................................................43
3.4.4 Phả hệ Bạch Mi phái ...........................................................................................................47

4. Bài múa ......................................................................................................................... 48
4.1 Múa Lân ..............................................................................................................48
4.2 Múa Sƣ ................................................................................................................50
4.3 Múa rồng .............................................................................................................52
5. Văn hóa ......................................................................................................................... 55
III.V


THUẬT TRONG M A LÂN – SƢ – RỒNG ................................................... 60

IV. HOẠT ĐỘNG LÂN – SƢ – RỒNG Ở KHU VỰC CHỢ LỚN HIỆN NAY VÀ
ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ Ở VIỆT NAM VÀ CÁC NƢỚC ĐÔNG NAM Á............... 67
1. Hoạt động ở Chợ Lớn.................................................................................................. 69
2. Ảnh hƣởng ở Việt Nam và các nƣớc Đông Nam Á ................................................... 76
CHƢƠNG III: MÃI LÀ NÉT ĐẸP ................................................................................ 80
I. KẾT LUẬN ................................................................................................................... 80
II. TÌNH HÌNH HIỆN NAY ........................................................................................... 81
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 84


Tóm tắt
Bài nghiên cứu khoa học này tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của bộ môn nghệ
thuật Lân Sư Rồng – nghệ thuật đã có từ lâu đời và mang đậm chất văn hóa dân tộc
của các nước phương Đơng. Song bên cạnh sự phát triển thì nghệ thuật Lân Sư Rồng
còn xuất hiện các giá trị truyền thống dần dần bị biến tướng. Điều đó thúc đẩy vấn đề
cần phải tìm hiểu rõ hơn về lịch sử lâu đời và phát triển của bộ môn nghệ thuật này, từ
đó có cái nhìn hồn thiện hơn về nguồn gốc ý nghĩa của loại hình nghệ thuật truyền
thống.
Qua việc tìm hiểu những tư liệu của các học giả nghiên cứu về nghệ thuật Lân
Sư Rồng, lịch sử và văn hóa Chợ Lớn thông qua sách vở và các phương tiện truyền
thơng được ghi chép lại. Bên cạnh đó kết hợp đi thực địa tới một số đoàn Lân trong
khu vực Chợ Lớn thành phố Hồ Chí Minh cùng với việc nghiên cứu các đoạn băng tư
liệu ghi lại các hoạt động biểu diễn ký sự của đoàn Lân, cũng như sự phát triển Lân Sư
Rồng ở nước ngồi. Từ đó tìm ra được những vẻ đẹp truyền thống, văn hóa tập tục của
các đoàn Lân trong những dịp lễ nghi. Ngồi ra cịn giúp chúng ta hiểu thêm nhiều về
nghệ thuật biểu diễn truyền thống và cách tân.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu, nhóm chúng tơi đã rút ra được nét đẹp truyền

thống của loại hình nghệ thuật Lân – Sư - Rồng của văn hóa phương đơng người Hoa.
Tầm ảnh hưởng của Lân Sư Rồng đến văn học, phim ảnh, võ thuật, văn hóa,… cũng
rất mạnh mẽ cho thấy được sự phát triển lớn mạnh không ngừng đổi mới, cải tiến và
giữ gìn những nét đẹp truyền thống mang ý nghĩa đặc trưng cho những dịp lễ hội, bảo
tồn phát huy và giao lưu văn hóa biểu diễn, gắn kết cộng đồng. Tình yêu nghệ thuật
của người biểu diễn cùng với sự hứng khởi của người xem vẫn còn mãi. Tuy nhiên bên
cạnh sự bảo tồn và phát triển ấy còn xuất hiện những mặt hạn chế như việc tồn tại một
số đồn Lân chưa chính thức, hay biến đấu cách biểu diễn một cách bừa bãi làm mất đi
tính truyền thống vốn có của nghệ thuật Lân - Sư - Rồng. Nhưng khơng vì thế làm nét
đẹp ấy bị phai mờ mà sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển.

1


CHƢƠNG I: TỔNG QUAN
I. Mục đích
Hiện nay, Lân – Sư – Rồng là một bộ môn nghệ thuật khá phổ biến và ngày
càng phát triển mạnh, có tầm ảnh hưởng sâu rộng trên tầm quốc tế. Nhưng những kiến
thức cơ bản về bộ môn nghệ thuật này như nguồn gốc xuất xứ, ý nghĩa, cách thức biểu
diễn,… thì có rất ít người hiểu rõ song tài liệu liên quan đến bộ mơn nghệ thuật này
cũng khơng nhiều. Vì lí do đó nên nhóm chúng tơi quyết định tìm kiếm những nguồn
tài liệu có liên quan, tiến hành khảo sát và hệ thống lại thành đề tài nghiên cứu này, để
những ai quan tâm đến bộ mơn nghệ thuật này có thể nắm bắt và hiểu rõ hơn về những
nét văn hóa độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật Lân – Sư – Rồng, đồng thời cũng sẽ là
những tài liệu đầu cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát triển nghệ thuật Lân – Sư –
Rồng ở cộng đồng người Hoa khu vực Chợ Lớn.

II. Phƣơng pháp
-


Phương pháp tổng hợp: Đầu tiên nhóm sẽ cùng tìm hiểu các tài liệu liên quan
vềLân – Sư – Rồng.

-

Phương pháp điều tra, khảo sát: Sau đó nhóm tiến hành khảo sát thực tế ở các đồn
Lân.

-

Phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích: Trên cơ sở dữ liệu, thông tin thu thập
được, cùng với những kết quả của cuộc điều tra, khảo sát, chúng tơi tổng hợp lại,
phân tích, sau đó so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa Lân – Sư –
Rồng ở khu vực Chợ Lớn – Sài Gòn nói riêng và ở Việt Nam nói chung với Lân –
Sư – Rồng của Trung Quốc.

III. Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc kết hợp kiến thức được ghi chép trong sách vở, tài liệu và kết quả
khảo sát thực tiễn sẽ giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về bộ môn nghệ thuật này. Qua đó
góp phần lưu trữ, bảo tồn, phát huy và trân trọng các nét đẹp truyền thống văn hóa đã
từ lâu đời của nghệ thuật Lân – Sư – Rồng.

2


CHƢƠNG II: NGHỆ THUẬT LÂN – SƢ – RỒNG
I. NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA
1. Lân - Sƣ
Lân, hay còn gọi là kỳ lân (thực ra kỳ là con đực có sừng, lân là con cái khơng
có sừng, nhưng người đời sau gọi chung là Lân, hay kỳ lân, không phân biệt nữa). Lân

chữ Hán là 麟, một lồi thú có sừng trong thuyền thuyết,con của Rồng, thuộc giống
Rồng, với hình dạng đầu Lân một nửa là rồng một nửa là thú, đơi khi chỉ có một sừng.
Phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân
ngựa hay huơu, chân hươu, đuôi bị. Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận thời Đơng
Hán có nói rằng: “lân, là thú hiền, mình huơu, đi bị, có một sừng.” (汉许慎《说文
解字》:“麒,仁兽也,麋身牛尾一角).

Hình 1: Hình tượng ngun thuỷ của Lân vẽ trong sách Tam Tài Đồ Hội (tác giả
Vương Kỳ đời Đường, viết trong năm 1607.) (nguồn: Wikipedia)
Theo truyền thuyết kể lại rằng: Vào một hôm, ở một ngơi làng nhỏ xuất hiện
một con thú kì lạ: đầu to mình nhỏ, mắt lịi mũi to, miệng rộng, răng nhọn, trên đầu
cịn có một cái sừng. Con vật này đi đến đâu cũng quấy nhiễu dân làng, phá hoại, ăn
hết lương thực, rau cải… Dân làng rất sợ hãi mỗi khi con vật kia xuất hiện. Một hôm
3


nọ, có một ơng lão xuất hiện bày cho dân làng cách chống lại con vật kì dị kia. Theo
lời ông lão, dân làng dùng vải, tre, giấy, bột màu để làm một hình nộm mơ phỏng lại
hình dáng của con quái vật kia. Rồi họ tập hợp những trai làng khỏe mạnh cầm theo
những thứ có thể phát ra âm thanh lớn cùng với hai người đội hình nộm quái thú vào,
họ cùng nhau tập kích quái thú ở nơi nó thường xuất hiện. Quái thú vừa xuất hiện, họ
đồng loạt tiến đến bao quanh nó, hai người đội lốt quái thú thì bắt chước theo những
động tác của quái thú thật, những người khác người đánh trống, người gõ chiêng…
khiến cho quái vật đinh tai nhức óc, hoảng sợ bỏ chạy mất, từ đó khơng cịn ai thấy nó
xuất hiện nữa. Ơng lão ấy chính là một vị Bồ Tát hóa thân thành.Từ đó cứ vào những
dịp lễ Tết, lễ hội hay những dịp vui, dân làng lại đem hình tượng quái vật ra nhảy múa.

Hình 2: Lân ở những đời sau với chiếc sừng cong trên đầu (nguồn: google.com)
Qua truyền thuyết trên cho thấy, Lân lúc ban đầu ở Trung Quốc là con quái thú,
nhưng do sau này được thuần hoá, trở thành vật cưỡi của các vị Bồ tát trong Phật giáo,

nên Lân từ hình tượng quái thú ban đầu đã chuyển sang linh thú, hay thần thú, là một
trong bốn linh vật của tứ linh1 theo tín ngưỡng dân gian Á Đơng như tại Triều Tiên,
Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam...
Và cũng từ đó, kỳ lân tượng trưng cho may mắn, tốt lành, tương truyền chỉ có
thời thái bình, hưng thịnh, hay có hiền tài, thánh nhân xuất hiện trị vì, thì kỳ lân mới
1

Theo Lễ Ký – Lễ Vận: Long lân Quy Phụng, gọi là Tứ Linh (《礼记》礼运:“麟凤龟龙,谓之四灵。)

4


xuất hiện. Tương truyền khi Khổng Tử ra đời, có kỳ lân xuất hiện. Vì vậy dân gian cho
rằng kỳ lân có khả năng tặng con, và đứa con đó sẽ làm rạng ngời tổ tiên, vẻ vang
dòng tộc, do đó trong tiếng Hán có câu “麒麟送子” (kỳ lân tống tử: kỳ lân tặng con)
và những đứa trẻ đó được coi là do Kỳ lân (thay mặt cho Trời) ban tặng, nên thường
gọi con trẻ là “麟儿” (Lân nhi: con của kỳ lân). Ngày nay, khi chúc mừng bạn bè hạ
sinh đứa con trai, thường chúc là “喜获麟儿” (Hỷ hoạch lân nhi: Vui mừng có được
đứa con trai). Ngồi ra, Lân có sừng nhưng khơng húc người khác, nên tượng trưng
cho lịng nhân từ, bác ái, vì vậy, hình ảnh kỳ lân thường được các triều đại phong kiến
ở Trung Quốc lẫn Việt Nam sử dụng trong triều đình, trên quan phục… Và trong dân
gian đã tái hiện lại hình ảnh con lân trong truyền thuyết năm xưa qua nghệ thuật múa
lân vào các dịp tết, khai trương… để cầu hạnh phúc, thịnh vượng,phát đạt.
Như chúng ta đã biết ở Việt Nam và Trung Quốc vào dịp Tết Trung Thu có tục
múa lân.Lân được bắt nguồn từ miền Nam Trung Quốc. Được biết là khi đoàn ca
người Hoa đến biểu diễn cho triều đình nhà Lê khi đó múa Lân cũng từ đó đến.Sau đó,
khi người Trung Quốc di cư xuống phương Nam (tức miền Bắc Việt Nam) thì nghệ
thuật múa Lân từ đó được du nhập vào Việt Nam, tiếp tục phát triển và lan rộng xuống
miền Trung và miền Nam, khơng biết thời điểm chính xác vào năm nào, nhưng Lân
theo chân các võ sư của người Quảng Đông và xuất hiện ở vùng chợ lớn vào thập niên

1920 do các tổ sư của các môn phái: Bạch Mi, Thái Lý Phật,… rồi trở thành một bộ
môn nghệ thuật truyền thống dân gian mang đậm nét văn hóa của Việt Nam.
Lân ở Việt Nam phần nhiều được kế thừa từ hình tượng con Lân của Trung
Quốc, với hình ảnh con lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng
rồng, thân ngựa, chân hươu, đi bị.Nhưng thật ra trên thực tế đầu lân ở Việt Nam đa
phần không mang đủ tất cả các yếu tố trên,tuy nhiên vẫn mang được sắc thái và hình
dạng chung. Cũng giống như Lân ở Trung Quốc, Lân ở Việt Nam cũng được chia
thành hai loại: loại có sừng và loại khơng sừng. Ngồi ra cịn có một số loại Lân đặc
biệt, có hình dáng nửa giống lân nửa giống rồng. Đầu Lân được làm thủ công và được
chế tác rất công phu, phải đầu tư nhiều hơn những phần khác, đầu lân được chế tạo từ
khung tre, ngoài bọc vải kim sa hoặc vẽ họa tiết lên trên nền vải. Phần thân mình được
làm từ vải có thêu họa tiết. Lân có rất nhiều màu sắc như đỏ, cam, vàng, lục, lam, bạch
kim,… nhưng chủ yếu vẫn là màu đỏ, vàng, những màu sắc mang lại may mắn hay chế
tác tùy theo yêu cầu của khách hàng. Đẳng cấp của mỗi con Lân được thể hiện qua
5


màu của bộ râu của chính con lân đó. Râu màu trắng là lâu đời nhất, có hơn 30 năm
tuổi đời hoạt động, sau đó là màu đỏ, màu đen tùy theo sự ra đời từ 20 năm hoặc 10
năm…
Múa lân khơng nhữnglà nét đẹp văn hóa truyền thống mà còn mang nhiều ý
nghĩa sâu sắc: mang lại nhiều niềm vui, may mắn, xua đuổi ma quỷ, trừ tà ma…
Múa lân ở Miền Bắc Việt Nam và ở Trung Quốc thường gọi là múa sư, chữ
Hán là 舞獅, mặc dù sư tử thì khơng có sừng. Tuy nhiên, các ghi chú bằng Chữ Nơm
trên các bức tranh “Cóc Múa Lân” thuộc dịng Tranh Đơng Hồ lại ghi là “Phụng Lân”
(Chữ Nơm: 奉麟), cũng có lẽ vì vậy, bị ảnh hưởng bởi chữ Nôm, ở miền Nam Việt
Nam gọi là múa lân.

Hình 3: Tranh dân gian Đơng Hồ Cóc Múa Lân (trên đó chữ “Lân” được ghi bằng
chữ Nơm là 麟) (nguồn: google.com)

Hiện nay, trong dân gian, người dân ít phân biệt con này là Lân hay Sư, mà gọi

chung là múa lân (ở miền Nam) và múa Sư ở miền Bắc, cịn các đồn biểu diễn thì gọi
chung là đồn Lân – Sư – Rồng. Trong khi đó “múa Lân” hay “múa Sư” ở Trung Quốc
đều gọi chung là “múa Sư” (舞獅) và được phân chia thành 2 trường phái là “Nam Sư”
và “Bắc Sư”.
Nam Sƣ (南狮) hay còn gọi là “Tỉnh Sư”(醒狮), có hình dáng bên ngồi mạnh
mẽ, uy nghiêm, các bước di chuyển trong lúc múa chú trọng vào Mã Bộ (tức bước đi,
6


xuống tấn), sự kết hợp giữa nghệ thuật múa với võ thuật rất hài hịa, có nhiều động tác
khó, địi hỏi trình độ kĩ thuật rất cao. Tỉnh Sư được phát triển mạnh ở Quảng Đông, trở
thành một nét văn hóa dân gian rất nổi tiếng.Đây chính là hình ảnh con Lân ở Việt
Nam, đây là loại hình nghệ thuật phổ biến ở Quảng Đông Trung Quốc. Theo truyền
thuyết kể lại, vào thuở khai thiên lập địa xuất hiện một con quái thú. Con vật đó đi đến
đâu cũng quấy nhiễu, phá hoại khiến cho dân làng rất hoảng sợ. Bỗng một hơm nọ, có
một nhà sư đến giúp dân làng, nhà sư đó với vẻ ngồi khỏe mạnh, trịn trịa, mặc đồ
màu đỏ, tay cầm quạt phe phẩy và đi cùng một số đệ tử. Nhà sư phất quạt và xua đuổi
qi thú, cịn các đệ tử của ơng thì gõ trống đánh chiêng dồn dập làm quái thú sợ hãi
bỏ chạy. Từ đó, để tưởng nhớ đến ngày đánh đuổi quái thú thành công và để nhớ đến
công lao của nhà sư, dân làng mơ phỏng lại hình tượng quái thú để nhảy múa, nhà sư
trở thành hình tượng “ông địa” và những người đệ tử của nhà sư chính là dàn chiêng,
trống cổ động… Dần dà được lan truyền và trở thành một bộ môn nghệ thuật truyền
thống của người Trung Quốc. Ngồi truyền thuyết trên cịn có nhiều truyền thuyết
khác ở các thời đại như: Hán, Đường, Minh… Nhưng nhìn chung truyền thuyết trên
được lưu truyền rộng rãi nhất, qua nhiều khảo sát, mọi người thường cơng nhận múa
lân có nguồn gốc bắt nguồn ở Phật Sơn - Trung Quốc.
Người ta nói rằng, ngày xưa ở Phật Sơn, Hà Nam, Quảng Đông xuất hiện một
con thú kì lạ: đầu to mình nhỏ, thân dài tám thước, có sừng trên đầu,… Con vật này

thường xuất hiện vào đêm 30 tháng Chạp, đi nhanh như gió, thường ăn hết lương thực,
rau xanh, quấy nhiễu dân làng, khiến dân làng rất sợ hãi. Con vật kì lạ đó hằng năm
ln xuất hiện vào đúng thời điểm đó cho nên mọi người đặt tên cho nó là “Niên Thú”.
Sau đó những người dân trong làng tụ họp lại để tìm cách tiêu diệt Niên Thú. dân làng
cùng nhau chế tạo một con vật giống hình dạng của Niên Thú, cử hai người đội lốt
NiênThú bắt chước theo những động tác của con vật này, những người khác cầm theo
vũ khí và những thứ có thể phát ra âm thanh lớn. Họ mai phục Niên Thú ở một nơi mà
hằng năm nó thường xuất hiện.Niên Thú vừa xuất hiện, dân làng cùng nhau xông lên
kẻ gõ trống người khua chiêng, hai người đội lốt Niên Thú thì mơ phỏng động tác của
Niên Thú thật nhảy múa. Niên Thú đinh tai nhức óc bởi tiếng ồn xung quanh, lại thấy
có con vật giống mình, hoảng sợ chạy mất, từ đó về sau, khơng cịn ai thấy nó xuất
hiện nữa. Để kỉ niệm ngày đánh đuổi Niên Thú thành công, hằng năm cứ đến mùa
xuân, dân làng lại mô phỏng lại trận chiến năm xưa với Niên Thú với mục tiêu xua
7


đuổi tà ma, mang lại may mắn cho mọi người, mọi nhà.Múa lân từ đó trở thành một
nét văn hóa đẹp, quí giá của người dân Trung Hoa.Và họ tin rằng Lân đại diện cho sức
mạnh của mn lồi, là biểu tượng của cát tường.
Bắc Sƣ (chính là múa Sư ở Việt Nam) là loại hình nghệ thuật biểu diễn sân
khấu có nguồn gốc từ Bắc Kinh và phổ biến ở Triều Châu.Bắc Sư có hình dáng giống
sư tử thật, đầu sư tử có thể nói rất đơn giản về hình dáng, với da màu vàng kim, cam,
lơng màu đỏ. Bắc Sư đuợc thấy nhiều ở Bắc Kinh.Động tác khi múa nhẹ nhàng, uyển
chuyển, ngộ nghĩnh, linh hoạt.Bắc Sư có vẻ ngoài ngộ nghĩnh, đáng yêu, rất thú vị, sư
tử ngồi nhảy múa cịn hay chơi đùa với một quả cầu lớn. Hiện nay “Bắc Sư” phát
triển mạnh ở tỉnh Hà Bắc, huyện Từ Thuỷ, Trung Quốc vì ở đây có lịch sử lâu đời về
truyền thống múa “Bắc Sư”.
Theo truyền thuyết thì múa Sư bắt nguồn từ thời Đường. Câu chuyện kể rằng
khi Đường Minh Hoàng ở Du Nguyệt Điện, lúc ngủ ông đã nằm mơ thấy một luồng
sáng ngũ sắc lóe sáng, sau đó xuất hiện một con độc giác thú (thú một sừng), con vật

này không hề có ác ý làm hại ơng ấy, mà cịn đang chơi đùa với một quả cầu, con vật
kia có một phong thái rất uy vũ. Đường Minh Hoàng tỉnh giấc nhưng ơng ln nghĩ về
giấc mơ này. Ơng sai triều thần trong triều mơ phỏng lại hình dáng của con vật đó, và
cho phối nhạc tạo thành một điệu múa.Sau này múa Sư được lưu truyền vào dân
gian.Trong “Lập Bộ Kỉ” thời Đường gọi múa sư tử là “Ngũ Phương Sư Tử Vũ” và bài
nhạc đó gọi là “Thái Bình Lạc”. Nhà thơ Bạch Cư Dị trong “Tây Lương Kĩ” có viết:
“Giả diện hồ nhân giả diện sư,
Khắc mộc vi đầu tư tác vĩ.
Kim độ nhãn tinh ngân thiết sỉ,
Phấn huân mao y bài song nhĩ.”
Dịch nghĩa :
Những người đóng giả con sư tử,
Khắc gỗ làm đầu sư, đuôi làm bằng tơ.
Mắt sư mạ vàng, răng dát bạc,
Lấy những sợi lơng mao làm đơi tai.
Dịch thơ :
Hai người đóng giả một con sư,
Đầu khắc từ gỗ, đuôi bằng tơ.
8


Mắt dát hoàng kim, răng thết bạc,
Vành tai ve vẩy phủ lơng mao.
Ngồi ra cịn có truyền thuyết kể rằng, có một lần Hồng đế Trung Hoa nhận
được cống phẩm là một con sư tử do sứ giả Ba Tư hiến cống, nhưng khơng có ai thuần
phục đuợc con sư tử đó, cuối cùng có một vị tu sĩ tài ba đã thuần phục đuợc con sư tử.
Hoàng đế đã cho mô phỏng việc thuần phục ấy thành một điệu múa và còn nhiều
truyền thuyết khác nữa về điệu múa sư tử, nhưng nhìn chung đều mang một thơng điệp:
múa sư tử đem đến niềm vui, đồng thời mang đến sự may mắn, bình an. Múa sư cũng
tương đồng với múa lân. Ngồi ra với hình dáng ngộ nghĩnh, các động tác đáng yêu,

múa sư dễ đem đến bầu không khí vui nhộn, hài hước, mang tính giải trí cao.
Cũng giống như Lân và Rồng, Sư cũng được chế tác thủ công với những
nguyên vật liệu và cách chế tác tương tự. Phần đầu Sư giống với hình dạng của một
con sư tử thật. Trên đầu mỗi con Sư đều có một cái kết, kết đỏ để thể hiện con đực, kết
xanh để thể hiện con cái, thân được làm từ vải với vệt vàng, có các sợi nilon được cắt
tỉa mỏng đính kèm lên.

2. Rồng
Khác với quan niệm của các nước phương Tây cho rằng Rồng là quái vật, gian
ác, trong quan niệm của các nước phương Đông, Rồng là một con vật linh thiêng và
quyền uy nhất, được tin là mang đến nhiều may mắn, an khang thịnh vượng, mưa
thuận gió hịa, là báo hiệu cho một vụ mùa bội thu… Rồng là con vật đứng đầu trong
tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng). Có rất nhiều câu chuyện thần thoại về Rồng có cả ở
phương Đơng lẫn phương Tây. Trong đó Vũ Long chính là thần mưa trong thần thoại
Trung Quốc. Theo truyền thuyết kể lại rằng, Ngọc Hoàng thượng đế - vị thần tối cao
trong thần thoại Trung Quốc nhiều lần xuống thế gian, thấy được sự trụy lạc trong lối
sống và suy thoái về đạo đức, về văn hóa của lồi người. Ơng rất tức giận và ra lệnh
cho thần mưa tạo một trận đại hồng thủy để quét sạch hết thói hư tật xấu của con
người. Khốc đế - cháu của Ngọc đế đã cầu xin chấm dứt trận đại hồng thủy nhưng đã
không được sự đồng ý của Ngọc đế. Khốc đế liền trộm bảo bối của Ngọc đế giáng trần
cứu giúp loài người. Ngọc đế phát hiện liền sai Hóa Long đi bắt Khốc đế. Khốc đế
9


kiên quyết khơng trở về và bị Hóa Long giết chết. Thi thể của Khốc đế hóa thành Vũ
Long. Vũ Long là một con rồng lộng lẫy, toàn thân tỏa ánh kim quang sáng rực rỡ. Vũ
Long quay về cầu xin Ngọc đế dừng mưa. Cuối cùng Ngọc đế đã động lịng trước sự
thành khẩn của Vũ Long, ơng ra lệnh chấm dứt trận mưa và phong cho Vũ Long làm
thần mưa. Sau này, Vũ Long dùng sức mạnh của mình để giúp đỡ cho lồi người, lồi
người khẩn cầu Vũ Long giáng thế xưng vương. Vũ Long đã nhận lời trút bỏ lốt Rồng

biến thành người và lập ra nhà Hạ (2205-1766 TCN).
Nhưng mãi đến đời nhà Hán thì nghệ thuật múa Rồng mới xuất hiện. Mọi người
mô phỏng lại những điệu múa uyển chuyển của Rồng để thể hiện niềm tin và sự kính
trọng đối với linh vật này. Một số khác lại cho rằng múa Rồng xuất hiện là do nền
nông nghiệp lúa nước. Thời nhà Tống múa Rồng trở thành một hoạt động dân gian
thường xuyên xuất hiện trong các dịp lễ hội cùng với múa lân, múa sư.
Múa Rồng phát triển mạnh ở Thê Hà, Nam Kinh, Trung Quốc. Múa Rồng ở
Nam Kinh đã có truyền thống lâu đời, được lưu truyền từ thời Minh. Các hoạt động
múa Rồng đa phần tập trung quanh vùng núi Long Vương thuộc đông nam Nhiêu Sơn.
Múa Rồng đã trở thành một bộ môn nghệ thuật lớn trong văn hoá nghệ thuật Nam
Kinh. Năm 2008, vùng Thê Hà được bộ văn hố Trung Quốc cơng nhận nơi đây là quê
hương của nghệ thuật múa Rồng dân gian Trung Quốc. Ngồi ra, nghệ thuật múa Rồng
cịn phát triển ở vùng Quảng Đơng, Phúc Kiến, trong đó phát triển mạnh là ở Phúc
Kiến.
Trong lúc di cư sang Việt Nam sinh sống, các nghệ nhân người Hoa đang mang
theo bộ môn nghệ thuật này đến vùng đất miền Nam hay Chợ Lớn – Sài Gòn. Tuy
Múa rồng của người Hoa ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn múa lân và múa sư, vào
khoảng những năm 1944-1945 do ông Trần Bồi, một chủ cơ sở sản xuất xà bông
Trung Nam ở Sa Đéc, vốn là nguồn gốc Phước Châu (Phúc Kiến) nhưng hiện nay múa
Rồng ở Chợ Lớn được bảo tồn, phát triển và biến tấu nhiều hơn với nhiều loại rồng,
nhiều điệu múa, có đến hơn 30 điệu.
Trước đây ngồi múa rồng, cịn có điệu múa phượng hồng nhưng ít phổ biến
bằng (phượng là con trống, hoàng là con mái). Lúc đầu múa Rồng chỉ xuất hiện trong
Tết Nguyên Tiêu và các dịp lễ hội sau vụ thu hoạch mùa thu, nơi được coi là cái nôi
của nghệ thuật múa rồng, tổ chức đội múa từ các thanh niên công nhân trong xưởng
của ông.
10


Rồng được chia thành ba loại:

-

Rồng tơ được chế tạo bằng vải gắn chặt vào cây cứng để múa.

-

Rồng tròn được làm bằng giấy cứng, có bụng trịn và dài.

-

Rồng cứng chỉ dùng để rước, khiêng, chứ không để biểu diễn.

Múa Lân hoặc Sư chỉ cần hai người, nhưng múa Rồng thì phải có nhiều người
tập rất cơng phu để thể hiện được các động tác đồng bộ khi rồng uốn khúc, rồng phóng
tới, rồng đảo lại.Múa rồng cần ít nhất 6 người, hoặc nhiều cũng đến 20-30 người cùng
điều khiển con rồng phô diễn thần oai.Trong lúc múa Rồng thì mọi người cần phải
phối hợp nhuần nhuyễn, ăn ý với nhau thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái.
Múa rồng còn đại diện cho uy quyền và vẻ đẹp cao quý, Rồng thể hiện được
truyền thống văn hóa từ lâu đời của ơng cha, tổ tiên và cội nguồn dân tộc.Vì hình
tượng Rồng đã xuất hiện từ thời đại Hùng Vương nên mang nhiều nét đặc sắc, mang
tính truyền thống của dân tộc. Theo truyền thuyết kể lại thì Rồng mang những đặc
điểm sau: đầu lạc đà, sừng hươu, mắt tôm hùm, thân rắn, vảy cá chép (có 81 vảy
dương và 36 vảy âm), bụng con sị, bàn chân hổ với vuốt chim ưng, mũi-bờm và đuôi
sư tử.
Cũng giống như Lân, Rồng cũng được chế tác thủ công với những nguyên vật
liệu và cách chế tác tương tự. Phần thân thì làm dài từ 10 mét đến 50 mét và thậm chí
lớn hơn nếu có thể, dọc theo phần thân có nhiều khớp, khớp được nối với một cây dài,
hình ống để những người múa có thể dễ dàng cầm nắm và phối hợp nhịp nhàng, ngoài
ra cịn để dễ dàng tạo hình dáng uốn lượn quanh co của một con rồng đang bay.


11


II. NGHỆ THUẬT LÂN – SƢ – RỒNG
1. Đội hình – Tổ chức
Tổ chức đội hình là một điều kiện quan trọng trong công việc phân công nhiệm
vụ, sắp xếp vị trí, vai trị của từng người. Nó thể hiệ được tính chun nghiệp và tính
sát thực của đội hình ấy. Thơng thường một đồn Lân cần tối thiểu 15 người, 2 người
cầm Lân, 4 người thay phiên hoặc cầm cờ, 1 người đánh trống, chiêng 1 người, chập
chõa 2 người,… tổng cộng 5 người và cần nhiều người thay thế 5 người này, thêm ơng
địa,… tổng cộng 15 người.

Hình 4: Một đội Lân thơng thường có 1 trống, 2 chập chõa, 1 chiêng
(nguồn: sách 中华民俗艺术舞狮)

1.1 Đội hình múa Lân
Đội hình múa Lân thơng thường sẽ múa 2, 4 hoặc 5 con Lân, khoảng 8 đến 10
người,… có khi kèm theo 1 ông địa. (1 con lân là “độc chiếm ngao đầu”, 2 con lân là
“Song Hỷ”, 3 con lân là “Tam tinh”).

12


Hình 5: Múa 4 con Lân tượng trưng cho Tứ Quý Hưng Long (nguồn: google.com)

Hình 6: Múa 5 con Lân tượng trưng cho Ngũ Phúc Lâm Môn (nguồn: google.com)
13


Hình 7: Ơng địa (nguồn: google.com)


Hình 8: Ơng địa (nguồn: sách 中华民俗艺术舞狮)

14


Những ghi nhận về đội hình trên đây chỉ mang tính chất chung, khi các đồn lân
đi biểu diễn hoặc múa còn tùy thuộc vào yêu cầu của gia chủ thì đội hình biểu diễn sẽ
khác và hồnh tráng hơn, quy mơ hơn.

Hình 9: Lân lên mai hoa thung (nguồn: google.com)

Hình 10: Lân biểu diễn trên cây cột cao
Hình 11: Lân đi cà kheo

(nguồn: facebook.com/nhonnghiaduong)

(nguồn: google.com)

15


1.2 Đội hình múa Sư tử
Đội hình múa sư tử (múa Bắc Sư) thì thường múa 2 con sư tử, gồm con đực và
con cái, sư tử có cái kết màu hồng (hoặc đỏ) là con đực, kết màu xanh lá là con cái,
kèm theo 1 người cầm châu.

Hình 12: Sư tử kết hồng (hoặc đỏ) là sư tử đực, kết xanh lá là sư tử cái
(nguồn: google.com)


Hình 13: Song sư hái lộc (nguồn: google.com)

16


Hình 14 (nguồn: google.com)

Hình 16 (nguồn: hanganhduong.vn)

Hình 15 (nguồn: google.com)

17


1.3 Đội hình múa rồng
Múa Rồng thường múa 1 hoặc 2 con, một con Rồng thông thường cần khoảng
10 người biểu diễn. Ngồi ra cịn có một người cầm châu để hướng dẫn các hướng đi
cho rồng. Hình 17, 18, 19 là các hình ảnh về múa rồng.

Hình 17 (nguồn: google.com)

Hình 18 (nguồn: google.com)

Hình 19 (nguồn: hanganhduong.vn)

18


Múa Rồng còn được biểu diễn trong trời tối bằng ánh đèn dạ quang phát ra từ
con Rồng (hình 20, 21, 22).


Hình 20 (nguồn: google.com)

Hình 22: Một tiết mục múa rồng đặc sắc của

Hình 21 (nguồn: google.com)

Hằng Anh Đường. (nguồn: hanganhduong.vn)

19


1.4 Đội hình trống trận
Đội hình trống trận thường có khoảng 7 cái trống gọi là “ Thất Tinh Cổ” hay
gọi là trống 7 sao với 7 người đánh trống, một người là trống cái - trống chính, các
trống kia bè theo và đánh theo nhịp trống chính.

Hình 1.4.2:Một số hình ảnh trống trận (nguồn : hanganhduong.vn)

Hình 23: Đội trống (nguồn: google.com)

Hình 24: Đội trống (nguồn: hanganhduong.vn)

20


Cái trống Lân là một nét đặc trưng của múa Tỉnh Sư, đường kính của trống là 3
thước, trống được gắn trên cái giá có 4 bánh xe nhỏ để tiện di chuyển. Khi múa Lân,
đoàn Lân sẽ cột một dây thắt lưng để biểu thị tinh thần thượng võ. Võ sư và người cầm
lân thắt bên trái, đội trống chiêng thắt bên phải, trưởng đồn thì thắt ở giữa.

Trưởng đồn đóng vai trị lãnh đạo, hướng dẫn, phân cơng nhiệm vụ cho từng
thành viên cụ thể trong đồn. Phó đồn quan sát và giúp trưởng đồn hướng dẫn, phân
cơng khi trưởng đoàn vắng mặt. Với tinh thần đồng đội, đồn kết hịa đồng, mọi người
trong đồn Lân đều phải tơn trọng nhau trong luyện tập, cơng việc và trình diễn. Đóng
vai trị quan trọng cho việc thành lập một đoàn Lân là sự giúp đỡ, hỗ trợ của các mạnh
thường quân, nhà tài trợ. Các mạnh thường cung cấp thông tin, gửi và nhận lời mời từ
các cuộc họp giao lưu và thi đấu, tài trợ kinh phí cho đoàn Lân được phát triển mạnh.
Ngoài ra, các đoàn Lân lớn như Nhơn Nghĩa đường, Hằng Anh đường… cùng họp
thành một nhóm lớn, đại diện cho Lân – Sư – Rồng ở Việt Nam đi thi đấu và giao lưu
ở nước ngồi. Một đồn Lân có thể có hơn 100 học viên, học viên càng nhiều thì càng
dễ phân cơng nhiệm vụ cụ thể, các sư huynh chuyên về mảng nào thì sẽ hướng dẫn
cho học viên những mảng đó như các mảng Lân – Sư – Rồng, mảng đánh trống chiêng,
mảng võ thuật,…Với tinh thần học hỏi cao, các học viên có thể học nhiều mảng tùy
theo sở thích, nhưng để trình diễn hướng về tính chun nghiệp thì nên chọn một mảng
thích nhất hoặc có năng khiếu để luyện tập.
Trong nghệ thuật Lân – Sư - Rồng, nhịp trống là cái hồn của bài múa, nó dẫn
dắt cho Lân – Sư - Rồng chuyển động hoặc nhịp theo các bước chuyển động của Lân
Sư Rồng. Chập chõa, lò(chiêng) là bộ âm thanh kèm theo đi cùng với trống, có nhiệm
vụ bè theo âm điệu của trống, cùng với trống tạo nên một cung bậc âm thanh lên
xuống, dồn dập, thăng bằng, vội vã, nhuần nhịp cho người đang điều khiển Lân – Sư Rồng cảm nhận và hòa huyện trong âm thanh nhịp điệu. Người đánh trống là người
quan trọng tạo nên cái hồn của bài múa, với khả năng quan sát người đánh trống sẽ
nhìn theo các bước chuyển động hoặc biểu cảm của con Lân để tạo ra một âm thanh
hòa huyện với nhịp theo những bước chuyển động của con Lân, khi Lân cuối chào thì
sẽ đánh theo nhịp chậm, nhỏ và dứt khoản, khi lân chạy nhảy thì sẽ đánh nhịp dồn dập,
nhịp nhanh và to. Chập chõa, lò, lúc này đây cùng phát ra âm thanh và bè theo nhịp
điệu lên xuống của trống, tạo cảm giác lắng động cho người xem khi xem Lân – Sư –
Rồng biểu diển. Đánh trống Lân hay Sư và Rồng đều có những điểm khác biệt nhau và
21



×