ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA HÀN QUỐC HỌC
CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƯỜNG NĂM 2016
Tên cơng trình
VAI TRỊ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG SHAMAN GIÁO HÀN QUỐC
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
Chủ nhiệm:
Trần Thị Lan Xuân
Lớp Hàn 1
Khóa 2012
Thành viên:
Nguyễn Thị Minh Thy
Lớp Hàn 1
Khóa 2012
Phan Thị Quế Minh
Lớp Hàn 1
Khóa 2012
Nguyễn Thị Minh Hằng
Lớp Hàn 1
Khóa 2012
Phạm Lê Anh Đức
Lớp Hàn 1
Khóa 2012
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS Phan Thị Thu Hiền
Trưởng Khoa Hàn Quốc học – Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh, 2016
LỜI CẢM ƠN
“Nghiên cứu khoa học sinh viên cấp trường” là một cuộc thi thường niên quen
thuộc với mỗi sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh. Đây cơ hội cho sinh viên có thể cọ xát với môi trường
nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, thể hiện khả năng nghiên cứu một vấn đề khoa
học mới, phục vụ cho những lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Trong cuộc thi
năm 2016, chúng tôi may mắn được chọn thực hiện cơng trình cấp trường, đây là một
vinh dự lớn cho sinh viên chúng tơi. Do đó trước hết nhóm thực hiện xin chân thành
cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý khoa học – Dự án nhà trường đã tạo cơ hội cho
chúng tôi tham gia cuộc thi này.
Trong suốt hơn năm tháng chuẩn bị và tiến hành nghiên cứu, nhóm thực hiện đã
nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ phía Ban chủ nhiệm và Hội đồng khoa học khoa Hàn
Quốc học. Nhóm thực hiện xin chân thành cám ơn PGS.TS Phan Thị Thu Hiền, người
đã tận tình hướng dẫn nhóm từ những bước đầu tiên từ lập dàn ý, phương hướng và
phương pháp nghiên cứu, cách trình bày một cơng trình nghiên cứu khoa học, hướng
dẫn viết bài và chỉnh sửa bài viết. Ngoài ra, nhóm xin cám ơn Th.S Nguyễn Trung
Hiệp đã ln quan tâm tiến độ thực hiện và giúp đỡ nhóm trong việc tìm kiếm tài liệu.
Sự giúp đỡ của các thầy cơ đã giúp nhóm có thể hồn thành cơng trình này một cách
thuận lợi nhất.
Đây là lần đầu tiên nhóm thực hiện một cơng trình nghiên cứu khoa học chính
thức cũng như kiến thức cịn hạn chế do đó khó tránh khỏi sai sót. Nhóm rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của q thầy cơ để đề tài được hoàn thiện hơn.
Trân trọng.
MỤC LỤC
TĨM TẮT ĐỀ TÀI ........................................................................................................1
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................................2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................2
3. Lý do chọn đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài ....................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, giới hạn của đề tài................................................5
6. Đóng góp mới của đề tài..............................................................................................6
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn............................................................................6
8. Kết cấu của đề tài.........................................................................................................6
Chương 1 ........................................................................................................................8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...........................................................................8
1.1 Tín ngưỡng và quan hệ giữa tín ngưỡng và tơn giáo ..........................................8
1.2 Quan điểm giới trong tổ chức tơn giáo, tín ngưỡng .........................................10
1.3 Vị trí của người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc ...............................................13
1.4 Khái quát Shaman giáo .....................................................................................16
1.5 Sự hình thành và phát triển của Shaman giáo Hàn Quốc .................................18
Chương 2 ......................................................................................................................25
NHỮNG THỂ HIỆN VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG SHAMAN
GIÁO HÀN QUỐC......................................................................................................25
2.1 Vai trò của người phụ nữ thể hiện qua hệ thống thần phả Shaman giáo ..........25
2.2 Vai trò của người phụ nữ thể hiện qua những niềm tin Shaman giáo ..............29
2.2.1 Niềm tin Shaman đối với cộng đồng .......................................................29
2.2.1.1 Chữa bệnh, trừ tà ..........................................................................30
2.2.1.2 Cầu tài lộc .....................................................................................31
2.2.1.3 Bói tốn và tiên tri.........................................................................32
2.2.2 Phụ nữ Hàn Quốc với niềm tin Shaman giáo ........................................34
2.3 Vai trò của người phụ nữ thể hiện qua nghi thức thực hành Shaman giáo ......35
2.3.1 Tổng quan ...............................................................................................35
2.3.2 Cấu trúc và một số loại hình gut tiêu biểu ..............................................35
2.3.2.1 Cấu trúc của gut ............................................................................35
2.3.2.2 Một số loại gut tiêu biểu................................................................36
2.3.3 Các thành phần của gut ..........................................................................37
2.4 Vai trò của người phụ nữ thể hiện qua cộng đồng pháp sư Shaman giáo ........42
2.4.1 Phân loại các nhóm pháp sư Shaman .....................................................42
2.4.1.1 Theo sự lựa chọn của thần linh .....................................................43
2.4.1.2 Theo nghiệp gia đình: ...................................................................43
2.4.2 Con đường trở thành mudang ................................................................44
2.4.3 Lý do phụ nữ trở thành Shaman..............................................................45
2.5 Vai trò của người phụ nữ thể hiện qua các điện thờ, cơ sở hành nghề Shaman
giáo..........................................................................................................................46
Chương 3 ......................................................................................................................49
ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG SHAMAN
GIÁO HÀN QUỐC......................................................................................................49
3.1 Đặc điểm của vai trò của người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc ...........49
3.2 Ý nghĩa của vai trò người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc.....................52
3.3 Những biến đổi của vai trò người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc ở xã
hội Hàn Quốc hiện đại ............................................................................................57
3.4 Vấn đề bảo tồn Shaman giáo trong xã hội Hàn Quốc hiện đại và vai trò của
người phụ nữ ...........................................................................................................59
KẾT LUẬN ..................................................................................................................65
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................66
PHỤ LỤC .....................................................................................................................68
1
TĨM TẮT ĐỀ TÀI
Đề tài “Vai trị của người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc” trình bày cụ
thể mối quan hệ giữa giới, mà ở đây là nữ giới với Shaman giáo – tín ngưỡng bản địa
lâu đời nhất ở Hàn Quốc.
Đề tài đi từ cơ sở lý luận về tín ngưỡng và tương quan giữa tín ngưỡng và tơn
giáo để khẳng định Shaman giáo là một hình thức tín ngưỡng chứ khơng phải tơn giáo.
Ngồi ra để việc phân tích vai trị của người phụ nữ trong Shaman giáo được rõ ràng
hơn, đề tài còn đề cập đến vị trí của nữ giới trong một số tơn giáo, tín ngưỡng trên thế
giới.
Để thấy được vai trị của người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc, người
viết phân tích vai trò ấy trên các phương diện: hệ thống thần phả, niềm tin Shaman,
nghi thức thực hành Shaman, người thực hành Shaman và điện thờ, cơ sở hành nghề
Shaman. Từ đó rút ra các đặc điểm về vai trị của người phụ nữ, trong đó nổi bật nhất
là đặc điểm: trong Shaman giáo, đối tượng phục vụ và đối tượng được phục vụ đa số là
nữ giới. Để làm rõ hơn ý nghĩa vai trò người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc,
người viết cũng so sánh với trường hợp của Đạo Mẫu Việt Nam và các tôn giáo khác
trên đất nước Hàn Quốc. Đề tài cũng tìm hiểu sự biến đổi của Shaman giáo trong xã
hội Hàn Quốc hiện đại cũng như xem vai trò của người phụ nữ trong tín ngưỡng này
thay đổi ra sao và người phụ nữ có vai trị như thế nào trong việc bảo tồn Shaman giáo
như một di sản văn hóa của dân tộc.
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu mối quan hệ về giới trong các tôn giáo đã được nhiều học giả, nhà
nghiên cứu quan tâm. Nhìn chung các tơn giáo đều có sự phân biệt về giới, biểu hiện là
sự hạn chế vai trò của người phụ nữ trong tổ chức tôn giáo. Nhưng điều này lại không
đúng với trường hợp của một số tín ngưỡng bản địa có xu hướng nâng cao địa vị của
người phụ nữ, trong đó có Shaman giáo Hàn Quốc. Shaman giáo là hình thức tín
ngưỡng bản địa lâu đời nhất ở Hàn Quốc, có mối quan hệ mật thiết với mọi khía cạnh
của đời sống chính trị, xã hội, văn hóa Hàn Quốc. Trong đó những biểu hiện về vai trị
của người phụ nữ trong Shaman giáo phần nào phản ánh hiện thực xã hội, lối tư duy,
đời sống xã hội của đất nước, con người Hàn Quốc. Do đó, tìm hiểu vai trò của người
phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc là vô cùng cần thiết đối với một nhà nghiên cứu
Hàn Quốc.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài Shaman giáo nói chung và gut nói riêng đã được khơng ít các nhà nghiên
cứu khai thác và viết nên những quyển sách hay, mang đến cho đọc giả cái nhìn đầy đủ
hơn về hình thức tín ngưỡng dân gian này. Trong đó có thể kể đến một số tác giả nổi
tiếng như: Laurel Kendall, Alan Carter Covell, Jung Young Lee, Sok-Chaeim, Alan
C.Theyman...
Shaman giáo Hàn Quốc đã được một số nhà nghiên cứu Hàn Quốc cũng như
quốc tế nghiên cứu như:
- Korean Shamanistic Rituals (Jung Young Lee, 1981): tác phẩm nghiên cứu chuyên
sâu Shaman giáo Hàn Quốc, chủ yếu là gut như nguồn gốc hình thành, diễn biến, âm
nhạc, công cụ... Nhưng tác phẩm không đề cập đến vị trí của Shaman giáo trong xã hội
cũng như nhận thức của người dân Hàn Quốc về hình thức tín ngưỡng dân gian này.
- Folk Art and Magic: Shaman in Korea (Alan Carter Covell, 1993): tác phẩm cũng
nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của Shaman giáo như nguồn gốc, nghi lễ... Đặc
biệt tác giả đi sâu nghiên cứu để lí giải vì sao số lượng mudang nữ lại áp đảo hơn hẳn
số lượng mudang nam. Tuy nhiên tác phẩm chỉ nghiên cứu tổng quan mà chưa đi sâu
nghiên cứu từng vấn đề cụ thể.
- Korean Shamanism, The Cultrual Paradox (Chongho Kim, 2003): tác phẩm tập trung
vào khía cạnh xã hội, nhận thức của dân chúng Hàn Quốc về Shaman giáo cũng như vị
3
thế, lĩnh vực mà thầy đồng hoạt động. Tác phẩm cũng miêu tả những buổi gut trong
đời sống thực tế: chỉ có thầy đồng và khách hàng diễn ra trong nhà. Từ đó chỉ ra những
nghịch lý, mâu thuẫn dẫn đến sự chống đối của người Hàn Quốc với Shaman giáo. Tác
phẩm còn nhận định Shaman giáo là một di sản văn hóa cần được bào tồn và phát triển.
- Gut: Korean Samanist Rituals (Halla Pai Huhm, 1980): tác phẩm tập trung nghiên
cứu nghệ thuật của gut như điệu múa, bài hát, vật lễ, trang phục...
- Korean Shamanism and Cultural Nationalism (Hyun-key Kim Hogarth, 1999): tác
phẩm phân tích thế giới quan của Shaman giáo, con đường trở thành thầy shaman với
những ví dụ về một số thầy shaman cũng như miêu tả nghi thức lên đồng trong
Shaman giáo Hàn Quốc.
- 한국의 샤머니즘과 분석심리학 (이부영 지음, 2012): tác phẩm đề cập đến những
khái niệm liên quan đến Shaman giáo Hàn Quốc trong mối liên hệ với Shaman giáo
thế giới, con đường trở thành mudang, các khía cạnh tâm lý khi mudang chữa bệnh
bằng nghi thức thữ hành Shaman và sự biến đổi Shaman giáo trong hiện tại cũng như
sự thay đổi nhận thức về Shaman giáo.
- 한국의종교, 문화로 읽는다 1 (증산교, 원불교, 2004): cuốn sách đề cập đến
Shaman giáo Hàn Quốc trong những phân tích khái quát Shaman giáo, đặc biệt là đề
cập đến vấn đề nữ giới và Shaman giáo, giải thích tại sao nữ lại chiếm đa số trong
cộng đồng mudang.
- 무속과 영의 세계 (김태곤, 1996 ): cuốn sách giải thích vì sao các mudang có thể
gần gũi cả hai phía thần linh và con người, con đường để họ trở thành mudang và vị trí
của Shaman giáo như là hình thức tín ngưỡng cơ bản trong đời sống của người Hàn
Quốc.
- 무당문화의 전통 (양종승, 1995): cuốn sách giới thiệu truyền thống của các
mudang, trong đó trọng tâm là phân tích mudang ám linh (thần chọn) về những vấn đề
tổng thể, tài năng, kỹ thuật trình diễn nghi lễ của họ.
Ngoài những tác phẩm nổi bật kể trên, vẫn còn rất nhiều tác giả nghiên cứu hiện
tượng tâm linh này như: Kim Tea-gon, Shin-yong Chun,…
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu thường đặt Shaman giáo trong tương quan với
Đạo Mẫu Việt Nam để tiến hành nghiên cứu và so sánh. Trong đó có thể kể đến luận
văn thạc sĩ của Vũ Phối Như “Hầu đồng ở Korea và Việt Nam” đã so sánh khá toàn
diện về hầu đồng trong Shaman giáo Hàn Quốc với Shaman giáo và Đạo Mẫu Việt
4
Nam. Bài nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Thoa trên Tạp chí nghiên cứu Đơng Bắc Á,
số 12(154) tháng 12-2013 “Shaman trong văn hóa Việt – Hàn” cũng với chủ đề tương
tự như trên.
Quan hệ về giới và tôn giáo từ lâu đã được quan tâm nhưng ở Việt Nam vẫn
chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Phần lớn vẫn là các bài viết của
các học giả nước ngồi, tiêu biểu là cơng trình của Richley H. Crapo “Culture
Anthropology: Understanding Ourselves and Others” xuất bản năm 1996 hay cuốn
“Religions in the modern world: tradition and transformation” do Lindawoodhead,
Paul Fletcher, Hiroko Kawanami, David Smith xuất bản năm 2002. Có thể thấy rằng,
các tác giả nhìn nhận tơn giáo dưới tác động của bối cảnh văn hóa phương tây cùng
với phong trào nữ quyền bùng nổ. Có thể xem những trào lưu đó là một cơ duyên dẫn
tới sự xuất hiện nhiều hơn các nghiên cứu về vấn đề giới trong tổ chức tơn giáo.
Có thể vẫn cịn rất ít tác phẩm nhắc đến vai trị của người phụ nữ trong các tơn
giáo khác cũng như hình thức tín ngường này của Hàn Quốc. Bài nghiên cứu được
thực hiện trên sự kế thừa những kiến thức, thông tin của các cơng trình khoa học đi
trước, từ đó phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa lại các thơng tin, kiến thức trên theo
hướng nghiên cứu vai trị của người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc.
3. Lý do chọn đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người, dù trải qua nhiều nền văn minh
từ cổ đại đến hiện đại, dù khoa học công nghệ đã phát triển đến những mức độ mà con
người không tưởng tượng đến thì niềm tin tơn giáo, tín ngưỡng vẫn khơng hề mất đi.
Tơn giáo, tín ngưỡng vẫn là một phần không thể thiếu trong đời sống con người. Bởi
tôn giáo, tín ngưỡng khơng chỉ phán ánh niềm tin, khát vọng của con người mà cịn
tích hợp trong nó văn hóa nơi nó sinh ra và phát triển.
Cụ thể khi nói đến trường hợp của Hàn Quốc, người ta nghĩ ngay đến Shaman
giáo. Shaman giáo là hình thức tín ngưỡng bản địa cổ xưa nhất ở Hàn Quốc, liên quan
đến mọi mặt của đời sống cư dân Korea cổ đại và vẫn còn được bảo tồn cho đến ngày
nay. Shaman giáo đại diện cho đức tin và các ý tưởng về thần thánh, cộng đồng và vũ
trụ của người dân bản địa. Tuy cũng bắt nguồn từ đời sống nông nghiệp với tư tưởng
sùng bái thiên nhiên của cư dân nông nghiệp, nhưng khác với nhiều tơn giáo, tín
ngưỡng khác, Shaman giáo dường như là tín ngưỡng của người phụ nữ. Shaman giáo
phản ánh khát vọng được bình đẳng, được mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ trong
5
xã hội mà họ bị xem là tầng lớp thấp kém, phải chịu nhiều thiệt thịi và sự bất cơng so
với nam giới. Với lý do đó phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong những niềm tin về
Shaman cũng như các nghi thức thực hành Shaman mà tiêu biểu nhất là gut. Do đó khi
nghiên cứu về Shaman giáo Hàn Quốc ta khơng thể bỏ qua vai trị của người phụ nữ
trong mọi khía cạnh của hính thức tín ngưỡng cổ đại này.
Từ những kiến thức về Shaman giáo nói chung và Shaman Hàn Quốc nói riêng,
bài nghiên cứu tìm ra những biểu hiện cho thấy vai trị của người phụ nữ trong các yếu
tố cấu thành Shaman giáo để từ đó phân tích, đánh giá được vị trí quan trọng của
người phụ nữ trong hình thức tín ngưỡng này. Qua bài nghiên cứu, nhóm hy vọng
cung cấp cho mọi người, đặc biệt là những người quan tâm đến tơn giáo, tín ngưỡng
truyền thống của Hàn Quốc những thơng tin, kiến thức hữu ích về Shaman giáo cũng
như giúp mọi người nhận thức đúng đắn vị trí của người phụ nữ trong xã hội cổ đại
Hàn Quốc.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp:
Phương pháp hệ thống: từ nguồn tài liệu, kiến thức, thông tin về Shaman giáo
tiến hành phân loại, hệ thống hóa theo từng khía cạnh, vấn đề cụ thể, tạo thành một
cấu trúc rõ ràng, hợp lý. Sau đó tiến hành phân tích những tài liệu đó thành từng bộ
phận, chọn lọc thông tin cần thiết cho bài nghiên cứu rồi tổng hợp, liên kết thành một
bài viết hồn chỉnh.
Phương pháp so sánh: trong q trình phân tích Shaman giáo Hàn Quốc, thu
nhập thêm thơng tin, tài liệu, kiến thức về Đạo Mẫu Việt Nam theo từng khía cạnh
tương ứng để có sự so sánh tương đồng và dị biệt giữa hai hình thức tín ngưỡng tương
tự này.
Phương pháp liên ngành: không chỉ nghiên cứu Shaman giáo dưới góc độ là
tín ngưỡng, là niềm tin siêu nhiên, bài nghiên cứu cịn tìm hiểu về Shaman trong bối
cảnh lịch sử, địa lý, chính trị, đặc biệt là giá trị văn hóa hàm chứa trong nó và trật tự xã
hội cũ thơng qua phân tích vị trí của người phụ nữ trong Shaman giáo.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, giới hạn của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: những biểu hiện cho thấy vai trò của người phụ nữ
trong Shaman giáo Hàn Quốc.
6
Phạm vi nghiên cứu: với đề tài này, nhóm thực hiện tập trung khai thác
Shaman giáo thơng qua các khía cạnh lịch sử và con người từ những nguồn tư liệu về
lịch sử, xã hội Hàn Quốc, đặc biệt là nghi thức thực hành gut. Từ đó lý giải tại sao phụ
nữ Hàn Quốc lại xuất hiện nhiều trong Shaman giáo, đặc biệt qua vai trò của mudang
hay thầy đồng trong lễ gut với những khát vọng, mục tiêu mà họ hướng tới.
6. Đóng góp mới của đề tài
Trước đây, khi nhắc đến chủ đề giới và tôn giáo, các học giả thường nghiên vị
trí của nữ giới trong các tơn giáo lớn. trong khi đó các hình thức tín ngưỡng lại cho
thấy vai trò đậm nét hơn của người phụ nữ nhưng chưa có nhiều đề tài nghiên cứu.
Thấy được điều đó, nhóm đã quyết định thực hiện đề tài với mong muốn đóng góp
thêm những thơng tin, kiến thức về đặc điểm, ý nghĩa về vai trò của người phụ nữ
trong Shaman giáo Hàn Quốc. Từ đó khẳng định Shaman giáo Hàn Quốc là tín ngưỡng
của người phụ nữ.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: trong q trình nghiên cứu, nhóm thực hiện đã tìm hiểu nhiều
định nghĩa, khái niệm của các nhà nghiên cứu đi trước liên quan đến đề tài và sử dụng
trong bài viết.
Ý nghĩa thực tiễn: bài nghiên cứu chỉ ra rằng Shaman giáo hay gut không phải
là một loại hình mê tín dị đoan mà là một di sản văn hóa cần được bảo tồn với vai trị
to lớn của người phụ nữ. Khơng chỉ được xem như là một hình thức tín ngưỡng,
Shaman giáo đã thu hút không chỉ nhà nghiên cứu mà cả khách du lịch đến với Hàn
Quốc, khiến cho mudang khơng chỉ cịn là người thực hiện nghi lễ gut mà gần như trở
thành một nghề chính đáng trong xã hội. Do đó bài nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn
trong đời sống xã hội của các mudang – để mọi người nhìn nhận khách quan hơn về
công việc của những con người này – đặc biệt là người phụ nữ.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bài nghiên cứu gồm có 3
chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Nội dung của chương 1 là đưa ra khái niệm tín ngưỡng, tơn giáo, từ đó so sánh
hai khái niệm trên để làm rõ Shaman giáo Hàn Quốc là một hình thức tín ngưỡng. Bên
cạnh đó, do bài nghiên cứu về vai trị của người phụ nữ, tức có liên quan đến vấn đề
7
giới và tín ngưỡng, tơn giáo, nên chương 1 cũng đề cập đến vị trí của người phụ nữ
trong một số tơn giáo, tín ngưỡng trên thế giới.
Từ cơ sở lý luận trên, tiếp theo nhóm thực hiện giới thiệu khái quát về Shaman
giáo thế giới và Shaman giáo Hàn Quốc trên ba khía cạnh: khơng gian, thời gian và
chủ thể.
Chương 2. Những thể hiện vai trò của người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc
Nội dung của chương là phân tích những biểu hiện cho thấy vai trị của người
phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc trong năm yếu tố cấu thành tín ngưỡng là hệ
thống thần phả, niềm tin Shaman giáo, nghi thức thực hành Shaman giáo, tổ chức và
nơi thờ tự của Shaman giáo.
Chương 3. Đặc điểm, ý nghĩa của vai trò người phụ nữ trong Shaman giáo Hàn Quốc
Từ kết quả phân tích được ở chương 3, nội dung chương 3 là sự tổng kết lại các
biểu hiện trên để thấy được đặc điểm, ý nghĩa, ảnh hưởng của người phụ nữ trong
Shaman giáo Hàn Quốc trong tương quan so sánh với các tôn giáo đang cùng tồn tại
trên đất nước Hàn Quốc. Bên cạnh đó, chương 3 còn chỉ ra những biến đổi của
Shaman giáo trong thời hiện đại từ đó vai trị của người phụ nữ cũng thay đổi theo và
chính sách bảo tồn Shaman giáo như một di sản văn hóa của chính phủ Hàn Quốc.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Tín ngưỡng và quan hệ giữa tín ngưỡng và tơn giáo
Tín ngưỡng là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh
thần của đời sống xã hội. Có rất nhiều cách tiếp cận khái niệm tín ngưỡng tùy thuộc
vào góc độ nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu. Trong tác phẩm Văn hoá Việt
Nam đỉnh cao Đại Việt, Nguyễn Đăng Duy đã viết: “Tín ngưỡng là niềm tin và sự
ngưỡng mộ của con người vào lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc do con người tưởng
tượng ra những vị thần linh đến mức họ cho rằng những lực lượng ấy có ảnh hưởng,
chi phối đời sống, số phận của con người và gây thành một nếp sống xã hội theo niềm
tin thiêng liêng ấy.” [Nguyễn Đăng Duy 2004: 351]
Người viết đồng ý với Mai Thanh Hải khi định nghĩa tín ngưỡng như sau:
“Tín ngưỡng là lịng tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu nhiên,
thần bí; lực lượng siêu nhiên đó có thể mang hình thức biểu tượng “trời”, “phật”,
“thần thánh” hay một sức mạnh hư ảo, huyền bí, vơ hình nào đó tác động đến đời
sống tâm linh của người ta, được người ta tin là có thật và tơn thờ.” [Vũ Phối Như
2010: 17].
Với các định nghĩa như trên có thể khái quát một số đặc điểm của tín ngưỡng
như sau: Tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý, là niềm tin của con người; Đối tượng
của niềm tin đó là các lực lượng siêu nhiên, vơ hình do chính con người sáng tạo ra, có
sức mạnh huyền bí, linh thiêng; Lực lượng siêu nhiên này ảnh hưởng đến mọi mặt của
đời sống con người, từ suy nghĩ, nhận thức đến việc hình thành các phong tục, tập
quán, lối sống,…
Khi nghiên cứu tín ngưỡng, đa phần các học giả gắn nó với một khái niệm
khác, đó là tơn giáo. Cũng như tín ngưỡng, tơn giáo có rất nhiều khái niệm được đưa
ra dựa trên các góc độ khác nhau như xã hội học, tâm lý học, triết học,… nhưng cho
đến nay các học giả vẫn chưa tìm ra định nghĩa thống nhất nào. Nhà Triết học và Xã
hội học người Pháp E. Durkhiem đã đưa ra định nghĩa về tôn giáo khá khái quát như
sau: “Một tôn giáo là một hệ thống liên đới của những tín ngưỡng và những thực hành
liên quan đến các vật thiêng, tức là những sự vật bị tách ra, bị cấm đốn; các tín
ngưỡng và các thực hành hợp nhất tất cả những ai gắn bó chúng vào chung một cộng
đồng tinh thần gọi là giáo hội.” [Vũ Phối Như 2010: 16].
9
Như vậy có thể thấy tơn giáo khơng cịn đơn giản là niềm tin của con người
vào các thế lực siêu nhiên, niềm tin ấy đã tập hợp con người thành một cộng đồng với
những quy tắc riêng như một xã hội thu nhỏ. Xã hội nhu nhỏ này theo Nguyễn Đăng
Duy, được cấu thành từ 5 yếu tố: giáo chủ, giáo hội, giáo lý, giáo luật và giáo đường
[Nguyễn Đăng Duy 2001: 19].
Như vậy tín ngưỡng và tơn giáo có gì giống và khác nhau? Về mối quan hệ
này cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến trái chiều. Có người đồng nhất tơn giáo và tín
ngưỡng, cũng có ý kiến cho rằng tín ngưỡng là cơ sở, là xuất phát điểm của tơn giáo;
cịn tơn giáo đã phát triển thành một bậc cao hơn. Từ các khái niệm, định nghĩa tơn
giáo và tín ngưỡng, có thể rút ra một số điểm tương đồng và khác biệt như sau:
Điểm tương đồng:
Cơ sở cho cả tơn giáo và tín ngưỡng tồn tại là niềm tin của con người vào một
lực lượng vơ hình, có khả năng siêu nhiên và ảnh hưởng đến đời sống của con người.
Khi niềm tin ấy khơng cịn hoặc khi tất cả hiện tượng thần bí trên thế giới đều được
khoa học giải thích thì tơn giáo và tín ngưỡng sẽ mất đi vai trị của mình.
Tơn giáo và tín ngưỡng đều khiến con người điều chỉnh hành vi ứng xử của
mình với mơi trường tự nhiên, môi trường xã hội sao cho phù hợp với các giáo lý tơn
giáo hay niềm tin tín ngưỡng.
Điểm khác biệt:
Nếu tôn giáo được cấu thành từ năm yếu tố như đã nêu ở trên thì tín ngưỡng
lại khơng hội đủ các yếu tố đó. Tuy tín ngưỡng cũng có nơi thờ tự, cũng có đối tượng
thờ tự nhưng về mặt tổ chức vẫn chưa được quy củ, hoàn thiện như tôn giáo với người
đứng đầu là giáo chủ - người nhận được niềm tin nhiều nhất từ giáo dân, do đó có
quyền yêu cầu mọi giáo dân phải hiểu rõ giáo lý và tuân theo giáo luật.
Đối với một tín đồ tơn giáo, một người trong một thời điểm chỉ có một tơn
giáo thì người khơng tơn giáo có thể đồng thời sinh hoạt nhiều tín ngưỡng khác nhau.
Thậm chí vẫn có trường hợp một người dù đã có tơn giáo nhưng vẫn theo một tín
ngưỡng nào đó. Điều này có thể thấy rõ nhất ở Việt Nam. Ngoại trừ Cơng giáo với
giáo lý khắt khe thì các tín đồ Phật giáo, Đạo Cao Đài vẫn giữ được tín ngưỡng truyền
thống dân tộc là thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu,…
Như vậy, về bản chất, cả tơn giáo và tín ngưỡng đều là những hiện tượng tâm
lý xã hội phản ánh hiện thực một hư ảo; niềm tin của con người đối với lực lượng siêu
10
nhiên, thế giới vơ hình và cuộc sống sau khi chết là cơ sở của mọi tơn giáo và tín
ngưỡng. Tuy nhiên nếu tín ngưỡng chỉ dừng lại ở tâm lý con người thì tơn giáo là kết
quả của những hoạt động của con người xuất phát từ những niềm tin ấy [Nguyễn Hồi
Loan-Nguyễn Thị Hải Yến: 3]. Với sự khác biệt đó có thể kết luận Shaman giáo nói
chung và Shaman giáo Hàn Quốc nói riêng chỉ là một hình thức tín ngưỡng vì nó
khơng hội đủ năm yếu tố cấu thành tôn giáo.
1.2 Quan điểm giới trong tổ chức tơn giáo, tín ngưỡng
Giới là khái niệm được dùng để chỉ địa vị và vai trò của con người mang giới
tính khác nhau trong xã hội theo quy định của nền văn hóa [Richley H. Crapo, 1996:
23]. Nguồn gốc dẫn tới sự khác biệt về giới trong tôn giáo, tín ngưỡng là do “Sự phân
chia lao động theo giới trong cấu trúc xã hội của những nhóm tơn giáo cũng có
khuynh hướng phản ánh sự phân tầng về giới trong xã hội và được lý giải là bằng
chứng của sự ủng hộ từ thế lực siêu nhiên cho sự phân tầng về giới rộng khắp. Vì thế
tơn giáo thường là yếu tố chủ yếu trong việc duy trì sự phân tầng về giới.” [Lê Thu
Huyền 2012: 43].
Vị trí của nam và nữ trong đời sống xã hội cũng như đời sống tôn giáo khác
nhau do sự quy định của nền văn hóa. Sở dĩ có sự khác biệt đó là do mỗi xã hội có một
nền văn hóa riêng biệt với những đặc trưng văn hóa có tác động đến nhận thức cũng
như hành động của con người, từ nhận thức đó đặt ra cách sắp xếp địa vị xã hội của
các giai cấp, tầng lớp, cá nhân trong xã hội. Hơn nữa, văn hóa cịn ảnh hưởng đến sự
khác biệt về địa vị của giới trong xã hội và đời sống sinh hoạt tôn giáo. Lịch sử đã
chứng minh rằng, ở những nơi có sự bình đẳng về giới thì vai trị của người phụ nữ
trong tơn giáo được chấp nhận và họ có thể tham gia thực hiện các nghi lễ tơn giáo. Ví
dụ, trong số những người da đỏ theo chế độ quân bình nam nữ ở Bắc California, những
pháp sư hầu hết đều là nữ [Richley H. Crapo, 1996: 169]. Ngược lại, trong các xã hội
mà vị trí của người phụ nữ bị đặt dưới sự thống trị của nam giới thì vai trị của họ
trong thiết chế tôn giáo cũng bị hạn chế.
Chẳng hạn, Phật giáo ra đời trong xã hội Bà La Môn luôn hà khắc với người
phụ nữ, lời tuyên bố của Đức Phật rằng tất cả mọi người đều bình đẳng đã mang tính
cách mạng hơn so với tư tưởng, nhận thức của người dân Ấn Độ thời bấy giờ. Đặc biệt,
Đức Phật cịn tun bố: “Phụ nữ cũng có thể thành Phật, về bản chất khơng có sự phân
biệt giới tính, mọi chúng sinh đều bình đẳng” [Lê Thu Huyền 2012: 105].
11
Trong giáo lý, Đức Phật luôn đề cao phẩm hạnh của người phụ nữ. Ngài đã
giải phóng người phụ nữ khỏi tư tưởng áp bức cổ hữu và dẫn dắt nữ giới thực hiện địa
vị quan trọng của mình trong xã hội. Đức Phật đã khắc sâu vào tâm não dân chúng lúc
bấy giờ những nguyên nhân khiến chúng ta phải kính nể người phụ nữ. Người dạy nam
giới nên xem phụ nữ như chị, em gái và hết lòng bảo vệ họ, nên đối xử hiền hòa, dịu
dàng với vợ, xem vợ là ngang hàng với mình và cho con gái những cơ hội thăng tiến
giống như con trai.
Tìm hiểu một số nét về địa vị của người phụ nữ trong giáo lý Phật giáo đã
được đề cập ở trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: trong đạo Phật khơng có sự phân
biệt giữa nam và nữ. Tất cả mọi người đều cùng sống thanh tịnh trong Pháp và Luật
của Phật, khơng có sự phân biệt nam nữ, giai cấp hay chủng tộc màu da, đều có thể
quy y cửa Phật.
Trong khi đó xã hội Ấn Độ dưới thời Bà La Môn xem phụ nữ là hiện thân của
tội lỗi. “Một người phụ nữ không được trở thành brahmani (giới tu sĩ Bà La Môn),
không phải trải qua những nghi lễ chuyển tiếp như nam giới, đánh dấu việc bước vào
tuổi có thể hiểu được những lời kinh Veda và sự tái sinh của họ trong tôn giáo”. Và ở
cả một số vùng nông thôn hẻo lánh, trẻ nữ sơ sinh có thể bị giết bởi những định kiến
tôn giáo [Nguyễn Xuân Nghĩa 2005: 15]. Người phụ nữ bị xem là một trở ngại cho
việc thực hành giới luật của nam giới và người ta nghĩ rằng họ khơng bao giờ có thể
thốt khỏi khổ đau. Người phụ nữ bấy giờ bị khinh rẻ và chỉ là những món đồ tiêu
khiển của đàn ơng thuộc giới quyền q. Nhà văn Ấn Độ - Hemacondra đã có những
lời nói khinh rẻ trong tác phẩm của mình, ơng đã xem nữ giới như những “ngọn đuốc
soi sáng con đường xuống địa ngục”. Trong đời sống hằng ngày, người phụ nữ phải
chịu khá nhiều thiệt thịi: họ khơng được ra khỏi nhà mà khơng che mặt, khơng có
quyền trong các hoạt động xã hội, khơng có mặt trong lĩnh vực tơn giáo… Luật Manu
nói rằng: “Ngày cũng như đêm, người phụ nữ phải nương tựa vào những người đàn
ông thân quyến trong gia đình. Nếu tham gia vào các hoạt động vui chơi, họ cũng phải
chịu sự kiểm sốt. Khi cịn bé, người cha sẽ bảo vệ họ, sau khi lấy chồng, người chồng
sẽ bảo vệ họ và khi về già, con trai sẽ bảo vệ họ, người phụ nữ không bao giờ có quyền
tự chủ hay độc lập [Lê Thu Huyền 2012: 104-105].
Kitô giáo là tôn giáo luôn đề cao sự cứu độ không chỉ dành riêng cho một dân
tộc, một tầng lớp xã hội hay giới tính nào. Kitơ giáo ln đề cao tính nhân văn của con
12
người nhưng lại có một truyền thống xác định vai trị lãnh đạo của nam giới trong các
tổ chức tơn giáo. Mặc dù phụ nữ ln đóng một vai trị quan trọng trong đời sống của
Đức Giêsu, từ khi sinh ra với bà Maria, đứng dưới chân thập giá tham gia mai táng
Ngài cũng là hai người phụ nữ và cũng chính hai người phụ nữ Maria, Maria Macdala
phát hiện Ngài khơng cịn ở trong mồ và chính Ngài cũng hiện ra đầu tiên với phụ nữ.
Thế nhưng vai trò của phụ nữ suy giảm trong giáo hội. Trong truyền thống của Kitơ
giáo, các chức thánh như phó tế, linh mục, giám mục chỉ dành cho nam giới độc thân.
Nhưng các thế kỷ về sau, Chính thống giáo, Tin lành, và Cơng giáo đã có những giải
thích và lựa chọn khác nhau, họ đã cho phụ nữ tham gia lãnh đạo tổ chức tôn giáo
song không phải là phổ biến [Nguyễn Xuân Nghĩa 2005: 18].
Còn vị thế của người phụ nữ trong Islam giáo mang tính hai mặt. Một mặt
kinh Koran qua việc xác định quan hệ của phụ nữ trong hôn nhân và trong thừa kế tài
sản đã đem lại cho họ một vị thế xã hội mà trước đây họ khơng có được. Nhưng mặt
khác, Islam giáo xem phụ nữ là thấp kém, bị loại ra ngoài các vai trị linh thiêng chỉ
giành cho nam giới (họ khơng được đến Thánh đường làm lễ, chỉ hành lễ tại nhà; nếu
đến Thánh đường cũng không thể đứng hành lễ ở những vị trí trang trọng như nam
giới; họ khơng được quyền nắm giữ chức vụ trong tôn giáo). Kinh Koran có những
điều khoản hạ thấp người phụ nữ, coi nguồn gốc đàn ơng cao hơn phụ nữ, ví phụ nữ
như quần áo của đàn ông, vợ là thửa ruộng để khai khẩn [Nguyễn Xuân Nghĩa 2005:
19].
Trong khi một số tơn giáo lớn trên thế giới có xu hướng hạn chế vai trị của nữ
giới trong hoạt động tơn giáo thì một số tín ngưỡng bản địa lại xem trọng vai trị của
người phụ nữ, trong đó có Đạo Mẫu Việt Nam và Shaman giáo ở một số nước trên thế
giới. Điều khác biệt cơ bản giữa Đạo Mẫu và các hình thức Saman giáo khác là ở chỗ
Đạo Mẫu không hướng về "đời sống" bên kia của con người sau cái chết mà là đời
sống thực tại với ước vọng sức khỏe, tài lộc và may mắn. Đó là ước vọng huyền bí và
hấp dẫn đối với tất cả mọi người ở mọi thời đại. Đạo Mẫu Việt Nam lấy tôn thờ Mẫu
(Mẹ) làm đấng sáng tạo và bảo trì cho vũ trụ - con người, là nơi con người ký thác
những mong ước, khát vọng về đời sống trần thế của mình, đạt tới sức khỏe, tài lộc.
Khơng chỉ tôn thờ Mẫu, các nghi thức thực hành của Đạo Mẫu cũng cho thấy vai trò
quan trọng của người phụ nữ. Hầu đồng – nghi thức đặc trưng nhất của Đạo Mẫu
thường được thực hiện bởi các bà đồng. Mặc dù có cả ơng đồng và bà đồng nhưng bà
13
đồng vẫn chiếm số đông. Điều này cho thấy sự khác biệt với các tôn giáo khác khi mà
người phụ nữ có thể là tín đồ nhưng rất hạn chế trong việc tham gia vào các hoạt động
của tôn giáo.
Qua những phân tích về vị trí của người phụ nữ trong một số tơn giáo, tín
ngưỡng, ta có thể rút ra kết luận, phụ nữ không được phép hoặc không được khuyến
khích tham gia vào các hoạt động tơn giáo cũng như nắm giữ những chức vụ quan
trọng trong giáo hội. Trường hợp Phật giáo, nếu đặt trong sự so sánh giữa các tơn giáo
lớn cịn lại như Bà La Mơn, Kitơ giáo, Islam giáo thì có thể thấy ngày từ khi hình
thành và phát triển, Đức Phật ln đề cao vị trí của người phụ nữ tuy nhiên vẫn cịn
nhiều hạn chế. Trong khi đó một số hình thức tín ngưỡng dân gian bản địa như Đạo
Mẫu Việt Nam hay Shaman giáo Hàn Quốc lại cho thấy xu hướng ngược lại. Đó là vị
thế vơ cùng quan trọng của người phụ nữ, đến mức những tín ngưỡng này được xem
như là tín ngưỡng của người phụ nữ.
1.3 Vị trí của người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc
Nho giáo có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến vị trí của người phụ nữ trong xã hội
Hàn Quốc. Theo những tài liệu và những bằng chứng lịch sử, ta có thể thấy được sự
thay đổi rõ rệt trong xã hội khi Nho giáo thâm nhập vào Triều Tiên trong triều đại
Choson. Trước khi có Nho giáo, vị thế người phụ nữ vẫn được xem trọng. Trong thời
kỳ Shilla (53 TCN-935 SCN), đã từng có ba vị nữ hồng trị vì, cụ thể là nữ hoàng
Seondeok (선덕) (632-647), Chindeok (친덕) (647-654) và Chinseong (친성) (887897). Mặc dù hệ thống gia đình Hàn Quốc từ xưa đến nay luôn theo chế độ phụ hệ
nhưng vẫn phổ biến việc ở chung với gia đình vợ sau khi cưới, đặc biệt là một năm sau
khi thành hôn, được biết đến với tên gọi namkwiyeoga (남귀여가). Phong tục này đã
tồn tại ở Triều Tiên từ thời cổ xưa và được giữ gìn trong suốt thời kỳ Goguryo
(고구려, 37 TCN- 668), cho đến thời kỳ Goryo (고려, 910-1392). Tục lệ lâu đời này
của người Triều Tiên đã bị những học giả Nho giáo chỉ trích nặng nề ở triều đại
Choson. Jeong Do-jeon (청도전) từng lên án tục lệ này trong sách của mình, ơng cho
rằng việc người đàn ơng sống chung với gia đình bên vợ sẽ khiến cho người vợ dựa
vào sự hỗ trợ của gia đình và xem nhẹ chồng mình, làm ảnh hưởng sự cân bằng âm
dương, ông khẳng định đây là việc trái với quy luật trời đất.
Tư tưởng Nho giáo trong triều đại Joseon được xem như tư tưởng định hướng
cho việc tổ chức xã hội. Nó đã đem đến những tác động tiêu cực, thay đổi hoàn toàn vị
14
trí của người phụ nữ, những người trước đây đã từng có vị thế cao hơn. Tư tưởng Nho
giáo xác định người phụ nữ, phải tách khỏi gia đình của họ, và có nhiệm vụ cơ bản là
sinh con trai thừa tự cho gia đình bên chồng. Người phụ nữ thường bị lợi dụng và đối
xử tệ bởi mẹ chồng hoặc chị em gái bên chồng, vị thế của họ chỉ được nâng cao đôi
chút khi họ sinh được con trai cho gia đình chồng. Mối quan hệ giữa chồng và vợ
thường xa cách, “Ban ngày, như nhìn người lạ; ban đêm, như nhìn tình nhân”. Luật
pháp thời Joseon nghiêm cấm những người vợ chết chồng tái giá, tuy nhiên luật cấm
đó khơng hạn chế đối với những người chồng chết vợ. Hơn thế nữa, con cháu của
những người quá phụ, cũng giống như con của vợ lẻ, không được phép thi khoa cử và
làm quan. Nhiệm vụ của người phụ nữ đối với chồng cũng như gia đình chồng là tuyệt
đối và không thể nghi ngờ. Trong xã hội truyền thống, chỉ người đàn ơng mới có
quyền địi li hơn. Người chồng có thể li dị nếu người vợ khơng thể sinh con, khơng thể
có con được định nghĩa đơn giản là không sinh được con trai. Kể cả nếu người chồng
khơng li dị vợ, anh ta cũng có quyền cưới thêm vợ khác.
Không những thế, người phụ nữ trong xã hội truyền thống còn bị những lễ
nghĩa trong Nho giáo ràng buộc trong bốn bức tường. Những người phụ nữ thuộc tầng
lớp Yangban (양반) dành phần lớn thời gian của cuộc đời trong căn phịng của mình.
Người ta cho rằng trò bập bênh, được tạo nên bởi những người phụ nữ Yangban, vì họ
muốn nhìn trộm qua bức tường rào của nhà mình. Những người phụ nữ ở tầng lớp thấp
hơn có được một chút tự do khi phải tham gia vào việc đồng áng, hoặc buôn bán để
phụ giúp gia đình, đóng góp về mặt kinh tế dù họ khơng có địa vị trong gia đình.
Trong những gia đình Nho giáo truyền thống, người phụ nữ thực chất chỉ là
người ngoài, sự hiện diện của họ trong gia đình chỉ để phục vụ cho những thành viên
gia đình “đích thực” [Sorensen 1983:64]. Phụ nữ khơng được xem là người của nhà
chồng hoàn toàn, trừ khi sinh được một đứa con trai nối dõi cho họ, lúc ấy họ hồn
thành nghĩa vụ của mình và bắt đầu có được “các ưu đãi và quyền hạn của người mẹ”
[Deuchler 1983: 25]. Ngay cả khi đã hồn tồn được cơng nhận là người thuộc gia
đình chồng, các phụ nữ Hàn Quốc vẫn mang họ của mình, trong khi những đứa con thì
theo họ của chồng và chúng thuộc về gia đình chồng. Người vợ vẫn như một người
ngồi, khơng chỉ trong gia đình chồng mà trong chính gia đình của cơ. Như Soresen đã
nói về phụ nữ Hàn Quốc “là người dưng trong cả nhà chồng và nhà mình”.
15
Từ khi ở trong chính nhà của mình, một người chưa lấy chồng đã được gọi là
“chulga oein” (출가외인), tức một người dưng sẽ rời khỏi nhà [Sorensen 1983: 64].
Văn hóa Hàn Quốc có hàng loạt câu nói hạ thấp người phụ nữ. Nói đến con gái,
điều thường được nghe nhất là “Tại sao tôi phải tốn tiền cho việc học của nó? Đằng
nào thì tơi cũng sẽ gả nó đi”. Rất nhiều câu nói thể hiện rõ quan điểm “trọng nam
khinh nữ” của Nho giáo. Giá trị của người phụ nữ trong cả vai trò phụ nữ lẫn vợ bị hạ
thấp trong nhiều câu nói bằng cách gán cho họ là những sinh vật gian trá với tiềm năng
đem lại rắc rối và xui xẻo. Những cô gái chưa có chồng thì được đánh giá bằng trinh
tiết, cơ ta cũng luôn được dạy rằng phải yên lặng và chú ý thái độ của cô. Và mâu
thuẫn giữa mẹ chồng – nàng dâu cũng được nhắc đến nhiều, bên cạnh đó cịn có xem
con gái hơn con dâu, và con rể hơn con dâu [Tieszen 1983:49].
Để ví dụ, Tieszen diễn giải một câu nói: “Khi bị đánh ở văn phịng chính phủ,
đi về nhà đánh vợ” cịn thích hơn là “như việc đá một con chó sau một ngày làm việc
vất vả” [Tieszen 1983:52]. Riêng câu này đã thể hiện một khía cạnh khác của “cơng tư
phân minh”, sự tức giận và bẽ mặt nơi đông người sẽ được giảm bớt khi bạo hành
người phụ nữ trong nhà. Một ví dụ mới hơn và hay được dùng hơn là: “Một phụ nữ
Hàn Quốc giống như một trái banh xoay về phía trước, càng đánh mạnh càng xoay tốt
hơn.”
Câu nói: “Bán ruộng để làm một buổi gut mà đứa con dâu cả lại đang nhảy
múa theo” nhắc đến cả Shaman giáo lẫn mối quan hệ gia đình. Tieszen giải thích rằng
chỉ trong những tình huống nguy hiểm nhất mới phải làm lễ trừ tà, và người con dâu cả
phải nhận thấy sự nghiêm trọng của vấn đề đó thay vì chỉ biết nhảy múa, vui chơi
[Tieszen 1983:57]. Việc con dâu nhảy múa trong trường hợp gia đình chồng đang gặp
tình huống khó khăn đến mức bán ruộng để làm lễ gut này khá là khơng phù hợp,
nhưng trong buổi gut thì việc nhảy múa hoàn toàn được chấp nhận và thậm chí cịn
khuyến khích. Xét theo khía cạnh Nho giáo, câu nói này lên án hành vi của cơ ta,
nhưng xét theo Shaman giáo, nó lại chấp nhận hành vi ấy. Có gì là sai khi người con
dâu đóng góp vào buổi gut như vậy? Con dâu cả thường là người bị áp bức bởi mẹ
chồng nhiều nhất. Việc cô ta nhảy múa trong buổi gut sẽ, có lẽ, như một sự giải tỏa
cảm xúc tiêu cực trước nhiều người, là sự đảo ngược của câu nói về một người đàn
ơng bị bẽ mặt trước mọi người đánh người phụ nữ ở nhà. Buổi gut và hành vi của cô ta
làm giảm đi quyền lực của Nho giáo: đất, thứ cơ bản nhất trong hệ thống thừa kế phụ
16
hệ, được bán đi để giải quyết một vấn đề trong nhà; của cơng được dùng cho mục đích
cá nhân.
Như vậy có thể thấy rằng, cũng như nhiều quốc gia phương đơng khác, trong đó
có Việt Nam, tư tưởng xã hội bản địa Hàn Quốc khơng có sự phân biệt nam nữ quá rõ
rệt, người phụ nữ vẫn có địa vị và quyền lợi như nam giới nhưng kể từ khi Nho giáo
bắt đầu du nhập, phát triển và trở thành tư tưởng thống trị xã hội Hàn Quốc địa vị của
người phụ nữ Hàn Quốc trong đời sống gia đình và xã hội đã có sự thay đổi hồn tồn.
Những tư tưởng này đã góp phần thúc đẩy người phụ nữ Hàn Quốc tìm đến Shaman
giáo để giải tỏa những ức chế về địa vị, thân phận và mưu cầu hạnh phúc cho bản thân.
1.4 Khái quát Shaman giáo
Các nhà nghiên cứu cho rằng, Shaman giáo là một hình thức tín ngưỡng mang
tính phổ biến của xã hội lồi người, đặc trưng của thời kỳ thịnh hành chế độ bộ lạc.
Shaman giáo đạt tới cực thịnh vào lúc chế độ bộ lạc trở thành hình thái xã hội thống trị
và nó cũng suy vong cùng với sự suy vong của chế độ bộ lạc (X.A. Tocarep, Các hình
thức tơn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng).
Nhiều ý kiến cho rằng, Shaman giáo xuất phát đầu tiên và tiêu biểu là ở vùng
Bắc Á (Siberi) và gọi đó là “Đại Shaman giáo”, cịn các vùng phụ cận thì khơng phát
triền đầy đủ, khơng điển hình, thì gọi là “tiểu Shaman giáo”. Thực tế có thể thấy sự lan
truyền, ảnh hưởng của Shaman giáo từ Bắc Á – Siberi với tư cách là hiện tượng
Shaman tiêu biểu, tuy nhiên, hiện tượng Shaman giáo không chỉ đặc thù của riêng Bắc
Á – Siberi, mà cịn mang tính phổ biến ở rất nhiều dân tộc trên thế giới.
Trong ngôn ngữ của người Tungut (Siberi), Tát Man (Trung Quốc), Shaman có
nghĩa là “kích động”, “điên cuồng”, “hơn mê”, tương ứng với các khái niệm “Trance”
(hôn mê, xuất thần, nhập định), “Ecstacy” với 3 nghĩa: 1) Sự biến hóa khác thường hay
sự điên cuồng, 2) Tinh linh ám xác hay linh hồn rời xác, 3) Sự hạ thần, giáng thần
(Bách khoa toàn thư).
Shaman giáo quan niệm một người nào đó có khả năng đặc biệt làm trung gian
giao tiếp giữa thế giới trần tục và thế giới siêu nhiên. Những người đặc biệt đó là các
thầy pháp hay thầy shaman, có khả năng cầu xin thần linh giúp đỡ con người thoát
khỏi hoạn nạn, bệnh tật hoặc đạt được những mong muốn của con người bằng các
hành vi nhảy múa, ca hát, hú gọi…hoặc bắt quyết, trừ tà. Theo những người Evenki,
thầy shaman là những người có khả năng liên hệ trực tiếp với thế giới tâm linh bằng
17
việc nhập định, điều khiển các linh hồn và sử dụng năng lực của họ để giúp đỡ những
người đang trải qua bệnh tật hay bất hạnh do sự ảnh hưởng từ các linh hồn xấu xa.
Tại Hội thảo Quốc tế về Đạo Mẫu và các hình thức Shaman (giáo) trong các
tộc người ở Việt Nam và châu Á tổ chức tại Hà Nội tháng 11 năm 2001, các nhà khoa
học Việt Nam và quốc tế đã đi đến một quan niệm chung về Shaman giáo, đó chính là
hình thức nhập hồn hay thoát hồn của các thầy đồng trong trạng thái ngây ngất để có
thể thơng quan với thần linh, cầu giúp việc chữa bệnh và mưu cầu may mắn, tài lộc
[Ngô Đức Thịnh 2004: 784].
Tương tự Lewis [1971/198: 45] cho rằng “Shaman là người thuộc một trong hai
giới tính mà sở hữu các linh hồn và có thể đưa họ vào trong cơ thể mình theo ý muốn”.
Do đó khi bàn luận về Shaman giáo, cần phải nghiên cứu đến trạng thái thay đổi
của ý thức. Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong phân tích xã hội học của
Shaman giáo kể từ khi Eliade quan tâm tới tình trạng thay đổi ý thức là thơi miên hay
nhập định. Việc Eliade thừa nhận rằng Shaman giáo được phân biệt với việc nhập hồn
đã làm dấy lên tranh cãi trong dư luận. Lewis chỉ trích học thuyết của Eliade và cho
rằng nhập hồn là một phần không thể thiếu của Shaman giáo, vì thế cả hai khơng nên
bị chia tách rõ ràng. Anna-Leena Siikala cũng ủng hộ quan điểm của Lewis rằng
Shaman giáo và nhập hồn thường xuất hiện chung với nhau, khơng nên phân biệt
chúng.
Trong khi đó, thơng qua kinh nghiệm của mình, Harner đã chứng minh rằng
trạng thái ý thức của các thầy shaman – nhập hồn và xuất hồn – có thể được thực hiện
bằng nhiều cách khác nhau như gây ảo giác, nhịp trống, lục lạc, chuông, hát và nhảy –
những phương pháp cổ xưa của những thầy shaman. Có thể nói rằng sự chiếm giữ linh
hồn luôn xảy ra trong trạng thái ngây ngất, nhưng nghi lễ Shaman vẫn có thể được
thực hiện như là một cuộc họp và thương lượng với tâm linh mà khơng cần có sự nhập
hồn.
Định nghĩa của Drury [1989: 6] giải thích nhiều hơn về vai trị của thầy
shaman: “Shaman là người có khả năng nhận thức thế giới tâm linh và thần thánh, và
trong trạng thái nhập định có thể đi đây đó với họ. Shaman ln cảnh giác với những
mối nguy hiểm đến sự tồn tại của con người của các thế lực huyền bí nằm đợi để bẫy
những người không cẩn thận, hay làm phát sinh bệnh tật, nạn đói hay điều bất hạnh.
Nhưng shaman cũng đóng vai trị người trung gian - người đàm phán cho hai phía.”
18
Chức năng chủ yếu của thầy shaman là chữa trị các căn bệnh về thể xác và tâm
hồn. Họ xoa dịu và đuổi các linh hồn lầm lỗi đi khỏi cơ thể người bệnh hoặc tìm các
linh hồn lạc lối mang chúng trở về.
Các thầy shaman cũng tham gia vào việc bói tốn, sử dụng khả năng của mình
để nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai với sự giúp đỡ của các linh hồn.
Mặc dù có nhiều định nghĩa về các thầy shaman, nhưng tất cả các nhà nghiên
cứu đều có vẻ đồng ý rằng chức năng quan trọng nhất của họ là làm trung gian giữa
thế giới siêu nhiên và con người bằng cách dùng trạng thái nhập định. Một đặc điểm
quan trọng khác của các thầy shaman là “ý chí và quyền năng của họ, có thể vượt quá
điều kiện của con người, qua lại một cách tự do giữa các mặt phẳng vụ trụ” [Furst
1972]. Hầu hết họ có thể đưa bản thân vào trạng thái nhập định và giữ ngun tình
trạng đó trong khi vẫn nhận thức được thực tế đang diễn ra. Đó là điểm để phân biệt
các thầy shaman với các ông đồng bà cốt - những người ban đầu nhận thức đầy đủ và
chịu trách nhiệm cho tình trạng thay đổi ý thức, nhưng về sau lại hồn tồn khơng có
hồi ức về trạng thái mình vửa trải qua.
Như vậy có thể kết luận Shaman giáo là hình thức tín ngưỡng đặc biệt bao gồm
những thầy shaman – người trung gian giữa linh hồn và con người, thường sử dụng
trạng thái nhập định để tiếp xúc với các lực lượng siêu nhiên nhằm phục vụ cho nhu
cầu của con người. Năng lực của họ được xã hội công nhận và được sử dụng trong các
nghi lễ biểu diễn cho những mục đích khác nhau.
1.5 Sự hình thành và phát triển của Shaman giáo Hàn Quốc
Từ những bằng chứng được cung cấp bởi các di tích văn hóa cổ đại Hàn Quốc,
người ta ước tính rằng Shaman giáo Hàn Quốc đã tồn tại trên bán đảo Triều Tiên từ
1000 năm trước Công nguyên. Tuy Shaman là một tín ngưỡng ngun thủy khơng có
một hệ thống cấu trúc rõ ràng nhưng nó đã thấm nhuần vào đời sống hằng ngày của
người dân Hàn Quốc thơng qua văn hóa dân gian và phong tục truyền thống.
Shaman giáo Hàn Quốc ngày nay còn được người Hàn Quốc gọi là “musok”
(무속). Theo các nhà nghiên cứu thì Shaman Hàn Quốc có nguồn gốc từ Shaman giáo
Siberi cổ xưa do những cư dân của bộ tộc ở đây mang đến bán đảo này. Trong
“musok” thì “mu”
巫, dựa vào sự phân tích chữ tượng hình thể hiện sự kết nối trời và
đất thông qua hai người đang nhảy múa trên không. Ngay tên gọi musok đã cho thấy
19
đây không phải là tôn giáo mà chỉ là một truyền thống của mudang (무당) – thầy đồng
Hàn Quốc mà thơi. Do đó các học giả của Shaman giáo Hàn Quốc thường cẩn thận
tránh thuật ngữ “tôn giáo” trong việc định nghĩa hiện tượng này. Bởi người ta gọi nó là
“tục mudang”; không phải là “gyo” (교- giáo) mà là “sok” (속 - tục). Và musok, hay
tục mudang có thể được định nghĩa là “một hình thức đức tin của con người vào một
hiện tượng tín ngưỡng cổ xoay quanh mudang”. Khi các học giả gọi hiện tượng này là
“tục mudang”, họ đã ngầm phản đối việc nó là tơn giáo, cái mà có giáo huấn và giáo lý.
Họ muốn xem nó là đức tin của con người, hay một tín ngưỡng dân gian. Cịn tên gọi
Shamanism đã được lựa chọn khi dịch “musok” sang tiếng Anh vì nó có khái niệm và
nội dung gần giống với từ gốc [Vũ Phối Như 2010:19].
Cũng như Shaman thế giới, Shaman giáo Hàn Quốc được Kim Tae-kon định
nghĩa: “Shaman giáo Hàn Quốc là một hiện tượng tơn giáo mang tính truyền thống, tự
phát, trong đó khả năng rơi vào tình trạng ngây ngất và bị nhập hồn cho phép thầy
đồng tiếp xúc trực tiếp với thế giới siêu nhiên. Và với hiệu lực của quyền năng siêu
nhiên của các thần linh, mudang cố gắng đáp ứng những ước muốn của loài người
như tiên đốn, bói tốn điềm lành, điềm dữ và giải hạn cầu phúc” [Shin-yong Chun
1999: 2].
Các mudang ở Hàn Quốc là người trung gian có thể liên kết sự sống với thế giới
tâm linh. Những người này được coi là có khả năng ngăn ngừa điềm xấu, chữa bệnh.
Họ cũng được cho là có thể giải quyết xung đột và căng thẳng tồn tại giữa người sống
và người chết.
Shaman Hàn Quốc bao gồm việc thờ phượng hàng ngàn linh hồn và ma quỷ
được tin là có trong mọi sự vật trong thế giới tự nhiên, bao gồm cả đá, cây cối, núi,
sông suối cũng như các thiên thể.
Các nhà nghiên cứu đã mô tả những nghi thức quan trọng nhất của Shaman giáo
được thực hiện bởi các mudang vẫn được biết đến vào ngày nay với tên gọi gut (굿).
Từ gut trong tiếng Hàn có nghĩa đen là nghi lễ nói chung, nhưng trên thực tế thì gut
được sử dụng để chỉ nghi lễ của Shaman giáo Hàn Quốc. Gut là nghi lễ Shaman giáo
mang tính tồn diện, trong đó các mudang khi bước vào trạng thái ngây ngất sẽ thỉnh
các vị thần linh và xoa dịu các loại yêu, ma bằng việc mua vui cho lực lượng siêu
nhiên này – vốn được xem là nguyên nhân của bệnh tật và bất hạnh, đưa linh hồn
20
người chết sang thế giới bên kia hay đơn thuần là cầu sức khỏe, hạnh phúc và thịnh
vượng [Hyun-key Kim Hogarth 1999: 177].
Về khơng gian
Hàn Quốc có khí hậu lục địa ẩm và cận nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng của gió
mùa Đơng Á, mưa nhiều vào mùa hè, đủ để đáp ứng cho việc canh tác nông nghiệp.
Tuy không có điều kiện tự nhiên thuận lợi như Việt Nam, nhưng nhìn chung, từ xa xưa
người Hàn Quốc đã sống bằng lao động nơng nghiệp nên tín ngưỡng bản địa Hàn
Quốc mang đậm màu sắc của đời sống nông nghiệp và vì mục đích phục vụ nơng
nghiệp. Chẳng hạn, đa số các lễ hội của Shaman giáo tập trung vào mùa thu và mùa
xuân là hai thời điểm thích hợp với thời vụ trồng lúa mùa. Con người vui chơi và cầu
khẩn thần linh bảo trợ cho vụ mùa. Ngoài ra, do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào
thiên nhiên dẫn đến số lượng đông đảo các vị Thiên thần trong tín ngưỡng này.
Bên cạnh khí hậu thuận lợi sản xuất nơng nghiệp, hình thế địa lý là bán đảo
giúp Hàn Quốc thuận lợi trong các mối giao lưu với các nước và rất dễ cho các luồng
văn hóa, các tôn giáo khác trên thế giới thâm nhập vào Hàn Quốc. Do đó ngồi yếu tố
bản địa, Shaman giáo Hàn Quốc còn chịu ảnh hưởng của Shaman giáo Trung Quốc và
Siberia từ những cư dân di cư về phía nam từ vùng Mãn Châu và xa về phía bắc bên
kia sông Hắc Long Giang. Hơn nữa, lãnh thổ Koguryo ngày xưa bao gồm một phần
khu vực Mãn Châu nên gut Hàn Quốc có những yếu tố giống với vu thuật Trung Quốc
là điều dễ hiểu [Vũ Phối Như 2010: 25].
Về thời gian
Đến nay vẫn chưa có văn bản hay tư liệu nào ghi chép lại chính xác thời điểm
hình thành của Shaman giáo Hàn Quốc nhưng lại có nhiều truyền thuyết lý giải cho sự
ra đời của tín ngưỡng này. Tuy nhiên, mới chỉ có một vài bằng chứng ít ỏi cho thấy
đây là một tín ngưỡng bản địa xuất hiện từ rất lâu đời. Đó là chiếc vương miệng bằng
vàng thời Silla, có hình dáng giống chiếc vương miện của các thầy pháp Siberia.
Hình 1. Vương miện thời Silla
21
Nguồn: />Sách Tam quốc di sự có đoạn nói rằng vị vua thứ hai của Silla (실라) là Namhae Cha-cha-ung (남해 차차웅) cũng được gọi là Cha-cha-ung, Mudang, Cheon-JangJa (천장자) và Wang Ho (왕호) – tên gọi khác nhau của thầy shaman Hàn Quốc [Im
Seok-jae 2003: 253]. Em gái của vị vua này là Ano (아노) cũng là một mudang. Theo
sách Tam quốc sử ký thì thành Yo-dong Song (요동성) thuộc nước Goguryo (고구려)
đã chiến thắng những cuộc tấn công to lớn của quân đội nhà Tùy và nhà Đường (Trung
Quốc) nhờ sự bảo hộ của các thần linh Shaman giáo thông qua các lễ gut của các nữ
mudang [Im Seok-jae 2003: 253].
Bởi vì sự ảnh hưởng của Shaman giáo tới con người và xã hội Hàn Quốc, giai
cấp thống trị thường điều khiển, hoặc nỗ lực điều khiển Shaman giáo cho mục đích cá
nhân của bản thân. Bằng cách vận dụng các câu chuyện kể và các huyền thoại mang
tính chính trị, giai cấp thống trị gieo vào tâm trí và suy nghĩ của những người bình
thường ý thức hệ của riêng họ. Shaman giáo từ đó khơng cịn có thể đại diện cho tiếng
nói của những người bị thiệt thòi và yếu đuối nữa.
Khi Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo từ Trung Quốc du nhập vào thì từ đó
Shaman giáo trở thành tín ngưỡng của tầng lớp bị xem là bình dân thấp kém và của
những người phụ nữ hèn mọn trong xã hội [Shin-yong Chun 1999:39].
Từ thế kỷ thứ X, khi mà Nho giáo có vị trí ngày càng cao thì Shaman giáo lại bị
chống đối mạnh mẽ bởi triều đình và các Nho sĩ. Trong suốt các triều đại phong kiến
Hàn Quốc, chưa có tơn giáo nào bị đàn áp, khinh bỉ nhiều như Shaman giáo, đặc biệt