Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Lich su the gioi Trung dai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.14 KB, 80 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

F

<b> 7 </b>

G



GIÁO TRÌNH



<b>LỊCH SỬ THẾ GIỚI </b>


<b>TRUNG ĐẠI </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>MUÏC LUÏC </b>



<i><b>PHẦN I.</b></i><b> LỊCH SỬ PHƯƠNG TÂY TRUNG ĐẠI... 3</b>


BÀI I. SỰ HÌNH THAØNH CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN Ở TÂY ÂU. ... 3


<i>I. Sự thành lập các quốc gia ở Tây Âu từ thế kỷ V – X:... 3</i>


<i>II. Vương quốc Phrăng:... 3</i>


<i>III. Quá trình hình thành chế độ phong kiến ở vương quốc Phrăng:... 4</i>


BAØI II. SỰ RA ĐỜI VAØ PHÁT TRIỂN CỦA THAØNH THỊ ... 8


<i>I. Sự ra đời của thành thị : ... 8</i>


<i>II. Hoạt động kinh tế của các thành thị: ... 9</i>


<i>III. Cuộc đấu tranh giành quyền tự trị và ảnh hưởng của thành thị đối với chế độ </i>
<i>phong kiến:... 11</i>


BAØI III. GIÁO HỘI LA MÃ VAØ PHONG TRAØO VIỄN CHINH CỦA QUÂN THẬP
TỰ... 13



<i>I. Sự phát triển thế lực của giáo hội La Mã:... 13</i>


<i>II. Những cuộc viễn chinh của quân Thập Tự :... 14</i>


BAØI IV.NHỮNG(CUỘCPHÁTKIẾNLỚNVỀĐỊALÝ. ... 19


<i>I. Nguyên nhân và tiền đề của các cuộc phát kiến địa lý: ... 19</i>


<i>II. Các cuộc phát kiến lớn :... 19</i>


<i>III. Cuộc hành trình vịng quanh trái đất:... 20</i>


<i>IV. Hậu quả:... 21</i>


BÀI V. SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN Ở TÂY ÂU... 23


<i>I. Những tiền đề của sự ra đời của chủ nghĩa tư bản:... 23</i>


<i>II. Sự ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa:... 24</i>


<i>III. Sự ra đời của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản:... 25</i>


<i>IV. Aûnh hưởng của chủ nghĩa tư bản với chế độ phong kiến: ... 26</i>


BÀI VI. PHONG TRÀO CẢI CÁCH TÔN GIÁO ... 28


<i>I. Nguyên nhân chung: ... 28</i>


<i>II. Các cuộc cải cách tôn giáo:... 28</i>



<i>III. Những hoạt động chống cải cách tôn giáo của giáo hội Thiên Chúa:... 30</i>


BAØI VII. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TỪ PHÂN QUYỀN ĐẾN
TẬP QUYỀN Ở PHÁP ... 32


<i>I. Quá trình thống nhất nước Pháp : ... 32</i>


<i>II. Quá trình phát triển của chế độ quân chủ chuyên chế : ... 35</i>


BAØI VIII. CÁCH MẠNG NÊĐÉCLAN ... 38


<i>I. Tình hình Nêđéclan trước cách mạng :... 38</i>


<i>II. Diễn biến cuộc cách mạng: ... 40</i>


<i>III. Tính chất , ý nghĩa và hạn chế của cách mạng Nêđéclan: ... 42</i>


<i><b>PHẦN II.</b></i><b> LỊCH SỬ PHƯƠNG ĐÔNG THỜI TRUNG ĐẠI ... 45</b>


BÀI I. TRUNG QUỐC... 45


<i>I. CÁC TRIỀU ĐẠI TỪ TẦN ĐẾN THANH (221TCN – 1840) ... 45</i>


<i>II. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI: ... 59</i>


BÀI II. A RẬP ... 63


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

BÀI III. ẤN ĐỘ... 68


<i>I. Tình hình chính trị: ... 68</i>



<i>II. Chế độ Jati và Ấn Độ giáo:... 70</i>


BÀI IV. NHẬT BẢN... 73


<i>I. Những nhà nước đầu tiên :... 73</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>Phần I.</b></i>

<b>LỊCH</b>

<b>SỬ</b>

<b>PHƯƠNG</b>

<b>TÂY</b>

<b>TRUNG</b>

<b>ĐẠI </b>



<b>Bài I. </b>

<b>SỰ HÌNH THÀNH CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN Ở TÂY ÂU. </b>



<b>I.Sự thành lập các quốc gia ở Tây Âu từ thế kỷ V – X: </b>


Trước khi đế quốc Tây La Mã diệt vong (năm 476), trên đất đai của Tây La Mã
đã thành lập một số vương quốc của người Giécmanh như Tây Gốt, Văngđan,
Buốcgông… Sau khi Tây La Mã diệt vong, người Giécmanh tiếp tục thành lập những
vương quốc mới. Đó là vương quốc Phrăng thành lập năm 486 ở xứ Gôlơ, Vương
quốc Đông Gốt thành lập năm 493 ở Ý.


Như vậy là đến cuối thế kỷ V, toàn bộ đất đai của Tây La Mã đã trở thành địa
bàn của các vương quốc mới của người Giécmanh.


Tuy vậy, đa số các nước này tồn tại không được lâu: Vương quốc Văngđan bị
Đông La Mã tiêu diệt năm 534. Cũng năm đó vương quốc Buốc Gơng bị vương quốc
Phrăng thơn tính.


Năm 535, vương quốc Đơng Gốt bị hồng đế Đơng La Mã tấn cơng, và đến
năm 555 thì bị diệt vong.


Vương quốc Tây Gốt tồn tại được gần ba thế kỷ, nhưng đến năm 711 cũng bị


A-rập chinh phục.


Sau khi Đông La Mã tiêu diệt vương quốc Đông Gốt chiếm lại được bán đảo Ý,
năm 568 người Lôngba đã tràn vào chiếm được miền Bắc và miền Trung bán đảo Ý
rối thành lập vương quốc Lôngba. Nhưng nước này cũng chỉ tồn tại đến năm 774 thì
bị vương quốc Phrăng chinh phục.


Thế là trong số các nước do người Giécmanh thành lập chỉ có vương quốc
Phrăng là tồn tại lâu dài và có vai trò quan trọng trong mấy thế kỷ đầu của chế độ
phong kiến ở Tây Âu.


<b>II.Vương quốc Phrăng: </b>


Người Phrăng lúc đầu cư trú ở vùng hữu ngạn sông Ranh. Từ thế kỷ thứ III, họ
vượt qua sông Ranh tràn vào xứ Gôlơ, đến thế kỷ thứ IV, họ được coi là bạn đồng
minh của La Mã và được định cư ở vùng Đông Bắc xứ Gôlơ. Sau khi Tây La Mã diệt
vong người Phrăng chiếm thêm được nhiều đất đai ở xứ này và đến năm 486 thì
chuyển sang xã hội có nhà nước.


Người đầu tiên đặt cơ sở cho việc thành lập vương quốc Phrăng là Clơvít
(481-511), vốn là một thủ lĩnh bộ lạc, đến năm 486 thì biến thành ơng vua đầu tiên của
triều đại Mêrôvanhgiêng (Mérovingiens, 481-751).


Sau khi thành lập nước, các vua của vương quốc Phrăng khơng ngừng chinh
phục bên ngồi, do đó lãnh thổ của vương quốc càng được mở rộng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

chết (741), con của ông là Pêpanh Lùn được thay chức Tể tướng. Đến năm 751,
Pêpanh Lùn được hội nghị q tộc cử lên làm vua, triều Mêrơvanhgiêng kết thúc,
triều Carôlanhgiêng (Carolingiens) được thành lập.



Năm 768, Pêpanh chết, con là Sáclơmanhơ lên thay. Đây là ông vua lỗi lạc
nhất của vương quốc Phrăng. Trong 46 năm ở ngơi, ơng khơng ngừng chinh chiến, do
đó đã làm cho vương quốc Phrăng trở thành một nước có cương giới rộng lớn tương
đương với lãnh thổ của đế quốc Tây La Mã trước kia. Vì vậy năm 800, ơng được
Giáo hồng Lêơng III cử hành lễ Gia miện (1<sub>) tơn làm hồng đế của La Mã, vì vậy </sub>


ơng được coi là Sáclơmanhơ tức là “Đại hoàng đế Sáclơ”.


Năm 814, Sáclơmanhơ chết, người con trưởng là Lu-y “Mộ đạo” lên nối ngôi
(814-840). Trong thời gian này, cuộc đấu tranh trong nội bộ cung đình dã xảy ra, năm
840, Lu-y “Mộ đạo” chết, cuộc nội chiến giữa ba người con của Lu-y Mộ đạo lập tức
bùng nổ.


Năm 843, ba anh em phải ký với nhau hòa ước Vécđoong. Theo hòa ước này,
lãnh thổ của vương quốc chia làm 3 phần:


- Người anh cả Lôte được phần giữa bao gồm vùng tả ngạn sông Ranh


và miền Bắc bán đảo Ý.


- Người em thứ hai là Lu-y xứ Giécmanh được phần đất phía Đơng sơng


Ranh.


- Người em út Sáclơ Hói được phần đất phía Tây của vương quốc.


Như vậy đến đây, vương quốc Phrăng tan rã, đồng thời hòa ước Vécđoong cũng
là mốc lịch sử đánh dấu sự thành lập ba nước mới là Pháp, Đức, Ý.


<b>III.Quá trình hình thành chế độ phong kiến ở vương quốc Phrăng: </b>



Sau khi thành lập nước, người Phrăng từ xã hội nguyên thủy chuyển lên chế độ
phong kiến. Q trình phong kiến hóa ấy chủ yếu biểu hiện ở ba mặt:


<b>1.Biến toàn bộ ruộng đất trong xã hội thành lãnh địa phong kiến. Giai cấp </b>
<b>Lãnh chúa xuất hiện: </b>


Trong quá trình chinh phục, người Phrăng chiếm được nhiều ruộng đất. Vua
Phrăng đem một phần trong số ruộng đất ấy ban cấp cho các thân binh của mình
và biếu tặng các cơ sở của giáo hội Kitô. Việc ban cấp này không kèm theo một
điều kiện nào cả. Ngoài ra một số quý tộc cũ ở đó vẫn được giữ lãnh địa của
mình. Tất cả những người đó bao gồm vua quan, tướng lĩnh, giáo chủ, tu viện
trưởng, chủ nô cũ… lập thành giai cấp địa chủ mới.


Đến thế kỷ VIII, chính sách ban cấp ruộng đất ở vương quốc Phrăng có một
sự thay đổi. Trước đây, ruộng đất ban cấp không kèm theo điều kiện nào cả, nay
việc ban đất là có kèm theo điều kiện. Chính sách ban cấp đất này gắn liền với
việc xây dựng kỵ binh của Sáclơ Macten.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Những điều kiện đó là :


+ Người được phong đất (gọi là bồi thần) phải thề trung thành với


người phong đất (gọi là tôn chủ) và phải thực hiện nghĩa vụ quân sự
mỗi năm 40 ngày.


+ Đất phong chỉ được sử dụng suốt đời chứ không được truyền cho


con cháu.



Loại ruộng đất phân phong có điều kiện này gọi là bênêphixơ (bénéfice), ta
có thể dịch là thái ấp.


Đến thời Sáclơmanhơ, đất đai chinh phục được càng nhiều, chế độ phong
cấp thái ấp càng phát triển do đó thế lực của tầng lớp bồi thần càng mạnh.


Sau khi nước Pháp thành lập, năm 877, do sức ép của các bồi thần, Sáclơ
Hói phải ban bố sắc lệnh quy định các bồi thần tuy vẫn phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự, nhưng được truyền thái ấp và chức tước cho con cháu. Từ đó, thái ấp trở
thành những lãnh địa cha truyền con nối gọi là phi- ép (fief).


Đến đây, quá trình biến ruộng đất trong xã hội thành ruộng đất phong kiến ở
vương quốc Phrăng hoàn thành.


Đồng thời với việc phong đất, các bồi thần cịn được phong các chức tước
như Cơng tươcù, Hầu tước, Bá tước. Giờ đây, những chức tước ấy trở thành những
danh hiệu quý tộc và cũng được truyền cho con cháu cùng với lãnh địa. Như vậy, ở
phương Tây, giai cấp lãnh chúa đồng thời cũng là giai cấp quý tộc.


Chính sách phân phong ruộng đất ấy đã tạo ra giai cấp quý tộc phong kiến
đông đảo làm cơ sở giai cấp của chế độ phong kiến.


<b>2.Biến giai cấp nông nhân thành giai cấp nông nô: </b>


Trong q trình chinh phục, đồng thời với việc đem một bộ phận đất đai
phong cho các thân binh và biếu tặng các cơ sở của giáo hội Kitơ, vua Phrăng giao
bộ phận cịn lại cho các thành viên thị tộc của người Phrăng. Với những vùng đất
mới này, các thành viên thị tộc người Phrăng lập thành những công xã nông thôn
gọi là công xã Máccơ. Chẳng bao lâu, công xã nông thôn tan rã, nông dân trở
thành những người chủ của phần đất do công xã chia cho .



Đến thế kỉ VII, vì nhiều nguyên nhân như thiên tai, phải nộp thuế quá nặng,
đàn ông phải đi làm nghĩa vụ, bệnh dịch, vợ con ở nhà không kham nổi việc sản
xuất v.v…,rất nhiều nông dân bị phá sản, do đó họ phải bán hoặc hiến ruộng đất
của mình cho lãnh chúa . Đồng thời các lãnh chúa cũng dùng nhiều cách để chiếm
đoạt ruộng đất của nơng dân nên dần dần tồn bộ ruộng đất trong xã hội đều tập
trung vào tay giai cấp lãnh chúa.


Sau khi mất ruộng đất, nông dân chỉ còn một cách là phải lĩnh canh ruộng
đất của lãnh chúa để làm ăn, do đó bị biến thành nông dân đời đời lệ thuộc vào
lãnh chúa, gọi là <i>nơng no</i>â.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Với hình thức địa tô này, nông nô được lãnh chúa chia cho một mảnh ruộng,
được thu hoạch toàn bộ sản phẩm của mảnh ruộng đó, nhưng mỗi tuần phải đến
làm việc 3-4 ngày trên ruộng đất của chủ.


Ngoài ra, nơng nơ cịn phải làm nhiều việc khơng cơng khác và phải nộp
nhiều thứ thuế như thuế xay bột, thuế nướng bánh mì, thuế kiếm củi, thuế chăn gia
súc, thuế qua cầu, qua đị, thuế kết hơn, thuế kế thừa tài sản v.v…


Ngoài nghĩa vụ đối với lãnh chúa của mình, nơng nơ cịn phải nộp thuế 1/10
cho giáo hội Kitô và nhiều khoản bất thường khác.


Về địa vị xã hội, tuy nông nô chưa hồn tồn mất tự do, họ có gia đình riêng
và một ít tài sản riêng, và chủ khơng có quyền giết hại họ,nhưng họ khơng được tự
tiện rời bỏ mảnh ruộng mà chủ giao cho. Hơn nữa, con cháu của họ cũng phải đời
đời kế thừa mảnh ruộng ấy và phải làm nông nô cho lãnh chúa .


Nơng nơ cũng khơng có quyền tự do kết hôn. Những cuộc hôn nhân của họ
đều phải được lãnh chúa đồng ý, nếu không sẽ bị xử phạt nặng nề. Khi kết hôn họ


phải nộp thuế cho lãnh chúa. Nếu nam nữ thuộc hai lãnh chúa kết hôn với nhau,
tuy đã được hai lãnh chúa cho phép, nhưng con cái họ sinh ra phải chia cho cả hai
lãnh chúa.


Lãnh chúa cịn có quyền hành hạ đánh đập nông nô miễn là không nguy hại
đến tính mạng hoặc cơ thể là được.


Ở Tây Aâu, chế độ nông nô tồn tại đến khoảng thế kỉ XV-XVI mới tan rã.
<b>3.Sự thành lập các trang viên phong kiến: </b>


Thời La Mã cổ đại, trang viên (tức điền trang) đã tồn tại rồi, nhưng chủ trang
viên là chủ nô và lực lượng lao động trong trang viên là nơ lệ.


Đến thời kì này, trong quá trình tập trung ruộng đất vào tay các lãnh chúa
phong kiến, trang viên lại được thành lập.


Trang viên thường lớn bé khác nhau, có trang viên bao gồm mấy làng, ngược
lại, có khi một làng lớn lại bao gồm mấy trang viên.Lực lượng lao động chính
trong trang viên phong kiến là nơng nơ. Những trang viên lớn có tới ba bốn trăm
hộ nơng nơ, những trang viên nhỏ thì chỉ có vài ba chục hộ, nhưng thông thường
nhất là khoảng 100 hộ.


Trong trang viên thường có lâu đài, kho tàng , cối xay bột, lị bánh mì, xưởng
ép dầu, lị rèn v.v… của lãnh chúa; lại cịn có nhà thờ và khu vực nhà chung của
các tu sĩ. Ngoài ra cịn có những túp lều của nơng nơ.


Đất đai trang viên bao gồm ruộng đất canh tác, bãi cỏ, rừng, ao hồ, đầm
lầy…


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Ngoài đất canh tác ra, bãi cỏ, rừng, ao hồ … cũng là của chủ, vì vậy nơng nơ


muốn chăn súc vật, kiếm củi, bắt cá v.v… đều phải nộp thuế cho chủ.


Trang viên phong kiến là những đơn vị kinh tế tự sản tự tiêu (còn gọi là tự
cấp, tự túc) . Ngồi việc sản xuất nơng nghiệp, trong trang viên cịn sản xuất tiểu
thủ cơng nghiệp. Vì vậy ngồi những nơng nơ làm ruộng cịn có những nơng nơ
làm các loại thợ thủ cơng như thợ mộc, thợ rèn, thợ dao kiếm, thợ vàng bạc v.v…
Những người thợ thủ công này được chủ cấp cho một mãnh đất nhỏ để tự sản xuất
lương thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>Bài II. </b>

<b>SỰ RA ĐỜI VAØ PHÁT TRIỂN CỦA THAØNH THỊ </b>



<b>I.Sự ra đời của thành thị : </b>
<b>1. Hoàn cảnh lịch sử: </b>


Thời cổ đại ở phương Tây đã từng có những thành thị rất tráng lệ và sầm
uất. Nhưng đến cuối thời đế quốc La Mã, do sự suy thoái của nền kinh tế hàng
hóa, các thành thị ở Tây Aâu đã bị điêu tàn. Sự xâm nhập và phá hoại của Man tộc
càng làm nghiêm trọng thêm tình hình ấy.


Tiếp đó, từ thế kỷ V-X, do tồn bộ nền kinh tế đều sản xuất tại nông thôn
nên thành thị vẫn chưa được khôi phục. Lúc bấy giờ chỉ có một số thành lũy dùng
làm kinh đơ của vua hoặc các trung tâm hành chính của các quận mà thôi chứ
không phải những thành thị.


<b>2.Nguyên nhân của sự ra đời những thành thị: </b>


Đến!thế kỷ XI, thủ công nghiệp và nông nghiệp ở Tây Aâu đều có những tiến
bộ đáng kể. VÌ vậy, những người thợ thủ công ở nông thôn từ chỗ làm việc theo
yêu cầu của những người tiêu dùng ở trong trang viên đã chuyển sang sản xuất
hàng hóa để bán.



Để tiện việc tiêu thụ sản phẩm của mình và để thốt khỏi sự nơ dịch của các
lãnh chúa, những người thợ thủ công này đã trốn khỏi nông thôn đến những nơi
thuận lợi cho việc sản xuất của họ như gần nơi cung cấp nguyên liệu, có nhiều
khách hàng mua sản phẩm của họ, tương đối an tồn v..v.. Những nơi thợ thủ cơng
đến cư trú thường là những trung tâm chính trị như kinh đô của vua, thành lũy của
lãnh chúa phong kiến hoặc những trung tâm tơn giáo như Tịa Giám mục, tu viện,
nhà thờ. Ngoài ra thợ thủ cơng cịn hay tụ hội ở những nơi mới nhưng có nhiều
người thường xuyên qua lại như các ngã tư đường, đầu cầu, bến đị, cửa sơng…


Lúc bấy giờ, thợ thủ công cũng là những người bán sản phẩm của họ nên
những nơi họ đến cư trú và sản xuất đã nhanh chóng trở thành những trung tâm
cơng thương nghiệp.


Tiếp đó, nơng dân từ nơng thôn không ngừng chạy đến những nơi này làm
cho cư dân ở đây cũng thêm đơng đúc, do đó những nơi đó dần dần phát triển
thành những thành phố.


<b>3.Bộ mặt và quy mô của thành thị: </b>


Khi mới ra đời, thành thị ở châu Aâu còn rất thơ sơ, xung quanh mỗi thành
phố có thành xây bằng đá, bằng gạch thậm chí bằng gỗ, lại cịn có hào sâu, có
tháp canh, có cổng thành chắc chắn cứ đến tối thì đóng lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Những người thợ thủ công cùng nghề thường sống tập trung ở một khu vực,
do đó các tên phố thường được gọi theo tên nghề nghiệp như phố Thợ Rèn, phố
Thợ Mộc, phố Thợ Dệt…


Quy mô của các thành phố châu Âu lúc bấy giờ còn tương đối nhỏ. Cho đến
thế kyÛ XIII, Pari cũng mới chỉ có 100.000 dân, Ln Đơn, Milanơ có khoảng


50.000 người, cịn phần lớn các thành phố khác chỉ có khoảng dưới 10.000 người.


<b>II.Hoạt động kinh tế của các thành thị: </b>


Trong các thành phố của phương Tây lúc bấy giờ có hai ngành kinh tế chính là
thủ công nghiệp và thương nghiệp.


<b>1.Thủ công nghiệp và tổ chức phường hội: </b>


Thủ công nghiêp là ngành kinh tế quan trọng nhất trong hầu hết các thành
thị ở châu Aâu lúc bấy giờ.


Những người thợ thủ công làm việc ngay tại nhà họ bằng công cụ lao động
và nguyên liệu của họ. Trong các xưởng thủ công nhỏ bé ấy, giúp việc cho thợ cả
thường có vài người thợ bạn, vài người thợ học việc và các thành viên trong gia
đình người thợ cả.


Tuy việc sản xuất được tiến hành riêng lẻ như vậy, nhưng để bảo vệ lẫn
nhau, những người thợ thủ công cùng nghề ở thành thị đã tổ chức thành những
đoàn thể nghề nghiệp gọi là phường hội.


<i>- Mục đích chủ yếu của viêc thành lập phường hội là </i>


+ Bảo đảm sự đồng đều về quyền lợi trong việc sản xuất cũng như trong
khâu mua nguyên liệu và bán sản phẩm; tránh sự cạnh tranh lẫn nhau giữa
những người thợ thủ công cùng nghề.


+ Bảo vệ sự độc quyền về nghề nghiệp của mình chống sự cạnh tranh của
những nơng nơ mới chạy vào thành thị và cũng làm nghề đó.



+ Đoàn kết lẫn nhau nhằm chống lại sự hạch sách và cướp bóc của lãnh
chúa phong kiến.


<i>-Nguyên tắc tổ chức: </i>Phường hội là tổ chức của những người thợ thủ công
cùng ngành nghề trong một thành phố. Thành viên của phường hội là những người
thợ cả đồng thời là người chủ của các xưởng thủ cơng gia đình.


Phường hội có tổ chức và quy chế rất chặt chẽ. Mỗi phường hội có một
người cầm đầu gọi là trùm phường do đại hội các thành viên bầu ra. Trùm phường
có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện các quy chế của phường hội xử lý những vụ vi
phạm, giải quyết những xích mích giữa các thành viên.


<i>-Quy chế của phường hội</i> cũng do đại hội các chủ xưởng thảo ra trong đó
bao gồm những quy định rất chặt chẽ và chi tiết về nhiều mặt:


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

+ Điều kiện để nhận thợ học việc, thời gian học việc, thời gian làm thợ
bạn, chế độ thù lao đối với thợ học việc và thợ bạn…


+ Chất lượng và qui cách sản phẩm, giá bán sản phẩm…


-<i>Tính chất của phường hội:</i> Phường hội là tổ chức nghề nghiệp của thợ
thủ cơng <i>mang tính chất</i> <i>phong kiến</i> vì người thợ thủ cơng trong phường hội cịn
gắn liền với tư liệu sản xuất, hơn nữa mục đích của việc sản xuất chủ yếu là để
kiếm tư liệu sinh hoạt chứ không phải để mưu cầu lợi nhuận.


<i>-Ý nghĩa của phường hội:</i>


+ Về mặt kinh tế, trong thời kì đầu, phường hội đã đảm bảo cho việc sản
xuất được tiến hành thuận lợi, đồng thời phường hội có vai trị rất lớn trong việc
trau dồi kĩ thuật sản xuất, do đó đã thúc đẩy sự phát triển của các nghề thủ công


trong một thời gian nhất định.


+Về mặt xã hội, phường hội là tồ chức đoàn kết tương trợ của thợ thủ
công để đấu tranh chống lãnh chúa phong kiến, quý tộc thành thị và để giúp đỡ
lẫn nhau mỗi khi gặp khó khăn hoạn nạn.


Phường hội cịn là tổ chức có tính chất qn sự và tơn giáo. Mỗi phường
hội có một đội dân binh có nhiệm vụ tuần tra canh gác để bảo vệ thành phố. Mỗi
phường hội thường có nhà thờ riêng và có những ngày lễ hội riêng của mình.


<i>-Sự tan rã của phường hội:</i> Đến thế kỷ XIV- XV, phường hội bắt đầu
bước vào quá trình tan rã. Do sự phát triển của nền sản xuất thủ công nghiệp, một
số chủ xưởng bất chấp quy chế tự động mở rộng quy mô sản xuất, tăng thêm số
lượng thợ bạn và thợ học việc, kéo dài thời gian lao động trong ngày, cải tiến kỹ
thuật…do đó đã dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo giữa các thành viên của các
phường hội.


Đồng thời, sự thâm nhập của chủ nghĩa tư bản càng thúc đẩy nhanh
chóng q trình tan rã của phường hội.


<b>2.Thương nghiệp: </b>


Hoạt động thương nghiệp ở Tây Aâu lúc bấy giờ biểu hiện ở các mặt sau đây:
<i>Sư trao đổi hàng hóa giữa thành thị với vùng nông thôn xung quanh: </i> Lúc
đầu thợ thủ công cũng là người bán sản phẩm ngay tại xưởng của mình cho
người tiêu dùng.


Ngồi ra, mỗi thành phố cịn có chợ của riêng mình. Chợ thành phố họp
mỗi tuần một hoặc hai lần, mỗi lần kéo dài suốt cả ngày.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Sự hình thành các khu vực mậu dịch: </i> Do sự phát triển mạnh mẽ của việc
buôn bán, ở châu Aâu đã hình thành hai khu vực mậu dịch:


+ Khu vực Địa Trung Hải gồm các thành phố ở Ý, Nam Pháp,


Taây Ban Nha.


+ Khu vực Bắc Hải và biển Bantích gồm các thành phố ở Bắc


Đức, Đan Mạch v.v…


Đến thế kỷ XIII, các thành phố ở Bắc Đức đã lập thành một liên minh
thương nghiệp gọi là đồng minh Hanxơ. Sang thế kỷ XIV, đồng minh này càng
phát triển bao gồm hơn 70 thành phố. Đồng minh có nhiều sở đại lý đóng tại nhiều
thành phố của một số nước ở châu Aâu.


- <i>Sự ra đời của ngân hàng:</i> Sự phát triển của nền mậu dịch quốc tế đã dẫn


đến sự ra đời của ngân hàng. Ngân hàng bắt nguồn từ nghề đổi tiền. Các lái buôn chỉ
cần đem tiền đến nộp cho người đổi tiền ở thành phố của mình để nhận một giấy
chuyển tiền, khi đến hội chợ sẽ được nhận một số tiền ở địa phương đó tương ứng với
số tiền đã đổi. Về sau hoạt động của ngân hàng mở rộng kiêm cả việc nhận tiền gửi,
cho vay nợ v.v…


Lúc đầu những người kinh doanh nghề đổi tiền phần lớn là người Ý, vì
vậy trong ngơn ngữ các nước phương Tây, chữ <i>ngân hàng</i> bắt nguồn từ chữ <b>Banca </b>
trong tiếng Ý có nghĩa là cái bàn của người đổi tiền.


<b>III.Cuộc đấu tranh giành quyền tự trị và ảnh hưởng của thành thị đối với chế độ </b>
<b>phong kiến: </b>



<b>1.Cuộc đấu tranh giành quyền tự trị: </b>


- Các thành phố đều xây dựng trên đất đai của lãnh chúa phong kiến, vì vậy


lãnh chúa thường cử đại diện của mình đến quản lý thành phố.


Đồng thời, lãnh chúa có rất nhiều quyền đối với thành phố như quyền tư
pháp, quyền đúc tiền, quyền thu thuế, quyền cư trú trong những ngày lãnh chúa
đến thành phố v.v… Sự bóc lột và hạch sách của lãnh chúa không ngừng tăng lên
cùng với sự giàu có ngày càng tăng của thành phố.


Trước tình hình ấy, thị dân đã đồn kết lại để đấu tranh với lãnh chúa
nhằm giành quyền tự trị cho thành phố.


<i> -Biện pháp :</i> Để được tự trị, có một số thành phố đã nộp cho lãnh chúa
một khoản tiền lớn, nhưng hình thức thơng thường nhất là đấu tranh vũ trang.


Phong trào đấu tranh giành quyền tự trị của thành thị diễn ra rầm rộ nhất
trong hai thế kỷ XII, XIII.


-<i>Kết quả: </i> Các thành thị đã giành được thắng lợi với những mức độ khác
nhau:


+ Các thành phố ở Ý như Vênêxia, Giênôva, Phirenxê, Milanô, Pixa,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

thành phố này cịn khống chế được vùng nơng thôn xung quanh và các
thành phố nhỏ lân cận nên đã lập thành những nước cộng hòa thành
thị trong đó có chính quyền, viện Ngun lão, pháp luật, tòa án, quân
đội.



+ Đa số các thành phố khác cũng được tự trị nhưng còn phải chịu một


số nghĩa vụ đối với vua hoặc lãnh chúa như phải nộp một khoản địa tô
nhất định, hoặc cơ quan quản lý thành phố phải thảo luận với quan lại
của vua cử đến khi giải quyết các cơng việc hành chính và tư pháp.
Tuy mức độ giành được quyền tự trị có khác nhau nhưng có một điểm
giống nhau là cư dân tất cả các thành phố đều được thốt khỏi thân phận nơng nơ,
do đó đều được tự do.


<b>2.Aûnh hưởng của thành thị đối với chế độ phong kiến: </b>


Sự ra đời của thành thị với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế hàng
hóa đã có ảnh hưởng rất lớn đối với chế độ phong kiến.


- Trước hết, nền kinh tế của thành thị đã làm tan rã nhanh chóng nền kinh


tế tự nhiên. Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong việc sản xuất thủ công
nghiệp, lương thực thực phẩm và nguyên liệu mà thị dân cần dùng đều phải dựa vào
sự cung cấp của nơng thơn, do đó đã lơi cuốn nhiều trang viên phong kiến vào việc
sản xuất hàng hóa.


- Thứ hai, nền kinh tế thành thị đã góp phần rất quan trọng trong việc làm


tan rã chế độ nơng nơ.


Do hàng hóa xuất hiện trên thị trường ngày càng nhiều, nhu cầu của giai
cấp phong kiến cũng càng ngày càng tăng. Để có tiền mua các thứ hàng đó, đến
thế kỷ XIII, các lãnh chúa thường dùng hình thức tơ tiền thay thế các loại tơ lao
dịch và sản phẩm. Hơn nữa, có một số lãnh chúa cịn đồng ý cho nơng nơ dùng


tiền để chuộc lại tự do. Như vậy, quan hệ tiền tệ đã làm cho chế độ nông nô bắt
đầu lỏng lẻo và do đó đã phá hoại từ từ chế độ phong kiến.


- Thứ ba, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa làm cho mối liên hệ kinh


tế giữa các địa phương càng chặt chẽ, do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình
thành những quốc gia thống nhất.


Đồng thời thị dân là lực lượng tích cực ủng hộ nhà vua trong việc đấu
tranh với các thế lực phong kiến cát cứ để thống nhất đất nước và xây dựng bộ
máy tập quyền trung ương.


Y{Z



Tóm lại thành thị ở phương Tây có vai trị rất quan trọng:


- <i>Sự ra đời của thành thị đã dẫn đến sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. </i>
- <i>Sự ra đời của thành thị đã dẫn đến sự ra đời của tầng lớp thị dân. Đó là </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>Bài III. </b>

<b> GIÁO HỘI LA MÃ VÀ PHONG TRÀO VIỄN CHINH CỦA </b>



<b>QN THẬP TỰ. </b>



<b>I.Sự phát triển thế lực của giáo hội La Mã: </b>


<b>1.Tổng giám mục La Mã trở thành Giáo hoàng: </b>


Sau khi biến thành quốc giáo của La Mã, để quản lý việc đạo trong tồn đế
quốc, đạo Kitơ đã thành lập 5 trung tâm giáo hội do Tổng Giám mục đứng đầu.Năm
trung tâm đó là: Cơngxtăngtinốp, Antiốt, Giêrudalem, Alêchxăngđri và La Mã.



Năm 395, đế quốc La Mã chia thành 2 đế quốc: Tây La Mã và Đông La Mã.
Tại Tây La Mã chỉ có 1 trung tâm, cịn 4 trung tâm khác thuộc về Đông La Mã. Năm
476, Tây La Mã diệt vong. Trên đất đai của Tây La Mã đã thành lập nhiều vương
quốc của người Giécmanh.


Nhân tình hình ấy, Tổng Giám mục La Mã tự xưng là Giáo hoàng, một mặt
muốn chiếm quyền lãmh đạo cao nhất tồn bộ giáo hội Kitơ ở cả phương Tây và
phương Đông; một mặt muốn bắt quốc vương các nước mới thành lập ở Tây Aâu phải
khuất phục dưới quyền lực của mình.


<b>2.Đạo Kitô đầu thời Trung đại: </b>


- Đến thời Trung đại, đạo Kitô nhấn mạnh thuyết con người sinh ra ai cũng


có tội. Sở dĩ như vậy là vì thủy tổ lồi người là Adam và Eva đã không vâng lời Chúa
trời nên đã phạm tội. Do vậy, dịng giống của họ là tồn thể lồi người phải mang tội
truyền kiếp. Ngoài ra, mỗi người trong cuộc đời của mình cịn phạm những tội lỗi
riêng. Tuy nhiên, giáo hội Kitô tuyên truyền rằng bằng các nghi thức như Thánh thể
(cho ăn bánh thánh ), giải tội v.v…, các giáo sĩ được nhân danh Chúa để ban phúc
lành, do đó có thể làm cho mọi người được thoát khỏi sự trừng phạt sau khi chết và
được hưởng hạnh phúc ở thiên đường.


- Ngồi ra giáo hội cịn đề xướng chủ nghĩa cấm dục, thành lập các nhà tu


kín, chủ trương thờ các di vật của các thánh, hành hương đến các đất thánh,v.v… để
làm tăng thêm sự tin tưởng của các tín đồ.


- Đối với những người vi phạm quy chế của giáo hội, giáo hội thường dùng



biện pháp khai trừ giáo tịch tức là loại bỏ sự cứu vớt linh hồn sau khi chết để buộc họ
phải ngoan ngoãn phục tùng giáo hội.


- Cơ sở vật chất của giáo hội là các lãnh địa rộng lớn của các nhà thờ và tu


viện thuộc giáo hội La Mã.


- Hơn nữa, năm 756, vua của vương quốc Phrăng là Pêpanh Lùn sau khi


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>3.Mâu thuẫn trong nội bộ Giáo hội Kitô: </b>


Một khi thế lực của Giáo hồng lớn mạnh thì mưu đồ của Giáo hoàng
muốn ngự trị toàn bộ giáo hội Kitơ cũng càng tăng, do đó mâu thuẫn giữa La Mã
và các tổ chức Giáo hội ở phương Đông cũng càng thêm sâu sắc.


Năm 867, Hội nghị các giáo chủ ở phương Đông đã thông qua nghị quyết
khai trừ giáo tịch của Giáo hồng Nicơla I và tuyên bố rằng việc can thiệp của
Giáo hồng vào cơng việc của giáo hội phương Đơng là không hợp pháp.


Đến năm 1054, do việc tranh chấp về quyền quản lý các giáo sĩ ở Nam Ý,
Giáo hoàng sai sứ đưa giấy sang khai trừ giáo tịch của Tổng Giám Mục
Cơngxtăngtinnốp. Từ đó giáo hội Kitơ chính thức chia làm hai giáo hội:


+ Ở phương Tây gọi là giáo hội La Mã hoặc giáo hội Thiên Chúa.
+ Ở phương Đông gọi là giáo hội Hy Lạp hoặc giáo hội Chính Thống.


<b>II.Những cuộc viễn chinh của quân Thập Tự : </b>
<b>1.Nguyên cớ : </b>


- Theo quan niệm truyền thống của đạo Kitô, Giêrudalem là đất thánh của



tơn giáo này, vì đây là nơi Chúa Giêxu đã sống và mộ của Chúa cũng táng ở nơi đây.
Nhưng từ thế kỷ VII, vùng này bị các tộc theo theo Hồi giáo lần lượt xâm chiếm, cụ
thể là:


+ Đầu thế kỷ VII, vùng này bị A-rập chiếm.


+ Cuối thế kỷ X, vùng này rơi vào tay nước Calipha Ai Cập.


+ Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XI, vùng này bị người Tuyếc Xengiúc chiếm.
Đặc biệt đến cuối thế kỷ XI, do chiến tranh loạn lạc nên khách hành
hương Tây Aâu không thể đi qua Tiểu Á để đến Palextin được nữa. Vì vậy ở Tây
Aâu, một mặt người ta phóng đại sự ngược đãi của người Tuyếc Xengiúc đối với tín
đồ Kitơ giáo, một mặt người ta phóng đại sự giàu có sung sướng của phương Đơng.


- Trong hồn cảnh ấy, người Tuyếc Xengiúc đang chuẩn bị tấn cơng


Cơngxtantinốp. Vì vậy, năm 1090 và 1091, hoàng đế Bidantium đã cử sứ giả sang
cầu cứu giáo hoàng và gửi thư yêu cầu các nước Tây Aâu đưa quân sang phương Đông
để chống bọn tà giáo.


Như vậy, nguyên cớ của những cuộc chiến tranh này dường như là do
mâu thuẫn giữa Kitô giáo và Hồi giáo nhưng nguyên nhân sâu xa là do giai cấp
phong kiến một số nước Tây u muốn cướp bóc phương Đơng và Giáo hồng La
Mã muốn giành được quyền quản lý cả giáo hội phương Đơng.


<b>2.Các cuộc viễn chinh: </b>


Từ cuối thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIII, những đoàn quân Thập tự đã tiến
hành 8 cuộc viễn chinh:



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

- Cuộc viễn chinh lần thứ ba (1189-1192).
- Cuộc viễn chinh lần thứ tư (1202-1204).
- Cuộc viễn chinh lần thứ năm (1217-1219).
- Cuộc viễn chinh lần thứ sáu (1228-1229).
- Cuộc viễn chinh lần thứ bảy (1248-1254).
- Cuộc viễn chinh lần thứ tám (1270).


Trong 8 cuộc viễn chinh ấy, rầm rộ hơn cả là cuộc viễn chinh lần thứ nhất
và cuộc viễn chinh lần thứ tư.


<b>a.</b>Cuộc viễn chinh lần thứ nhất (1096-1099):


- Sự hơ hào của Giáo hồng:


Nhận thấy thời cơ xâm lược phương Đông đã thuận lợi, tháng 9-1095,
Giáo hoàng Uyếcbanh II (1088-1099) đã triệu tập một cuộc hội nghị tôn giáo ở
thành phố Clécmông (Pháp) để chuẩn bị viễn chinh.


Tại phiên bế mạc của cuộc hội nghị này, Giáo hồng hơ hào người
phương Tây hãy nhanh chóng đi cứu giúp những người anh em Kitơ giáo ở phương
Đơng, giải phóng mộ Chúa, đuổi bọn tà giáo ấy ra khỏi thế giới của tín đồ Kitơ
giáo.


Đồng thời Giáo hồng cịn nói ở phương Đông “khắp nơi đầy mật và sữa”,
đặc biệt Giêrudalem là trung tâm của mặt đất thì lại càng giàu có, thậm chí đó là
“thiên đường thứ hai”. Vì vậy, “ai ở đây buồn khổ nghèo đói thì đến đó sẽ trở
thành người giàu có”.


Lời kêu gọi của Giáo hồng được mọi người hoan hơ nhiệt liệt. Ngay sau


đó, họ khâu vào áo hình cây thánh giá màu đỏ để biểu thị quyết tâm tham gia
viễn chinh.


- Cuộc viễn chinh của nông dân:


Kế hoạch của Giáo hồng là sang mùa xn năm 1096, đoàn kỵ sỹ Tây
Aâu sẽ bắt đầu lên đường viễn chinh. Nhưng khi quân kỵ sỹ chuẩn bị chưa xong thì
tháng 2-1096 mấy vạn nơng dân Pháp và Đức vội vàng lên đường.


Người cầm đầu đồn qn nơng dân này là một thầy tu ẩn dật người Pháp
tên là Pie Lécmít. Đồn qn nơng dân này thực ra chỉ là một đồn người ơ hợp,
khơng có đội ngũ chỉnh tề, khơng có kỷ luật, khơng có vũ khí lương thực, khơng có
cả hiểu biết về quân sự, thậm chí Giêrudalem ở đâu, cách xa bao nhiêu họ cũng
không hề biết. Họ chỉ biết hướng về phương Đông mà đi.


Dọc đường họ phải cướp bóc để kiếm thức ăn nên đã bị giết chết rất
nhiều. Khi họ vừa đến Tiểu Á liền bị người Tuyếc Xengiúc đánh tan chỉ còn 1/10
trốn thoát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Mãi đến tháng 8-1096, quân kỵ sĩ Tây Aâu mới bắt đầu lên đường. Đến
cuối tháng 4-1097, quân Thập tự đến Tiểu Á. Sau những cuộc giao chiến với người
Tuyếc Xengiúc, quân Thập tự đã lần lượt chiếm được Eâđétxa, Antiốt, Giêrudalem,
Tơripôli rồi thành lập những tiểu quốc theo kiểu các nước phong kiến phương Tây,
trong đó vương quốc Giêrudalem là trung tâm.


Để bảo vệ những nước này, các nước phương Tây đã thành lập các đoàn
kỵ sĩ tơn giáo như đồn kỵ sĩ Y viện, đồn kỵ sĩ Đền miếu, đồn kỵ sĩ Tơtơn.


Thành viên của những tổ chức này vừa là kỵ sĩ vừa là tu sĩ. Tuy về danh
nghĩa thì như vậy, nhưng trong thực tế, bằng các biện pháp chiến tranh cướp bóc,


bn bán…họ cũng trở thành những kẻ hết sức giàu có.


Sự thống trị tàn bạo của bọn phong kiến Tây Aâu làm cho nhân dân địa
phương luôn luôn nổi dậy phản kháng nên các quốc gia này không ổn định.


<b>b.</b>Cuộc viễn chinh lần thứ tư (1202-1204):


Năm 1187, Giêrudalem bị Xuntan (vua) Ai Cập là Xalađin chiếm, đoàn
quân Thập tự phương Tây do vua của 3 nước Đức, Pháp, Anh chỉ huy đã tiến hành
cuộc viễn chinh lần thứ ba nhưng không thu được kết quả gì đáng kể, Giêrudalem
vẫn thuộc về Ai Cập, vì vậy Giáo hồng La Mã lại phát động cuộc viễn chinh lần
thứ tư.


Theo kế hoạch của Giáo hồng thì mục tiêu của cuộc viễn chinh này là
Ai Cập, vì nếu đánh bại được Ai Cập thì sẽ chiếm được Giêrudalem.


Để thực hiện kế hoạch, quân Thập tự phải thuê thương nhân Vênêxia
dùng thuyền của họ để chở quân Thập tự đến Ai Câp.


Trong khi quân Thập tự đang chuẩn bị thì Thái tử lưu vong của Bidantium
yêu cầu quân Thập tự sang Côngxtăngtinốp để khôi phục ngôi vua cho Hoàng đế
Bidantium bị lật đổ.


Tháng 7-1203, quân Thập tự đổ bộ lên Cơngxtăngtinốp, đến tháng 4-1204
thì tấn công và chiếm được thành phố này rồi thẳng tay cướp bóc, tàn sát, đốt phá.


Sau khi chiếm được Cơngxtăngtinốp, qn Thập tự khơng muốn đi giải
phóng đất thánh Giêrudalem nữa. Trên 3/8 lãnh thổ của Bidantium đã chiếm được
quân Thập tự lập một quốc gia mới gọi là “đế quốc La Tinh”.



Thương nhân Vênêxia cũng được chia 3/8 đất đai của đế quốc Bidantium.
Người Bidantium chỉ cịn lại vùng ven biển Ađriatíc và phần đất đai ở
Tiểu Á trên vùng đất còn lại ấy họ lập 2 nước nhỏ Eâpia và Nixê.


Năm 1261, đế quốc Latinh bị Nixê đánh bại. Đế quốc Bidantium được
khôi phục.


<b>c.</b>Cái gọi là “cuộc viễn chinh nhi đồng”:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

nên không thể thực hiện được sứ mạng thiêng liêng giải phóng mộ Chúa mà chỉ có
trẻ em trong trắng mới hồn thành được nhiệm vụ đó.


Năm 1212, một em bé mục đồng người Pháp 12 tuổi tự xưng là “sứ giả
của Chúa”, được Chúa cử làm người chỉ huy đội quân nhi đồng đi giải phóng đất
Thánh.


Sau 3 tháng, 30.000 trẻ em Pháp đã tập hợp ở Mác-xây để xuống thuyền
đi Palextin nhưng một số bị chết vì đắm thuyền số cịn lại bị chở sang Ai Cập bán
làm nơ lệ.


Tiếp đó, 20.000 trẻ em Đức cũng được đưa đến Nam Ý. Do sự can thiệp
của chính quyền địa phương các em được đưa về Đức, nhưng phần lớn đã bị chết
trên đường đi về.


Sau đó cịn có bốn cuộc viễn chinh nữa nhưng càng về cuối càng kém rầm
rộ và đều khơng thu được kết quả gì.


Như vậy, phong trào viễn chinh Thập tự kéo dài gần hai thế kỷ đã thất bại
hồn tồn.



<b>3.Hậu quả : </b>


<b>a.</b>Hậu quả trực tiếp:


- Tịa thánh La Mã khơng thực hiện được mục đích mở rộng thế lực của


Giáo hội Thiên Chúa sang phương Đông, trái lại sự tàn bạo của quân Thập tự càng
làm cho Giáo hội và Giáo hồng mất uy tín.


- Giai cấp phong kiến khơng đạt được mục đích chiếm đất đai để thành lập


lãnh địa.


- Thương nhân Vênêxia thu được nhiều chiến lợi phẩm và giành được


quyền lũng đoạn việc bn bán ở phương Đơng.


- Nông dân phương Tây và cư dân phương Đông phải chịu rất nhiều thảm


họa.


<b>b.</b>Hậu quả khách quan :


- Về kinh tế, do giành được quyền lũng đoạn trong việc buôn bán ở vùng


Đông Địa Trung Hải, số lượng hàng hóa của phương Đơng được chở sang phương
Tây nhiều hơn trước. Vì vậy, nhiều thành phố ở Ý, Nam Pháp, Tây Ban Nha đã phát
triển nhanh chóng.


Ngồi ra, nhiều nghề mới như nghề làm giấy, làm thủy tinh, chế tạo thuốc


súng…và nhiều loại nông sản mới như lúa, chanh, dưa hấu… đã được truyền sang
Tây Aâu.


- Về văn hóa, qua tiếp xúc với phương Đông, giai cấp phong kiến Tây Aâu


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

- Về xã hội, phong trào này đã góp phần vào việc làm tan rã chế độ nông


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Bài IV. </b>

<b> NHỮNG(CUỘC PHÁT KIẾN LỚN VỀ ĐỊA LÝ. </b>



<b>I.Nguyên nhân và tiền đề của các cuộc phát kiến địa lý: </b>
<b>1.Nguyên nhân: </b>


Nguyên nhân chủ yếu thúc giục người Tây Aâu tìm đường đến(những nơi
xa lạ là lòng thèm khát vàng. Sở dĩ như vậy là vì đến cuối thế kỷ XV, kinh tế cơng
thương nghiệp ở Tây Aâu phát triển mạnh mẽ, do đó địi hỏi phải có nhiều vàng
bạc để đúc tiền nhằm bảo đảm cho việc lưu thơng hàng hóa.


Lúc bấy giờ theo quan niệm của người Tây Aâu, Aán Độ, Trung Quốc, Nhật
Bản là những nước có rất nhiều vàng nên họ quyết tâm đến bằng được các xứ giàu
có ấy.


Ngồi ra, nhu cầu về hương liệu và các loại hàng cao cấp như tơ lụa, đồ
trang sức…cũng là một động cơ thôi thúc người Tây u phải tìm đường sang
phương Đơng.


Thế nhưng những con đường từ Tây Aâu sang phương Đông mà trước đó
người phương Tây đã đi qua đến thời kỳ này đều khơng an tồn và thuận lợi, vì
vậy họ phải đi bằng đường biển.


<b>2.Tiền đề: </b>



Đến thế kỷ XV, những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện những cuộc
vượt biển xa cũng đã xuất hiện.


- Kiến thức về địa lý : Đến thời kỳ này, ngày càng có nhiều người tán


thành thuyết quả đất hình cầu, các đại dương liền nhau và bao quanh lục địa. Do vậy,
có nhiều người cho rằng từ tây Aâu cứ đi thẳng về hướng Tây, vượt Đại Tây Dương thì
có thể đến bờ Đơng của châu Á.


- Các phương tiện của nghề hàng hải: Thuyền đi biển được người Bồ


Đào Nha cải tiến, đồng thời các đồ dùng cần thiết khác như la bàn, bản đồ biển, dụng
cụ đo vĩ độ cũng được sử dụng rộng rãi.


<b>II.Các cuộc phát kiến lớn : </b>


Trong số các nước Tây Aâu, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha là những nước đi đầu
trong việc tìm đường sang phương Đơng và chính họ đã thu được những kết quả to
lớn. Đó là những phát kiến sau đây:


<b>1.Tìm được con đường biển sang phương Đông: </b>


Từ đầu thế kỷ XV, người Bồ Đào Nha đã từng bước thám hiểm vùng bờ
bển phía Tây châu Phi và đã phát hiện được nhiều vùng đất mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Mười năm sau (1497), Vaxcô Đơ Gama được giao nhiệm vụ chỉ huy 4
thuyền với 168 thủy thủ đã vượt qua mũi Hảo Vọng và đến được Calicút ở Tây
Nam Aán Độ vào ngày 20-05-1498. Sau khi tranh thủ vơ vét hương liệu và đồ trang
sức với giá rẻ, ngày 31-08-1498, Gama rời khỏi Aán Độ và gần một năm sau, ngày


10-07-1499, đoàn thám hiểm của Gama với số thủy thủ khơng đầy một nửa về tới
Lixbon.


Từ đó, con đường biển do người Bồ Đào Nha phát hiện trở thành con
đường thông thương chủ yếu giữa Tây Aâu và Viễn Đông trong gần ba thế kỷ, cho
đến năm 1869, khi kênh đào Xuy-ê hồn thành thì mới khơng sử dụng nữa.


<b>2.Phát hiện châu Mỹ: </b>


Người tình cờ phát hiện ra châu Mỹ là Críxtốp Cơlơng (1451-1506), một nhà
hàng hải người Ý. Từ lâu, ông đã ấp ủ kế hoạch đi sang phương Đông bằng hướng
Tây vì ơng cho rằng đó là con đường gần nhất.


Mãi đến năm 1492, ông mới được quốc vương Phécđinan và nữ hoàng
Ixabenla của Tây Ban Nha chấp nhận kế hoạch đó và cấp cho ơng những phương
tiện cần thiết cho cuộc hằnh trình.


Ngày 3-8-1492, đồn thám hiểm của Cơlơng gồm 3 chiếc thuyền với 9 thủy
thủ rời Tây Ban Nha tiến thẳng về hướng Tây. Sau 70 ngày lênh đênh trên Đại
Tây Dương, đồn thám hiểm của Cơlơng đến một hịn đảo trong quần đảo
Bahama mà ơng gọi là đảo Xan Xanvađo. Oâng đi tiếp về hướng Nam và phát hiện
được nhiều đảo nhỏ khác, đến cuối năm 1492 thì đặt chân lên đảo Cuba và đảo
Ha-i-ti. Đầu năm 1493, Côlông trở về Tây Ban Nha.


Sau đó, Cơlơng cịn tiến hành 3 cuộc thám hiểm nữa vào các năm
1493-1496, 1498-1500, 1502-1504. Trong những lần thám hiểm này, ông đã phát hiện
được nhiều đảo mới và đã thăm dò vùng bờ biển Trung Mỹ và phía Bắc của Nam
Mỹ.


Năm 1506, Cơlơng chết, nhưng cho đến giờ phút cuối của đời mình ơng cứ


đinh ninh đất đai mình tìm thấy là Aán Độ, do vậy cư dân ở đó được gọi là người
Anh Điêng (người Aán Độ).


Cũng khoảng thời gian đó, một người Ý khác là Amêrigô Véxpuxi
(1454-1512) từ năm 1449-1504, dưới lá cờ của Bồ Đào Nha đã thám hiểm vùng bờ biển
Nam Mỹ. Sau đó, ơng nói rằng vùng đất này là một lục địa mới. Do vậy, năm
1507, lục địa mới này được gọi bằng tên của ông, tức là Amêrigô hoặc Amêricơ
(Amérique), ta quen gọi là châu Mỹ.


<b>III.Cuộc hành trình vịng quanh trái đất: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Ngày 20-09-1519, với 5 chiếc thuyền và 237 thủy thủ, đoàn thám hiểm
của Magienlăng bắt đầu xuất phát. Mãi đến ngày 20-11-1520, Magienlăng mới
đến được eo biển cực Nam châu Mỹ. Sau khi vượt eo biển này, đoàn thuyền
Magienlăng tiến vào một đại dương mênh mông. Tuy vậy, trong hơn 3 tháng ,
đoàn thám hiểm được đi trong cảnh trời êm biển lặng. Vì vậy, ơng gọi đại dương
này là Thái Bình Dương.


Tháng 3-1521, đồn thám hiểm đến quần đảo Philíppin, nhưng đến ngày
7-4-1521, Magienlăng bị giết chết trong một cuộc xung đột với dân bản xứ.


Ngay sau đó thuyền trưởng En Canơ chỉ huy chiếc thuyền còn lại cuối
cùng đi vòng quanh châu Phi, đến ngày 6-9-1522, họ về đến Tây Ban Nha. Như
vậy, trong gần 3 năm Magienlăng và En Canô lần đầu tiên trong lịch sử lồi người
đã đi một vịng xung quanh trái đất. Bằng thực tế, cuộc hành trình đã chứng minh
rằng thuyết trái đất hình cầu là hồn tồn đúng đắn.


<b>IV.Hậu quả: </b>


<b>1.Chính sách thực dân của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha: </b>



Sau khi phát hiện được châu Mỹ và đang từng bước tìm con đường biển
sang phương Đông, hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã đàm phán với nhau
để chia đôi trái đất. Theo hiệp ước đầu tiên ký năm 1493, từ đường kinh tuyến
cách bờ biển Tây Phi 100 dặm về phía Đơng thuộc phạm vi hoạt động của Bồ Đào
Nha, từ đó về phía Tây thuộc Tây Ban Nha.


Trong phạm vi của mình, từ đầu thế kỷ XV, Bồ Đào Nha đã chiếm được
nhiều cứ điểm ở Tây Phi, Aán Độ, một số đảo thuộc Inđônêxia. Năm 1517, người
Bồ Đào Nha đến Trung Quốc và đến năm1557 thì chiếm được Aùo Môn (Macao).
Năm 1543, thuyền buôn của Bồ Đào Nha chính thức đến Nhật Bản.


Cịn Tây Ban Nha, sau khi chiếm được các đảo bờ biển Caribê đã đẩy
mạnh việc chinh phục miền Trung và Nam Mỹ làm thuộïc địa. Tại những nơi đã
chiếm được, người Tây Ban Nha vừa cướp bóc vừa khai thác các mỏ vàng bạc và
thành lập đồn điền.


Do người bản xứ bị tàn sát rất nhiều nên người Tây Ban Nha đã sang
châu Phi bắt rất nhiều người da đen đưa sang châu Mỹ bán làm nô lệ.


<b>2.Hậu quả kinh tế đối với Tây Âu: </b>


Do chính sách bn bán bịp bợm, cướp bóc và khai thác ở các vùng đất
mới, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã chở về Tây Aâu rất nhiều vàng bạc và các
loại sản phẩm có giá trị của phương Đơng và châu Mỹ. Tình hình đó đã đã dẫn
đến <i>cuộc cách mạng thương nghiệp và cuộc cách mạng giá cả </i>ở Tây Aâu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Đồng thời, do số vàng khai thác được tăng gấp 5 lần và số lượng tiền đúc
bằng vàng bạc nhiều gấp 4 lần so với trước nên giá trị của đồng tiền bị giảm, giá
cả hàng hóa tăng vọt.



Tình hình đó làm cho những người làm th lấy tiền công và những địa
chủ phong kiến thu địa tô bằng tiền theo hợp đồng dài hạn bị thiệt hại rất lớn.


Trái lại, các nhà tư sản mới ra đời ở thành thị và nơng thơn là có lợi nhât
vì họ th được nhân cơng với gía rẻ mạt nhưng lại bán được sản phẩm với giá
không ngừng tăng lên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b>Bài V. </b>

<b>SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN Ở TÂY ÂU. </b>



Từ thế kỷ XIV,XV, những nhân tố lẻ tẻ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện trong
các thành thị ở Ý, ở vùng sông Ranh và ở Nêđéclan, nhưng đến đầu thế kỷ XVI,
chủ nghĩa tư bản mới thật sự ra đời và tồn tại phổ biến ở Tây Aâu.


<b>I.Những tiền đề của sự ra đời của chủ nghĩa tư bản: </b>


Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là do 2 điều kiện có trước sau đây:
<b>1.Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa: </b>


Đến thế kỷ XVI, công nông thương nghiệp ở Tây Aâu đều có bước phát
triển rất lớn so với trước.


- <i>Về thủ công nghiệp: </i>Đến thời kỳ này có những tiến bộ đáng kể về kỹ


thuật mà trước hết là việc sử dụng sức nước làm nguồn năng lượng. Nhờ vậy các
nghề khai mỏ, luyện kim, dệt len dạ v.v…đều phát triển nhanh chóng về năng suất
lao động cũng như về chất lượng sản phẩm.


- <i>Vềnông nghiệp: </i> Nhờ sự tiến bộ trong công nghiệp nên trong nông nghiệp



đã được sử dụng nhiều loại cơng cụ hồn thiện, do đó diện tích canh tác được mở
rộng và năng suất cây trồng cũng tăng lên.


- <i>Về thương nghiệp:</i> Do sự phát triển của thủ công nghiệp và nông nghiệp,


số lượng hàng hóa được đem bán ở thị trường ngày càng tăng. Hơn nữa, nhờ những
tiến bộ mới trong nghề hàng hải, nên khối lượng hàng hóa đem về Tây Aâu càng
nhiều và phạm vi buôn bán cũng càng mở rộng đến tận những nơi xa xơi.


<b>2.Q trình tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản: </b>


Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa là điều kiện cơ bản để dẫn đến sự
ra đời của chủ nghĩa tư bản, nhưng chỉ có kinh tế hàng hóa thì chưa đủ. Muốn có
quan hệ tư bản chủ nghĩa thì cịn phải có một q trình chuẩn bị gọi là q trình
tích lũy vốn ban đầu.


Q trình tích lũy ban đầu là <i>q trình tập trung vốn vào tay một số ít </i>
<i>ngườivà cũng là quá trình tước đoạt tư liệu sản xuất của quần chúng lao động mà </i>
<i>chủ yếu là nông dân nhằm biến họ thành những người làm th. </i>


Q trình tích lũy ban đầu đó được thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong
đó tiêu biểu nhất là <i>phong trào rào đất ở Anh</i> và <i>việc cướp bóc ở thuộc địa</i>.


Lúc bấy giờ, do sự phát triển nhanh chóng của nghề dệt len dạ, nhu cầu
về lông cừu ngày càng tăng và giá cả lông cừu cũng ngày càng đắt. Vì vậy, các
chúa đất đã khoanh những vùng rộng lớn trong đó khơng chỉ có ruộng đất của họ
mà cịn có cả ruộng đất nhà cửa của nông dân và đất hoang mà mọi người cùng
được sử dụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Song song với biện pháp trên là việc cướp bóc tài nguyên kể cả bản thân


con người ở những vùng mới phát hiện. Những của cải chiếm đoạt được ở những
nơi này được đưa về chính quốc và biến thành tư bản.


Như vậy, trong hai biện pháp ấy, biện pháp thứ nhất đem lại kết quả chủ
yếu là tạo nên tầng lớp vô sản đông đảo phải làm thuê cho các nhà tư bản, còn kết
quả chủ yếu của biện pháp thứ hai là tích lũy tiền vốn một cách nhanh chóng.


<b>II.Sự ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa: </b>


<b>1.Các hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong cơng nghiệp: </b>


Hình thức sản xuất mang tính chất tư bản chủ nghĩa đầu tiên trong lĩnh
vực công nghiệp là công trường thủ công. Công trường thủ công gồm hai loại là
công trường thủ công phân tán và công trường thủ công tập trung.


<b>a.</b>Câông trường thủ công phân tán:


Sự xuất hiện công trường thủ công phân tán thường gắn liền với hoạt
động của lái buôn bao mua. Những lái buôn này đem nguyên liệu đến bán hoặc
ứng trước cho thợ thủ cơng rồi sau đó thu mua sản phẩm với giá đã thỏa thuận. Về
sau, thợ thủ công không những chỉ vay nguyên liệu mà còn phải dựa vào lái buôn
bao mua để được trang bị công cụ lao động nên phải giao nộp toàn bộ sản phẩm
cho lái buôn bao mua và được nhận một khoản thù lao nhất định.


Trong q trình đó, người thợ thủ cơng vẫn làm việc tại nhà mình, nhưng
vì phải làm việc theo yêu cầu của lái buôn bao mua, nên thực tế họ đã được tổ
chức thành một tập đồn sản xuất trong đó họ đã trở thành người làm thuê và bị
bóc lột giá trị thặng dư, cịn lái bn bao mua thì thực tế đã trở thành những ơng
chủ xí nghiệp.



<b>b.</b>Cơng trường thủ công tập trung:


Công trường thủ công tập trung chủ yếu do những người thợ thủ công khá
giả thành lập. Nhờ tích lũy được một số vốn nhất định, họ đã mở rộng quy mô
công xưởng của mình rồi thu hút những người thợ thủ cơng khơng có tư liệu sản
xuất vào làm việc.


Với hình thức cơng trường thủ cơng tập trung, người ta có thể thực hiện
các khâu như phân công lao động, quản lý giờ giấc và tinh thần làm việc, cải tiến
cơng cụ sản xuất v.v…, do đó năng suất lao động và chất lượng sản phẩm đều
tăng lên hết sức rõ rệt.


Quy mô các công trường thủ cơng tập trung thời kỳ này cịn rất bé, chỉ có
những xí nghiệp thuộc một số ngành như khai mỏ, luyện kim, đóng thuyền, chế tạo
vũ khí, v.v…mới có 100 cơng nhân trở lên. Tuy vậy, cơng trường thủ công tập
trung đã thể hiện khuynh hướng tiến tới nền sản xuất lớn, đồng thời đã đặt cơ sở
về tổ chức cho việc thành lập nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa sau này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

cho đến thế kỷ XVIII, XIX tức là khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở các
nước Tây Aâu mới kết thúc.


<b>2.Các hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp: </b>


Sự phát triển nhanh chóng của cơng trường thủ cơng địi hỏi phải có
nguồn nguyên liệu dồi dào, đồng thời sự tăng lên không ngừng của cư dân thành
thị đã tạo nên nhu cầu ngày càng lớn về lương thực, thực phẩm.


Tình hình ấy đã lơi cuốn nơng nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng
hóa và do đó đã tạo điều kiện cho quan hệ tư bản chủ nghĩa thâm nhập vào lĩnh
vực nông nghiệp.



Những nhân tố tư bản chủ nghĩa ấy được thể hiện dưới các hình thức sau
đây:


<b>a.</b>Trang trại của phú nông:


Do tham gia vào việc sản xuất hàng hóa, một số ít nơng dân trở nên giàu
có. Họ tìm mọi cách mở rộng đất đai của mình rồi thuê cố nông (tức là những
nông dân bị phá sản) vào làm việc.


<b>b.</b>Nông trang của địa chủ phong kiến:


Trước tình hình thị trường ngày càng có nhu cầu lớn về các mặt hàng
nông sản, môt số địa chủ phong kiến đã thay đổi cách bóc lột. Họ không phát canh
thu tô nữa mà thuê cố nông vào làm việc trên đất đai của họ.


Như vậy, phương thức bóc lột của họ khơng cịn mang tính chất phong
kiến nữa và bản thân họ đã trở thành tầng lớp q tộc mới có lợi ích gắn liền với
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.


<b>c.</b>Đồn điền của các nhà tư sản nông nghiệp:


Ruộng đất đồn điền vốn thuộc quyền sở hữu của các lãnh chúa phong
kiến mà các nhà tư sản nông nghiệp đã thuê được bằng những hợp đồng dài hạn.
Sau khi thuê đất, những ông chủ mới này thuê công nhân nông nghiệp đến làm
việc.


Do việc sử dụng ruộng đất có sự thay đổi như vậy nên cơ cấu giai cấp
cũng thay đổi: quan hệ <i>lãnh chúa – nông nô </i>trước kia được thay thế bằng quan hệ
<i>lãnh chúa- chủ đồn điền- công nhân nông nghiệp</i> . Đồng thời khoản tiền thuê đất


mà chủ đồn điền nộp cho lãnh chúa khơng cịn mang tính địa tơ phong kiến nữa
mà là <i>địa tơ tư bản chủ nghĩa </i>vì nó được trích ra trong số giá trị thặng dư mà chủ
đồn điền bóc lột được của công nhân nông nghiệp.


<b>III.Sự ra đời của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<b>1.Giai cấp tư sản : </b>


Là giai cấp của những người có trong tay nhiều tư liệu sản xuất, trên cơ sở
đó, họ sử dụng sức lao động làm thuê.


Tổ tiên của họ là những nông nô ở nông thôn. Sau khi chạy ra thành thị,
những người này đã biến thành thị dân rồi dần dần do làm ăn phát đạt mà trở
thành tư sản. Những nhà tư sản đầu tiên là những ông chủ công trường thủ công .
<b>2.Giai cấp vô sản: </b>


Là giai cấp những công nhân làm thuê. Họ tuy là những người tự do
nhưng vì khơng có tư liệu sản xuất nên buộc phải bán sức lao động của mình để
sống.


Nguồn gốc của giai cấp vô sản là những người thợ bạn, những người thợ
thủ công phá sản và những nông dân bị tước đoạt ruộng đất phải chạy ra thành thị.


Đời sống của công nhân lúc bấy giờ vô cùng cực khổ, họ phải làm việc 15
giờ một ngày, tiền lương ít ỏi, lại thường bị cúp phạt, giá cả thì tăng vọt. Vì vậy,
tuy mới ra đời, lực lượng còn non yếu, nhưng họ đã thường nổi dậy đấu tranh
chống lại sự đối xử tàn tệ của chủ xưởng.


<b>IV.Aûnh hưởng của chủ nghĩa tư bản với chế độ phong kiến: </b>
<b>1.Về kinh tế xã hội : </b>



Tuy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ mới cung cấp một bộ phận nhỏ
trong toàn bộ sản phẩm xã hội nhưng đó là những sản phẩm thuộc các lĩnh vực đặc
biệt quan trọng như các loại khống sản, cơng cụ lao động phức tạp, vũ khí, tàu
thuyền, len dạ v.v…


Đồng thời, do sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, những hình thức sản
xuất mang tính chất phong kiến cũng ngày càng bị chủ nghĩa tư bản chi phối mạnh
mẽ. Hình thức tơ tiền ngày càng được áp dụng phổ biến, nhiều lãnh chúa chuyển
sang kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ nghĩa .


<b>2.Về chính trò: </b>


Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến sự xuất hiện một hình thức
mới của nhà nước phong kiến, đó là chế độ quân chủ chuyên chế. Sở dĩ như vậy là
vì lúc bấy giờ giai cấp tư sản chưa đủ khả năng giành chính quyền nên tích cực
ủng hộ nhà vua để loại trừ các thế lực cát cứ, duy trì sự thống nhất đất nước, bảo
đảm những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa .


Tuy nhiên, hình thức nhà nước quân chủ chuyên chế đó chỉ là biểu hiện
của sự liên minh tạm thời giữa giai cấp tư sản và vương quyền mà thôi. Đến khi
giai cấp tư sản đã đủ mạnh thì việc lật đổ chính quyền phong kiến là điều không
thể tránh khỏi.


<b>3.Về văn hóa tư tưởng: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

hãm tư tưởng con người. Dưới sự chỉ đạo của hệ tư tưởng ấy, ở Tây Aâu đã diễn ra
phong trào văn hóa phục hưng và phong trào cải cách tôn giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>Bài VI. </b>

<b> PHONG TRÀO CẢI CÁCH TÔN GIÁO </b>




<b>I.Nguyên nhân chung: </b>


- Thời trung đại, giáo hội Thiên Chúa là trụ cột của chế độ phong kiến ở


Tây Âu. Ngồi quyền uy về tơn giáo, giáo hội có quyền can thiệp vào cơng việc của
các nước. Giáo hồng đã nhiều lần hơ hào và tổ chức các đội quân Thập tự để xâm
lược phương Đông hoặc đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở phương Tây.


- Về kinh tế, bản thân giáo hội là một thế lực phong kiến lớn chiếm


khoảng 1/3 ruộng đất của các nước theo đạo Thiên Chúa. Đồng thời giáo hội còn
được quyền thu thuế 1/10 đối với tín đồ ở các nước. Ngồi ra, giáo hội cịn dùng
nhiều hình thức khác như bán các vật thiêng, giấy miễn tội … để tăng thêm của cải.


- Về văn hóa tư tưởng, giáo hội nắm quyền lũng đoạn hồn tồn trong 10


thế kỷ, do đó tư tưởng tình cảm của con người hồn tồn bị hạn chế, văn hóa bị kìm
hãm khơng phát triển được.


- Tầng lớp giáo sĩ được thần thánh hóa, nhưng trong thực tế các giáo sĩ cấp


cao ở Tịa thánh La Mã thường kiến thức có hạn, lười biếng và thiếu nghiêm túc
trong việc thực hiện các quy chế của giáo hội.


<b>II.Các cuộc cải cách tôn giáo: </b>


Trước tình hình ấy, từ thế kỷ XIV ở Anh đã có Uy-clíp (1320-1384) đã lên
tiếng địi cải cách giáo hội, sang đầu thế kỷ XV, Ian Hút (1369-1415) ở Séc (Tiệp)
cũng chủ trương cải cách giáo hội, nhưng hoạt động của họ chưa có kết quả.



Đến nửa đầu thế kỷ XVI, khi chủ nghĩa tư bản ra đời phổ biến ở Tây Aâu,
phong trào cải cách mới thực sự diễn ra ở Đức, Thụy Sỹ và Anh.


<b>1.Cải cách tôn giáo ở Đức: </b>


Người đề xướng cải cách tôn giáo ở Đức là Máctin Luthơ (1483-1546),
giáo sư thần học ở trường Đại học Vitenbe.


Năm 1517, giáo hồng Lêơng X cử các giáo sĩ đi bán giấy miễn tội khắp
mọi nơi ở Đức. Một giáo sĩ đã rao rằng: “Ai muốn cứu linh hồn một người nào đó
ở địa ngục thì hãy bỏ tiền vào hịm bạc. Khi tiếng những đồng tiền kêu leng keng
dưới đáy hịm thì linh hồn người đó lập tức bay lên thiên đường.”


Nhân khi quần chúng đang căm ghét hành vi trơ trẽn đó, ngày
31-10-1517, Luthơ dán bản<i>”Luận cương 95 điều”</i> ở trước cửa nhà thờ của trường Đại học
Vitenbe, trong đó chứa đựng tư tưởng cải cách tơn giáo của ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

- Căn cứ của lòng tin vào Chúa là Kinh Phúc Aâm.
- Thành lập giáo hội rẻ tiền.


Như vậy, Luthơ đã đả kích mạnh mẽ vào địa vị độc tơn của Giáo hồng,
phủ nhận vai trò của giáo sĩ, phản đối việc giáo hội chiếm nhiều ruộng đất, chủ
trương bỏ các nghi lễ phiền phức như thờ ảnh tượng, quỳ lạy, làm dấu…


Năm 1555, tôn giáo cải cách của Luthơ được chính thức cơng nhận có địa
vị hợp pháp và được truyền bá ở Bắc Đức, Nauy, Đan Mạch, Thụy Điển…


<b>2.Cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ: </b>



Phong trào các tôn giáo ở Thụy Sĩ trải qua hai giai đoạn do hai người lãnh
đạo ở hai nơi khác nhau.


<b>a.</b>Cuộc cải cách tôn giáo của Dvingli ở Durích:


Dvingli (1484-1531) là giáo sĩ ở nhà thờ Durích. Tư tưởng cải cách tôn
giáo của Dvingli cũng là:


- Căn cứ của học thuyết tôn giáo là Kinh Phúc Aâm chứ không phải là


những chiếu chỉ của Giáo hoàng.


- Thành lập giáo hội rẻ tiền, bỏ việc thờ ảnh tượng và các nghi lễ phiền


phức.


Về chính trị, ơng tán thành chế độ cộng hịa.


Năm 1222, việc cải cách tôn giáo bắt đầu được tiến hành ở Durích, tiếp
đó đã nhanh chóng lan sang các châu khác ở Thụy Sĩ.


Năm 1531, Dvingli bị tử trận trong cuộc chiến tranh với các châu chống
cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ nên phong trào cải cách tôn giáo bị bỏ dở.


<b>b.</b>Cuộc cải cách tôn giáo của Canvanh ở Giơnevơ:
Canvanh (1519-1564) là một người Pháp.


Hạt nhân của học thuyết Canvanh là thuyết định mệnh tức là số phận của
mội người hoàn toàn do Chúa trời quyết định. Sở dĩ như vậy là vì khi sáng tạo thế
giới Chúa trời đã chia loài người làm hai loại là “dân chọn lọc” và “dân vứt bỏ”.


Dân chọn lọc thì được sung sướng và được cứu vớt, còn dân vứt bỏ thì cực khổ và
sau khi chết sẽ bị đày đọa ở địa ngục.


Như vậy, về mặt tôn giáo, thuyết định mệnh phủ nhận vai trò của tầng lớp
giáo sĩ và tác dụng của các nghi lễ của đạo Thiên Chúa. Về mặt xã hội, học
thuyết này che giấu bản chất bóc lột của những kẻ giàu có và nguyên nhân thật sự
của sự nghèo khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Giáo hội Tân giáo Canvanh được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ. Giáo
hội các cấp đều được thành lập qua các cuộc bầu cử.


Từ Giơnevơ, Tân giáo Canvanh được truyền bá nhanh chóng sang nhiều
nước châu Aâu nhất là những nơi có nền kinh tế cơng thương nghiệp phát triển như
Nêđéclan, Anh, Pháp …


<b>c.</b>Cải cách tôn giáo ở Anh:


Người chủ trương cải cách tôn giáo ở Anh là vua Henry VIII (1509-1547).
Lý do trực tiếp của việc cải cách tôn giáo ở Anh là do Henry VIII muốn ly hôn với
vợ là Catơrin vốn là công chúa Tây Ban Nha nhưng bị Giáo hoàng phản đối. Vì
vậy, năm 1534, Henry VIII tuyên bố cắt đứt quan hệ với Tồ thánh La Ma, từ đó
nhà vua trở thành người đứùng đầu giáo hội. Giáo lý, lễ nghi và giáo sĩ vẫn được
duy trì như cũ nhưng ruộng đất và tài sản của nhà thờ thì bị tịch thu.


Tơn giáo cải cách ở Anh gọi là Anh giáo.


Đến cuối thế kỷ XVI, giai cấp tư sản Anh không thỏa mãn với cải cách
nửa vời đó nên đã tiếp thu Tân giáo Canvanh lập thành phái tôn giáo cải cách ở
Anh gọi là Thanh giáo. Tôn giáo mới này chủ trương bãi bỏ các giáo phẩm cũ, đơn
giản trong việc cúng lễ, thành lập giáo hội theo nguyên tắc dân chủ.



Như vậy, đến thế kỷ XVI, ở Tây Aâu đã xuất hiện ba phái tôn giáo cải
cách là Luthơ giáo, Canvanh giáo và Anh giáo. Tôn giáo Luthơ và tơn giáo
Canvanh có những chủ trương cụ thể khác nhau nhưng cùng giống nhau ở mấy
điểm chính sau:


- Chỉ tin tưởng vào Kinh thánh, không tin vào các chiếu chỉ của


Giáo hoàng và các quyết nghị của hội nghị tôn giáo.


- Không thờ Thánh mẫu và ảnh tượng. Đơn giản hóa các nghi thức


cúng lễ, chỉ giữ lại lễ rửa tội và Thánh thể.


- Xóa bỏ chế độ độc thân đối với các mục sư và cho tín đồ được


tham gia quản lý giáo hội.


Ở nước ta, các tơn giáo cải cách này được gọi là đạo Tin lành.


<b>III.Những hoạt động chống cải cách tôn giáo của giáo hội Thiên Chúa: </b>
<b>1.Những quyết nghị của hội nghị tôn giáo Tơrentê; </b>


Để tìm biện pháp củng cố thế lực của giáo hội Thiên Chúa và chống cải
cách tôn giáo, Giáo hồng đã ba lần triệu tập hội nghị tơn giáo Tơrentê (Bắc Ý)
vào các năm 1545-1547, 1551-1552 và 1562-1563, trong đó các quyết nghị của hội
nghị lần thứ ba là quan trọng nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>a.</b><i>Chỉnh đốn nội bộ</i>: Giáo hội yêu cầu các giáo sĩ phải nghiêm chỉnh chấp hành
các qui chế của giáo hội như phải sống độc thân, cấm mua bán chức vụ… ,


đồng thời mở trường huấn luyện các linh mục để bồi dưỡng thêm kiến thưc cho
họ.


<b>b.</b> <i>Nhượng bộ các vua Thiên Chúa giáo: </i>Giáo hội thừa nhận việc thế tục hóa
một phần tài sản của giáo hội, đồng thời đồng ý cho các quốc vương có quyền
kiểm sốt việc bổ nhiệm các chức vụ trong giáo hội nhằm lôi kéo các quốc
vương ấy phối hợp với giáo hội để chống phe Tân giáo.


<b>c.</b><i>Kiên quyết chống lại Tân giáo:</i> Giáo hội Thiên Chúa khẳng định giáo lý và
nghi lễ của đạo Thiên Chúa là hoàn toàn đúng đắn, đồng thời khẳng định Giáo
hồng là kẻ có quyền uy cao nhất trong giáo hội, còn các loại Tân giáo đều là
tà giáo.


Ngồi ra, hội nghị Tơrentê cịn quyết định thành lập một cơ quan theo dõi
các thư tịch mới xuất bản để lập những bản “mục lục sách cấm”. Đồng thời, giáo
hội cịn thành lập tịa án tơn giáo tối cao ở La Mã để trừng trị những kẻ bị kết tội
phản bội tôn giáo.


<b>2.Hoạt động của Hội Giêxu (Dòng Tên): </b>


Hội Giêxu lúc đầu là một tổ chức tự phát do một quý tộc Tây Ban Nha
tên là Inhaxơ đơ Lô-y-ô-la ((1491-1556) lập ra ở Pari năm 1534. Đến năm 1540,
Hội Giêxu được Giáo hồng phê chuẩn, từ đó, Hội chính thức trở thành một công
cụ đắc lực của Giáo hội Thiên Chúa trong việc chống Tân giáo.


Người đứng đầu Hội Giêxu là Tổng quản.


Thành viên của Hội là những tín đồ trung thành nhất của đạo Thiên
Chúa. Với tư cách là những chính khách, nhà giáo, thầy thuốc ..., họ lăn mình vào
rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong xã hội.



Mục tiêu của họ là lôi kéo các vua Cựu giáo thi hành những chính sách
cứng rắn đối với Tân giáo, trừ khử những ông vua có cảm tình với Tân giáo.


Hội Giêxu chú ý mở trường đào tạo Linh mục, mở trường học, lập nhà
thương làm phúc, kinh doanh công nông thương nghiệp để tạo cơ sở cho các hoạt
động tôn giáo, và phái các giáo sĩ đi truyền đạo Thiên Chúa khắp thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>Bài VII. </b>

<b> SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TỪ PHÂN </b>



<b>QUYỀN ĐẾN TẬP QUYỀN Ở PHÁP </b>



<b>I.Quá trình thống nhất nước Pháp : </b>


<b>1.Tình trạng chia cắt phong kiến từ thế kỷ IX – XI: </b>


Nước Pháp chính thức thành lập từ năm 843 sau hiệp ước Vécđoong.
Dòng họ Carôlanhgiêng tiếp tục làm vua ở đây đến năm 987. Tiếp đó, triều
Capêchiêng (987-1328) thay thế.


Do chính sách phân phong ruộng đất cho các bồi thần, và do Sáclơ Hói
ban bố sắc lệnh Kiécxi (năm877) cho bồi thần được truyền thái ấp (Bênêphixơ) và
chức tước cho con cháu nên đã dẫn đến tình trạng chia cắt nước Pháp thành nhiều
tiểu quốc. Vua Pháp chỉ còn quản lý được một lãnh địa hẹp xung quanh Pari mà
thơi.


Trong hồn cảnh đó, do quan hệ hôn nhân và kế thừa, một phần lãnh thổ
rộng lớn ở phía Tây chạy dài từ biển Măng sơ đến dãy Pirênê trở thành lãnh địa
của vương triều Plăngtagiơnê của Anh. Vùng đất đai này rộng gấp 7 lần lãnh địa
của vua Pháp .



<b>2.Những nỗ lực của vua Pháp trong công cuộc thống nhất đất nước: </b>


Từ đầu thế kỷ XII, các vua Pháp như Lu-y VI, Philíp II, Lu-y IX, Philíp
IV đã thi hành nhiều biện pháp để đề cao vương quyền, tiến tới thống nhất nước
Pháp. Các biện pháp đó là:


<b>a.</b>Mở rộng lãnh thổ:


- Lu-y VI (1108-1137) dựa vào giáo hội Thiên Chúa và thị dân để bắt các


laõnh chúa trong lãnh địa của mình phải khuất phục.


- Philíp II (1180-1223) nhân khi ở Anh đang diễn ra sự tranh giành ngôi


vua (Giôn giành ngôi của anh mình là Risớt “Tim sư tử”) đã đánh chiếm được phần
lớn đất đai của Anh trên lãnh thổ của Pháp.


- Philíp IV (1285-1314) qua quan hệ hơn nhân sáp nhập được vương quốc


Nava và bá quốc Sampanhô.


Như vậy, đến đầu thế kỷ XIV, phần lớn đất đai ở Pháp đã thuộc quyền
thống trị của vua Pháp.


<b>b.</b>Cải cách các chế độ:


- Phi-líp II chia đất nước thành nhiều đơn vị hành chính rồi bổ nhiệm quan


lại đến cai trị.



- Lu-y IX (1226-1270) cải cách về tư pháp, tài chính và quân sự để làm


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>c.</b>Đấu tranh với tòa thánh La Mã:


- Nguyên nhân trực tiếp : Philíp IV thu thuế ruộng đất của giáo hội ở Pháp.


Năm 1296, Giáo hồng Bơniphaxơ VIII ra lệnh khai trừ giáo tịch những ai đòi các
giáo sĩ phải nộp thuế.


- Philíp IV ra lệnh bắt sứ giả của Giáo hồng đóng ở Pháp, đồng thời sai


người sang Ý bắt giam Giáo hoàng. Năm 1303, Giáo hoàng Bôniphaxơ VIII phần tuổi
già sức yếu, phần uất ức mà chết.


Năm 1305, Tổng giám mục Bcđơ (Pháp) được cử làm Giáo hoàng hiệu
là Clêmăng V. Năm 1309, Clêmăng V dời tịa thánh về Avinhơng ở Đơng Nam
nước Pháp và đóng ở đó đến năm 1377.


<b>d.</b>Triệu tập hội nghị ba cấp :


Để phê chuẩn các loại thuế mới và để tranh thủ sự ủng hộ của các tầng
lớp trong xã hội trong cuộc đấu tranh với Giáo hoàng, năm 1302, lần đầu tiên,
Philíp IV triệu tập hội nghị 3 cấp:


Hội nghị 3 cấp gồm:


- Đẳng cấp thứ nhất: Đại biểu của tầng lớp giáo sĩ.
- Đẳng cấp thứ hai: Đại biểu của lãnh chúa phong kiến.
- Đẳng cấp thứ ba: Đại biểu của thị dân giàu có.



Mỗi lần họp hội nghị, mỗi đẳng cấp chỉ bỏ một phiếu.


Hội nghị 3 cấp chỉ là cơ quan tư vấn, nên không có quyền lập pháp.


Việc triệu tập hội nghị ba cấp toàn nước Pháp chứng tỏ nhà nước phong
kiến ở Pháp đã bước vào giai đoạn quá độ từ chế độ phong kiến phân quyền tiến
tới chế độ phong kiến tập quyền.


Đồng thời việc đại biểu của thị dân được tham dự hội nghị chứng tỏ thị
dân đã trở thành một lực lượng quan trọng.


<b>3.Cuộc chiến tranh trăm năm: (1337-1453) </b>


Trong khi công cuộc thống nhất nước Pháp đang tiến triển một cách thuận
lợi thì giữa Pháp và Anh xảy ra cuộc chiến tranh kéo dài từ năm 1337-1453, lịch
sử gọi là cuộc Chiến tranh Trăm năm.


<b>a.</b>Nguyeân nhaân:


- Nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh này là vấn đề tranh giành đất


đai trên lãnh thổ nước Pháp, vì Pháp khơng muốn thế lực của Anh vẫn còn làm chủ
một bộ phận đất đai cuả mình, cịn Anh thì khơng can tâm để một vùng lãnh địa rộng
lớn của mình chuyển vào tay vua Pháp.


- Nguyên nhân trực tiếp là việc tranh giành ngôi vua nước Pháp : Năm


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Valoa lên thay. Vua Anh là Eùt-uốt III lấy tư cách là cháu ngoại của Philíp IV địi
được kế thừa ngơi vua nước Pháp.



<b>b.</b>Diễn biến của cuộc chiến tranh:


Cuộc chiến tranh khi đánh khi ngừng, có thể chia làm 4 giai đoạn:


- Giai đoạn 1 (1337-1360)
- Giai đoạn 2 (1369-1395)
- Giai đoạn 3 (1415-1420).
- Giai đoạn 4 (1422-1453).


Trong q trình ấy, phía Pháp có rất nhiều khó khăn: Ngay trong giai
đoạn 1, ở mặt trận thì thất bại, năm 1358, ở trong nước vừa nổ ra khởi nghĩa của
thị dân ở Pari do Eâchiên Mácxen, Hội trưởng Thương hội len dạ Pari lãnh đạo, vừa
nổ ra khởi nghĩa nông dân do Guyôm Calơ lãnh đạo.


Sang giai đoạn 2, giai cấp phong kiến Pháp do mâu thuẫn với nhau đã
chia thành 2 phe: phe Buốcgơnhơ và phe clêăng. Vì thất bại trong việc tranh
giành chính quyền với phái clêăng, phái Buốcgônhơ quay sang cấu kết với
Anh. Do vậy đến giai đoạn 3, Anh chiếm được miền Bắc nước Pháp, trong đó bao
gồm cả Pari.


Đến giai đoạn 4, qn Anh tấn cơng thành phố clêăng để mở đường
tiến xuống phía Nam. Trong hồn cảnh đó nước Pháp đã xuất hiện một nữ anh
hùng dân tộc, đó là Gian-đa. Mặc dầu Gian-đa đã chỉ huy đồn qn giải vây cho
clêăng nhưng về sau bị quân Buốcgônhơ đem bán cho Anh. Gian-đa bị xử
thiêu.


Cái chết của Gian-đa đã thúc đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân
Pháp. Phái Buốcgônhơ tách khỏi đồng minh với Anh.



Đến năm 1453, Chiến tranh Trăm năm kết thúc bằng thắng lợi của Pháp.
<b>4.Sự hoàn thành việc thống nhất nước Pháp và việc hình thành dân tộc </b>
<b>Pháp: </b>


- Cuộc Chiến tranh Trăm năm để lại cho nước Pháp nhiều hậu quả nặng


nề: nền kinh tế bị tàn phá, cư dân bị giảm sút khoảng 1/3, nhưng thắng lợi cuối cùng
đã đẩy nhanh việc thống nhất nước Pháp, vì trở ngại chính của cơng cuộc thống nhất
là thế lực Anh trên đất Pháp đã bị loại bỏ.


Giờ đây ở Pháp còn một số lãnh địa chưa thuộc quyền thống trị của vua
Pháp, trong đó mạnh nhất là cơng quốc Buốcgơnhơ. Năm 1447, nhân dịp Công
tước xứ này là Sáclơ bị tử trận khi đi đánh Thụy Sĩ, vua Pháp là Lu-y XI
(1461-1483) đã nhập được vùng này vào bản đồ nước Pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

- Song song với sự thành lập nhà nước tập quyền trung ương, ở Pháp đã bắt


đầu xuất hiện những tiền đề của việc hình thành dân tộc. Những tiền đề đó là: lãnh
thổ chung, sinh hoạt kinh tế chung, tiếng nói chung và tâm lý chung biểu hiện ở văn
hóa chung.


Đến cuối thế kỷ XV, nước Pháp đã thống nhất (lãnh thổ chung), Pari trở
thành trung tâm kinh tế của cả nước, tiếng nói vùng Pari đã phát triển thành ngôn
ngữ chung, đồng thời một số tác phẩm văn học biểu hiện tình cảm và nguyện vọng
chung của người Pháp cũng đã xuất hiện.


<b>II.Quá trình phát triển của chế độ quân chủ chuyên chế : </b>
<b>1.Chế độ quân chủ chuyên chế thời Phrăng xoa I: </b>


Trong quá trình thống nhất nước Pháp Lu-y XI và Sáclơ VIII đã đặt cơ sở


đầu tiên cho chế độ quân chủ chuyên chế. Đến thời Phrăng xoa I (1515-1547) chế
độ quân chủ chuyên chế được xác lập hoàn toàn.


Chế độ quân chủ chuyên chế ở Tây Aâu là biểu hiện của sự liên minh tạm
thời giữa giai cấp quý tộc phong kiến, tầng lớp giáo sĩ và giai cấp tư sản mới ra
đời.


Biểu hiện cụ thể của chế độ quân chủ chuyên chế thời Phrăng xoa I:


- Phrăng xoa I thực tế trở thành người đứng đầu giáo hội ở Pháp: Phrăng


xoa I có quyền chỉ định các giáo phẩm ở Pháp như Tổng giám mục, Giám mục, Linh
mục, đồng thời nhà vua được quyền hưởng phần lớn thu nhập của giáo hội ở Pháp.


- Phrăng xoa I tự mình nắm lấy quyền lập pháp, ý chí của nhà vua tức là


pháp luật.


- Nhà vua là người đứng đầu bộ máy nhà nước. Những viên quan cai trị


các địa phương cũng do nhà vua bổ nhiệm.


Do sự lớn mạnh của quyền lực nhà vua, trong suốt thời trị vì của Phrăng
xoa I, Hội nghị 3 cấp không được triệu tập một lần nào.


<b>2.Cuộc chiến tranh tôn giáo : </b>


Từ năm 1562-1598, ở Pháp diễn ra một cuộc chiến tranh giữa 2 tập đoàn
phong kiến đại biểu cho 2 giáo phái Cựu giáo (đạo Thiên Chúa) và Tân giáo (đạo
Tin Lành). Lịch sử gọi là cuộc chiến tranh Huygơnô.



Cuộc chiến tranh này chia làm 3 giai đoạn:


- Giai đoạn 1 (1562-1572).
- Giai đoạn 2 (1572-1576).
- Giai đoạn 3 (1576-1598).


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Năm 1589, vương triều Valoa kết thúc, Hăngri đơ Nava thuộc họ
Buốcbông, một nhánh họ gần với vua Pháp được cử lên làm vua. Triều Buốcbông
(1589-1792) bắt đầu.


Hăngri đơ Nava vốn theo Tân giáo. Để tranh thủ sự ủng hộ của nhiều thế
lực, năm 1593, ông đổi theo Cựu giáo. Năm 1594, ông cử hành lễ gia miện lấy
hiệu là Hăngri IV.


Năm 1598, Hăngri IV ban hành sắc lệnh Năngtơ, trong đó qui định:


- Mọi người được tự do tín ngưỡng.


- Tín đồ Tân giáo và Cựu giáo bình đẳng trước pháp luật.


- Những thành phố do Tân giáo kiểm soát được hưởng quyền tự trị tức là


có chính quyền và qn đội của mình.


Cuộc chiến tranh tôn giáo đến đây kết thúc.


<b>3.Sự phát triển của chế độ quân chủ chuyện chế nửa đầu thế kỷ XVII: </b>
<b>a.</b>Những chính sách của Hăngri IV:



Hăngri IV là một trong những ông vua lỗi lạc của nước Pháp. Ơng đã thi
hành nhiều chính sách tích cực để phát triển kinh tế và đề cao quyền lực của chính
phủ trung ương.


- Hăngri IV hết sức khuyến khích sản xuất nơng nghiệp và chăn ni, lại


cịn tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cơng thương nghiệp. Chính dưới thời
Hăngri IV, năm 1604, Công ty Đông Ấn Độ của Pháp được thành lập. Pháp còn
chiếm được một số đất đai ở Canađa, trong đó có Kêbếch chiếm được năm 1608.


- Song song với những biện pháp phát triển kinh tế, Hăngri IV thi hành


nhiều chính sách khơi phục chế độ quân chủ chuyên chế như khống chế giáo hội
Pháp, thẳng tay trừng trị nhũng quý tộc phong kiến chống đối. Từ khi ông làm lễ gia
miện năm 1594 đến khi ông chết (1610), Hội nghị ba cấp không hề được triệu tập.


Năm 1610, Hăngri IV bị một tên thích khách thuộc phe Cựu giáo ám sát
trên đường phố Pari.


<b>b.</b>Risơliơ và sự phát triển chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp :


Sau khi Hăngri IV bị giết chết, Lu-y XIII (1610-1643) mới 9 tuổi lên nối
ngơi. Trước tình hình ấy nhiều quý tộc phong kiến nuôi âm mưu chống lại chính
quyền trung ương và tỏ ra rất hống hách.


Trong khi đó, phe Tân giáo vẫn là một lực lượng đáng kể. Họ có địa bàn
riêng, có chính quyền tự trị và có lực lượng vũ trang riêng.


Trong hoàn cảnh ấy, nước Pháp xuất hiện một nhà chính trị tài năng. Đó
là Risơliơ (1585-1642). Năm 1624, Risơliơ được làm Tể tướng, đồng thời được


phong làm Hồng y giáo chủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

- Giảm bớt sự kiêu ngạo của các quý tộc.


- Đề cao uy danh của vua Pháp ở các nước láng giềng.


Kết quả, năm 1627, Risơliơ tự mình đem quân đi tấn công La Rôsen
(Trung tâm của phe Tân giáo) bao vây thành phố này trong 15 tháng. Cuối cùng,
La Rôsen phải đầu hàng. Năm 1629, Risơliơ ban bố “Sắc lệnh ân huệ” cho tín đồ
Tân giáo được tự do tín ngưỡng nhưng quyền tự trị của họ bị thủ tiêu.


Risơliơ thẳng tay trừng trị những q tộc có âm mưu chống đối chính
quyền nhà vua.


Đối với bên ngồi, Risơliơ tích cực thi hành chính sách xâm chiếm thuộc
địa, đã chiếm được một số cứ điểm ở châu Mỹ và châu Phi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<b>Bài VIII. </b>

<b> CÁCH MẠNG NÊĐÉCLAN </b>



<b>I.Tình hình Nêđéclan trước cách mạng : </b>
<b>1.Vài nét về lịch sử : </b>


Nêđéclan nghĩa là xứ thấp. Phạm vi địa lý của Nêđéclan gồm các nước Hà
Lan, Bỉ, Luyxămbua và một số vùng ở Đông bắc nước Pháp.


Thời cổ đại Nêđéclan là một tỉnh của đế quốc La Mã.


Đầu thời trung đại, Nêđéclan nằm trong bản đồ của vương quốc Phrăng.


Đến đầu thế kỷ XVI, do quan hệ kế thừa Nêđéclan và Tây Ban Nha trở thành


một vương quốc thuộc quyền thống trị của Sáclơ I, cháu nội của Hoàng đế Đức và
đồng thời là cháu ngoại của vua Tây Ban Nha. Năm 1519, Sáclơ I trở thành hoàng đế
Đức hiệu là Sáclơ V. Phạm vi thống trị của Sáclơ V bao gồm Đức, Tiệp Khắc,
Hungari, Tây Ban Nha, Nêđéclan …


Năm 1556, Sáclơ V thoái vị, đế quốc Sáclơ V chia thành hai nước: Ngơi hồng
đế được truyền cho em của Sáclơ V là Phécđinăng, cịn ngơi vua Tây Ban Nha thì
truyền cho con là Philíp II (1556-1598). Nêđéclan vẫn là một bộ phận của vương
quốc Tây Ban Nha.


<b>2.Tình hình kinh tế xã hội: </b>


<b>a.Kinh tế : </b>Đến thế kỷ XVI Nêđéclan là một nước có nền cơng thương nghiệp
phát triển sớm ở Tây Aâu.


Do vậy, Nêđéclan là một nước có nhiều thành phố, trong đó nổi tiếng
nhất là Anvécpen.


Trong nơng nhiệp, một số lãnh chúa phong kiến đã kinh doanh ruộng đất
theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Một số thị dân giàu có thì mua ruộng đất của q tộc
rồi thuê người làm giống như các chủ trang trại.


Như vậy, đến thế kỷ XVI, quan hệ tư bản chủ nghĩa đã thâm nhập vào
các lĩnh vực kinh tế.


<b>b.Xã hội: </b>Cùng với sự phát triển về kinh tế, cơ cấu giai cấp trong xã hội cũng
thay đổi:


- Giai cấp quý tộc phong kiến phân hoá, một bộ phận thay đổi phương thức



kinh doanh do đó biến thành tầng lớp quý tộc mới.


- Giai cấp tư sản đang hình thành bao gồm các thương nhân lớn và các


ông chủ công trường thủ cơng.


- Tầng lớp bình dân thành thị bao gồm thợ thủ cơng nghèo, nơng dân


khuân vác…


- Giai cấp nơng dân cũng có sự phân hóa. Đến thế kỷ XVI nói chung chế


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

bị phá sản biến thành cố nông, công nhân công trường thủ cơng hoặc những kẻ lang
thang.


<b>c.</b>Về tôn giáo :


- Tầng lớp quý tộc cũ vẫn theo đạo Thiên chúa.
- Tầng lớp quý tộc mới thường theo Tân giáo Luthơ.
- Giai cấp tư sản và phú nơng theo Tân Giáo Canvanh.


- Bình dân thành thị, nơng dân thì theo Tân Giáo Canvanh hoặc theo phái


Rửa tội lại (1<sub>). </sub>


<b>3.Chính sách thống trị của Tây Ban Nha đối với Nêđéclan: </b>


- <i><b>Về chính trị: </b></i>Để thống trị Nêđéclan, hoàng đế Đức và từ năm 1556 về


sau là vua Tây Ban Nha cử một viên Tồn quyền đóng ở Bryuxen, đồng thời cử một


Hồng y giáo chủ làm phụ chính. Thời Philíp II, Tây Ban Nha cịn cho qn sang
chiếm đóng Nêđéclan.


- <i><b>Về tôn giáo :</b></i> Sáclơ V thi hành chính sách đàn áp khốc liệt các loại Tân


giáo. Đặc biệt năm 1550, Sáclơ V ban bố sắc lệnh quy định khơng những tín đồ Tân
giáo bị xử tử mà nhũng người giúp đỡ, che giấu thậm chí nói chuyện thân mật với tín
đồ Tân giáo cũng bị tịch thu tài sản.


- <i><b>Về kinh tế : </b></i>Sáclơ V và Philíp II đã đặt ra ở Nêđéclan một chế độ thuế


khoá hết sức nặng nề, đồng thời cịn cấm các thuyền bn của Nêđéclan khơng được
buôn bán với các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ.


Như vậy, dưới sự thống trị của phong kiến Tây Ban Nha, nhân dân Nêđéclan bị
mất tự do về chính trị, bị đàn áp về tơn giáo và bị phá hoại về kinh tế. Do vậy, đại đa
số quần chúng nhân dân bị phá sản.


Tóm lại, trước cách mạng, trong xã hội Nêđéclan có 2 mâu thuẫn chủ yếu:


- Mâu thuẫn giữa nhân dân Nêđéclan với phong kiến Tây Ban Nha.


- Mâu thuẫn giữa quan hệ tư bản chủ nghĩa mới ra đời với chế độ phong


kiến.


Mâu thuẫn thứ nhất chính là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy cuộc đấu
tranh sớm bùng nổ, còn mâu thuẫn thứ 2 là yếu tố quyết định tính chất của cuộc
cách mạng Nêđéclan.





1<i><sub>)Phái rửa tội lại</sub></i><sub> chủ trương ngoài lần rửa tội lúc mới ra đời, người lớn phải rửa </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<b>II.Diễn biến cuộc cách mạng: </b>


<b>1.Hoạt động hợp pháp của một số quý tộc: </b>


Do chính sách thống trị của Tây Ban Nha, trong giai cấp quý tộc cũng có một
bộ phận khơng đồng tình nên họ là những kẻ đầu tiên lên tiếng yêu cầu phải sửa đổi
những chính sách ấy.


- Năm 1563, ba nhà đại quý tộc là hồng thân Vinhem Orăng, Bá tước


cmơng và Đơ đốc Hoócnơ trước Hội đồng nhà nước đã yêu cầu Tây Ban Nha rút
quân đội, triệu hồi Hồng y giáo chủ Gravenla, thủ tiêu các lệnh trừng trị Tân giáo,
nhưng chính quyền Tây Ban Nha khơng đáp ứng đầy đủ.


- Năm 1565, Bá tước Eùcmông sang Tây Ban Nha triều kiến Philíp II để


trình bày các điều thỉnh nguyện nhưng vẫn không có kết quả.


- Năm 1566, một đồn đại biểu của Hội hịa giải (một tổ chức của thanh


niên qúy tộc) đến gặp Toàn quyền của Tây Ban Nha ở Nêđéclan. Họ ăn mặc rách
rưới để tượng trưng cho sự nghèo khổ của đất nước. Những yêu cầu của họ vẫn không
được giải quyết, hơn nữa, một viên quan ở đó đã gọi họ là “ bọn ăn mày”. Vì vậy, về
sau, chữ “ăn mày” được sử dụng vói ý nghĩa là “ cách mạng”.


<b>2.Cách mạng bùng nổ và chính sách khủng bố của Tây Ban Nha : </b>


<b>a.</b>Sự nổi dậy của quần chúng ( 1566-1567 ):


Nhận thấy sự đấu tranh hợp pháp của một số quý tộc không đem lại kết
qủa, ngày 11-8-1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Nam nổi dậy khởi nghĩa mà mục
tiêu đấu tranh đầu tiên của họ là Giáo hội Thiên Chúa.


Họ mang theo gậy sắt, búa , thang, dây thừng xông vào các nhà thờ đập,
phá tượng thánh, đồ thờ … và hô to: “ Aên mày mn năm!”.


<b>b.</b>Chính sách khủng bố và vơ vét của chính quyền Tây Ban Nha:


- Tháng 8-1567, Philip II cử Công tước Anba đem 18.000 quân sang


Nêđéclan. Anba lập tức thi hành chính sách khủng bố hết sức tàn bạo. Khắp
Nêđéclan đâu đâu cũng đầy rẫy máy chém và giá treo cổ. Chỉ trong vòng 2 năm
(1567-1569) đã có tới 8.000 người trong đó có cả Bá tước cmơng và Đơ đốc Hcnơ
bị xử tử.


- Song song với chính sách khủng bố, Anba cịn tịch thu tài sản những


người bị giết, đặt ra chế độ thuế mới rất nặng nề… Mục đích của chính sách vơ vét
này khơng chỉ nhằm làm giàu cho quốc khố Tây Ban Nha mà còn làm cho nhân dân
Nêđéclan kiệt quệ do đó phải khuất phục.


<b>c.</b>Hoạt động quân sự của Vinhem Orăng và sự thành lập các đội du kích:


- Khi Anba kéo quân sang Nêđéclan, Vinhem Orăng đã chạy sang sang


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

- Trong khi đó, một bộ phận trong giai cấp tư sản, công nhân, thợ thủ công,



nông dân ở miền Nam trốn vào rừng núi lập thành những đội du kích lấy tên là “<i>Đội </i>
<i>ăn mày trên rừng”.</i>


Cũng thời gian ấy, thủy thủ, ngư dân, công nhân bến cảng ở miền Bắc
cũng thành lập những đội du kích gọi là <i>“Đội ăn mày trên biển”.</i>


Chính phong trào chiến tranh du kích của nhân dân là sự chuẩn bị cho cao trào
cách mạng sắp diễn ra.


<b>3.Phong trào khởi nghĩa giành chính quyền ở các thành phố (1572-1578): </b>
<b>a.</b>Phong trào khởi nghĩa ở miền Bắc:


Ngày 1-4-1572, một đội du kích trên biển đã chiếm được một thành phố
nhỏ trên!đảo thuộc tỉnh Dêlan. Sự kiện đó, là một tín hiệu mở đầu của phong trào
khởi nghĩa rầm rộ ở các tỉnh miền Bắc. Đến mùa hè năm 1572, hai tỉnh Hơlan và
Dêlan được hồn tồn giải phóng. Đến cuối năm 1573, nhiều tỉnh khác cũng lần
lượt tuyên bố độc lập.


<b>b.</b>Phong trào khởi nghĩa ở miền Nam:


Ngày 4-9-1576, ở Bruyxen nổ ra khởi nghĩa, cơ quan thống trị cuối cùng
của Tây Ban Nha bị lật đổ.


Nhân những thắng lợi của cách mạng miền Nam, tháng 10-1576 ở
Ghentơ đã triệu tập một cuộc hội nghị ba cấp tồn Nêđéclan. Hội nghị này thơng
qua một văn kiện gọi là “Hiệp định Ghentơ”. Hiệp định này đề cập đến nhiều vấn
đề, trong đó chủ yếu nhất là vấn đề liên hợp lực lượng để trục xuất người Tây Ban
Nha ra khỏi Nêđéclan .


<b>4.Thắng lợi ở miền Bắc và sự thành lập nước Cộng hòa Hà Lan: </b>



Ngày 6-1-1579, giới quý tộc muốn thỏa hiệp với Tây Ban Nha ở miền Nam
thành lập đồng minh Arát định liên hợp với Tây Ban Nha để dập tắt phong trào cách
mạng trong cả nước.


Ngày 26-7-1581, Hội nghị 3 cấp các tỉnh miền Bắc và một số thành phố lớn
thành lập đồng minh Utơrết. Đồng minh Utơrết chính là cơ sở của việc thành lập
nước cộng hòa tư sản ở miền Bắc Nêđéclan.


Ngày 26-7-1581, Hội nghị ba cấp các tỉnh miền Bắc và một số thành phố lớn
chính thức tuyên bố phế truất Philíp II với tư cách là vua Nêđéclan. Miền Bắc
Nêđéclan trở thành một nước cộng hòa gọi là nước Cộng hòa liên tỉnh, về sau gọi là
nước Cộng hòa Hà Lan. Vinhem Orăng được cử làm Tổng đốc. ( Đến tháng 7-1584,
ông bị tay sai của Philíp II ám sát).


Cịn ở miền Nam, từ năm 1581-1585, quân Tây Ban Nha chiếm lại được nhiều
thành phố, phong trào cách mạng ở đây bị thất bại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Tây Ban Nha thừa nhận nền độc lập của miền Bắc Nêđéclan trong thời gian đình
chiến.


Hiệp định đình chiến 1609 đánh dấu cuộc cách mạng ở miền Bằc Nêđéclan đã
giành được thắng lợi. Đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan được nhiều nước Tây
Aâu công nhận.


Cịn các tỉnh phía Nam tức là nước Bỉ sau này vẫn là xứ bảo hộ của Tây Ban
Nha, đến thế kỷ XVIII lại lệ thuộc vào Aùo và Pháp, đến năm 1830 mới được độc lập.


<b>III.Tính chất , ý nghĩa và hạn chế của cách mạng Nêđéclan: </b>
<b>1.Tính chất: </b>



Nhiệm vụ của cách mạng Nêđéclan là đánh đuổi bọn thống trị Tây Ban
Nha, đồng thời lật đổ chế độ phong kiến nhằm đưa đất nước tiến lên xã hội tư bản
chủ nghĩa.


Do nhiệm vụ ấy quy định, cách mạng Nêđéclan là một cuộc cách mạng tư sản
diễn ra dưới hình thức một cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.


<b>2.Ý nghóa: </b>


Thắng lợi của cách mạng Hà Lan có 2 ý nghĩa quan trọng:


<b>a.</b>Đây là cuộc cách mạng tư sản thành công đầu tiên trong lịch sử. Bởi vậy
thắng lợi của cách mạng Hà Lan là dấu hiệu đầu tiên của sự thắng lợi tất yếu
của chế độ tư bản chủ nghĩa đối với chế độ phong kiến.


<b>b.</b>Thắng lợi của cách mạng ở miền Bắc Nêđéclan đã mở ra con đường phát
triển nhanh chóng về mọi mặt làm cho Hà Lan trở thành <i>“một nước tư bản kiểu </i>
<i>mẫu trong thế kỷ VXII”.</i>


Về kinh tế, các ngành cơng thương nghiệp đều phát triển nhanh chóng.
Để việc buôn bán với những miền xa xôi được tiến hành một cách có tổ chức và
có hiệu quả lớn, năm 1602, Hà Lan thành lập Công ty Đông Aán Độ để buôn bán
với phương Đông, năm 1626, lại thành lập Công ty Tây Aán Độ để buôn bán với
châu Mỹ.


Đồng thời, Hà Lan cịn tích cực tìm kiếm đất thực dân. Kết quả, ở phương
Đông, Hà Lan chiếm được một số cứ điểm ở Aán Độ, Inđônêxia, đảo Đài Loan…ở
Tây bán cầu, Hà Lan chiếm được một vùng đất ở Bắc Mỹ rồi đặt tên là Hà Lan
mới. Tại đây, năm 1626, họ dựng lên một thành phố gọi là “Amxtécđam mới”. Đó


là Nữu Ước ngày nay.


Do sự phát triển của công thương nghiệp, hải cảng, Amxtécđam trở thành
một thành phố rất sầm uất đồng thời là thủ đô kinh tế cùa Hà Lan ( Thủ đô chính
trị là La Hay).


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Đồng thời, các mặt khoa học kỹ thuật, triết học, sử học, luật học… cũng
có nhiều thành tựu nổi bật.


<b>3.Hạn cheá : </b>


Hạn chế lớn nhất của cách mạng Nêđéclan là cách mạng chỉ giành được
thắng lợi ở nửa nước mà ngay ở đó so với yêu cầu của một cuộc cách mạng tư sản
thì thành quả đạt được cũng chưa triệt để. Cụ thể là:


- Tuy thành lập chính thể cộng hịa nhưng chức Tổng đốc lại giao cho dòng


họ Orăng nắm giữ hết đời này sang đời khác trong một thời gian dài.


- Nhân dân không được hưởng quyền tự do dân chủ. Số người có quyền


bầu cử chỉ chiếm khoảng 0,2%.


- Nông dân không được giải quyết yêu cầu ruộng đất.


Nguyên nhân của những hạn chế đó là cuộc cách mạng Nêđéclan nổ ra trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản ở đây phát triển chưa chín muồi, nền kinh tế mang nặng
tính chất thương nghiệp, thị trường chung chưa hình thành, cả nước chia thành 2 miền
kinh tế với 2 trung tâm khác nhau là Amxtécđam và Anvécpen. Trong việc bn bán
với bên ngồi, 2 miền có quan hệ với những khu vực khác nhau, các chế độ đo lường,


tiền tệ và thể lệ kinh doanh thương nghiệp cũng chưa thống nhất.


Cịn cơng nghiệp không những chưa phát triển tương xứng với thương nghiệp
mà cịn đang ở giai đoạn cơng trường thủ cơng.


Mối liên hệ về văn hóa cũng chưa chặt chẽ. Tồn Nêđéclan chưa có một ngơn
ngữ thống nhất mà miền Bắc nói tiếng Phlamăng, miền Nam nói tiếng Pháp, miền
Đơng nói tiếng Đức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<b>ĐẶC ĐIỂM CỦA LỊCH SỬ PHƯƠNG TÂY TRUNG ĐẠI </b>
<b>1.</b> Xã hội phương Tây thời trung đại là xã hội phong kiến. Quan hệ phong


kiến ở đây là quan hệ <i>lãnh chúa nông nô. </i>


<b>2.</b> Thành thị ở phương Tây là trung tâm cơng thương nghiệp. Thành thị có
vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.


<b>3.</b> Giáo hội Thiên Chúa có vai trị rất lớn. Giáo hội là trụ cột của chế độ
phong kiến Tây Aâu.


<b>4.</b> Đến thế kỷ XVI, quan hệ tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển phổ biến
ở Tây Aâu. Chế độ phong kiến bước vào thời kì tan rã.


Y|Z



<b>NỘI DUNG ÔN TẬP </b>


<b>1.</b> Sự hình thành chế độ ruộng đất phong kiến và chế độ nông nô ở vương
quốc Phrăng.



<b>2.</b> Phường hội thủ công nghiệp. Aûnh hưởng của thành thị đối với chế độ
phong kiến.


<b>3.</b> Giáo hội Kitô đầu thời Trung đại. Cuộc viễn chinh Thập tự lần thứ
nhất và lần thứ tư. Hậu quả của phong trào của phong trào viễn chinh
Thập tự.


<b>4.</b> Sự phát hiện con đường biển sang phương Đông và sự phát hiện châu
Mỹ. Hậu quả của phát kiến địa lý.


<b>5.</b> Cải cách tôn giáo của Luthơ và Canvanh.Sự phản cơng của giáo hội
Thiên Chúa.


<b>6.</b> Q trình tích lũy vốn ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Công trường thủ
công.Sự ra đời của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.


<b>7.</b> Những nỗ lực của vua Pháp trong công cuộc thống nhất đất nước. Chế
độ quân chủ chuyên chế thời Phrăng xoa I.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<i><b>Phần II.</b></i>

<b>LỊCH</b>

<b>SỬ</b>

<b> </b>

<b>PHƯƠNG</b>

<b>ĐƠNG</b>

<b>THỜI</b>

<b>TRUNG</b>

<b>ĐẠI </b>



<b>Bài I. </b>

<b>TRUNG QUỐC </b>



<b>I.CÁC TRIỀU ĐẠI TỪ TẦN ĐẾN THANH (221TCN – 1840) </b>
<b>1.Triều Tần (221-206): </b>


<b>a.</b>Sự thống trị của triều Tần:


Sau khi thống nhất Trung Quốc, vua nước Tần là Doanh Chính xưng làm hồng
đế, lịch sử quen gọi là Tần Thủy Hoàng. Triều đại phong kiến thống nhất do ông


thành lập cũng gọi là triều Tần.


Công việc đầu tiên của Tần Thủy Hoàng là xây dựng bộ máy nhà nước chuyên
chế tập quyền trung ương, chia cả nước thành 36 quận, ngồi ra cịn thi hành chế độ
thống nhất trong cả nước về tiền tệ, đo lường, chữ viết và pháp luật.


Tuy nhiên, Tần Thủy Hồng là một ơng vua rất tàn bạo, thích chém giết để ra
uy, lại bắt nhân dân phải xây dựng nhiều cơng trình kiến trúc đồ sộ như Vạn Lý
trường thành, lăng Li Sơn, cung A Phòng v.v…


Tần Thủy Hồng cịn tiếp tục dùng đường lối pháp gia để trị nước, do đó ơng
đã ra lệnh tịch thu và thiêu hủy Kinh Thi, Kinh Thư của phái Nho gia và các tác
phẩm của các nhà tư tưởng thời Chiến quốc. Đồng thời Tần Thủy Hồng cịn ra lệnh
chơn sống 460 nhà nho vì đã vi phạm lệnh cấm của triều Tần.


Năm 210 TCN, Tần Thủy Hồng chết, người con nối ngơi là Tần Nhị Thế tiếp
tục thi hành đường lối thống trị tàn bạo nhưng lại là một kẻ ngu đần, mọi việc đều do
quan hoạn Triệu Cao lũng đoạn.


<b>b.</b>Phong trào khởi nghĩa cuối Tần:


Sống dưới sự thống trị tàn bạo của nhà Tần, nhân dân Trung Quốc vô cùng cực
khổ. Hơn nữa, những người bị xử tử và tù đày không thể kể hết. Bởi vậy, nhân dân
Trung Quốc chỉ còn chờ thời cơ để nổi dậy lật đổ nhà Tần.


<b>Phong trào khởi nghĩa do Trần Thắng và Ngô Quãng lãnh đạo: </b>


Trần Thắng và Ngô Quãng là những nông dân bị bắt đi trấn thủ ở Ngũ Dương.
Năm 209 TCN, từ hướng Đại Trạch, hai ông hô hào đồng đội nổi dậy khởi nghĩa. Lực
lượng nghĩa quân phát triển rất nhanh chóng. Đến đất Trần, Trần Thắng xưng làm


vua. Nửa năm sau phong trào bị thất bại.


<b>Phong traøo chống Tần của Hạng Lương, Hạng Vũ và Lưu Bang:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

quân vào Hàm Dương, giết Tử Anh, đốt cung thất, thu của cải châu báu và làm chủ
đất Tần.


<b>2.Triều Tây Hán. Triều Tân. Triều Đông Hán: </b>


<b>a.</b>Cuộc chiến tranh Hán – Sở và sự thành lập triều Tây Hán (206 TCN – 8 CN):
Sau khi lật đổ nhà Tần, Hạng Vũ tự xưng làm Tây Sở Bá Vương và phong
cho Lưu Bang làm Hán Vương. Ngay sau đó, giữa Hạng Vũ và Lưu Bang xảy ra
một cuộc chiến tranh, lịch sử gọi là cuộc chiến tranh Hán Sở. Đến năm 202 TCN,
Hạng Vũ thua phải tự tử. Lưu Bang lên làm Hoàng đế, hiệu là Hán Cao Tổ, đóng
đơ ở Trường An nên gọi là Tây Hán.


<b>b.</b>Sự đấu tranh trong nội bộ triều Tây Hán:


- Khi nhà Hán mới thành lập, Hán Cao Tổ đã phong đất phong vương cho


những người thân thích và các cơng thần nhưng không bao lâu, Hán Cao Tổ sợ lực
lượng của các vương khác họ như Hàn Tín, Anh Bố, Bành Việt,… quá lớn, do đó đã
gán cho họ tội có mưu đồ làm phản để tiêu diệt họ.


- Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ chết, Huệ Đế được nối ngơi, nhưng mọi việc


đều do Lữ Hậu (hồng hậu của Cao Tổ) quyết định. Năm 188 TCN, Huệ Đế chết, Lữ
Hậu nghiễm nhiên trở thành người cầm quyền như hồng đế. Trong thời gian đó, Lữ
Hậu đã giao cho những người họ Lữ quyền cao chức trọng. Năm 180 TCN, Lữ Hậu
chết, ngai vàng của họ Lưu lại được củng cố.



<b>c.</b>Sự cường thịnh của Triều Hán:


Sau một thời gian ổn định, năm 140 TCN, Hán Vũ Đế (140 – 87 TCN) lên
ngôi, triều Tây hán bước vào thời kỳ hùng mạnh nhất. Để tăng cường chế độ tập
quyền Trung ương, Hán Vũ Đế thi hành chính sách làm giảm thế lực của các
vương, đồng thời để được thống nhất về mặt tư tưởng, năm 136 TCN, Hán Vũ Đế
ra lệnh chỉ đề cao Nho học, từ đó học thuyết này trở thành công cụ tinh thần để
bảo vệ chế độ phong kiến Trung Quốc trên 2000 năm lịch sử.


Đối với bên ngoài, Hán Vũ Đế đã phát triển thế lực sanh Trung Á, xâm
lược Cổ Triều Tiên, chinh phục Nam Việt do đó đã thành lập một đế quốc có
cương giới rất rộng lớn.


<b>Triều Taân (9- 23): </b>


Đến cuối thế kỷ I TCN, triều Tây Hán bước vào thời kỳ suy yếu. Trong
khi đó, vua thường nhỏ tuổi, quyền binh rơi vào tay ngoại thích. Đến năm 8 TCN,
nhà Tây Hán bị một người họ ngoại là Vương Mãng cướp ngôi. Triều Tây Hán kết
thúc.


Sau khi cướp ngôi của Tây Hán, Vương Mãng lên làm vua lập nên một
triều đại mới gọi là Tân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<b>Phong trào chiến tranh nông dân Lục Lâm- Mày Đỏ và sự thành lập triều </b>
<b>Đông Hán: </b>


Cuộc cải cách của Vương Mãng khơng giải quyết được những khó khăn
trong xã hội. Nơng dân vẫn rất đói khổ.



- Năm 17, nông dân vùng Hồ Bắc dưới sự lãnh đạo của Vương Khuông,


Vương Phượng nổi dậy khởi nghĩa. Họ lấy núi Lục Lâm làm căn cứ nên gọi là quân
Lục Lâm. Tham gia hàng ngũ khởi nghĩa có một số địa chủ như Lưu Huyền và hai
anh em Lưu Điền Lưu Tú. Quân khởi nghĩa cử Lưu Huyền làm vua. Năm 23, ở
Trường An nổ ra binh biến. Vương Mãng bị giết chết. Lưu Huyền vào làm vua ở
Trường An.


- Năm 18, nông dân vùng Sơn Đông, dưới sự lãnh đạo của Phàn Sùng cũng


nổi dậy khởi nghĩa. Để làm dấu hiệu riêng, nông dân bôi đỏ lông mày nên gọi là
quân Mày Đỏ (Xích Mi). Quân Mày Đỏ cử Lưu Bồn Tử lên làm vua rồi tiến sang
phía Tây tấn cơng Trường An. Lưu Huyền đầu hàng. Lưu Bồn Tử tiếp quản Trường
An.


- Sau khi Lưu Huyền được tôn lên làm vua, Lưu Diễn bị giết còn Lưu Tú


được cử lên vùng Hà Bắc để xây dựng lực lượng. Năm 25, quân Lưu Tú chiếm được
Lạc Dương. Lưu Tú tự xưng làm Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Hán, vì kinh đơ đóng ở
Lạc Dương nên gọi là Đơng Hán (25-220).


<b>Phong trào chiến tranh nông dân Khăn Vàng : </b>


Trong thời kỳ đầu, xã hội thời Đông Hán cũng tương đối ổn định, nhưng
từ đầu thế kỷ II về sau, trong triều đình thường xảy ra cuộc đấu tranh giữa họ
ngoại và hoạn quan nên tình hình chính trị hết sức rối ren, thêm vào đó, nhiều loại
thiên tai thường xuyên xảy ra, nhân dân vô cùng khốn khổ.


Năm 184, Giáo trưởng của đạo Thái Bình là Trương Giác lãnh đạo nông
dân nổi dậy khởi nghiã. Để làm dấu hiệu riêng, qn nơng dân chít khăn vàng nên


cuộc khởi nghĩa này được gọi là khởi nghĩa Khăn Vàng (Hoàng Cân). Phong trào
này chỉ tồn tại 8 tháng thì bị đàn áp. Triều Đông Hán tuy chưa bị lật đổ nhưng từ
đó vua Đơng Hán trở thành bù nhìn trong tay các tướng quân phiệt như Đổng Trác,
Tào Tháo. Đến năm 220, vua Đông Hán buộc phải “nhường ngôi” cho con của
Tào Tháo là Tào Phi. Triều Đông Hán diệt vong.


<b>3.Thời kỳ Tam quốc .Tấn- Nam Bắc triều : </b>
<b>a.</b>Tam quốc (220- 280):


Cuối thời Đơng Hán, do chính phủ trung ương suy yếu, trong cả nước xuất
hiện nhiều tập đoàn quân phiệt. Sau một thời gian tiêu diệt lẫn nhau, đến đầu thế
kỷ III chỉ còn lại 3 thế lực: Tào Tháo ở miền Bắc, Tôn Quyền ở Đông Nam, Lưu
Bị ở Tây Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Năm 221, Lưu Bị cũng xưng làm Hồng đế, đóng đơ ở Thành Đơ, đặt tên
nước là Hán, lịch sử thường gọi là Thục (221-263).


Năm 222, Tơn Quyền xưng vương, đóng đơ ở Kiến Nghiệp, đặt tên nước
là Ngô. Đến năm 229, Tơn Quyền cũng xưng làm Hồng đế.


Năm 263, Thục bị Ngụy diệt. Năm 265, triều Tấn thay Ngụy. Năm 280,
Ngô bị Tấn diệt. Thời Tam Quốc chấm dứt.


<b>b.</b>Triều Tấn (265- 420):
<b>Tây Tấn (265-316): </b>


Từ năm 249, Tư Mã Ý dã nắm được mọi quyền hành của nước Ngụy.
Năm 265, cháu của Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt vua Ngụy phải nhường ngôi,
hiệu là Vũ Đế, đặt quốc hiệu là Tân, kinh đơ vẫn đóng ở Lạc Dương, lịch sử gọi là
Tây Tấn.



Năm 291, trong nội bộ triều Tấn xảy ra môt cuộc nôi chiến kéo dài 16
năm gọi là “loạn tán vương”. Nhân tình hình ấy các tộc Hung Nô, Yết, Tiên Ty,
Đê, Khương mà đời Tấn gọi là Ngũ Hồ không ngừng nổi dậy chống Tấn. Năm
316, Tây Tấn bị người Hán do Hung Nô thành lập tiêu diệt. Từ đó cho đến năm
439, ở miền Bắc Trung Quốc đã thành lập rất nhiều nước của các dân tộc thiểu số.


<b>Đông Tấn (317- 420): </b>


Sau khi Tây Tấn diệt vong, môt người trong tôn thất nhà Tấn là Tư Mã
Duệ được lập nên làm vua ở miền Nam, đóng đơ ở Kiến Khang (Nam Kinh), lịch
sử gọi là Đông Tấn. Đến năm 420, một viên tướng là Lưu Dụ bắt vua Đông Tấn
phải “nhường ngôi”. Đông Tấn diệt vong.


<b>Nam Bắc triều (420-589): </b>


Từ năm 317, Trung Quốc đã chia thành 2 miền nhưng từ năm 420, lịch sử
Trung Quốc mới bước vào thời kỳ Nam Bắc triều.


Trong thời kỳ này, ở miền Nam có 4 triều đại kế tiếp nhau là:


- Toáng (420-479) do Lưu Dụ thành lập.


- Tề (479 –502) do Tiêu Đạo Thành thành lập.
- Lương (502 –557) do Tiêu Diễn thành lập.
- Trần (557 –589) do Trần Bá Tiên thành lập.


Bốn triều đại này đều đóng đơ ở Kiến Khang, được gọi chung là Nam triều.
Ở miền Bắc, thời Đơng Tấn có nhiều nước nhỏ, đến năm 439 mới thống nhất
dưới triều Bắc Ngụy. Năm 535, Bắc Ngụy chia thành 2 nước nhỏ là Đông Ngụy, Tây


Ngụy. Năm 550, Đông Ngụy bị Cao Dương cướp ngôi đổi thành Bắc Tề. Năm 557,
Tây Ngụy cũng bị Vũ Văn Giác cướp ngôi và đổi thành Bắc Chu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Năm 581, Dương Kiên (ông ngoại của vua Bắc Chu) giành được ngôi vua, đổi
tên nước là Tùy, đóng đơ ở Trường An. Năm 589, Tùy đem quân vượt Trường Giang
diệt Trần. Thời kỳ Nam Bắc triều chấm dứt.


<b>4.Triều Tùy (581-618): </b>


<b>a.</b>Sự thống trị đối với nhân dân trong nước :


Đầu thời Tùy, tình hình Trung Quốc tương đối ổn định. Năm 604, Dương
Kiên (Tùy Văn Đế) bị con mình là Dương Quảng đầu độc chết. Dương Quảng lên
ngôi hiệu là Dương Đế. Ngay sau khi lên làm vua, Dương Đế huy động hàng triệu
người để xây dựng Đông đô (Lạc Dương), vườn Tây uyển, hàng chục hành cung
và một mạng lưới sông đào nối liền các con sông lớn để ông tổ chức xây dựng
những cuộc du ngoạn rầm rộ bằng thuyền.


Đồng thời để chuẩn bị phát động chiến tranh xâm lược Cao Câu Ly,
Dương Đế huy động trai tráng trong cả nước phải gấp rút vận chuyển lương thực
vũ khí…đến quận Trác (vùng Bắc Kinh ngày nay). Vì vất vả đói khát, người gối
đầu lên nhau mà chết đầy đường.


<b>b.</b>Những cuộc chiến tranh xâm lược:


Triều Tùy tuy ngắn ngủi nhưng đã gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược
các nước xung quanh.


- Thời Tùy Văn Đế (581-604), năm 598, nhà Tùy đã đưa 30 vạn quân tấn



công Cao Câu Ly nhưng bị thất bại phải rút lui.


Ở nước ta, từ năm 544, Lý Bí đã đánh đuổi được quân Lương, thành lập
nước Vạn Xuân. Năm 603, Tùy sai Lưu Phương đem 10 vạn quân tấn công nước
Vạn Xuân. Nước ta lại bị nội thuộc Trung Quốc.


- Thời Tùy Dương Đế (605-618), năm 605, Lưu Phương lại được giao


nhiệm vụ tấn công Lâm Ấp (Chiêm Thành) nhưng bị tổn thất phải ruùt lui.


Về hướng Tây, nhà Tùy khuất phục được nhiều nước nhỏ, thành lập 4
quận rồi đày tội phạm đến lập đồn điền để trấn giữ.


Về hướng Đông, năm 612, 613, 614, Tùy Dương Đế liên tiếp 3 lần đưa
quân sang xâm lược Cao Câu Ly nhưng đều bị thất bại.


<b>c.</b>Phong trào chiến tranh nông dân cuối Tùy:


Chính sách thống trị và hiếu chiến của Tùy Dương Đế làm cho nhân dân
rất khốn khổ. Vì vậy, từ năm 611, khi Tùy Dương Đế đang gấp rút chuẩn bị chiến
tranh, ở Sơn Dương đã có người đứng dậy hơ hào phản chiến. Đến cuối năm 615,
phong trào khởi nghĩa lan rộng khắp cả nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<b>5.Triều Đường (618- 907) : </b>


<b>a.</b>Sự thành lập triều Đường và nền thịnh trị thời Trinh Quán :


Nhân khi nhân dân cả nước nổi dậy chống Tùy, năm 617, một viên quan
của Tùy là Lý Uyên khởi binh ở Thái Nguyên (Sơn Tây) rồi chiếm được Trường
An.



Năm 618, Lý Uyên xưng làm vua, hiệu là Cao Tổ, đặt quốc hiệu là
Đường.


Năm 626, trong nội bộ nhà Đường xảy ra vụ biến Huyền Vũ Môn. Thái tử
Lý Kiến Thành cùng người em thứ tư là Lý Nguyên Cát định mưu giết Lý Thế
Dân (em thứ hai), người có nhiều công lao trong việc dựng nên cơ nghiệp của triều
Đường, nhưng bị Lý Thế Dân phát hiện và giết chết. Năm đó Lý Un (Đường
Cao Tổ) thối vị. Lý Thế Dân lên ngơi hồng đế, hiệu là Đường Thái Tơng. Ơng
là hồng đế lỗi lạc nhất của triều Đường. Dưới thời trị vì của ơng, Trung Quốc
được ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế và văn hóa. Tình hình ấy được gọi
là “nền thịnh trị thời Trinh Quán” (Trinh Quán là niên hiệu của Đường Thái
Tông).


<b>b.</b>Sự chuyên quyền của nữ hịang Vũ Tắc Thiên :


Năm 649, Đường Thái Tơng chết. Cao Tông nối ngôi là một người nhu
nhược nên dần dần mọi việc đều do hoàng hậu Vũ Tắc Thiên quyết định.


Năm 683, Cao Tông chết. Trung Tông, Duệ Tông lần lượt được lập lên
làm vua, nhưng mọi quyền hành hoàn toàn nắm trong tay Thái hậu họ Vũ. Tuy
vậy vẫn chưa thỏa mãn, nên đến năm 690, VũTắc Thiên xưng làm hoàng đế,đổi
quốc hiệu thành Chu (690-705). Năm 705, Vũ Tắc Thiên già yếu lại ốm nặng,
trong cung đình nổ ra chính biến, Vũ Tắc Thiên phải thoái vị, nhà Đường lại được
khôi phục.


<b>c.</b>Những cuộc chiến tranh xâm lược đầu đời Đường :


Đầu đời Đường, Trung Quốc đã phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược các nước xung quanh.



- Ở phía Bắc, Đường Thái Tơng chinh phục được Đông Đột Quyết (630) và


Tiết Diên Đà (646). Trên đất đai mới chiếm được, nhà đường thành lập một cơ quan
cai trị mà đến năm 669 gọi là <i>An Bắc Đơ hộ phủ</i>.


- Ở phía Tây, nhà Đường thơn tính được nhiều nước nhỏ. Trên cơ sở đó,


năm 640, nhà Đường thành lập <i>An Tây Đơ hộ phủ.</i>


- Ở phía Đơng Bắc, lúc bấy giờ có 3 nước là Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân


La.


Năm 645, Đường Thái Tơng tự mình chỉ huy 10 vạn quân đi đánh Cao
Câu Ly nhưng bị thất bại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

Năm 667, nhà Đường tấn công Cao Câu Ly. Năm 668, Cao Câu Ly thất
bại phải đầu hàng.


Trên đất đai mới chiếm được, nhà Đường thành lập <i>An Đông Đô hộ phủ </i>
<i>(1<sub>).</sub></i><sub>Như vậy trải qua gần 40 năm, các vua đầu đời Đường đã thơn tính được nhiều </sub>
nước xung quanh lập thành một đế quốc rộng lớn vào bậc nhất thế giới đương thời.


<b>d.</b>Sự thịnh suy thời Đường Huyền Tông. Vụ loạn An Sử:


Sau khi Vũ Tắc Thiên thối vị, trong 7 năm tiếp theo, tình hình nhà
Đường rất rối ren. Năm 712, Huyền Tơng lên ngôi, nhà Đường lại bước vào một
thời kỳ thịnh trị, lịch sử gọi là “ nền thịnh trị thời Khai Nguyên ” (Khai Nguyên là
một niên hiệu của Huyền Tơng). Nhưng đến cuối đời mình, Huyền Tơng say đắm


Dương Qúy Phi nên không chú ý đến việc trị nước.


Nhân tình hình đó, năm 755, An Lộc Sơn và Sử Tử Minh khởi binh chống
Đường, sử sách gọi là loạn An Sử (755-763). Khi quân phiến loạn tấn cơng đến
gần Trường An, triều đình nhà Đường phải chạy sang Tứ Xuyên.


Đến năm 763, với sự giúp đỡ của người Hồi Hột, nhà Đường mới dẹp
được vụ loạn này, nhưng từ đó nhà Đường càng ngày càng suy.


<b>Phong trào chiến tranh nông dân cuối Đường : </b>


Đến cuối thế kỷ IX, do tình hình xã hội rối ren, đời sống của nhân dân
càng cực khổ, vì vậy, nhân dân liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa.


Năm 874, Vương Tiên Chi nổi dậy khởi nghĩa ở Sơn Đơng. Năm 875,
Hồng Sào cũng tụ tập được mấy nghìn người nổi dậy hoạt động rồi gia nhập lực
lượng của Vương Tiên Chi.


Năm 877, Vương Tiên Chi tách khỏi lực lượng của Hoàng Sào, đến năm
878, bị thất bại và bị giết chết. Từ đó, Hồng Sào trở thành người lãnh đạo chủ
yếu của phong trào. Năm 880, Hoàng Sào chiếm được kinh đơ Trường An, triều
đình nhà Đường lại phải chạy sang Tứ Xuyên. Năm 884, Hoàng Sào bị thất bại,
phải tự tử.


Phong trào khởi nghĩa này tuy chưa lật đổ được nền thống trị của triều
Đường, nhưng làm cho nhà Đường càng suy yếu, đến năm 907, nhà Đường bị một
hàng tướng của nơng dân là Chu Ơn cướp ngơi. Nhà Đường diệt vong.


<b>6.Thời Ngũ Đại và triều Tống: </b>
<b>a.</b>Năm triều đại và mười nước:



Cướp được ngôi của nhà Đường, Chu Ôn lập nên một triều đại mới gọi là
Hậu Lương (907-923) đóng đơ ở Biện Lương (Khai Phong). Tiếp đó, ở miền Bắc
Trung Quốc lần lượt thành lập 4 triều đại là :


- Hậu Đường (923-935).




1<i><sub>Ở nước ta, năm 622, nhà Đường lập Giao Châu Đô hộ phủ, đến năm 679 đổi thành An Nam </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

- Hậu Tấn (936-947).
- Hậu Hán (947-950).
- Hậu Chu (951-960).


Năm triều đại này chỉ quản lý được miền Bắc Trung Quốc và được gọi
chung là “Ngũ đại”.


Còn ở miền Nam, các thế lực quân phiệt thành lập 9 nước nhỏ, trong đó
có nước Nam Hán ở vùng Quảng Đông, Quảng Tâyđã từng đem quân sang tấn
công nước ta nhưng bị Ngô Quyền đánh bại năm 938. Ngồi ra, cịn có nước Bắc
Hán ở miền Bắc nên thời kỳ này gọi là thời <b>Ngũ đại thập quốc</b> (năm triều đạivà
mười nước).


<b>b.</b>Sự đe doạ của người Khiết Đan:


Người Khiết Đan là một tộc du mục ở Đông Bắc Trung Quốc, bắt đầu
thành lập nước năm 916. Ngay sau đó, họ xâm chiếm được nhiều châu ở phía Bắc
Trung Quốc<b>. </b>



Năm 937, Khiết Đan đổi tên nước thành Liêu. Từ đó, Liêu nhiều lần tấn
cơng miền Bắc Trung Quốc, đã từng chiếm được Biện Lương nhưng sau đó đã rút
về phía Bắc Hồng Hà.


<b>c.</b>Sự thành lập triều Tống và quan hệ giữa Bắc Tống với Liêu, Hạ:


Năm 960, một đại thần của Hậu Chu là Triệu Khuông Dận cướp được
ngôi vua lập nên nhà Tống, đóng đơ ở Khai Phong (Biện Lương cũ), lịch sử gọi là
Bắc Tống (960-1127).


Sau khi thành lập, Bắc Tống phải tốn mất ngót 20 năm để đánh bại các
thế lực chia cắt thời Ngũ đại, nhưng tiếp đó phải thường xuyên đối phó với nước
Liêu và nước Hạ ở phía Bắc.


Năm 1004, Khiết Đan đồng ý giảng hịa. Hai bên kí hịa ước với những
nội dung:


- Vua Khiết Đan gọi vua Tống bằng anh, vua Tống gọi vua Khiết Đan


bằng em.


- Mỗi năm, Tống phải “tặng” Khiết Đan nhiều lụa và bạc.


Năm 1044, Hạ cũng đề nghị giảng hịa và yêu cầu Tống hàng năm phải
“ban” cho Tây Hạ nhiều lụa, bạc và chè.


<b>d.</b>Cải cách Vương An Thạch:


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<b>Quan hệ Tống và Kim: </b>



<b>Những cuộc tấn công Bắc tống của nước Kim: </b>


Kim là quốc gia do tộc Nữ Chân lập nên năm 1115 ở Đông Bắc Trung
Quốc. Ngay sau khi lập nước, Kim đem quân tấn công nước Liêu và đến năm 1125
thì tiêu diệt quốc gia này. Thừa thắng, Kim tiến quân xuống phía Nam đánh Bắc
Tống. Năm 1127, quân Kim chiếm Khai Phong, bắt tồn bộ triều đình Bắc Tống
đưa về Bắc. Bắc Tống diệt vong.


<b>Sự thành lập triều Nam Tống và quan hệ giữa Nam Tống và Kim: </b>


Sau khi quân Kim rút về Bắc, dòng dõi nhà Tống là Triệu Cấu được lập
lên làm vua hiệu là Cao Tơng. Về sau, Cao Tơng đóng đơ ở Lâm An (Chiết
Giang) nên từ đó triều Tống gọi là Nam Tống (1127-1279).


Vì sợ hãi những cuộc tấn công của Kim nên trước sau Nam Tống đều thi
hành chính sách đầu hàng. Chính sách đê hèn của Nam Tống được thể hiện ở việc
Tống Cao Tông phong cho tên tay sai của Kim làm Tể tướng, trái lại những tướng
lĩnh yêu nước mà tiêu biểu là Nhạc Phi thì bị giết hại. Năm1141, Nam Tống phải
kí hịa ước đầu hàng, Nam Tống trở thành một nước phụ thuộc của Kim, hàng năm
phải nộp cho Kim rất nhiều bạc và lụa.


Đến đầu thế kỷ XIII, cả Kim và Tống đều trở thành mục tiêu chinh phục
của Mông Cổ. Năm 1234, Mơng Cổ diệt Kim. Đến năm 1279, Nam Tống hồn
tồn diệt vong trước sự tấn cơng của Mơng Cổ.


<b>7. Triều Nguyên (1271-1368): </b>
<b>a.</b>Sự thành lập triều Nguyên:


Nước Mông Cổ bắt đầu thành lập năm 1206 do Thành Cát Tư Hãn đứng
đầu.Ngay sau đó, Thành Cát Tư Hãn chỉ huy đội kỵ binh thiện chiến của mình tấn


cơng các nước xung quanh. Sau khi chinh phục được một khu vực rộng lớn trải dài
từ bờ Thái Bình Dương đến Đơng u, năm 1227, Thành Cát Tư Hãn chết.


Năm 1234, Mông Cổ diệt Kim.


Năm 1251, cháu của Thành Cát Tư Hãn là Mông Ca giành được ngôi Đại
Hãn.


Năm 1253, Mông Ca sai em mình là Hốt Tất liệt đem quân xuống tiêu
diệt nước Đại Lý ở Vân Nam ngày nay.


Năm 1258, Mông Ca và Hốt Tất Liệt tấn công Nam Tống, nhưng sang
năm 1259, Mông Ca bị tử trận, Hốt Tất liệt rút quân về Bắc giành ngôi Đại Hãn.


Sau bốn năm huynh đệ tương tàn, Hốt Tất Liệt giành được thắng lợi. Năm
1271, Hốt Tất Liệt đổi xưng làm hoàng đế, đặt quốc hiệu là Nguyên, dời đô xuống
Đại Đô (Bắc Kinh).


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

Tống lên làm vua và tiếp tục kháng chiến đến năm 1279 mới hồn tồn bị tiêu
diệt.


<b>b.</b>Chính sách thống trị của triều Nguyên :


Trong q trình chinh phục nước Kim, mỗi khi đánh chiếm được nơi nào,
qn Mơng Cổ đều thi hành chính sách giết sạch, cướp sạch, đốt sạch để lấy đất
làm bãi chăn nuôi, về sau mới bắt đầu chú ý đến nông nghiệp.


Sau khi tiêu diệt Nam Tống, triều Nguyên bắt chước cách tổ chức bộ máy
nhà nước, chế độ phân phong ruộng đất, chế độ thuế khóa… của Trung Quốc,
nhưng đồng thời thi hành chính sách áp bức dân tộc rất trắng trợn. Vì vậy, nhân


dân Trung Quốc rất cực khổ.


<b>c.</b>Những cuộc chiến tranh xâm lược:


Đầu thời Nguyên, Hốt Tất Liệt phát động nhiều cuộc chiến tranh để xâm
lược Nhật Bản, Miến Điện, Chiêm Thành, Đại Việt và Gia Va.


- Năm 1274 và 1281, quân Nguyên 2 lần tấn công Nhật Bản nhưng đều


thất bại. Đặc biệt trong cuộc tấn công lần thứ 2, quân Nguyên gặp bão nên bị tổn thất
hết sức nặng nề.


- Đối với Miến Điện, thời Hốt Tất Liệt, quân Nguyên tấn công 3 lần vào


các năm 1277, 1283 và 1287 nhưng không thu được kết quả gì đáng kể.


Sau khi Hốt Tất Liệt chết (1294), nhân khi tình hình Miến Điện rối ren,
năm 1300, nhà Nguyên lại cho quân sang tấn công Miến Điện lần thứ tư nhưng lần
này do các tướng nhận hối lộ của Miến Điện nên rút quân.


- Đối với Chiêm Thành, do Chiêm Thành không đồng ý để nhà Nguyên


lập cơ quan hành tỉnh ở nước họ nên năm 1283, quân Nguyên tấn cơng chiếm được
kinh đơ Chiêm Thành nhưng sau đó Chiêm Thành phản công, quân Nguyên bị tổn
thất phải rút lui.


- Đối với Đại Việt, từ năm 1258, quân Mông Cổ ở Vân Nam đã tấn công


nước ta. Sau khi thành lập triều Nguyên, quân Nguyên lại xâm lược nước ta 2 lần vào
năm 1285 và 1288 nhưng cũng đều bị thất bại.



- Đối với Giava (ở Inđônêxia), năm 1292- 1293, nhà Nguyên cũng cho


quân sang tấn công nhưng cũng bị thất bại phải rút quân.
<b>d.</b>Phong trào khởi nghĩa cuối Nguyên:


Thời Nguyên, xã hội Trung Quốc tồn tại hai mâu thuẫn chủ yếu : mâu
thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Thêm vào đó nhiều loại thiên tai thường
xuyên xảy ra nên nhân dân vô cùng khốn khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Lúc đầu ở trong nước có nhiều lực lượng khởi nghĩa, về sau người có vai
trị quan trọng nhất là Chu Nguyên Chương. Năm 1367, sau khi thâu tóm được
miền Nam, Chu Nguyên Chương sai quân tiến đánh miền Bắc.


Năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng làm hoàng đế ở Kim Lăng (Nam
Kinh), đặt quốc hiệu là Minh, hiệu là Minh Thái Tổ.


Mùa thu năm đó, qn đội của Chu Ngun Chương tấn cơng Đại Đơ,
triều đình nhà Ngun phải rút về Bắc.


Tiếp đó, Chu Nguyên Chương tiêu diệt các thế lực cát cứ vốn là các
nhóm khởi nghĩa và lực lượng cịn lại của triều Ngun, đến năm 1387 thì hồn
tồn thống nhất Trung Quốc.


<b>8.Triều Minh (1368-1644): </b>


<b>a.</b>Thời kỳ cường thịnh của triều Minh:


Đầu thời Minh, Minh Thái Tổ thi hành nhiều chính sách nhằm khơi phục
kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân như :



- Trả lại tự do cho những người bị biến thành nô tỳ, đồng thời cấm cưỡng


bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tỳ.


- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục phát triển sản xuất nông


nghiệp như kêu gọi nhân dân lưu tán trở về quê quán, đồng thời kêu gọi nhân dân
khai khẩn đất hoang…


- Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên.
- Nghiêm trị bọn quan lại tham ơ.


Nhờ những chính sách nói trên, đầu đời Minh, kinh tế được khơi phục
nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định.


Năm 1398, Minh Thái Tổ chết. Vì người con cả chết sớm nên cháu đích
tơn của ơng được lên nối ngôi, nhưng người con thứ là Chu Đệ đem quân tấn công
Kim Lăng.


Năm 1402, Chu Đệ giành được ngơi hồng đế. Đó là Minh Thành Tổ
(1403-1424), một ông vua nổi tiếng triều Minh.


Minh Thành Tổ sau khi lên ngôi đã nhiều lần sai sứ giả đi đến nhiều
nước, đặc biệt còn sai Thái giám Trịnh Hịa chỉ huy một đồn thuyền có vũ trang 6
lần đi xuống các nước ở vùng biển phía Nam châu Á. Những hoạt động ngọai giao
ấy đều nhằm phô trương sự giàu mạnh của Trung Quốc và lôi kéo các nước xa xôi
đến thần phục triều Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<b>b.</b>Sự thâm nhập của người phương Tây :



Từ năm 1517, tức là sau khi tìm được con đường biển sang phương Đông
không lâu, người Bồ Đào Nha bắt đầu đến Á Môn (Ma Cao), sau đó được cử sứ
giả đến Bắc Kinh. Năm 1553, nhân việc thuyền gặp bão, người Bồ Đào Nha xin
được lên bờ Á Mơn phơi hàng hóa bị ướt. Nhờ đút lót cho quan địa phương, họ
được lên cư trú ở Á Môn và đến năm 1557 thì bắt đầu biến mảnh đất này thành
thuộc địa của họ.


Sau người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha ở Luxôn nhờ phối hợp với
quan quân Trung Quốc tiêu diệt được môt băng cướp biển Trung Quốc nên được
triều Minh cho đến buôn bán ở Chương Châu (Phúc Kiến).


Sang thế kỷ XVII, người Hà Lan cũng đến Trung Quốc. Năm 1624, họ
chiếm được đảo Đài Loan mãi đến năm 1662 mới bị Trịnh Thành Công đánh đuổi.


Đi theo các thương nhân, nhiều giáo sĩ đạo Thiên Chúa cũng sang phương
Đông truyền đạo. Giáo sĩ châu Âu đến Trung Quốc đầu tiên là một người Ý tên là
Matêô Rixi. Năm 1601, ông được đến Bắc Kinh truyền đạo, còn được ban cho
nhiều ruộng đất.


Sau Matêô Rixi, giáo sĩ các nước Ý, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha…tiếp tục đến Trung Quốc.


Thời Minh, các giáo sĩ phương Tây một mặt biết khéo léo lấy lịng các
hồng đế, một mặt tỏ ra tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân Trung Quốc
nên họ được tự do truyền đạo.


<b>c.</b>Phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh :


- Nguyên nhân chủ yếu của phong trào khởi nghĩa của nơng dân cuối Minh



là :


+ Nơng dân bị mất ruộng đất.


+ Tô cao thuế nặng.


+ Thiên tai xảy ra liên tiếp. Nhân dân đói đến nổi phải ăn rễ cỏ,vỏ cây,
đất, bột đá…


- Phong trào bắt đầu bùng nổ năm 1627 ở Thiểm Tây, đến năm 1631 thì


tập hợp lại thành một lực lượng thống nhất do Cao Nghênh Tường, Trương Hiến
Trung, Lý Tự Thành cầm đầu. Năm 1636, Cao Nghênh Tường tử trận, Lý Tự Thành
trở thành người lãnh đạo chủ yếu của lực lượng khởi nghĩa ở miền Bắc. Cịn Trương
Hiến Trung thì chỉ huy một cánh qn tiến xuống hoạt động ở phía Nam.


Năm 1644, Lý Tự Thành xưng làm hoàng đế ở Tây An (Thiểm Tây). Tiếp
đó, ơng tấn cơng và chiếm được Bắc Kinh. Triều Minh sụp đổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Lý Tự Thành đem quân đánh Ngô Tam Quế nhưng bị liên quân của Ngô
Tam Quế và Mãn Thanh đánh bại, do đó phải rút khỏi Bắc Kinh. Đến năm 1645,
Lý Tự Thành bị thất bại hoàn toàn phải tự tử.


Còn Trương Hiến Trung ở miền Nam đến năm 1646 cũng bị quân Thanh
đánh bại. Bản thân Trương Hiến Trung bị quân Thanh bắt và bị giết.


<b>9.Triều Thanh (Từ khi thành lập đến chiến tranh thuốc phiện) : </b>
<b>a.</b>Sự thành lập triều Thanh và những hoạt động bình định Trung Quốc :



Triều Thanh do người Mãn Châu thành lập. Tộc Mãn Châu vốn gọi là tộc
Kiến Châu, một chi nhánh của tộc Nữ Chân mà đầu thế kỷ XII đã thành lập nước
Kim.


Đầu thời Minh, tộc Kiến Châu đang sống trong giai đoạn tan rã của xã hội
thị tộc. Đến năm 1616, họ mới thành lập nước và cũng gọi là nước Kim, lịch sử gọi
là Hậu Kim, đến năm 1636 mới đổi thành Thanh.


Năm 1644, ngay sau khi Lý Tự Thành bị thất bại trong trận đánh nhau với
Ngô Tam Quế và quân Thanh ở Sơn Hải Quan, vua Thanh Thế Tổ liền tiến vào
Bắc Kinh thành lập một triều đại mới gọi là triều Thanh (1644-1911).


Sau đó, quân Thanh phải chiến đấu với hai lực lương là tàn quân nông
dân và lực lượng kháng chiến của Nam Minh. Đến năm 1661, vua cuối cùng của
Nam Minh là Quế Vương phải chạy sang Miến Điện, nhưng bị Ngô Tam Quế đem
quân truy kích, Quế Vương bị bắt đem về Cơn Minh (Vân Nam) xử tử.


Trong quá trình ấy, nhiều tướng lĩnh yêu nước đã kiên cường bền bỉ chống
Thanh mà người tiêu biểu nhất là Trịnh Thành Công. Năm 1661, Trịnh Thành
Công đem 25.000 quân vượt biển ra Đài Loan, đánh đuổi được người Hà Lan, lấy
hòn đảo này làm căn cứ để đánh Thanh.


Sau khi diệt được triều Nam Minh không lâu, triều Thanh lại phải đối phó
với “vụ loạn Tam Phiên”. Tam phiên là 3 lãnh địa lớn do nhà Thanh phong cho
các tướng lĩnh Hán tộc làm tay sai gồm: Ngô Tam Quế được phong ở Vân Nam,
Thượng Khả Hy được phong ở Quảng Đông và Cánh Kế Mậu được phong ở Phúc
Kiến.


Năm 1673, vua Khang Hy ra lệnh bỏ các phiên, do vậy ba phiên đã nổi
dậy chống Thanh. Hai phiên họ Cánh và họ Thượng đến năm 1676 đầu hàng


Thanh. Cịn Ngơ Tam Quế đến năm 1678 xưng làm hoàng đế nhưng đã chết trong
năm đó, cháu là Ngơ Thế Phiên nối ngơi. Đến năm 1681, trước sự tấn công xuống
Vân Nam của quân Thanh, Côn Minh thất thủ, Ngô Thế Phiên phải tự tử.


Tiếp đó, năm 1683, quân Thanh tấn công và chiếm được Đài Loan. Đến
đây, mọi phong trào đấu tranh vũ trang chống Thanh đều chấm dứt.


<b>b.</b>Sự hình thành đế quốc Thanh:


- Trước khi thành lập triều Thanh, nước hậu Kim đã thần phục được các


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

- Về phía Tây Nam, lấy lý do giúp đỡ Tây Tạng chống lại sự xâm lược của


người Mông Cổ, năm 1718, nhà Thanh đưa qn vào vùng này, đến năm 1727 thì
chính thức chiếm được vùng Tây Tạng.


- Ở phía Tây Bắc, vùng Tân Cương ngày nay là nơi cư trú của người Ngô


Duy Nhĩ. Năm 1758-1759, Thanh tấn công và chiếm được vùng này và đặt tên là Tân
Cương.


Như vậy trải qua một quá trình chinh chiến lâu dài, đến giữa thế kỷ
XVIII, triều Thanh đã trở thành một đế quốc rộng lớn.


<b>c.</b>Chính sách thống trị của Mãn Thanh:


- Trong q trình chinh phục Trung Quốc, đối với những nơi kiên quyết


kháng chiến, quân Thanh thi hành chính sách hủy diệt. Đồng thời, quân Thanh bắt
nhân dân Trung Quốc phải theo một số phong tục tập quán của người Mãn Châu mà


trước hết là bắt đàn ơng phải cạo tóc theo kiểu người Mãn.


- Để củng cố bộ máy nhà nước tập quyền Trung ương, những chức quan


lớn quan trọng, triều Thanh chỉ cho người Mãn được đảm nhiệm. Nhà Thanh còn
thẳng tay trấn áp mọi hoạt động hoặc biểu hiện tư tưởng chống lại người Mãn, do đó
đã gây nên nhiều vụ án văn tự. Ví dụ chỉ vì một quyển sách có những câu chữ chống
Thanh mà 72 người có liên quan bị xử tử.


Tuy nhiên, nhà Thanh cũng thi hành chính sách mua chuộc địa chủ người
Hán. Vua Khang Hy (1662-1722) cịn nói : “Mãn Hán là một”.


<b>d.</b> Những cuộc chiến tranh xâm lược:


- Vào thế kỷ XVIII, triều Thanh liên tiếp tấn công Miến Điện ba lần vào


các năm 1766, 1767, 1769 nhưng cả 3 lần đều bị thất bại phải rút quân.


- Đối với nước ta, cuối năm 1788, dưới chiêu bài giúp đỡ họ Lê khôi phục


ngai vàng, nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đưa 20 vạn quân sang xâm lược, nhưng trong
trận Tết Kỷ Dậu (1789) đã bị nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung
đánh bại.


<b>e.</b>Chính sách đóng cửa và cấm đạo :


- Sau người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha và người Hà Lan, đến đời


Thanh, người Anh, người Pháp cũng đến Trung Quốc buôn bán, nhưng trong thời kỳ
đầu, triều Thanh sợ nhân dân Trung Quốc liên kết với người phương Tây chống lại


mình nên thi hành chính sách đóng cửa tương đối nghiêm ngặt. Sau khi chiếm được
Đài Loan (1683), lệnh đó được nới lỏng một thời, nhưng đến 1757, vua Càn Long chỉ
cho các thương nhân nước ngồi được bn bán ở Quảng Châu mà thơi.


- Đối với việc truyền đạo Thiên Chúa, đầu đời Thanh, các giáo sĩ phương


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

- Trong khi Trung Quốc thi hành chính sách đóng cửa thì nền cơng nghiệp


dệt của Anh phát triển nhanh chóng, đồng thời Anh thu và mua rẻ được rất nhiều
thuốc phiện ở Aán Độ. Để tiêu thụ những thứ hàng đó, Anh chủ yếu nhằm vào thị
trường Trung Quốc.


Tuy khơng lập được quan hệ thơng thương chính thức, nhưng đến nửa đầu
thế kỷ XIX, thuyền buôn của Anh vẫn không ngừng chở thuốc phiện đến bán ở
Trung Quốc. Do vậy, năm 1838, nhà Thanh cử Lâm Tắc Từ làm Khâm sai đại thần
đến Quảng Châu để thực hiện lệnh cấm bán thuốc phiện.


Để buộc chính phủ Thanh phải mở cửa biển, năm 1840, Anh gây chiến
tranh với Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy gọi là “chiến tranh thuốc phiện”. Kết
quả, triều Thanh phải nhượng bộ. Sự kiện đó đánh dấu xã hội Trung Quốc bước
vào một giai đoạn mới <b>- </b><i>Giai đoạn nửa phong kiến nửa thuộc địa.</i>


<b>II.TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI: </b>
<b>1.Chế độ ruộng đất : </b>


Thời trung đại ở Trung Quốc có hai hình thái sở hữu ruộng đất cùng tồn
tại, đó là ruộng đất của nhà nước và ruộng đất của tư nhân.


<b>a.</b>Ruộng đất của nhà nước :



Trên cơ sở quyền sở hữu về ruộng đất, các triều đại phong kiến đã thi
hành nhiều chính sách như ban cấp cho quý tộc quan lại để làm bổng lộc, một bộ
phận ruộng đất thì tổ chức thành đồn điền, điền trang để sản xuất hoặc chia cho
nông dân cày cấy để thu tơ thuế. Trong các chính sách xử lý ruộng đất công, đáng
chú ý nhất là “chế độ quân điền” được thi hành từ năm 485 dưới triều Bắc Ngụy,
tiếp đó được các triều Bắc Tề, Tùy, Đường tiếp tục thực hiện.


<b>Về quy định cụ thể: </b>


Chính sách qn điền của các triều đại nói trên có ít nhiều khác nhau,
nhưng tinh thần chung của chế độ đó là:


- Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lý căn cứ theo các tiêu


chuẩn chia cho nông dân cày cấy. Nhận ruộng đất của nhà nước, nơng dân có nghĩa
vụ phải nộp thuế và làm lao dịch. Thời Tùy, Đường, nghĩa vụ thuế khố ấy được gọi
là chế độ “<i>tơ dung điệu</i>”.


Tô là thuế nộp bằng thóc.


Điệu là thuế hiện vật nộp bằng tơ lụa bông vải.


Dung là thuế hiện vật thay cho nghĩa vụ lao dịch, cũng nộp bằng tơ lụa
hoặc bông vải.


- Đồng thời với việc chia ruộng đất cho nông dân, các quan lại tùy theo


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

<b>Ý nghóa : </b>


- Chế độ quân điền một mặt đã làm cho những nơng dân khơng có hoặc



có ít ruộng đất, những người đi lưu tán trở về quê hương được cấp ruộng đất, do đó,
họ đã trở thành nơng dân cày cấy ruộng đất cơng, thốt khỏi sự lệ thuộc vào địa chủ.


- Một mặt khác, do việc giao ruộng đất cho nơng dân nên tồn bộ ruộng


đất bị bỏ hoang vì chiến tranh đều được canh tác trở lại, do đó, nơng nghiệp được
phát triển, nhà nước và nơng dân dều có lợi.


<b>Sự phá hoại của chế độ quân điền : </b>


Từ giữa thời Đường, do nạn chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ, một số
nông dân phải rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực. Đặc biệt vụ loạn An Sử
(755-763) đã gây nên sự xáo trộn lớn về nhân khẩu, do đó, chế độ quân điền bị
phá hoại dần dần.


Trước tình hình ấy, năm 780, nhà Đường phải đặt ra một chính sách thuế
khóa mới gọi là “pháp thuế hai kỳ”. Chính sách này quy định : nhà nước căn cứ
theo số ruộng đất và tài sản thực có để đánh thuế; đồng thời thuế được thu làm hai
lần vào hai vụ thu hoạch trong năm.


Việc căn cứ theo tài sản thực có để đánh thuế chứng tỏ rằng đến đây nhà
nước đã công khai thừa nhận chế độ quân điền không tồn tại nữa.


<b>b.</b>Ruộng đất của tư nhân:


Từ thời Chiến quốc, ruộng tư ở Trung Quốc bắt đầu xuất hiện. Từ đó về
sau, ruộng tư trở thành bộ phận quan trọng nhất trong chế độ ruộng đất ở Trung
Quốc.



Do chính sách ban cấp ruộng đất cho quan lại làm bổng lộc, đồng thời do
việc chiếm đoạt ruộng đất, phần lớn ruộng tư thuộc quyền sở hữu của giai cấp địa
chủ.


Trên cơ sở chiếm hữu được nhiều ruộng đất, từ thời Đông Hán, tổ chức
điền trang đã ra đời và tồn tại lâu dài trong lịch sử Trung Quốc.


+ Điền trang ở Trung Quốc cũng là những đơn vị kinh tế tự sản tự tiêu :


Trong điền trang, ngoài sản xuất nơng nghiệp cịn sản xuất thủ cơng nghiệp
và một số hoạt động kinh tế khác.


Những người lao động trong các điền trang từ thời Đông Hán đến Nam
Bắc Triều là “điền khách”, “bộ khúc”, nô tỳ.


+ Điền khách là những nông dân lĩnh canh ruộng đất của điền trang. Họ có


nghóa vụ phải nộp địa tô cho chủ.


+ Bộ khúc là những điền khách được luyện tập nghĩa vụ quân sự để bảo vệ


điền trang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Mặt khác, thân phận của lực lượng chủ yếu trong điền trang này gọi là
“trang khách”. Sự phụ thuộc của họ vào chủ điền trang được giảm rất nhiều so với
trước.


- Bên cạnh địa chủ tư nhân, chùa Phật giáo và Đạo giáo cũng chiếm nhiều


ruộng đất.



- Ngoài bộ phận ruộng đất của địa chủ cịn có ruộng đất của nông dân tự


canh, nhưng loại ruộng đất này rất bấp bênh và chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
<b>2.Quan hệ giai cấp: </b>


Thời Trung đại, trong xã hội Trung Quốc có các giai cấp sau đây :
<b>a.</b>Giai cấp địa chủ:


Giai cấp địa chủ ở Trung Quốc có thể chia thành hai tầng lớp chủ yếu là
địa chủ quan lại và địa chủ bình dân.


- Trong địa chủ quan lại có một bộ phận giàu sang nhất, có thế lực nhất,


đó là loại địa chủ quý tộc phong kiến. Loại này bao gồm vương hầu, tơn thất, cơng
thần.


- Địa chủ bình dân là tầng lớp địa chủ khơng giữ chức vụ gì trong bộ máy


nhà nước. Tuy vậy, do giàu có, tầng lớp này, nhiều người có thế lực lớn về chính trị.
<b>b.</b>Giai cấp nơng dân :


Giai cấp nơng dân cũng bao gồm hai loại: nông dân lĩnh canh và nông dân
tự canh.


- Nông dân tự canh là những người cày cấy ruộng đất của mình hoặc của


nhà nước cấp cho theo chính sách quân điền. Họ có nghĩa vụ phải <i>nộp thuế</i> thường là
bằng 1/10 thu hoạch, đồng thời họ phải làm nghĩa vụ lao dịch cho nhà nước. Về địa
vị chính trị, họ được coi là dân tự do, nếu có điều kiện học hành và thi cử đỗ đạt thì


có thể trở thành quan lại.


- Nơng dân lĩnh canh là những người khơng có hoặc có rất ít ruộng đất nên


phải trở thành tá điền của địa chủ. Họ có nghĩa vụ phải <i>nộp tơ </i>cho chủ ruộng thường
là bằng 5/10 thu hoạch. Về thân phận thì tùy theo từng thời kỳ mà có ít nhiều khác
nhau.


<b>c.</b>Tầng lớp công thương:


- Đến thời trung đại, do sự phát triển của thủ công nghiệp, thợ thủ công tự


do trở thành một tầng lớp ngày càng đơng đảo. Thợ thủ cơng cũng có nghĩa vụ phải
nộp thuế và làm nghĩa vụ lao dịch theo nghề nghiệp của mình.


- Tầng lớp bn bán từ thời Hán đã rất phát triển. Triều Thổ (đời Hán) đã


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

Tuy vậy, nghề buôn bị coi là nghề ngọn, không phải là cơ sở của nền kinh
tế phong kiến nên các triều đại ở Trung Quốc đều thi hành chính sách kiềm chế sự
phát triển kinh tế của thương nhân, đồng thời hạ thấp địa vị chính trị của họ như
khơng cho làm quan, xếp họ vào loại cuối cùng trong “tứ dân” (sĩ, công ,nông
,thương).


<b>d.</b>Tầng lớp nô tỳ (tức nô lệ):


Nguồn nơ tỳ chính vẫn là tù binh, những người phạm tội và những người
bị phá sản.


Thân phận nơ tỳ có khá hơn nơ lệ thời cổ đại. Mặc dầu, họ vẫn bị coi là
hàng hóa để mua bán, trao tặng, nhưng giá cả thì cao hơn trước nhiều. Có tài liệu


nói đời Hán, giá một nữ tỳ bằng 5 con ngựa.


Sự giết hại nô tỳ một cách tùy tiện được hạn chế nhiều nhưng nói chung
tính mạng của nơ tỳ vẫn chưa được đảm bảo. Ví dụ luật đời Đường quy định nếu
nơ tỳ có tội chủ khơng trình quan mà giết chết thì chủ bị đánh 100 gậy.


Luật đời Nguyên quy định nếu người tự do giết chết nô tỳ của kẻ khác thì
bị đánh 107 gậy, trong khi đó, nếu giết chết ngựa của kẻ khác thì bị đánh 100 gậy.


Số lượng nô tỳ ở Trung Quốc thời Trung đại cịn khá đơng đảo. Tuy họ
cũng bị sử dụng vào các ngành sản xuất như nông nghiệp, chăn nuôi, thủ công
nghiệp nhưng phần lớn họ bị dùng vào việc hầu hạ trong gia đình qúy tộc, quan
lại, địa chủ và những nhà giàu có khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<b>Bài II. </b>

<b> A RẬP </b>



<b>I.Sự thành lập nhà nước A Rập: </b>


<b>1.Tình hình Tây Á trước khi nước A Rập thành lập: </b>
<b>a.</b>Tình hình Iran – Lưỡng Hà :


Từ cuối thế kỷ IV TCN, vùng này nằm trong bản đồ của Vương triều
Xêlơcút. Giữa thế kỷ III TCN, nhân khi triều Xêlơcút suy yếu, cư dân ở miền Bắc
Iran nổi dậy giết viên Tổng đốc của triều Xêlơcút rồi thành lập nước Pácti do
Vương triều Ácxaxơ thống trị.


Năm 226, một tiểu vương ở miền Nam Iran lật đổ Vương triều Ácxaxơ rồi
lập nên một triều đại mới gọi là triều Xaxanít (226-651). Trong lịch sử, đất nước
của Vương triều này gọi là Tân Ba Tư.



Đến thế kỷ V, Tân Ba Tư trở thành một nước lớn mạnh nhất ở Tây Á, có
lãnh thổ bao gồm đất đai của các nước Ápganixtan, Iran, Irắc,… ngày nay.


<b>b.</b>Tình hình bán đảo A Rập :


Trong quá trình ấy, ở bán đảo A Rập chỉ trừ vùng Yêmen ở phía Tây Nam
có nhà nước từ sớm, cịn phần lớn bán đảo đang ở vào giai đoạn tan rã của xã hội
nguyên thủy. Tuy vậy, ở vùng ven bờ biển Đỏ, nhờ nằm trên con đường buôn bán
giữa phương Đông và phương Tây nên đã xuất hiện một số thành phố, trong đó
quan trọng nhất là Mécca và Yatơríp (từ năm 622 đổi tên thành Mêđina).


Đặc biệt ở trung tâm thành phố Méccacó một ngôi đền gọi là Caaba
(nghĩa là “Khối lập phương”), trong đó, ngồi các tượng thần của các bộ lạc ra cịn
thờ một phiến đá đen, đó là biểu tượng sùng bái chung của các bộ lạc.


Do Caaba là ngôi đền chung của các bộ lạc A Rập nên hàng năm, cứ đến
mùa đông, người A Rập xa gần đều đến đây đi lễ, nhân dịp ấy, họ mang theo súc
vật để đổi lấy các loại sản phẩm thủ công. Do vậy, trong những dịp ấy, các qúy
tộc Mécca đã thu được những nguồn lợi lớn. Tình hình đó càng đẩy nhanh q
trình phân hóa giai cấp và chính vì vậy đến đầu thế kỷ VII, A Rập đang đứng
trước yêu cầu thành lập nhà nước.


<b>2.Quá trình thành lập nhà nước A Rập : </b>
<b>a.</b>Môhamét và sự thành lập nhà nước A Rập :


Quá trình thành lập nhà nước A Rập gắn liền với quá trình truyền bá đạo
Hồi của Mơhamét.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

Trong q trình truyền đạo, Mơhamét tự xưng mình là sứ giả của chúa
Ala và là Tiên tri của tín đồ. Năm 622, do bị tầng lớp qúy tộc Mécca hãm hại,


Môhamét cùng với các giáo đồ của mình phải chạy lên thành phố Yatơrip ở phía
Bắc. Từ đó, thành phố này đổi tên thành Mêđia nghĩa là “ Thành phố của Tiên
tri”. Năm xảy ra sự kiện quan trọng ấy (622) được lấy làm năm thứ nhất của lịch
Hồi giáo.


Từ đó, cư dân A Rập theo đạo Hồi ngày càng nhiều, lực lượng của
Môhamét ngày càng mạnh. Năm 630, Môhamét đem 10.000 người tiến xuống
Mécca. Thủ lĩnh thị tộc Côraisơ ở đây là Abu Xuphian không dám chống cự.
Môhamét nghiễm nhiên trở thành chủ nhân của Mécca. Sự kiện này đánh dấu nhà
nước A Rập chính thức ra đời.


Mơhamét vẫn xưng là Tiên tri, nhưng giờ đây, danh hiệu ấy khơng chỉ có
nghĩa là người truyền bá tơn giáo mà cịn là người đứng đầu nhà nước A Rập mới
ra đời.


Để thỏa hiệp với cư dân Mécca, Môhamét tuyên bố Mécca là thánh địa
và ngôi đền Caaba là thánh thất chính của đạo Hồi; đồng thời, ơng giao cho các
qúy tộc Mécca một số chức vụ trong nhà nước mới hình thành.


<b>b.</b>Đạo Hồi (1<sub>) : </sub>


Trước khi đạo Hồi ra đời, người A Rập cũng thờ nhiều loại thần và cũng
thờ thần tượng. Ngoài ra, họ cịn sùng kính một vị thần chung cao nhất gọi là Ala
(nghĩa là thần).


Đến cuối thế kỷ VI, Môhamét (570-632) thường hướng dẫn các đội buôn
đến vùng Xiri, Palextin, do đó, đã tiếp thu được quan niệm nhất thần giáo của đạo
Do Thái và đạo Kitô. Đến năm 610, ông bắt đầu truyền bá đạo Hồi.


- <i>Về lòng tin, </i>đạo Hồi cho rằng chỉ có Ala là chúa duy nhất, ngồi ra



khơng có chúa nào khác. Ala đã sáng tạo ra tất cả, trời đất,vạn vật đều là của Ala.
Cịn Mơhamét là sứ giả của Ala và là Tiên tri của tín đồ.


Là tôn giáo ra đời sau đạo Do Thái và đạo Kitô, Môhamét cũng thừa
nhận Mô-i-dơ, người sáng lập đạo Do Thái và Giêxu, người sáng lập đạo Kitô đều
là những vị Tiên tri, nhưng ông là vị Tiên Tri cuối cùng và vĩ đại nhất.


Đạo Hồi cũng tiếp thu nhiều yếu tố của đạo Do Thái và đạo Kitô như
truyền thuyết về sáng tạo thế giới, quan niệm về thiên đường, địa ngục, ngày phán
xét cuối cùng, thiên sứ, ma qủy…Tuy vậy, đạo Hồi có một điều khơng giống
nhiều tơn giáo khác là khơng thờ thần tượng, chỉ ở đền Caaba có giữ lại phiến đá
đen làm một biểu tượng sùng bái mà thơi.


- <i>Về bổn phận của tín đồ, </i>đạo Hồi quy định phải thực hiện 5 điều:




</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

+ <i>Đức tin :</i> phải tin tưởng chỉ có Ala, khơng có chúa nào khác, Môhamét là


sứ giả của Ala và là vị Tiên tri cuối cùng.


+ <i>Cầu nguyện:</i> hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào các thời điểm sáng,


trưa, chiều, tối, đêm. Ngoài ra, cứ đến thứ sáu thì phải đến thánh thất làm lễ
một lần.


+ <i>Ăn chay: </i>mỗi năm đến tháng Ramađan (tháng 9, lịch Hồi giáo) phải ăn


chay một tháng. Trong tháng này, từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn


phải nhịn ăn uống…


+ <i>Nộp thuế.</i>


+ <i>Hành hương: </i>trong suốt cuộc đời của mỗi tín đồ phải đi hành hương đền


Caaba ở Mécca một lần.


- <i>Kinh thánh </i>của đạo Hồi là Kinh Côran (nghĩa là “đọc”). Đây là một tác


phẩm ghi lại những lời nói của Mơhamét mà theo tín đồ Hồi giáo, đó là những lời
phán bảo của Chúa. Vì vậy, ngồi nội dung tơn giáo, họ cho rằng Kinh Cơran cịn
chứa đựng mọi nguyên tắc pháp luật, đạo đức và mọi tri thức khoa học.


<b>3.Sự hình thành đế quốc A Rập : </b>
<b>a.</b>Thời kỳ bốn Calipha đầu tiên:


Năm 632, Môhamét chết. Từ đó về sau, người đứng đầu nhà nước A Rập
gọi là Calipha nghĩa là người kế thừa Tiên tri.


Từ năm 632-661, ở A Rập đã thay đổi đến 4 Calipha là Abu Beknơ
(632-634), Ôma (634-644), Ôxman (644-655) và Ali (656-661). Họ đều là bà con hoặc
bạn chiến đấu của Môhamét và được giai cấp qúy tộc bầu ra.


Ngay từ thời Calipha thứ nhất, A Rập đã tích cực thi hành chính sách xâm
chiếm đất đai của Bidantium và của Ba Tư.


Thời Ôma, A Rập lần lượt chinh phục được Xiri (636), Palextin (638), Ai
Cập (642).



Đến thời Ôxman, A Rập tiêu diệt được nước Ba Tư rộng lớn (651).
<b>b.</b>Triều Ômayát và sự hình thành đế quốc A Rập :


Trong số 4 Calipha đầu tiên, Calipha thứ tư là Ali vốn là con rể của
Môhamét. Năm 661, Ali bị giết chết. Nhân đó, viên tổng đốc ở Xiri thuộc họ
Ômayát được các quý tộc ở Ai Cập và Xiri lập nên làm Calipha đóng đơ ở Đamát
(Xiri). Từ đó về sau, ngơi Calipha đời đời cha truyền con nối. Sự kiện đó đánh dấu
vương triều đầu tiên ở A Rập – Vương triều Ômayát (661-750) được thành lập.


Dưới thời Vương triều Ômayát, A Rập tiếptục tiến hành những cuộc chiến
tranh chinh phục, liên tiếp đánh nhau với Bidantium, chiếm được đất đai ở Bắc Phi
của Bidantium.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Năm 732, từ Tây Ban Nha, quân A Rập tấn công vương quốc Phrăng
nhưng bị thất bại.


Về phía Đơng, thếlực của A Rập cũng mở rộng đến lưu vực sông Aân và
cao nguyên Pamia của Trung Á.


Như vậy, đến giữa thế kỷ VIII, A Rập trở thành một đế quốc rộng lớn,
lãnh thổ bao gồm đất đai của ba châu Á, Phi và Âu trải dài từ lưu vực sông Ấn đến
Đại Tây Dương.


<b>4.Triều Abát và sự diệt vong của đế quốc A Rập : </b>
<b>a.</b>Triều Abát (750-1258):


Dưới thời thống trị của triều Ômayát, nhân dân trong vùng mà nhất là
nhàn dân trong vùng bị chinh phục vơ cùng cực khổ, vì vậy, họ ln ln nổi dậy
bạo động. Nhân tình hình ấy, một địa chủ lớn ở Irắc tên là Abu Lơ Abát cũng
thành lập một tổ chức chính trị để chống lại triều Ômayát.



Năm 750, lực lượng khởi nghĩa cũa quần chúng lật đổ triều Ômayát. Abu
Lơ Abát được lập nên làm Calipha. Triều Abát thành lập. Năm 762, triều Abát dời
đô từ Đamát (ở Xiri) sang Bátđa (ở Irắc).


Thời kỳ thống trị của triều Abát là thời kỳ phát triển nhất về mọi mặt của
đế quốc A Rập nhưng đồng thời đây cũng là thời kỳ mâu thuẫn giai cấp và mâu
thuẫn bộ tộc hết sức gay gắt dẫn đến sự tan rã của đế quốc A Rập.


Ngay sau khi Abu Lơ Abat mới lên làm Calipha, người A Rập ở Tây Ban
Nha khơng thừa nhận chính quyền của họ Abát. Đến năm 929, họ chính thức thành
lập một nước riêng gọi là nước Calipha Ccđơba.


Các tổng đốc ở Marốc, Tuynidi và Angiêri, Ai Cập, Xiri, Palextin, Iran,
Trung Á đều thành lập những nước độc lập.


Năm 969, ở Ai Cập chính thức thành lập nước Calipha Cairô. Do vậy,
phạm vi thống trị của triều Abát chỉ cịn lại vùng xung quanh Bátđa mà thơi.


<b>b.</b>Sự diệt vong của đế quốc A Rập :


Trong hoàn cảnh đế quốc A Rập đang tan rã nhanh chóng, người Tuyếc
Xen Giúc sau khi chiếm được Trung Á đã tiến quân chinh phục Iran và đến năm
1055 thì chiếm được Bátđa. Người Tuyếc cũng theo đạo Hồi nên thủ lĩnh của họ
chỉ bắt Calipha A Rập phong cho mình danh hiệu Xuntan (nghĩa là người có quyền
uy) cịn Calipha thì vẫn được duy trì với chức năng Giáo trưởng.


Năm 1132, nhân khi thế nước của người Tuyếc Xengiúc suy yếu, Calipha
khôi phục được chính quyền của mình nhưng lãnh thổ càng bị thu nhỏ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68></div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

<b>Bài III. </b>

<b>ẤN ĐỘ </b>



<b>I.Tình hình chính trị: </b>


<b>1.Ấn Độ từ thế kỷ IV đến thế kỷ XII: </b>


Từ thế kỷ III, nước Cusan suy yếu nhanh chóng, Ấn Độ lại rơi vào tình
trạng chia cắt rất trầm trọng. Năm 320, Santragúpta lập ra một vương triều mới có
lãnh thổ bao gồm hầu hết miền Bắc và môt phần miền Trung Ấn Độ. Dưới thời
Gúpta, kinh tế và văn hóa Ấn Độ đều phát triển hơn so với trước. Đạo Phật tuy
vẫn tồn tại nhưng đã suy dần và đạo Bàlamôn đang được phục hồi.


Cuối thế kỷ V, Ấn Độ đứng trước sự xâm nhập của người Eptalít ở Trung
Á và đến năm 500, phần lớn miền Bắc và một phần miền Trung Ấn Độ bị người
Eptalít thống trị cho đến năm 528.


Sau khi đánh đuổi được người Eptalít, đến khoảng năm 535, triều Gúpta
cũng diệt vong. Đến năm 606, vua Hácsa (606-648) của nước Ta-ne-xa lại dựng
lên một vương triều tương đối hùng mạnh ở miền Bắc Ấn Độ có lãnh thổ tương
đương với vương triều Gúpta trước kia. Chính trong thời kỳ này, nhà sư Trung
Quốc đời Đường là Huyền Trang đã tìm đường sang Ấn Độ để tìm hiểu về đạo
Phật. Hácsa chết khơng có con trai nối ngôi, quốc gia hùng mạnh do ông lập nên
đến năm 648 thì tan rã.


Từ đó cho đến thế kỷ XII, Ấn Độ bị chia cắt rất trầm trọng và nhiều lần bị
các ngoại tộc xâm nhập. Đặc biệt đến thế kỷ XI, Ấn Độ thường bị các vương triều
Hồi giáo Ápganixtan tấn công và đến năm 1200, toàn bộ miền Bắc Ấn Độ bị nhập
vào Ápganixtan.


<b>2.Ấn Độ từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII: </b>



Trong giai đoạn này, Ấn Độ lần lượt bị người Ápganixtan và người Mông
Cổ theo Hồi giáo chinh phục và thống trị. Vì vậy, giai đoạn nàybao gồm hai thời
kỳ là thời kỳ Xuntan Đêli (vương quốc Hồi giáo Đêli) và thời kỳ Mô-gôn (Mông
Cổ).


<b>a.</b>Nước Xuntan Đêli (1206-1526):


Năm 1206, viên Tổng đốc của Ápganixtan ở Bắc Ấn Độ là Cút- út-đin
Aibếch nhân khi tình hình trong nước khơng ổn định đã tách miền Bắc Ấn Độ
thành một nước riêng, tự mình làm Xun-tan (vua), đóng đơ ở Đê-li, gọi là nước
Xun-tan Đêli. Từ đó cho đến năm 1526, ở đây đã thay đổi đến 5 vương triều nhưng
đều do người ngoại tộc theo Hồi giáo thành lập, đồng thời đều đóng đơ ở Đê-li
nên thời kỳ này gọi là Xun-tan Đêli.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Trong hoàn cảnh ấy, Ấn Độ nhiều lần bị quân Mông Cổ xâm nhập và
cướp bóc mà lần xâm nhập đầu tiên diễn ra vào năm 1221. Sau khi Thành Cát Tư
Hãn chết (1227), đế quốc Mông Cổ chia thành nhiều nước. Dịng dõi của người
Mơng Cổ ở Trung Á đều tu hóa và đều theo đạo Hồi. Năm 1398, vua người Mông
Cổ ở Trung Á là Ti-mua lại tấn cơng và cướp bóc Ấn Độ. Năm 1526, thời kì
Xun-tan Đêli kết thúc do sự tấn cơng của người Mông Cổ ở Trung Á.


<b>b.</b>Đế quốc Mô-gôn (1526-1857):


Năm 1525, cháu sáu đời của Ti-mua là Ba-bua đem 20.000 quân xâm
nhập Ấn Độ. Sang năm 1526, Ba-bua chiếm được Đê-li,"tự xưng làm vua”. Mấy
năm tiếp theo, Ba-bua chiếm được hầu hết miền Bắc Ấn Độ, đặt cơ sở cho việc
thành lập một quốc gia lớn mạnh gọi là Đế quốc Mô-gôn.


Năm 1530, Ba-bua chết. Giữa các con của ông đã xảy ra nội chiến. Nhân


đó, năm 1540, một chúa phong kiến nước Ápganixtan là Séc Khan đã đánh bại
người con nối ngôi của Ba-bua là Hu-ma-yun, Hu-ma-yun phải chạy ra nước
ngồi, mãi đến năm 1555, mới khuất phục được ngơi vua (1540-1555).


Năm 1556, Hu-ma-yun chết, con trai của ông là Ác-ba mới 13 tuổi lên nối
ngôi. Lúc bấy giờ, phạm vi thống trị của triều Mô-gôn bị thu hẹp và trong nước tồn
tại những mâu thuẫn rất phức tạp.


Để giải quyết những khó khăn ấy, Ác-ba đã tiến hành nhiều cuộc chinh
phục để mở rộng lãnh thổ của đế quốc đồng thời đã thi hành nhiều chính sách cải
cách về chính trị, kinh tế và tơn giáo, do đó đã làm cho các mâu thuẫn trong xã
hội được xoa dịu,vương triều Mô-gôn bước vào thời kỳ cường thịnh nhất trong lịch
sử nước mình.


Năm 1605, Ác-ba chết, từ đó việc tranh giành ngôi vua giữa cha con, anh
em xảy ra nhiều lần, vương triều Mô-gôn càng ngày càng mất ổn định. Những
chính sách cải cách thời Ác- ba bị xóa bỏ. Hơn nữa, các vua kế ngơi cịn nhiều lần
gây chiến tranh chinh phục các vùng lân cận, bên trong bắt nhân dân phải đóng
góp và lao dịch nặng nề để xây dựng nhiều cơng trình kiến trúc tráng lệ như các
thánh thất Hồi giáo, cung điện và đặc biệt là lăng Tagiơ Mahan nổi tiếng.


<b>c.</b>Sự xâm nhập của người phương Tây:


Từ xưa, Ấn Độ đã là nơi thu hút chú ý của người phương Tây vì tính chất
thần kỳ và sự phong phú về hương liệu cũng như sản phẩm thủ công tinh xảo của
nó. Đến cuối thế kỷ XV, khi nền kinh tế hàng hóa ở Tây Âu phát triển, sự khát
khao đi sang Ấn Độ đã trở thành nguyên nhân quan trọng của các cuộc phát kiến
địa lý.


- Năm 1498, đoàn thám hiểm của Bồ Đào Nha do Vaxcô đơ Gama dẫn



đầu đã đến thành phố Calicút. Sau đó, trong nửa đầu thế kỷ XVI, người Bồ Đào
Nha chiếm được nhiều cứ điểm ở ven biển phía Tây và phía Nam của Ấn Độ.


- Đến cuối thế kỷ XVI, người Hà Lan cũng sang phương Đông buôn bán.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

Độ. Cơng ty này được chính phủ Hà Lan cho hưởng nhiều đặc quyền như miễn thuế
nhập khẩu, đúc tiền, ni qn đội, tun chiến, giảng hịa, ký điều ước, có quyền
xét xử nhân viên của cơng ty và nhân dân thuộc địa.


- Cuối thế kỷ XVI, người Anh cũng đến Ấn Độ. Năm 1600, họ đã thành


lập công ty Đông Ấn Độ, nhưng thế lực công ty của Anh kém xa công ty của Hà Lan
về mọi mặt.


- Người Pháp đến đầu thế kỷ XVII mới đến Ấn Độ . Đến năm 1604, họ


cũng thành lập công ty Đông Ấn Độ .


Các công ty Đông Ấn Độ của Anh, Hà Lan, Pháp, đã chiếm được nhiều
cứ điểm ven biển của Ấn Độ; hơn nữa, nhờ sự khôn khéo, người Hà Lan và người
Anh còn cướp được nhiều cứ điểm vốn thuộc về Bồ Đào Nha mà trường hợp thành
phố Calicút bị rơi vào tay người Anh là năm 1616 là một ví dụ.


Sau khi giành được ưu thế so với các nước phương Tây khác ở Ấn Độ, từ
giữa thế kỷ XVIII, thực dân Anh bắt đầu quá trình chinh phục Ấn Độ. Sau gần một
thế kỷ, đến năm 1849, Ấn Độ hoàn toàn biến thành thuộc địa của Anh, cịn vương
triều Mơ-gơn thì đến năm 1857 cũng diệt vong.


<b>II.Chế độ Jati và Ấn Độ giáo: </b>


<b>1.Chế độ Jati: </b>


Từ thời Vêđa, ở Ấn Độ đã xuất hiện một chế độ đẳng cấp gọi là chế độ
Vácna. Về sau, lại xuất hiện một chế độ phân chia cư dân thành những tập đồn
có địa vị xã hội khác nhau gọi là chế độ Jati.


Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ Jati chủ yếu là do sự phân
công lao động trong xã hội mà trước hết là sự phân công trong các nghề thủ công
và buôn bán.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

<b>a.</b>Số lượng Jati rất nhiều chứ khơng phải chỉ có 4 như chế độ Vácna.


<b>b.</b>Thành viên của mỗi Jati chỉ làm một nghề mà thơi, cịn những người cùng
một Vécna làm nhiều nghề khác nhau.


<b>c.</b>Mỗi Jati có một hội đồng tự quản. Hội đồng này có trách nhiệm theo dõi việc
thực hiện các quy chế về nghề nghiệp, về tục lệ, về hơn nhân…, hịa giải
những vụ xích mích giữa các thành viên trong Jati…


<b>d.</b>Chế độ Jati quy định chỉ được kết hôn với người cùng Jati mà thơi, cịn quy
chế của chế độ Vácna thì cho phép đàn ông của Vácna trên được kết hôn với
phụ nữ của Vácna dưới.


<b>e.</b>Tất cả các thành viên trong các Jati đều có tơn giáo của mình (Ấn Độ giáo,
Phật giáo, Hồi giáo…), còn trong chế độ Vácna, chỉ có 3 đẳng cấp trên được
cúng thần mà thơi.


Đến thời kì này, hậu duệ của tầng lớp tiện dân (Paria) thường làm các
nghề như đánh cá, quét rác, dọn vệ sinh, đao phủ…cũng tổ chức thành các Jati
theo nghề nghiệp của họ. Tuy nhiên họ bị coi là hạng người dơ bẩn mà những


người sạch sẽ không tiếp xúc được.


Sự xuất hiện chế độ Jati càng làm cho sự phân biệt về địa vị xã hội ở Ấn
Độ càng thêm phức tạp và hai chế độ này tồn tại mãi cho đến thời gian gần đây.(1<sub>) </sub>


<b>2.Ấn Độ giáo: </b>


Trong nửa đầu thiên kỷ I TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện đạo Bàlamôn. Đến
giữa thiên kỷ I TCN, đạo Phật ra đời, đạo Bàlamơn bị suy thối. Đến khoảng thế
kỷ VII, đạo Phật suy sụp ở Ấn Độ, đạo Bàlamôn dần dần phục hưng và được gọi
bằng một cái tên mới là đạo Hinđu mà ta quen gọi là Ấn Độ giáo.


Ấn Độ giáo chỉ là sự phát triển của đạo Bàlamôn về các mặt như đối
tượng sùng bái, nghi thức tế lễ, kinh thánh…


- Đối tượng sùng bái của Ấn Độ giáo vẫn là các thần Brama, Visnu và


Siva. Ngoài ra, nữ thần Pácvati (còn gọi là Cali), vợ của thần Siva và Ganêxa,con
của Siva cũng là những vị thần quan trọng. Phật Thích Ca được giải thích là kiếp thứ
chín của Visnu, nhân vật tiểu thuyết Rama được giải thích là kiếp thứ bảy của Visnu
đều được coi là những vị thần quan trọng của Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo còn thờ rất
nhiều vị thần lớn nhỏ khác từ thiên sứ, qủy sứ đến các thú dữ, rắn, chim, khỉ và đặc
biệt là bò.




1<sub> Ô</sub><i><sub>ng Mahátma Gandhi đã cố gắng đưa cùng đinh hoà nhập vào xã hội, lập đền thờ riêng cho </sub></i>


<i>họ và gọi họ là tầng lớp Harigian nghĩa là con cháu của thần thánh.Sau khi Ấn Độ độc lập, </i>
<i>hiến pháp Ấn Độ cơng nhận Harigian hưởng quyền bình đẳng. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

Tuy thần Brama là thần cao nhất nhưng Visnu và Siva được coi là hai vị
thần quan trọng nhất. Do vậy, trong dân gian, Ấn Độ giáo được chia làm hai phái
là phái thờ thần Visnu và phái thờ thần Siva.


Ấn Độ giáo khuyên mọi người phải từ bi, phải thân ái, ngay thẳng, khảng
khái trong hiến lễ và bố thí. Có như vậy thì kiếp sau sẽ được sung sướng hơn, nếu
ngược lại thì sẽ càng cực khổ.


- Về mặt xã hội, Ấn Độ giáo nêu ra những quy định, những tục lệ trong


đời sống hàng ngày của các đẳng cấp, do đó đã củng cố sự tồn tại vững chắc của chế
độ đẳng cấp ở Ấn Độ.


- Kinh thánh của Ấn Độ giáo, ngồi các bộ Vêđa, Upa-nisát cịn có các


tập sử thi Mahabharata và Ramayana và một số tác phẩm khác.


Sau khi phục hưng, nhiều chùa Ấn Độ giáo nguy nga tráng lệ đã được xây
dựng. Ở những chùa ấy thường có rất nhiều đạo sĩ và vũ nữ. Khi cúng lễ người ta
dâng nhiều vật hiến tế, các đạo sĩ đọc kinh, các vũ nữ thì múa những điệu múa tơn
giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

<b>Bài IV. </b>

<b> NHẬT BẢN </b>



Nhật Bản là một nước đảo bao gồm 4 đảo lớn là Hốc-cai-đô, Hơn-su, Si-cơ-cư,
Kiu-su và hơn 500 đảo nhỏ, trong đó đảo Hôn-su là đảo lớn nhất và quan trọng nhất
về mọi mặt.


<b>I.Những nhà nước đầu tiên : </b>



Theo truyền thuyết, nước Nhật Bản thành lập từ năm 660 TCN, khi thiên
hồng Jim-mu (Thần Vũ) dịng dõi của nữ thần Mặt trời lên ngôi. Thực ra, nhà
nước ở Nhật Bản ra đời tương đối muộn.


- Theo sử sách Trung Quốc thì từ thế kỷ I và thế kỷ II, các thủ lĩnh của


những nhà nước phôi thai đã sai sứ đến Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ III, ở đảo Kiu-su
đã xuất hiện nhiều nước, trong đó lớn nhất là nước Yamatai do nữ vương Himicô
thống trị. Quốc gia này đã nhiều lần sai sứ giả sang cống Trung Quốc.


- Đến cuối thế kỷ IV, ở Tây Nam đảo Hôn-su xuất hiện một quốc gia mới


gọi là nước Yamatô. Kẻ thống trị nước Yamatơ đó chính là nguồn gốc của dòng vua
Nhật Bản sau này. Trong xã hội nước Yamatơ, ngồi q tộc, nơng dân, nơ lệ cịn có
một tầng lớp đặc biệt gọi là <i>bộ dân. </i>Nguồn gốc của tầng lớp này là những thành viên
của những thị tộc bị chinh phục; kiều dân Trung Quốc và Triều Tiên; con cháu của
những người phạm tội. Đây là tầng lớp giữ vai trò quan trọng trong việc sản xuất
nông nghiệp và thủ công nghiệp.


- Đến thế kỷ V, nước Yamatô thống nhất được cả Nhật Bản. Sang thế kỷ


VI, di dân Trung Quốc và Triều Tiên sang Nhật Bản ngày càng nhiều, do vậy kỹ
thuật sản xuất tiên tiến, chế độ chính trị, tư tưởng Nho gia, Phật giáo và các thành tựu
khác về văn hoá lục địa cũng được theo họ truyền vào Nhật Bản.


Trong hồn cảnh đó, nội bộ giai cấp thống trị Nhật Bản chia làm hai phái:
họ Xơga chủ trương tiếp thu chế độ chính trị, văn hóa,tơn giáo của lục địa, cịn họ
Mơnơnơbe thì chủ trương tiếp tục duy trì tình trạng như cũ, tiếp tục thờ các thần cổ
truyền của Nhật Bản. Năm 587, nội chiến giữa hai tập đoàn này xảy ra, kết quả là


họ Xôga giành được thắng lợi. Từ đó, Nhật Bản nhiều lần sai sứ sang Trung Quốc,
đồng thời còn cử nhiều nhà sư sang học tập ở Trung Quốc. Những lưu học sinh này
về sau trở thành những học giả có tên tuổi và có nhiều đóng góp trong cuộc cải
cách Tai-ca sắp tới.


<b>II.Nhật Bản từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII: </b>
<b>1.Cuộc cải cách Tai-ca : </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

Đến đầu thế kỷ VII, ở Trung Quốc, nhà Đường được thành lập. Cách tổ
chức bộ máy nhà nước, chế độ ruộng đất và tô thuế…của nhà Đường đều là
những vấn đề mà Nhật Bản cho là khuôn mẫu đáng bắt chước.


Lúc bấy giờ, họ Xôga khơng những chiếm nhiều ruộng đất, bộ dân mà
cịn lũng đoạn chính quyền của Thiên hồng. Vì vậy, năm 645, ở Nhật Bản đã xảy
ra một cuộc chính biến trong cung đình, thế lực của họ Xơga bị tiêu diệt. Ngay sau
đó, Thiên hồng Cơ-tơ-cư (Hiếu Đức) được lên ngơi đặt niên hiệu là Tai-ca (Đại
Hóa), nghĩa là cải cách lớn. Năm 646, Thiên hoàng hạ chiếu cải cách, lịch sử Nhật
Bản gọi là cải cách Tai-ca.


Nội dung chủ yếu của cải cách này laø:


- Bỏ chế độ tư hữu về ruộng đất của quý tộc, biến thành ruộng đất công


(công điền) và bỏ chế độ bộ dân, biến thành thần dân của nhà nước (công
dân).Trên cơ sở ấy nhà nước ban hành chế độ ban điền (chia ruộng) để định
kỳ phân phối ruộng đất cho nông dân cày cấy. Những người được cấp ruộng
đất có nghĩa vụ phải nộp “tô dung điệu”. “Tô” nộp bằng lúa; “điệu”nộp bằng
tơ lụa, bông vải; “dung” là loại thuế thay lao dịch cũng nộp bằng lụa vải.


- Xây dựng bộ máy nhà nước tập quyền Trung ương. Ở Trung ương, Thiên



hồng trở thành kẻ có quyền uy cao nhất, thậm chí được coi như một vị thần
sống. Các cấp hành chính địa phương gồm quốc (tỉnh), quận, lý (làng) do
Quốc ty, Quận ty, lý trưởng đứng đầu.


Từ đó Nhật Bản bước vào một thời kỳ tương tự như một xã hội đời Đường
ở Trung Quốc.


<b>2.Thời Na-ra và thời Hây-An : </b>


Từ đầu thế kỷ VIII đến cuối thế kỷ XII, lịch sử Nhật Bản trải qua hai thời
kỳ : từ năm 710- 794, Nhật Bản đóng đơ ở Nara, nên gọi là thời Nara; năm 794,
Nhật Bản dời đô đến Hây-An (Kiơtơ), từ đó đến năm 1192 tức là khi Mạc phủ
Camacưra thành lập, gọi là thời Hây-An.


Bắt đầu thời Nara, những thành quả của cuộc cải cách Taica đã bị lỏng
lẻo, chế độ ruộng tư lại ra đời và phát triển, trên cơ sở ấy, chế độ trang viên cũng
xuất hiện. Những người cày cấy trong các trang viên ấy đều là những nông dân lệ
thuộc. Trong khi trật tự xã hội không ổn định, các chủ trang viên đã tổ chức huấn
luyện võ nghệ cho các trang dân của mình để bảo vệ trang viên do đó đã lập
thành những tập đồn võ sĩ, trong đó quần chúng võ sĩ phải tuyệt đối trung thành
với chủ tướng của mình.


Đến thế kỷ X, ở Nhật Bản có hai tập đồn võ sĩ mạnh nhất là tập đoàn họ
Taira và tập đồn họ Minamơtơ. Cả hai họ này đều có quan hệ bà con với hoàng
tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

chính”. Về hình thức,Viện chính là một tổ chức có nhiệm vụ giúp đỡ Thiên hoàng
nhưng thực chất, đây là cơ sở của vương thất chống lại họ Fujioara.



Đến đầu thế kỷ XII, Viện chính đã dựa vào lực lượng của họ Taira và họ
Minamôtô để đấu tranh với họ Fujioara. Kết quả là họ Fujioara bị thất thế nhưng
quyền hành lại chuyển vào tay họ Taira, do đó, họ Taira lại gây nên mâu thuẫn
với họ Minamôtô. Năm 1181, chiến tranh giữa hai tập đoàn này bùng nổ và đến
năm 1185, họ Taira bị thất bại. Từ đó, mọi quyền hành dần dần tập trung vào tay
Yôritômô thuộc họ Minamôtô.


<b>3.Nhật Bản từ cuối thế kỷ XII- XIX: </b>


Từ năm 1192,bên cạnh triều đình của Thiên hồng, ở Nhật Bản cịn có
chính quyền của Tướng quân gọi là Mạc phủ. Từ đó, mọi quyền hành ở Nhật Bản
đều ở trong tay Tướng qn, Thiên hồng chỉ làm vì mà thơi. Tình hình ấy kéo dài
đến cuối năm 1867 mới chấm dứt. Trong gần 7 thế kỷ ấy, Nhật Bản trải qua 3 Mạc
phủ, đó là Mạc phủ Camacưra, Mạc phủ Murơmachi và Mạc phủ Tơcưgaoa.


<b>a.</b>Mạc phủ Camacưra (1192-1333) :


Từ năm 1184, Minamơtơ rimơtơ đã lập một chính quyền riêng tại
Camacưra ở miền Đơng Nhật Bản. Sau khi diệt họ Taira, họ Minamôtô dần dần
khống chế các mặt chính trị, kinh tế và quân sự trong cả nước. Năm 1192,
rimơtơ được Thiên hồng phong cho danh hiệu “Tướng quân”, việc đó đánh
dấu Mạc phủ Camacưra chính thức thành lập.


Năm 1199, rimơtơ chết, mọi quyền binh của Mạc phủ rơi vào tay bố
vợ là Hôjiô Tôkimaxa. Về danh nghĩa, họ Hôjiô chỉ giữ chức “ Chấp quyền”
nhưng thực tế là kẻ nắm chính quyền của Mạc phủ.


Lúc bấy giờ, ở lục địa, Mông Cổ đã trở thành một đế quốc hùng mạnh.
Năm 1268, Hốt Tất Liệt nhiều lần sai sứ sang yêu cầu Nhật Bản phải thần phục
nhưng đều bị từ chối. Vì vậy, sau khi thành lập nước Nguyên, năm 1274 và 1281,


Hốt Tất Liệt 2 lần đưa quân sang tấn công Nhật Bản nhưng đều bị tổn thất rất
nặng nề.


Sau chiến tranh, vì khơng có đủ ruộng đất để ban thưởng cho các võ sĩ có
cơng nên tầng lớp võ sĩ rất bất mãn với Mạc phủ Camacưra. Nhân tình hình ấy,
năm 1331, Thiên hồng đã phát động phong trào chống Mạc phủ.


Năm 1333, một viên tướng của Mạc phủ là Asicaga Tacauji được giao
nhiệm vụ đem quân đi đánh dẹp phong trào khởi nghĩa ủng hộ Thiên hoàng của
các lãnh chúa phong kiến, nhưng ơng đã tun bố đứng về phía Thiên hồng.


Cũng thời gian ấy, quân khởi nghĩa của các chúa phong kiến chiếm được
Camacưra, chấp quyền Hôjiô Tacatôki tự sát. Mạc phủ Camacưra diệt vong.


<b>b.</b>Mạc phủ Murômachi (1338-1573):


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

Nhân thời cơ ấy, năm 1336, Tacauji tấn cơng kinh đơ (Kiơtơ). Thiên
hồng Gơ Đaigơ phải chạy xuống phía Nam lập một triều đình mới, lịch sử gọi là
Nam triều. Cịn ở Kiơtơ, Tacauji lập Thiên hồng Mixuaki lên làm bù nhìn, lịch sử
gọi là Bắc triều.


Đến năm 1338, Tacauji tự xưng làm Tướng quân thành lập Mạc phủ mới.
Về sau, Mạc phủ được xây dựng tại đường phố Murômachi ở Kiôtô nên gọi là
Mạc phủ Murơmachi.


Sau khi hình thành cục diện Nam Bắc triều, hai bên đánh nhau hơn nửa
thế kỷ. Đến năm 1392,hai bên ký hoà ước, Thiên hồng Nam triều phải thối vị và
chuyển giao các bảo vật tượng trưng uy quyền của vua cho Thiên hồng Bắc triều.


Sau hơn 70 năm hịa bình, đến năm 1467 (năm Ônin thứ nhất) , do việc


tranh giành các chức quyền trong chính quyền Mạc phủ, một cuộc nội chiến đã nổ
ra ở kinh đô. Đến năm 1477, cuộc nội chiến này lan rộng ra khắp các địa phương,
mãi đến năm 1573 mới chấm dứt.


Thời gian chiến tranh liên miên hơn một thế kỷ này, lịch sử Nhật Bản gọi
là thời Chiến quốc (1467-1573). trong thời kỳ đó, Tướng quân họ Asicaga vẫn tồn
tại nhưng khơng có thực quyền nữa. Năm 1573, tướng qn cuối cùng của họ
Asicaga bị Ơđa Nơbunaga lật đổ. Mạc phủ Murơmachi diệt vong.


<b>c.</b>Quá trình thống nhất Nhật Bản – Mạc phủ Tôcưgaoa:
<b>Quá trình thống nhất Nhật Bản : </b>


Trong 30 năm kể từ khi Mạc phủ Murômachi bị lật đổ (1573), cho đến khi
Mạc phủ Tôcưgaoa thành lập (1603), quyền hành ở Nhật Bản do 3 người nối tiếp
nhau nắm giữ. Đó là Ơđa Nơbunaga (1573-1582), Tơtơmi Hiđêsi (1582-1598)
và Tơcưgaoa Iêaxu.


- Ơđa Nơbunaga là một chúa phong kiến ở miền Trung đảo Hônsu. Từ


năm 1560, ông đã lần lượt đánh bại quân đội của các lãnh chúa ở các tỉnh lân cận,
đến năm 1568, thì chiếm được kinh đô.


Năm 1573, Nôbunaga lật đổ Mạc phủ Murômachi rồi nắm lấy chính
quyền trung ương, nhưng bề ngồi giả vờ trung thành với Thiên hồng nên khơng
xưng làm Tướng quân. Trong khi sự nghiệp thống nhất Nhật Bản chưa hồn thành
thì năm 1582, ơng bị bộ hạ giết chết.


- Kẻ tiếp tục việc thống nhất Nhật Bản là Hiđêyôsi, một tướng của


Nôbunaga. Hiđêyôsi tiếp tục tiến hành chiến tranh đến năm 1590 về cơ bản đã thống


nhất được đất nước.


Năm 1592, Hiđêyôsi phát động cuộc chiến tranh xân lược Triều Tiên.
Năm 1598, Hiđêyôsichết, ở chiến trường Triều Tiên, quân Nhật bị thất bại nặng
nề nên phải rút về nước.


- Sau khi Hiđêyôsi chết, quyền binh rơi vào tay một tướng khác của


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<b>Tình hình Nhật Bản thời Mạc phủ Tôcưgaoa : </b>


Sau khi đánh bại các lãnh chúa phong kiến chống đối, năm 1603,
Tôcưgaoa Iêaxu tự xưng làm Tướng quân, lập Mạc phủ mới ở Êđô(Tôkyô sau
này) gọi là Mạc phủ Tôcưgaoa hoặc Mạc phủ Êđô.


Từ thời Chiến quốc, trong xã hội Nhật Bản đã xuất hiện một tầng lớp địa
chủ mới gọi là đại danh (đamiô), đến thời kỳ này, đại danh trở thành giai cấp lãnh
chúa phong kiến làm cơ sở giai cấp của Mạc phủ Tôcưgaoa.


Cũng từ thế kỷ XVI, kinh tế hàng hóa ở Nhật Bản ngày càng phát triển,
việc buôn bán với bên ngồi như Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam,
Inđơnêxia…lúc đầu được Mạc phủ Tơcưgaoa rất khuyến khích.


Trong hồn cảnh đó, từ năm 1543, thuyền bn Bồ Đào Nha bắt đầu đến
Kiusu. Sau đó, người Tây Ban Nha, người Hà Lan, người Anh cũng đến Nhật Bản.
Cùng với các lái buôn, các giáo sĩ đạo Thiên chúa đã đến Nhật Bản, trong đó
người đến sớm nhất là giáo sĩ Xaviê, người Tây Ban Nha đến nước này năm 1549.


Do những hoạt động chính trị của các giáo sĩ phương Tây nên từ năm
1587, Hiđêyôsi đã ra lệnh cấm đạo Thiên chúa. Đến thời Mạc phủ Tơcưgaoa,
chính sách cấm đạo này càng chặt chẽ.



Song song với việc cấm đạo, Mạc phủ Tôcưgaoa thi hành chính sách đóng
cửa, đến năm 1639 thì chính thức cấm chỉ việc bn bán với bên ngồi.


Đến năm 1854, dưới áp lực của Mỹ, Nhật Bản phải mở cửa cho Mỹ bn
bán, tiếp đó phải ký nhiều hiệp ước bất bình đẳng với Anh, Pháp, Hà Lan…


Mạc phủ là một chính quyền phong kiến cản trở sự phát triển xã hội. Vì
vậy, đến thế kỷ XIX, ở Nhật Bản đã xuất hiện trào lưu tư tưởng yêu cầu Mạc phủ
trả chính quyền cho Thiên hoàng. Đến nửa sau thế kỷ XIX, tinh thần chống Mạc
phủ bùng lên thành một cuộc nội chiến giữa một bên là các thế lực ủng hộ Thiên
hoàng và một bên là phe Mạc phủ.


Cuối năm 1867, tự nhận thấy Mạc phủ đã đến lúc thế cùng lực kiệt,
Tướng quân Yôxinôbu phải đồng ý trao chính quyền lại cho Thiên hồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<b>ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ CÁC NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG </b>


<b>THỜI TRUNG ĐẠI </b>



<b>1.</b> Chế độ ruộng đất ở các nước và các thời kỳ khơng giống nhau, nhưng nói
chung có 2 hình thức sở hữu : sở hữu của nhà nước và sở hữu của tư nhân.


<b>2.</b> Xã hội các nước phương Đông thời trung đại cũng là xã hội phong kiến,
nhưng khác với phương Tây, quan hệ phong kiến ở đây gồm 2 loại:


- Nhà nước<b> – </b>nông dân : nông dân phải nộp thuế.
- Địa chủ – tá điền : tá điền phải nộp tô.


<b>3.</b> Trong giai đoạn đầu thời trung đại, xã hội phát triển cao hơn phương Tây,
nhưng tốc độ phát triển chậm chạp, đến giai đoạn cuối khơng có bước phát triển nhảy


vọt về kinh tế và văn hoá như phương Tây. Mầm mống của chủ nghĩa tư bản đã xuất
hiện ở một số nước nhưng còn rất nhỏ yếu, do đó chưa gây được những ảnh hưởng
lớn lao như phương Tây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

<b>NỘI DUNG ÔN TẬP </b>



<b>1.</b> Các triều đại Tần, Tây Hán, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh,Thanh ở
Trung Quốc .


<b>2.</b> Chế độ quân điền. Giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân ở Trung Quốc.
<b>3.</b> Sựï thành lập nhà nước A Rập. Sự thành lập và diệt vong của đế quốc A
Rập .


<b>4.</b> Chế độ Jati ở Ấn Độ.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×