Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>VĂN MẪU LỚP 11 </b>



<b>ĐỀ BÀI: PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH LẼ GHÉT THƯƠNG CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU </b>


<b>A.</b> <b>SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý </b>


<b>B.</b> <b>DÀN BÀI CHI TIẾT </b>
<b>1.</b> <b>Mở bài </b>


- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và đoạn trích Lẽ ghét thương
- Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận


<b>2.</b> <b>Thân bài </b>


- Khái quát chung


 Truyện thơ Lục Vân Tiên


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

o Đề cao tinh thần nghĩa hiệp và thể hiện khát vọng của tác giả và nhân dân
hướng về những điều tốt đẹp và lẽ công bằng trong cuộc đời: Chính nghĩa
thắng gian tà


 Vị trí đoạn trích: Lẽ ghét thương là đoạn thơ trích từ câu 473 đến câu 504 câu thơ
của truyện Lục Vân Tiên: Bàn về lẽ ghét và thương của ông Quán.


 Bố cục: 4 phần


o 6 câu thơ đầu: lời đối thoại giữa ông Quán và Lục Vân Tiên.
o Từ câu 7 đến câu 16: lẽ ghét của ông Quán


o Từ câu 17 đến câu 30: lẽ thương của ông Quán


o Hai câu cuối: Lời kết về lẽ ghét thương


- Phân tích:


 Ơng Qn là một tri thức, đọc nhiều, hiểu rộng, quan tâm đến thời cuộc và có cách
suy nghĩ, quan điểm về điều ghét lẽ thương rạch rịi


 Lẽ ghét của ơng Qn: chính sự suy tàn, vua chúa đắm say tửu sắc làm cho đời
sống nhân dân lầm than, cực khổ


 Lẽ thương của ông Quán:


o Những người có tài có đức, có chí hành đạo giúp đời, giúp dân nhưng đều
không đạt được sở nguyện: Các nhà nho, nhà thơ, nhà văn, các triết gia nổi
tiếng…..


o Lẽ thương của ơng Qn chính là lẽ thương đời, thương người và cũng là
thương cho chính mình của tác giả. Lẽ thương ấy thấm đẫm tinh thần nhân
văn


 Ông Quán bàn về lẽ ghét thương


o Tồn tại song song, có mối quan hệ khơng thể tách rời, hồn tồn thống nhất
bởi thương là ngọn nguồn của mọi tình cảm.


o Lẽ ghét thương của ông Quán đều xuất phát từ lòng thương dân sâu sắc và
niềm mong muốn những người có tài, có đức thực hiện được sở nguyện của
mình.


- Nghệ thuật:



 Đậm chất tự thuật


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

 Cách bày tỏ cảm xúc bộc trực, mang đậm chất Nam bộ
 Các thủ pháp nghệ thuật như: điệp từ, đối từ


<b>3.</b> <b>Kết bài: </b>


- Nêu đánh giá, nhận xét


- Mở rộng vấn đề bằng liên tưởng và suy nghĩ của cá nhân


<b>C.</b> <b>BÀI VĂN MẪU </b>
<b>Bài văn mẫu 1: </b>


Nguyễn Đình Chiểu là ngơi sao sáng trên văn đàn văn học Việt Nam. Người ta
ngưỡng mộ ông khi chỉ cái tài mà họ còn ngưỡng mộ bởi cái tâm trong sáng, cái tâm biết
yêu thương và trân trọng con người. Ông ra đi nhưng đã để lại cho chúng ta một tác
phẩm truyện hay là Lục Vân Tiên. Đặc biệt trong tác phẩm này đoạn trích <i>“Lẽ ghét </i>
<i>thương”</i> nổi bật lên những đạo lí về lẽ ghét thương trên đời. Lẽ ghét thương ấy được
nhìn qua cái nhìn của ơng Qn.


Đoạn trích Lẽ ghét thương từ câu 473 đến 504 kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật
ơng Qn và mấy nho sĩ tuổi trẻ. Lục Vân Tiên cùng bạn là Vương Tử Trực đi thi, vào
quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cùng là các sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm
thơ để so tài nghệ cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và
Vương Tử Trực gian lận. Ơng Qn nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.


Ông Quán thể hiện khá trực tiếp và phê phán luôn lẽ ghét thương của mình trước
bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ lại xấu


xa. Đó chính là việc tầm phào mà ông Quán ghét. ông Quán là nhân vật tiêu biểu cho các
nhà Nho mai danh ẩn tích, cũng như ông Ngư, ông Tiều, lấy nghề nghiệp mưu sinh làm
tên. Có thể coi đây là nhân vật phát ngơn cho tư tưởng của tác giả.


Bốn câu thơ đầu là lời của ông Quán khi chứng kiến bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm đã
thua lại cịn nói sai lời khiến cho ơng phải bật lên những bất bình của mình bằng cách
thể hiện lẽ ghét thương trong đời:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. </i>


Ông Quán cũng là một tri thức nhưng về mai danh ẩn tích với cái nghề bán quán
này. Cũng có một thời vàng son dùi mài kinh sử Như Vân Tiên và mấy người sĩ tử kia.
Câu thơ: <i>“Vì chương hay ghét cũng là hay thương”</i> ông Quán hay chính tác giả cũng đã
giải thích cái căn ngun ghét thương của chính mình. Theo ơng chính vì ghét nên mới
thương, chính những cái ghét kia đã làm ảnh hưởng đến cái thương của họ.


Tiếp đến mười hai câu thơ sau ông Quán thể hiện cái lẽ ghét của mình, những lẽ
ghét được phô bày ra thể hiện ông Quán là một người tri thức thẳng thắn dám nói dám
làm, dám nhìn vào cái sai của đời trước mà nói lên quan điểm của mình:


<i>“Tiên rằng: Trong đục chưa tường, </i>


<i>Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào? </i>
<i>Quán rằng: Ghét việc tầm phào </i>


<i>Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm”. </i>


Vân Tiên tỏ ra là một người ham học hỏi khơng tự nhận mình là tài giỏi, cũng
không thấy ông Quán chỉ là một người bán quán mà khinh thường ông. Hỏi ông rằng lẽ
ghét thương thế nào thì ơng Qn bắt đầu nói về những ghét thương của mình. Ơng


Qn ghét những chuyện tần phào trong thiên hạ. Truyện tầm phào là những chuyện
tranh giành nhau đua nhau vớ vẩn trong thiên hạ. đặc biệt ông thể hiện cảm xúc tột độ
của mình bằng cách lặp từ ghét và thêm vào đó những tính từ cay đắng. Đó là cái ghét
cay ghét đắng ghét vào tới tâm can của ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Những câu thơ cuối thể hiện sự thương của ông Quán, những người ông thương
toàn là những bậc hiền nhân quân tử trung quân ái quốc mà ai cũng biết đến. Nào là
tánh nhân như Khổng Tử, rồi lại đến học trò hiếu học như Nhan Tử. Hàng loạt những cái
tên của những bậc hiền tài được liệt kê ra Gia Cát, Đồng Tử, Ngun Lượng, Hàn Dũ. Đó
tồn là những người khơng những có tài mà cịn có đức thế nhưng nhiều người trong đó
lại có số phận khơng may mắn người chết sớm, người gặp cảnh loạn lạc cũng chết Ông
Quán thương cho những bậc như thế, những người tài đức là những người được kính
trọng yêu mến:


<i>“Thương là thương đức thánh nhân, </i>
<i>Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông. </i>
<i>Thương thầy Nhan Tử dở dang. </i>


<i>Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh. </i>
<i>Thương ông Gia Cát tài lành, </i>


<i>Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha. </i>
<i>Thương thầy Đồng tử cao xa, </i>


<i>Chí thời có chí, ngơi mà khơng ngơi. </i>
<i>Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, </i>
<i>Lỡ bề giúp nước lại lui về cày. </i>


<i>Thương ông Hàn Dũ chẳng may, </i>
<i>Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa. </i>


<i>Thương thầy Liêm, Lạc đã ra, </i>
<i>Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>“Xem qua kinh sử mấy lần, </i>


<i>Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” </i>


Đoạn trích trên đã thể hiện rõ tầm nhìn xa trơng rộng của một ông chủ quán. Tất
cả những triều đại và việc làm sai trái của họ ông đều biết hết, những bậc hiền nhân
quân tử ông cũng biết hết. Qua đó thể hiện người tài trong xã hội còn rất nhiều tuy
nhiên chỉ là chán ghét mà ở ẩn vui tuổi già mà thôi. Chúng ta thật ngưỡng mộ và khâm
phục tài đức của ông chủ quán này. Ơng là một người tài nhưng khơng phải kẻ vì danh
lợi nên đã chọn cách mai danh ẩn tích để hưởng những thú vui tao nhã của tuổi già.


<i>“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ </i>


<i>Người khơn người đến chốn lao xao”. </i>


(Nguyễn Bỉnh Khiêm)


<b>Bài văn mẫu 2: </b>


Xuân Diệu đã nhận xét rất đúng: “<i>Nguyễn Đình Chiểu đã viết đoạn thơ Lẽ ghét </i>
<i>thương. Thật ra từ ngàn đời trước, đó là tình cảm phổ biến của nhân dân và nhiều thi sĩ </i>
<i>trước kia đã có những vần thơ về tà, chính nhưng viết ra tập trung thành mấy chục câu </i>
<i>thơ giản dị, phân minh, rõ ràng, sắc nét, có nhạc điệu, có tâm tình, khiến ai cũng thuộc, thì </i>
<i>ai đã viết một cách điển hình như vậy ngồi Nguyễn Đình Chiểu”</i>


Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu nằm trong tác phẩm Lục Vân Tiên, là đoạn
thơ trích từ câu 473 đến câu 504/ 2082 câu thơ của truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn


Đình Chiểu


Đây là đoạn trích lời phát biểu của ông Quán khi chứng kiến cảnh Vân Tiên, Tử
Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm thi tài xướng họa tại quán của ông. Kiệm, Hâm bất tài, làm
thơ không ra, lại nghi hoặc đổ thừa cho Tiên và Trực làm thơ nhanh là do chép thơ cổ
nhân, ông Quán bật cười, khuyên Tiên nên biết chọn bạn. Tiên xin ơng nói cho lẽ ghét
thương ở đời, nhân đó mà ơng Qn có đoạn phát biểu như trong đoạn trích “<i>Lẽ ghét </i>
<i>thương” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Quý, ta thấy ông Quán ghét các chế độ xã hội thối nát, đạo đức suy đồi, dối trá, hèn hạ,
dâm dục… đã làm cho nhân dân điêu đứng “sa hầm sẩy hang”. Qua bốn điều ghét ta cũng
thấy Nguyễn Đình Chiếu đã có một tiêu chuẩn về cái đáng ghét rất rõ ràng: Cái gì làm
khổ dân, nhũng nhiễu dân, gây hại cho dân đều đáng ghét cả. Mức độ căm ghét của ông
cũng hết sức sâu sắc. Mấy chữ sau đây nghe như dao khắc vào đá, sâu đậm, không phai
mờ:


<i>Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm</i>.


Ông Quán đã thương những gì? Qua bảy điều thựơng ta thấy ơng thương toàn nhà
nho nổi tiếng, từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào
Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường-Tống. Vì sao lại thương họ? Ông
thương đời họ dở dang, gặp bước gian trn, khơng có điều kiện phát huy đầy đủ tài
năng và đức độ của họ. Nhìn chung lại ông Quán thương người có tài, có đức gặp khó
khăn bị dang dở, bị hãm hại. Qua mấy điều thương này ta thấy ơng Qn hết sức thương
xót những bậc có tài cao, đức trọng ở đời.


Điều đáng chú ý nhất trong đoạn văn này là trong ghét có thương, trong thương có
ghét. Khi nói tới ghét các đời đa đoan lời văn đã để lộ một niềm thương yêu lớn: thương
dân. Khi nói tới niềm thương, lời văn toát ra niềm ghét, ghét kẻ tiểu nhân xua đuổi kẻ
hiền tài.



Tổng hợp lại ông Quán thương nhân dân, thương hiền tài, ghét xã hội thối nát, ghét
kẻ tiểu nhân đê tiện, cội nguồn của mọi bất hạnh trong đời. Lẽ ghét thương của ông
Quán cũng chính là lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, chứng tỏ nhà thơ hồn tồn
đứng về phía nhân dân, chính nghĩa.Sự lặp lại những từ <i>“ghét đời”, “thương là”</i>, <i>“thương </i>
<i>người”</i>… có ý nghĩa như một dấu hiệu liệt kê. Sau mỗi tiếng ấy người đọc đợi chờ thêm
một hiện tượng đáng ghét, điều thương ở đời.


Sự lặp lại gây tác dụng biêu cảm, biểu hiện một nguồn tình cảm dào dạt, lai láng
tn chảy không thôi trong trái tim ông Quán và trái tim nhà thơ mù Nguyễn Đình
Chiểu.


Mấy câu thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Ghét cay, ghét đáng, ghét vào tận tâm </i>


Là những câu rất hay. Hai câu thơ mà bốn chữ ghét, nói lên cường độ sâu đậm của
tình cảm. Hơn nữa mấy chữ ghét lại được sắp xếp theo nhịp điệu tự nhiên, nhịp nhàng
có tác dụng khắc sâu. Cách dùng từ diễn đạt lại là cách dùng khẩu ngữ: <i>“ghét cay ghét </i>
<i>đắng”, “ghét chuyện tầm phào”</i>, hồn nhiên, bộc trực, không một chút quanh co. Vẻ đẹp
của câu thơ Nguyễn Đình Chiểu là vẻ đẹp bộc trực, thẳng thắn, dứt khốt, và do đó mà
mạnh mẽ.


<b>Bài văn mẫu 3: </b>


Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, cuộc đời của ông
đã gắn bó với rất nhiều thể loại văn học và cũng có cơng rất lớn tạo nên sự phong phú
cho thể loại văn học ở Việt Nam, tiêu biểu cho những sáng tác đó là tác phẩm Lẽ Ghét
Thương.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Trong cuộc đời của ông ông luôn phấn đấu để phục mọi điều tốt đẹp nhất cho nhân
dân, những điều ơng thương đó là đều là phục vụ quyền lợi cho nhân dân, ông đã phấn
đấu để làm cho nhân dân có cuộc sống bình an và hạnh phúc, ơng ln ln phấn đấu để
có những điều tốt đẹp nhất cho nhân dân, ơng thương dân chúng lầm than, đói khổ, và
ông cũng căm ghét những bọn chỉ biết lo cho quyền lợi của bản thân mình mà khơng
biết đến dân chúng, lúc nào cũng chỉ biết đến ăn chơi xa đọa mà không biết phục vụ cho
cuộc sống của nhân dân, cả cuộc đời của ông đã phục vụ cho dân chúng, ông ghét bọn
quan lại chỉ biết làm những điều tầm phào và không đem lại quyền lợi gì cho nhân dân,
ơng đã chỉ ra những nỗi ghét thương của chính mình và đó là quan điểm chính trị của
một người yêu nước thương dân và có quan điểm thật rõ ràng và đậm chất yêu nước.


Những điều ông thương và những điều ông ghét nó cũng mang đậm những nét
tương quan sâu sắc bên cạnh những điều thương thiết đó ơng ln tự ý thức được
những điều mình cần làm cho dân chúng, ngoài thương những người dân đen lâm vào
cơ cực khổ đau ra ơng cịn thương những người hiền tài luôn phải chịu những cảnh ngộ
éo le và thời vận loạn lạc làm cho cuộc đời của họ cũng rất bất hạnh, những điều đó đã
tác động đến mỗi người và chính bản thân ông cũng là người hiền tài nhưng phải chịu
những nỗi đau đớn về mặt thể xác khi tuổi già ông bị bệnh và nó đã làm cho ông mất đi
hai con mắt, ông phải lui về ở ẩn ở quê nhà, nhưng ông cũng vô cùng đau đớn và những
điều đó làm cho tâm hồn ơng cảm thấy thật nặng nề khi ông luôn gia sức để phục vụ cho
dân chúng, về ở ẩn nhưng trong lịng khơng lúc nào khơng nhớ tới dân chúng, cuộc đời
gắn bó với dân với nước, về ở ẩn và vẫn dạy học và phục vụ cho dân, không nguôi nghỉ
ngày nào, ông vẫn luôn cố gắng phục vụ cho dân cho nước, những điều đó đã tạo nên
cho ơng một nhân cách cao đẹp, có số phận bạc mệnh nên những điều ông phấn đấu đã
có cơng lớn lao trong sự nghiệp văn học của nước nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

tạo nên cho cuộc sống của người dân được thái bình bình an. Ơng là một người đã có
nhiều đóng góp cho cả dân chúng và sự nghiệp văn chương của ơng nó được coi là một
công cụ để phục vụ nhân dân, dân chúng đang phải chịu nhiều đau khổ và lầm than thì
ơng đã dành hết cơng sức và khả năng của mình để phục vụ cho dân cho nước, cuộc đời


của ông không bao giờ nghĩ cho bản thân mình mà suốt đời vì dân vì nước, khi về già
bệnh tật nhưng bản thân ông vẫn luôn cố gắng hết mình phục vụ những giây phút cuối
cùng của cuộc đời mình cho dân cho nước.


Hạnh phúc của ông đã mang lại cho dân chúng những điều thật bổ ích nó góp phần
tạo nên những điều có ích và nhân dân bớt đi cực khổ, những cực khổ khó khăn đó đã
làm cho lịng u nước của ơng được dâng cao và hình ảnh về lịng u nước đó đã thúc
dục tâm hồn của ơng và mang trong đó là bao cảm xác và những hình tượng thật tuyệt
vời, ơng đại diện và là ngôi sao sáng của nền văn học Việt Nam, những hình ảnh gợi tả
nhiều cảm xúc đặc biệt và đó là hình ảnh của những hình ảnh cao đẹp và nó gợi tả
những nỗi nhớ mong và thương xót trong tâm hồn của tác giả, cuộc đời đó đã tạo nên
cho ơng những danh vọng vẻ vang, những điều đó làm cho mọi người biết đến con
người tài chí và đức hạnh như ông, là một người anh hùng của dân tộc nên ơng ln
phấn đấu vì dân chúng và những điều đáng quý trong cuộc đời của ông đó là những điều
khó khăn vô cùng nhưng ông vẫn cố gắng vượt qua, cuộc đời trôi nổi nhưng ông không
ngừng phấn đấu để bảo vệ đất nước, một người đã hết lịng vì dân chúng và hình ảnh đó
đã tạo nên những cuộc đời có nhiều bấp bênh và nó đã đưa đến cho ông những bất
hạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

lược.


<b>Bài văn mẫu 4: </b>


Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thời trung đại, được
nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện
thơ này vào khoảng sau năm 1850, khi ông đã bị mù, về mở trường dạy học và chữa
bệnh cho dân ở Gia Định. Nội dung dựa trên cơ sở các mơ típ của văn học dân gian và
truyện trung đại kết hợp với một số tình tiết có thật trong cuộc đời tác giả.


Truyện kể về Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn, trên đường đi thi đã


đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga, một tiểu thư con quan. Nguyệt Nga tự nguyện
xin gắn bó với chàng để đáp đển ân nghĩa. Trước khi thi, được tin mẹ đã qua đời, Lục
Vân Tiên phải về chịu tang. Chàng thương khóc mẹ đến mù hai mắt. Trịnh Hâm, một kẻ
xấu bụng vì ghen tài nên đã lừa đẩy Lục Vân Tiên xuống sông. Chàng được vợ chồng ông
Ngư cứu sống, về đến quê nhà, chàng bị cha con Võ Thể Loan (vợ chưa cưới) trở mặt bội
ước, đem bỏ chàng trong hang núi nhưng chàng được Thần, Phật giúp đỡ. Cuối cùng,
mắt chàng sáng ra, thi đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi đánh giặc ô Qua.


Nguyệt Nga một lòng chung thủy với Vân Tiên. Bị Thái sư bắt đi cống cho giặc,
nàng đã nhảy xuống sông tự tử, nhưng được cứu sống. Sau đó, nàng bị cha con Bùi Kiệm
ép duyên, phải bỏ trốn. Cuối cùng, Vân Tiên thắng trận trở về, tình cờ gặp lại Nguyệt
Nga và cùng nàng kết duyên chồng vợ.


Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến 504) kể về cuộc nói chuyện giữa nhân
vật ông Quán và mấy nho sĩ trẻ tuổi. Lục Vân Tiên cùng bạn là vương Tử Trực đi thi, vào
quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm
thơ để so tài cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và vương
Tử Trực gian lận. ơng Qn nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác gỉả.


<i>Quán rằng: “Kinh sử đã từng, </i>
<i>Coi rồi lại khiến lịng hằng xót xa. </i>
<i>Hỏi thời ta phải nói ra, </i>


<i>Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" </i>


Câu nói của ơng Qn cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa hai loại tình cảm ghét
– thương trong trái tim Đồ Chiểu. Hay ghét khơng phải vì những nỗi niềm riêng tư cá
nhân trước cuộc đời. Hay ghét khơng phải vì khơng tha thiết lịng thương. Lí giải cho


căn nguyên của tất cả những căm ghét sôi trào hóa ra lại xuất phát từ tấm lòng yêu
thương trĩu nặng đối với cuộc đời: Vì chưng hay ghét cũng là hay thương. Câu thơ tuyên
ngôn về lẽ ghét thương của ông Quán như một yêu cầu về đạo đức và lí tưởng của con
người. Thương và ghét là hai mặt đối lập của một tình cảm thống nhất. Đã thương cái
tốt đẹp tất phải ghét cái xấu xa. Lẽ ghét thương mà ông Quán nhắc đến gắn với lịng
thương dân sâu sắc. Hóa ra ghét chỉ là một biểu hiện khác của tình yêu thương mà thơi.


Bởi thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương
những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng và chí nguyện bình sinh
nên ơng Qn càng căm ghét những kẻ hại dân, hại đời, nhẫn tâm đẩy dân chúng vào
cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Giữa cuộc đời đầy rẫy bất công, ngang trái, trái tim yêu
thương của nhà thơ khơng thể khơng cất lên tiếng nói bất bình, căm hận những gì lỗi
đạo trời, trái đạo người. Vì chưng hay ghét cũng là hay thương – đó là đỉnh cao tư tưởng
nhân văn của Nguyễn Đình Chiểu.


Tiếp sau câu trả lời khái quát này, ơng Qn đã chứng minh cho điều mình nói. Cái
gốc của lẽ ghét thương xuất phát từ tỉnh u thương. Khơng có cái gốc của thương, mọi
cái ghét dường như có nguy cơ trở thành thái độ hằn học với cuộc đời. Do đó nó sẽ
khơng có ý nghĩa nhân văn cao cả và khơng có động lực đấu tranh.


Phần nói về lẽ ghét gồm mười câu:


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Câu thơ thứ nhất đã hé mở cho chúng ta thấy nguyên nhân quyết định thái độ yêu
ghét của ông Quán và cũng là của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Thấp thống sau từng
chữ, từng câu là một trái tim tha thiết yêu thương. Tình thương ấy thể hiện qua hai chữ
hay thương giản dị, mộc mạc mà xúc động lòng người.


Tám câu thơ tiếp theo chia làm bốn cặp, cứ câu trên nêu lên đối tượng bị ghét thì
câu dưới tả cảnh khổ của dân :



<i>Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm, </i>
<i>Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang. </i>
<i>Ghét đời u, Lệ đa đoan, </i>


<i>Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần. </i>
<i>Ghét đời Ngũ bá phân vân, </i>


<i>Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn. </i>
<i>Ghét đời thúc quý phân băng, </i>


<i>Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân. </i>


Ông Quán đã Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm các triều đại và những nhân vật
đại diện cho các triều đại đó như vua Kiệt thời nhà Hạ, vua Trụ đời nhà Thương bạo
ngược, vô đạo, hoang dâm nhất trong lịch sử vua chúa Trung Quốc. Sử sách còn ghi lại
chuyện vua Kiệt cho: Xây núi thịt, rừng thịt khô, đào ao đựng rượu, đi thuyền trong ao,
đào hầm làm Trường Dạ cung (cung đêm dài) để nam nữ tạp giao. Vua Trụ cuối nhà
Thương lấy thịt người nuôi thú dữ, moi tim trung thần là 77 Can để xem bảy khiếu…


Đời u, Lệ đa đoan tức là u vương và Lệ vương, những tên vua khét tiếng tàn bạo,
say mê tửu sắc. Bao Tự, người đàn bà đẹp mà u vương say đắm thường buồn rầu, chẳng
bao giờ cười. Để mua tiếng cười của Bao Tự, u Vương đã sai người lấy hàng trăm tấm
lụa quý trong kho để xé, tạo ra âm thanh “vui tai” cho Bao Tự nghe. Liều lĩnh hơn, nhà
vua còn cho đốt đài phong hoả trên núi Lư Sơn để các nước chư hầu tưởng có biến, vội
vàng kẻo quân đến cứu. Đang dự yến tiệc trên lầu cao, nhìn các nước chư hầu hốt hoảng
kéo tới rồi chưng hửng ra về, Bao Tự đã vỗ tay cười.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

tiếp nổi lên làm bá chủ. Họ kéo bè, kết cánh, đánh nhau liên miên gây nên cảnh loạn lạc,
điêu đứng cho dân chúng. Đời thúc quỷ phân bảng, vua và các lãnh chúa cuối đời Đường
sớm đầu tối đánh, hỗn chiến kéo dài khiến triều đình chia lìa, suy thối.



Tất cả các triều đại trên đều giống nhau ở một điểm là vua chúa say đắm tửu sắc,
hoang dâm vô độ, quan lại chia phe phái tranh giành, quyển lợi, không chăm lo đến cuộc
sống của nhân dân mà còn làm hại dân, đẩy dân vào cảnh lầm than khổ cực. Nghệ thuật
sử dụng điệp ngữ trong đoạn thơ có tác dụng nhấn mạnh những điểu đáng ghét và thể
hiện thái độ căm phẫn cao độ của nhân vật ông Quán. Qua lời ông Quán, người đọc có
thể thấy Nguyễn Đình Chiểu đã đứng hẳn về phía nhân dân bị áp bức để lên án bọn vua
chúa bạo ngược, bất nhân và lũ quan lại sâu dân mọt nước.


Trong phần nói về lẽ thương, ông Quán đã dẫn những chuyện về các bậc hiền tài
phải chịu số phận lận đận, ước nguyện phị vua giúp đời khơng thành. Hồi bão và cảnh
ngộ của họ dường như có những điểm giống với tác giả của truyện Lục Vân Tiên. Bởi
vậy tiếng thơ là lời đồng cảm sâu sắc xuất phát từ đáy lòng, đâu phải chi là chuyện xem
trong kinh sử đã từng. Nguyễn Đình Chiểu khi viết truyện Lục Vân Tiên đã trải qua bao
bất hạnh của số phận, lại đứng trước một thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Đôn Di ở Liêm Khê và Trình Hạo, Trình Di người Lạc Dương, đều là những triết gia nổi
tiếng đời Tống, ra làm quan nhưng bất đổng quan điểm với vua nên lui vể dạy học.


Như vậy, lẽ thương của ông Quán bắt nguồn từ tình thương dân, thương đời. Cảnh
ngộ của Nguyễn Đình Chiểu khi viết tác phẩm Lục Vân Tiên ít nhiều giống những nhân
vật lịch sử mà ông Quán đã dẫn trong đoạn trích. Là một nho sĩ, Nguyễn Đình Chiểu
cũng từng mơ ước lập thân để trả nợ nước non, nhưng mới bước chân vào đời ông đã
gặp bao nỗi bất hạnh, Cho nôn, trong niềm thương những bậc hiền tài kia cũng có một
phần là thương mình.


Địểm lại tất cả những đối tượng ghét và thương của ơng Qn, chúng ta có thể thấy
điều mà tác giả quan tâm chính là cuộc sống lầm than của đông đảo dân chúng dưới ách
thống trị của bọn vua chúa bạo ngược và số phận long đong của những nho sĩ hiền tài
không gặp thời, gặp vận. Các dẫn chứng tuy lấy từ sử sách của Trung Quốc cổ nhưng


đều được lựa chọn để ngụ ý nói về hiện tình xã hội Việt Nam dưới triều đại nhà Nguyễn.
Chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của nhà Nguyễn đã đẩy nhân dân vào cuộc sống đói
khổ cùng cực. Khơng ít hiền tài chẳng những khơng được tin dùng mà cịn bị vùi dập,
đoạ đày. Cao Bá Quát là người tài cao mộng lớn nhưng thi nhiều lần mà chi đỗ đạt thấp.
Bất mãn trước xã hội thối nát, ông đã tham gia phong trào khởi nghĩa của nơng dân
chống lạí triều đình nên bị giết chết. Bùi Hữu Nghĩa vì cương trực mà không tránh khỏi
ngục tù. Nguyễn Công Trứ <i>“một niềm trung trinh báo quốc”</i> cuối cùng cũng bị biến thành
<i>“con rối làm trò cười cho thiên hạ”</i>. Đằng sau những chuyện tác giả mượn từ sử sách xa
xưa thấp thống bóng dáng hiện thực đang diễn ra trước mắt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

đối với tối đánh, Chí thời có chi đối với ngơi mà khơng ngôi, Sớm dâng lời biểu đối với
tối đày đi xa,… làm cho câu thơ nhịp nhàng, cân đổi, mang vẻ đẹp cổ điển. Tuy nhiên,
phần lớn lời thơ trong Truyện Lục Vân Tiên mang tính chất khẩu ngữ cho nên mộc mạc,
dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Website <b>HOC247</b> cung cấp một môi trường <b>học trực tuyến</b> sinh động, nhiều <b>tiện ích thơng minh</b>,


nội dung bài giảng được biên soạn công phu và giảng dạy bởi những <b>giáo viên nhiều năm kinh </b>


<b>nghiệm, giỏi về kiến thức chuyên môn lẫn kỹnăng sư phạm</b> đến từ các trường Đại học và các
trường chuyên danh tiếng.


<b>I.</b>

<b>Luyện Thi Online </b>



- <b>Luyên thi ĐH, THPT QG:</b>Đội ngũ <b>GV Giỏi, Kinh nghiệm</b> từ các Trường ĐH và THPT danh tiếng xây
dựng các khóa <b>luyện thi THPTQG </b>các mơn: Tốn, NgữVăn, Tiếng Anh, Vật Lý, Hóa Học và Sinh Học.
- <b>Luyện thi vào lớp 10 chun Tốn: </b>Ơn thi <b>HSG lớp 9</b> và <b>luyện thi vào lớp 10 chuyên Toán</b> các


trường <i>PTNK, Chuyên HCM (LHP-TĐN-NTH-GĐ), Chuyên Phan Bội Châu Nghệ An </i>và các trường Chuyên
khác cùng TS.Tr<i>ần Nam Dũng, TS. Pham Sỹ Nam, TS. Trịnh Thanh Đèo và Thầy Nguyễn Đức Tấn. </i>



<b>II.</b>

<b>Khoá Học Nâng Cao và HSG </b>



- <b>Toán Nâng Cao THCS:</b> Cung cấp chương trình Tốn Nâng Cao, Tốn Chuyên dành cho các em HS THCS


lớp 6, 7, 8, 9 u thích mơn Tốn phát triển tư duy, nâng cao thành tích học tập ởtrường và đạt điểm tốt


ở các kỳ thi HSG.


- <b>Bồi dưỡng HSG Tốn:</b> Bồi dưỡng 5 phân mơn <b>Đại Số, Số Học, Giải Tích, Hình Học </b>và <b>Tổ Hợp</b> dành cho
học sinh các khối lớp 10, 11, 12. Đội ngũ Giảng Viên giàu kinh nghiệm: <i>TS. Lê Bá Khánh Trình, TS. Trần </i>


<i>Nam Dũng, TS. Pham Sỹ Nam, TS. Lưu Bá Thắng, Thầy Lê Phúc Lữ, Thầy Võ Quốc Bá Cẩn </i>cùng đơi HLV đạt


thành tích cao HSG Quốc Gia.


<b>III.</b>

<b>Kênh học tập miễn phí </b>



- <b>HOC247 NET:</b> Website hoc miễn phí các bài học theo <b>chương trình SGK</b> từ lớp 1 đến lớp 12 tất cả các


môn học với nội dung bài giảng chi tiết, sửa bài tập SGK, luyện tập trắc nghiệm mễn phí, kho tư liệu tham
khảo phong phú và cộng đồng hỏi đáp sôi động nhất.


- <b>HOC247 TV:</b> Kênh <b>Youtube</b> cung cấp các Video bài giảng, chuyên đề, ôn tập, sửa bài tập, sửa đề thi miễn


phí từ lớp 1 đến lớp 12 tất cả các mơn Tốn- Lý - Hố, Sinh- Sử - Địa, NgữVăn, Tin Học và Tiếng Anh.


<i><b>V</b></i>

<i><b>ữ</b></i>

<i><b>ng vàng n</b></i>

<i><b>ề</b></i>

<i><b>n t</b></i>

<i><b>ảng, Khai sáng tương lai</b></i>



<i><b> Học mọi lúc, mọi nơi, mọi thiết bi – Tiết kiệm 90% </b></i>



<i><b>Học Toán Online cùng Chuyên Gia </b></i>


</div>

<!--links-->

×