Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.88 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
CẢM NHẬN KHỔ THƠ CUỐI TRONG BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ
CỦA HÀN MẶC TỬ
Khổ 1 và khổ 2 của bài thơ <i>Đây thôn Vĩ Dạ đã gợi nên những cảnh đẹp thiên nhiên thơ </i>
mộng nhưng đượm buồn của xứ Huế, cảnh mặt trời nhô lên sau hàng cau và khu vườn
xanh mướt (khổ 1), cảnh gió, mây, hoa bắp và dịng sơng với con thuyền chở đầy trăng
hư hư ảo ảo (khổ 2). Vậy khổ ba cũng là khổ cuối của bài thơ sẽ được phân tích theo
hướng cảm nhận như thế nào, mời các em cùng theo dõi!
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý khổ 3 trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Mở bài:
+ Nêu sơ lược về tác giả Hàn Mặc Tử
+ Giới thiệu khổ thơ thứ 3
- Thân bài
+ Nội dung
Tha thiết hướng về con người ở Vĩ Dạ
Tâm trạng hoài nghi, suy tư về cuộc đời và tình người
+ Nghệ thuật
Hình ảnh “khách đường xa”; điệp ngữ (khách đường xa, ai)
Đại từ phiếm chỉ (ai), đại từ (đây); từ Hán – Việt (nhân ảnh); câu hỏi tu từ
(Ai biết tình ai có đậm đà?)
Nhịp thơ 4/3; ngôn từ trong sáng, giản dị, giàu sức tạo hình và có sức biểu
cảm tinh tế.
Nghệ thuật cực tả (sắc trắng)
- Kết bài
+ Tóm lược lại ý chính của giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ thứ 3.
- Dàn ý chi tiết
a. Mở bài
- Nêu sơ lược về tác giả: Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên thật là Nguyễn Trọng
Trí, q Quảng Bình. Là một nhà thơ gặp nhiều bi thương trong cuộc sống
nhưng hồn thơ của ông lại luôn dồi dào nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Giới thiệu khổ thơ thứ 3: là sự bộc lộ những tâm trạng và sự hoài nghi của
nhân vật trữ tình, nhưng nổi bật lên là niềm khát khao được sống, được giao
hòa cùng với thiên nhiên và con người xứ Huế.
+ Tha thiết hướng về con người ở Vĩ Dạ trong sự hư ảo giữa thực và mơ: đó là
hình ảnh của một người khách đường xa về một người con gái trong màu áo
trắng tinh khôi, trinh nguyên nhưng mờ ảo. (2 câu đầu)
+ Tâm trạng hoài nghi, suy tư về cuộc đời và tình người: sự chìm đắm trong
hai khơng gian của tâm tưởng và thực tại, sự hoài nghi về tình người ở thơn Vĩ
sau bao nhiêu năm xa cách, mong chờ.
- Nghệ thuật
+ Hình ảnh “khách đường xa” gợi lên nỗi nhớ và khát khao được gặp lại người
xưa, chốn cũ của nhân vật trữ tình.
+ Điệp ngữ (khách đường xa, ai): sự chìm đắm trong vô thức với khát vọng
+ Đại từ phiếm chỉ (ai), đại từ (đây): làm bật lên cảm giác của sự vơ định và
hồi nghi của nhân vật trữ tình.
+ Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”: để hỏi người mà cũng để hỏi
mình, vừa gần gũi nhưng cũng xa xôi, vừa hoài nghi nhưng cũng giận hờn,
trách móc.
+ Từ Hán – Việt (nhân ảnh): từ Hán – Việt duy nhất được tác giả sử dụng trong
bài, có sự dự cảm về chính cuộc đời của tác giả.
+ Nhịp thơ 4/3
+ Ngơn từ trong sáng, giản dị, giàu sức tạo hình và có sức biểu cảm tinh tế.
+ Nghệ thuật cực tả (sắc trắng): tạo nên vẻ đẹp thanh khiết, trinh nguyên của
nhân vật “em” nhưng đồng thời cũng làm bật lên sự bất lực về thị giác, bất lực
về tâm hồn của một trái tim khi phải xa cách cuộc sống thực ngoài kia.
c. Kết bài
- Tóm lược lại ý chính của giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ thứ 3.
- Gợi mở vấn đề.
<b>Bài văn mẫu </b>
<i><b>Đề bài: Phân tích khổ thơ thứ 3 trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử </b></i>
<i>Gợi ý làm bài </i>
thôn Vĩ Dạ”. Đặc biệt là khổ thơ cuối ánh lên niềm khát khao tình đời, tình
Nếu khổ thơ đầu mở ra khung cảnh thiên nhiên trong trẻo đẹp say đắm lòng
người của Vĩ Dạ tắm mình trong ánh nắng buổi ban mai. Tiếp đến khổ thơ thứ
hai là cảnh sông nước, mây trời trong đêm trăng huyền ảo trên dòng Hương
giang hư hư thực thực với những mặc cảm đớn đau, nuối tiếc tuột cùng của thi
nhân khi sắp phải xa lìa cõi đời. Để những sông trăng, thuyền trăng đã đưa Hàn
Mặc Tử vào cõi mơ đầy huyền ảo ở khổ thơ cuối. Đây cũng là khổ thơ thấm
đẫm tình người, khao khát được sống của nhà thơ.
Bị cuộc đời tuyệt giao, bỏ rơi nhưng Hàn Mặc Tử không quay lưng lại với
cuộc đời, mà ông càng thiết tha với đời nhiều hơn. Thực tại quá đớn đau,
nghiệt ngã, thi nhân đành tìm niềm an ủi trong cõi mộng. Bao trùm khổ thơ thứ
ba là một màu sắc hư vơ. Thật thật, giả giả khó lịng phân tách đâu là thực đâu
là mơ. Tình yêu đối với con người và thiên nhiên nhiên xứ Huế sâu đậm, ám
ảnh nhà thơ đến những giây phút cuối đời. Nhưng căn bệnh hiểm nghèo, quái
ác đôi khi làm nhà thơ như khơng cịn tỉnh táo, không phân biệt đâu là hiện
thực đâu là giấc mơ:
“Mơ khách đường xa khách đường xa”
Nhà thơ đang chìm vào trong cõi mộng, trong trạng thái vô thức “mơ”.
Điệp ngữ “khách đường xa” được lặp lại hai lần, lần lặp thứ hai chữ “mơ” đã
được bỏ đi khiến cho câu thơ như ẩn chứa hai tâm trạng, hai cung bậc cảm xúc
khác nhau: lần đầu là khát vọng, lần sau là thực tại. Khát vọng là mơ về khách
đường xa, mơ một lần được gặp lại người xưa, cảnh cũ nhưng hiện thực càng
mơ, càng mong, càng khao khát lại càng xa, xa mãi đến vô vọng, không thể
còn một lần nào gặp gỡ.
Câu thơ thứ hai: “Áo em trăng q nhìn khơng ra” trong khơng gian hư ảo
hoài nghi về tình người của con người xứ Huế. Liệu sau quãng thời gian xa
cách, liệu với căn bệnh hiểm nghèo, người dân xứ Huế vẫn thương yêu, trìu
mến hay là đã lãng quên mình, xa lánh, ruồng rẫy thi nhân. Câu thơ cuối cũng
chính là câu trả lời cho câu thơ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Nhà thơ ao
ước được trở về nơi xưa, được gặp lại cố nhân nhưng “Cảnh xưa cịn đó, lịng
người đổi thay”. Câu thơ khép lại bải thơ trong nỗi hoài nghi, tuyệt vọng
nhưng vẫn thấy ở đó là niềm khát khao của thi nhân với tình người, với trần thế
chẳng thể nào lụi tàn.
Khổ thơ cuối đượm buồn, mang màu sắc ảo ảnh vừa có chút hồi nghi,
trách móc, vừa chứa chan niềm tha thiết với cuộc đời, với con người của một
tâm hồn cô đơn ham sống, khát khao sống đến mãnh liệt.
Với những hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ giàu tâm trạng,
âm điệu, nhịp thơ trong sáng, thiết tha kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, so
sánh, những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra một
khung cảnh thiên nhiên và con người xứ Huế đầy sức sống, một bức tranh tồn
bích hịa quyện giữa cõi thực và cõi ảo, giữa tâm tưởng và ước mong. Qua đó,
tác giả muốn bộc lộ tình yêu mãnh liệt của mình với thiên nhiên, với con người
cùng niềm ham sống, khát khao sống của mình. Sáng tác bài thơ trong hoàn
cảnh cái chết cận kề. Song cái ta bắt gặp vẫn là tình yêu, niềm gắn bó tha thiết
với thiên nhiên, con người và sự sống. Cành làm ta đồng cảm, mến phúc trước
nghị lực sống phi thường, vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã của biết bao phũ
Giữa giây phút cận kề với cái chết, của sự hoảng loạn và tuyệt vọng nhưng
khát khao cháy bỏng Hàn Mặc Tử đã để lại, đã cống hiến cho đời những vần
thơ hoàn mĩ đến tuyệt bích “Đây thơn Vĩ Dạ”. Ra đời cách đây gần tám thập kỉ
những những vần thơ đầy suy tư, khắc khoải ấy vẫn làm hàng triệu trái tim độc
giả cùng thổn thức, cùng xót xa và cùng hoài niệm với thi nhân. Thật vậy, chỉ
một phút thăng hoa cũng đủ để tạo nên một trang tuyệt bút.