Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Nguoi trong bao va Nguoi cam quyen khoi phuc uy quyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.12 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐỀ CƯƠNG VĂN HỌC KÌ II</b>


<i><b>Tác phẩm: </b></i>

<b>Người trong bao – A.P. Sê-khốp</b>


<i><b>1. Hoàn cảnh sáng tác:</b></i>


- Hoàn cảnh chung: xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu khơng khí chun chế nặng nề cuối thế kỉ
XIX. Mơi trường ấy đã đẻ ra lắm kiểu người kì quái.


- Hoàn cảnh riêng: sáng tác trong thời gian nhà văn dưỡng bệnh ở thành phố I-an-ta, trên bán đảo
Crưm, biển Đen.


<i><b>2. Bố cục:</b></i> 2 cách chia
Cách 1: 2 phần


- Phần 1: từ đầu đến “…khơng nói thêm điều gì.” – trước khi Bê-li-cốp chết.
- Phần 2: đoạn cịn lại – sau khi Bê-li-cốp chết.


Cách 2: 3 phần


- Phần 1: mở truyện, từ đầu đến “… kể cho bác sĩ I-van nghe chuyện về Bê-li-cốp.”.
- Phần 2: thân truyện, từ tiếp đến “… cũng sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa!.”.
- Phần 3: kết truyện, đoạn còn lại.


<i><b>3. Ý nghĩa nhan đề:</b></i> “Người trong bao” mang ý nghĩa, giá trị biểu tượng cho một kiểu người, một
lối sống đã tồn tại khá phổ biến ở xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, lối sống thu mình, ích kỉ, bảo thủ, lạc hậu.
Lối sống co cụm trong bao ấy đã để lại những tác động tiêu cực trong xã hội Nga, tạo ra một bầu khơng
khí, một cuộc sống “nặng nề, mệt nhọc, vô vị” trong xã hội Nga.


<i><b>4. Ý nghĩa hình tượng cái bao:</b></i>


- Nghĩa đen: là một vật dụng quen thuộc hằng ngày và rất được ưa thích của Bê-li-cốp: ơ để trong


bao, đồng hồ quả qt để trong bao, chiếc dao cũng để trong bao,… Bản thân hắn cũng được đặt trong cái
bao đặc biệt: “ chiếc cổ áo bành tơ bẻ đứng lên”.


- Nghĩa bóng: là tượng trưng, biểu tượng cho một lối sống, tính cách, kiểu người như Bê-li-cốp.
Hình ảnh “cái bao” cịn thường trực trong tư tưởng hắn: hắn ln có một lỗi sợ hãi thường trực, “sợ nhỡ
ra lại có chuyện gì”. Bởi đó, hắn ngại va chạm, tiếp xúc, bảo thủ, không dám chấp nhận cái mới, hắn tạo
ra một lối sống kì dị, tư tưởng hắn bị <b>bao</b> kín bởi một nỗi sợ vơ hình, hắn bị gặm nhấm dần bởi nỗi sợ ấy.


- Nghĩa biểu trưng: không chỉ là đại diện cho tính cách, lối sống của Bê-li-cốp nói riêng mà còn là
đại diện cho kiểu người, lối sống trong bao - một kiểu người, một lối sống đã từng tồn tại và phát triển ở
Nga cuối thế kỉ XIX. Phải chăng, xã hội Nga bấy giờ cũng chính là hình ảnh một cái bao khổng lồ, tù
túng, trói buộc, vây hãm, ngăn chặn quyền tự do dân chủ của người dân Nga nói chung và của trí thức
chân chính Nga nói riêng.


<i><b>5. Giá trị nội dung:</b></i>


- Tác phẩm đã lên án và phê phán mạnh mẽ kiểu người trong bao, lối sống trong bao hèn nhát, bảo
thủ, bạc nhược, ích kỉ của một bộ phận trí thức Nga và tác hại sâu sắc của nó đối với xã hội văn hoá, tư
tưởng và đạo đức nước Nga cuối thế kỉ XIX.


- Bức thiết cảnh báo và kêu gọi mọi người cần phải thay đổi cuộc sống, cách sống, “không thể
sống mãi như thế được!”, không thể sống mãi cuộc sống vô vị, tầm thường, hèn nhát, cổ hủ, tự mãn, ích
kỉ, cơ độc, lạc hậu như thế.


<i><b>6. Giá trị nghệ thuật:</b></i>


- Nghệ thuật xây dựng nhân vật với những nét tính cách thống nhất, những diễn biến logic hợp lí
từ ngoại hình, chân dung đến tính cách, ảnh hưởng  xây dựng thành công một nhân vật điển hình.


- Nghệ thuật xây dựng biểu tượng: xây dựng thành công biểu tượng cái bao.


- Nghệ thuật đối lập, tương phản giữa những nét tính cách, cá tính khác nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Cách kể chuyện tự nhiên với một giọng kể chậm rãi, vừa giễu cợt, châm biếm, mỉa mai vừa trầm
tĩnh, chậm buồn, bên ngồi có vẻ khách quan, bình thản nhưng bên trong lại chất chứa những trăn trở, suy
tư.


- Cách lựa chọn ngôi kể hết sức linh hoạt, khéo léo, tự nhiên: câu chuyện thứ nhất là lời kể của tác
giả, câu chuyện thứ hai là lời của nhân vật Bu-rơ-kin  hiệu qủa: câu chuyện được kể khách quan nhưng


vẫn thể hiện được tính chủ quan, gây cảm giác chân thật, gần gũi  truyện lồng trong truyện.
<i><b>7. Chi tiết cái chết của nhân vật Bê-li-cốp:</b></i>


- Nguyên nhân:
+ ngã và bị ốm


+ bị sốc trước thái độ khinh thường của Cô-va-len-ca và tiếng cười chế nhạo của Va-ren-ca
+ lối sống của Bê-li-cốp đại diện cho cái cũ, cái lạc hậu, cổ hủ, tiêu cực, bảo thủ nên cái
chết của hắn là tất yếu theo quan điểm triết lí: cái cổ hủ, tiêu cực rồi sẽ bị xã hội đào thải, loại bỏ.


- Thái độ của Bê-li-cốp khi chết: bằng lòng, thoả mãn, mãn nguyện được thể hiện rõ trên khuôn
mặt “hiền lành, dễ chịu thậm chí cịn có vẻ tươi tỉnh nữa”.  Khi chết, khi được nằm trong quan tài chính


là khi Bê-li-cốp đạt được khát vọng mãnh liệt nhất của hắn: được thu mình trong bao.  Cho đến lúc


chết, kiểu người, tính cách hắn vẫn khơng hề thay đổi mà cịn nhấn mạnh, tăng tiến  đặc sắc trong


phong cách Sê-khốp.


- Thái độ của mọi người trước cái chết của Bê-li-cốp:



+ nhẹ nhàng, thoải mái, có cảm giác được giải thốt, tự do


+ ngay sau đó: mọi người lại trở về cảm giác nặng nề, vô vị như cũ  nhấn mạnh sức ảnh


hưởng mạnh mẽ, dai dẳng của kiểu người trong bao, lối sống trong bao. Kiểu người Bê-li-cốp đã ám ảnh,
đầu độc bầu khơng khí của xã hội Nga khơng chỉ trong thế kỉ XIX mà cịn đến tận về sau.


 Hình tượng nhân vật Bê-li-cốp là một sản phẩm sáng tạo độc đáo của Sê-khốp. Nó khơng chỉ thể hiện


hình ảnh một con người cá thể riêng biệt mà đã trở thành một điển hình mang tính chất phổ quát cho một
kiểu người, một lối sống, một tính cách, một hiện tượng xã hội, một quy luật xã hội.


<i><b>Đoạn trích:</b></i>

<b> Người cầm quyền khơi phục uy quyền – V. Huy-gơ</b>



<i><b>1. Vị trí đoạn trích:</b></i> nằm ở cuối phần thứ nhất của tác phẩm <i><b>Những người khốn khổ.</b></i>
<i><b>2. Bố cục:</b></i>


- Bố cục của tác phẩm <i><b>Những người khốn khổ</b></i>: 5 phần
+ Phần 1: Phăng-tin


+ Phần 2: Cô-dét
+ Phần 3: Ma-ri-uýt


+ Phần 4: Tình ca phố Pơ-luy-mê và anh hùng ca phố Xanh Đơ-ni
+ Phần 5: Giăng Van-giăng


- Bố cục đoạn trích: 3 phần


+ Phần 1: Giăng Van-giăng chưa mất hẳn uy quyền, từ đầu đến “… Hắn chỉ bảo: Mau lên!”
+ Phần 2: Giăng Van-giăng đánh mất uy quyền, tiếp đến “… Phăng-tin đã tắt thở.”



+ Phần 3: Giăng Van-giăng khơi phục lại uy quyền, đoạn cịn lại


<i><b>3. Ý nghĩa nhan đề</b><b>Người cầm quyền khôi phục uy quyền</b></i>: do V.Huy-go đặt (mỗi chương, mỗi
đoạn trong tác phẩm <i><b>Những người khốn khổ</b></i> đều được V.Huy-gô đặt tên trọn vẹn.). Có hai cách hiểu
nhan đề này:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

tiếp tục phục tùng Giăng giăng. Do đó khi thị trưởng Ma-đơ-len trở lại với cái tên thật Giăng
Van-giăng thì Gia-ve với chức năng là thanh tra đã khôi phục lại quyền uy của hắn.


+ Cách 2: “người cầm quyền” và “khôi phục quyền uy” ở đây là Giăng Van-giăng: cách nhìn nhận
và xưng hơ của Phăng-tin, Giăng Van-giăng vẫn là thị trưởng Ma-đơ-len  các tình huống Giăng


Van-giăng bị Gia-ve túm lấy cổ áo, bị xưng hô “mày - tao” và thái độ có vè nhún nhường thể hiện qua sự bình
tĩnh khiến người đọc có cảm giác như vai trị thị trưởng khơng cịn nữa (sự đảo ngược về vị trí xã hội) 


hành động quyết liệt, dứt khoát của Giăng Van-giăng: kết tội Gia-ve, giật gãy thanh giường, chủ động
yêu cầu Gia-ve,… khiến cho Gia-ve không còn hống hách được nữa mà khép nép, lo sợ  Giăng


Van-giăng đã lấy lại uy quyền nhưng không đơn giản là uy quyền của một ông thị trưởng mà là uy quyền của
tình thương.


<i><b>4. Giá trị nội dung:</b></i>


Đoạn trích đã thể hiện một cách tập trung và sinh động hình tượng nhân vật Giăng Van-giăng, qua
đó thể hiện tư tưởng, quan điểm, niềm tin, con đường cải tạo xã hội của V.Huy-go, con đường hướng tới
những người lao khổ bằng tình thương và lịng nhân ái vơ bờ.


<i><b>5. Giá trị nghệ thuật:</b></i>



- Nghệ thuật đối lập, tương phản


- Một loạt biện pháp nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, phóng đại, bình luận ngoại đề được sử dụng triệt
để, hiệu quả.


- Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật có sự phân tuyến rạch ròi giữa thiện – ác, tốt – xấu gần với
văn học dân gian.


- Bút pháp lí tưởng hoá được sử dụng một cách triệt để, đắc lực trong xây dựng hình tượng nhân
vật Giăng Van-giăng  chủ nghĩa lãng mạn


<i><b>6. Chi tiết: “Giăng Van-giăng tì khuỷu tay lên thành giường,…”:</b></i>


Phăng-tin chết, Giăng Van-giăng “thương xót khơn tả”, ơng “tì khuỷu tay lên thành giường, bàn
tay đỡ lấy trán”… Ông ngồi yên lặng, “chẳng nghĩ đến điều gì trên đời này nữa”. Lời nói thì thầm của
Giăng Van-giăng có ý nghĩa sâu xa. Người ta khơng rõ ơng nói gì với Phăng-tin. Chỉ biết sau lời nói ấy
người ta thấy xuất hiện “một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa
xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”. Khuôn mặt Phăng-tin ánh lên một sự thanh thản, giống
như là mãn nguyện hạnh phúc. Nụ cười của Phăng-tin là điểm sáng của tác phẩm. Nó làm mờ đi những
tăm tối hà khắc, những hung ác bạo ngược. Đó cũng là nụ cười của niềm tin lạc quan và khát vọng chiến
thắng khơng gì dập tắt. Lời thì thầm của Giăng Van-giăng có thể là lời hứa tìm lại đứa con cho Phăng-tin,
hay có thể là một viễn cảnh tương lai tươi sáng được mở ra. Dẫu thế nào, người đọc cũng cảm thấy một
niềm hạnh phúc lan toả đánh thức tâm hồn người ta. Phăng-tin đi vào cõi chết những cũng chính là đi vào
“bầu ánh sáng vĩ đại” – sự giải thoát khỏi đau khổ, hạnh phúc để bước vào sự đổi thay của thế giới, sự
chiến thắng của tinh thần nhân văn bất diệt. Đó cũng là bức thơng điệp đẹp đẽ của chủ nghĩa lãng mạn
Vích-to Huy-gơ trong tác phẩm.


<i><b>7. Những dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa trong đoạn trích:</b></i>


+ Hình ảnh Giăng Van-giăng được lí tưởng hố, là hình ảnh của một đấng cứu tinh, một vi cứu


nhân giành tình thương cho mọi kiếp người bất hạnh đặc biệt trong đoạn cuối của đoạn trích: tư thế ngồi,
nét mặt, dáng điệu: “…tì khuỷu tay lên thành giường, bàn tay đỡ lấy trán, ngắm Phăng-tin nằm dài khơng
nhúc nhích. Ông ngồi như thế, mải miết, yên lặng, rõ ràng chẳng nghĩ đến điều gì trên đời này nữa…”,
“…thì thầm bên tai Phăng-tin”, “…thắt lại dây nút áo cổ cho chị, vén gọn mớ tóc vào trong chiếc mũ vải.
Rồi ông vuốt mắt cho chị.”… tấm lòng yêu thương cao cả, sự đồng cảm của những con người cùng


khổ, vẻ đẹp của một tấm lịng cao cả


+ Hình ảnh Phăng-tin: “một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi
mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết.”, “… gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một
cách lạ thường.”  sự thanh thản trong tâm hồn người ra đi từ đây niềm tin cái thiện sẽ chiến thắng cái


ác xuất hiện và được khẳng định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

+ “Chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại”  một cách nhìn lãng mạn, khơng giống như quan


niệm bình thường, thể hiện niềm tin bất diệt vào thế giới cái thiện. Cái thiện bao giờ cũng gắn với ánh
sáng.




 Tác dụng: thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng, ngợi ca, yêu thương của V. Huy-gô đối với những


con người khốn khổ và niềm tin sâu sắc, mạnh mẽ của ông vào cái thiện nhất định sẽ thắng cái ác, con
người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen
nhóm niềm tin vào tương lai


<i><b>8. Tác dụng của những đoạn bình luận ngoại đề:</b></i>


<b>+ “</b>Trong cái điệu hắn nói lên hai tiếng ấy có cái gì man rợ và điên cuồng,… Khơng cịn là tiếng


người mà là tiếng thú gầm… Hắn coi Giăng Van-giăng như một địch thủ bí hiểm và khơng sao bắt được,
một đơ vật lạ lùng hắn ơm ghì đã năm năm mà khơng thể quật ngã…<b>”  </b>Khắc hoạ hình ảnh nhân vật
Gia-ve, một con thú dữ


+ “Ơng nói gì với chị? Người đàn ơng bị ruồng bỏ ấy có thể nói gì với người đàn bà đã chết?
Những lời ấy là lời gì vậy? Chẳng ai trên thế gian này nghe được. Kẻ đã chết có nghe thấy khơng? Có
những ảo tưởng cảm động, có thể là những sự thực cao cả...” một loạt câu hỏi đã góp phần khẳng định


sự đồng cảm, tình yêu thương giữa hai con người khốn khổ cùng lời hứa với người đã chết.


+ “chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại”  niềm tin bất diệt vào thế giới cái thiện và tư tưởng


nhân văn cao cả trong tác phẩm.


<i><b>9. Quyền uy đích thực trong đoạn trích:</b></i>


Quyền uy đích thực trong đoạn trích này khơng phải trong cái đắc thắng, hung hãn, bạo ngược của
cường quyền với hình ảnh đại diện là Gia-ve, mà chính là trong tình yêu thương, đồng cảm của những
con người khốn khổ. Bằng ánh sáng của tình thương, con người có thể đẩy lùi bóng tối của cường quyền,
bạo ngược và đặt niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Kết thúc đoạn trích, rõ ràng cái thiện đã giành lại
được uy quyền, sức mạnh tình thương đã đẩy lùi cái ác. Giăng Van-giăng với tấm lịng thánh thiện có
quyền lực vô biên của một đấng cứu tinh, cứu vớt, bao bọc và chở che cho linh hồn của Phăng-tin. Qua
hình ảnh Giăng Van-giăng V.Huy-gơ một lần nữa khẳng định “Trên đời, chỉ có một điều ấy thơi, đó là
thương u nhau.”. Đoạn trích <i><b>Người cầm quyền khơi phục uy quyền</b></i> là sự lên ngôi của cái Thiện, sự
thảm bại của cái ác và khẳng định tấm lòng nhân đạo cao cả của V. Huy- gô đối với những con người
khốn khổ.


</div>

<!--links-->

×