Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

lược sử và nội dung bia chí linh bát cổ chý linh b¸t cæ thi – l­îc thuët lþch sö chý linh b¸t cæ thi năm 1795 ất mão từ tháng 8 mùa thu đến tháng giêng năm 1796 mậu ngọ các ông nguyễn huy trạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.65 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

CHÝ LINH b¸t cỉ thi



Năm 1795 (Ất Mão), từ tháng 8 mùa thu đến tháng giêng năm 1796
(Mậu Ngọ), các ông Nguyễn Huy Trạc, Phạm Huy Trạch, Lê Huy Ngọc,
Lương Khắc Hịa, Vũ Đình Doanh... lấy đã ở động Dương Nham tạo bia và
cho dựng ở bên tả (tức bên


Tháng 11 năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) bia bắt
đầu được dựng tại gị Hạc, Linh Khê. Người xã Linh Khê đóng góp nhiều
sào đất để mở rộng khu di tích. Ơng Nguyễn Tri Hoa, đậu Hương Cống,
người làng Hộ Xá đã biên soạn 08 bài thơ tạc vào bia đá.


Tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Hoàng triều Gia Long chúc mừng
bia hoàn thành. Về sau lấy ngày 15 tháng 8 là ngày khánh hạ để người đời
sau thưởng thức.


Bia cao 1,8 m (khơng tính phần đế và phần trái) nhà dạy học cũ của
Lưỡng Quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (tức Trạng Nguyên cổ đường,
một trong tám danh thắng tạo nên quần thể di tích Chí Linh bát cổ). Khi ấy
các danh ấp, các cựu sắc mục trong toàn xã Linh Khê (<i>theo cách gọi địa danh</i>
<i>cũ</i>) cùng đồng tâm xây dựng.trên mặt bia), vuông 04 mặt: 0,5m x 0,5m. Nội
dung cụ thể như sau:


Mặt thứ nhất ghi niên đại làm bia và nhóm người soạn thảo văn bia.
Mặt thứ hai ghi 08 bài thơ vịnh 08 di tích cổ của huyện Chí Linh xưa.
Mặt thứ ba ghi danh các vị tiên nho,tiên hiền của huyện Chí Linh xưa.
Mặt thứ tư ghi danh thắng của sông núi Chí Linh nổi danh thiên hạ.


Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đã có lúc tấm bia tưởng bị vùi lấp
cũng thời gian. Cho đến năm 1993, người dân làng Linh Khê mới tìm lại tấm
bia. Kể từ đó cho đến nay, giá trị của nó đã được khẳng định. Nói như một sử


gia thì: “<i><b>Cái gì của César thì phải trả lại cho César</b></i>”. Người khảo cứu, sưu
tầm và biên soạn rất mong một ngày nào đó nội dung của tấm bia quý sẽ được
phổ biến rộng rãi, không chỉ trong tâm thức người dân huyện nhà mà nó xứng
đáng được hậu thế biết đến như một niềm tự hào của quê hương đất Việt.


Nhân đây, người sưu tầm và biên soạn rất mong nhận được sự góp ý
trên tinh thần xây dựng về nội dung của những thơng tin được in trong tập thơ
này. Có gì sai sót mong được lượng thứ !


<i><b>Linh khê ngày 10 tháng 2 năm Canh Dần</b></i>


Người sưu tầm và biên soạn




</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Trạng Nguyên cổ đuờng</b> “nhà cổ của Trạng nguyên”, là nơi dạy học của
Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi - 莫 挺 之 (1280 – 1346). Năm 1342, sau khi hu
quan, Lỡng quốc trạng nguyên đã về mở trờng dạy học để khai trí và tuyển chọn
nhân tài cho đất nớc. Nơi ngài mở trờng xa hiện thuộc địa bàn thôn Linh Khê, xã
Thanh Quang, Nam Sách, Hải Dơng, một vùng đất địa linh nhân kiệt, hậu sinh có
truyền thống hiếu học. Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng thì trớc đây,
hàng năm, cứ vào dịp 17/3 âm lịch, Chánh tổng các huyện đều về đây để tế tiên
hiền. Ban đầu khu di tích có trên 5000m2,<sub> nhng đến nay các hộ dân đợc chia t </sub>


nờn cũn cha n 1000m2 <sub>.</sub>


Phiên âm:



Trng nguyờn tây tịch ký hà niên
Kỷ độ hoang kh, kỷ độ thiền.


Nam ngạn Quất lâm nhân bất cải
Đông A mộc đạc nhân tơng truyền
Thi th trùng hóan t văn thống
Tinh nhật truờng vi hậu học thiên
Ngũ bách niên lai khơi đỉnh tích
Vơ cùng đạo thế lão sơn xun

Dịch nghĩa:



Nhớ năm nào quan Trạng ngồi chiếu phía Tây
Mấy độ gị hoang, mấy độ vắng vẻ nhu cảnh chùa
Rừng quất (quýt) ở Nam Ngạn cảnh không thay đổi khác
Tiếng mõ ở ụng A t y cũn vang truyn


Thơ, sách thêm rạng rỡ truyền thống nho học
Ngôi sao mặt trời mÃi mÃi sáng soi cho hậu sinh
Năm trăm năm trời nêu cao dÊu tÝch


Đạo đức cùng thọ mãi với non sông

Dịch thơ:

Bản dịch thứ nhất:


Giảng đuờng quan Trạng nhớ năm nào
Mấy độ gò hoang cảnh vắng sao.
Trống mõ Đông A vang thủa ấy
Vuờn cam Nam ngạn thấy nguời đâu ?
Tu văn truyền mãi dòng thi lễ


Hậu học ngửa nhìn ánh núi sao.
Trăm năm đất ấy nên dấu tích
Đạo cùng non nuớc mãi dài lâu.
Bản dịch thứ hai:


Nhà cổ Trạng nguyên năm xa,


Ngổn ngang gò đống bây giờ là đâu?
Nam Ngạn rừng quýt một màu,


Đông A tiếng mõ i sau tung truyn.
Sỏch v rng r vn hin,


Thái Sơn- BắcĐẩu cao huyền trời Nam.
Trăm năm dấu tích rõ ràng,


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

2. TIỊu Èn cỉ bÝch


(Bøc têng nhµ cỉ của Tiều ẩn tiên sinh - Chu Văn An)


<b>Tiều Ẩn cổ bích</b> là một trong tám thắng tích cổ của Chí Linh. Đó là nơi
Chu Văn An - 朱 文 安 (1292 -1370) về ở ẩn sau khi dâng "Thất trảm sớ". Nơi
ngài ẩn dật được dựng tại núi Phượng Hoàng, xã Kiệt Đặc (nay là xã Văn An,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Về thân thế sự nghiệp, ngài vừa là vị quan
thanh liêm chính trực, vừa là một nhà giáo mẫu mực được suy tôn là người thầy
của muôn đời. Tại khu vực này hiện Nhà nước đã đầu tư xây dựng Đền th ngi
rt khang trang, to p.


Phiên âm:



Phuợng Hoàng sơn thuợng tịch thôn khu
Tiều ẩn tiên sinh cổ bích d


Phiến thạch quang mang minh nguyệt phủ
Bán tờng phiếu diểu bạch vân c



Phơng tung tự cổ hồn vô tại
Thắng cảnh vũ kim tận bất nh
Lẫm liệt anh phong thiên cổ tại
Trùng sơn dung bỉ pháng u c

DÞch nghÜa:



Trên núi Phợng Hồng một thơn vắng vẻ
Đó là chỗ nhà cũ của Tiều ẩn tiên sinh
Phiến đá lấp lánh ánh trăng sáng soi
Nửa tờng chơ vơ làn mây trắng phủ
Dấu cũ ngày xa không cịn gì nữa
Cảnh đẹp tới nay đều hiu quạnh cả
Anh phong lng ly ngn tha vn cũn


Dạo buớc trên non hỏi thăm chốn ngời xa ẩn dật

Dịch thơ:



Trờn nỳi Phng hong lỏc ỏc nh
Tiu n nn xa di sng sa


Đá nọ trơ gan cùng tuế nguyệt
Tờng đây gan góc với mây mù
Dấu thơm cổ tự bia đầu tạc
Thắng cảnh ngày nay khác lắm ru
Lẫm liệt anh phong muôn thủa mÃi
Trèo non thăm viếng chốn nhàn c.


3 - Dợc lĩnh cổ viªn



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đến giờ nơi đây vẫn cịn rất nhiều cây thuốc. Và vườn thuốc ngày xưa nay đã trở


thành một trong Chí Linh bát cổ. Sau đây là bi th vit v Dc Lnh c viờn.


Phiên âm:



Bch ng Giang khẩu độ thiên s
Thanh lĩnh lâm viên lu nhất chốc
Bán thị khê tuyền bán thị sơn
Kiêm hữu ng tiều kiêm hữu mục
Chủ nhân dĩ tại nguyên Trần sử
Thùy vị thiên Nam quốc chí độc
Vạn cổ d uy nhân kin vn


Viên lâm phong hạc, viên lâm mộc.

Dịch nghĩa:



Cửa sông Bạch Đằng đậu ngàn con tàu
Núi xanh rừng cây thành một chòm chụm lại
Nửa là khe suối, nửa là núi


Gm có thú đánh cá, kiếm củi và chăn trâu
Chủ nhân đã ghi chép ở sử nhà Trần
Ai bảo đọc sách Thiên Nam quốc chí
D uy mn thủa ngời thờng nghe thấy
Gió hạc ở vờn rừng, cây ở vờn rừng

Dịch thơ:



Bạch Đằng cửa bể đậu ngàn tàu
Vờn cũ Dợc Sơn tiếng để lâu
Cảnh có suối khe và có núi
Thú vui tiều mục, thú vui câu


Chủ nhân dù đã xa từ trớc
Quốc s vn cũn mói sau


Muôn thủa uy thiêng còn phảng phất
Vờn cây, gió hạc, cuốn theo nhau.


4 - Nhạn Loan cổ độ



<b>Nhạn Loan cổ độ </b>- Bến đò cổ Nhạn Loan, nay thuộc xã Nhân Huệ, Chí
Linh, Hải Dương. Thắng tích này gắn liền với sự tích tướng quân Trần Khánh Dư
- 陳 慶 餘 ( ? – 1340) sau khi bị cách chức đã về đây làm nghề bán than. Khi vua
quan nhà Trần về tổ chức Hội nghị Bình Than (<i>ở gần đó</i>) đã gặp ơng áo tơi, nón lá
chèo thuyền đi bán than. Vua Trần đã triệu ông về, cho phục chức và chính ơng
sau này đã góp một phần cơng sức làm nên kỳ tích ba lần chiến thắng quân
Nguyên của triu i nh Trn.


Phiên âm:



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tng quõn thỏn phiệt thành danh độ
Ng lang thùy điếu địch ca nhàn
Chu tử quế nhân suy lạp cổ


Giang trung quang cảnh thờng nh thử
Phong nguyệt thanh thu kim kỷ độ
Khách thuyền nhàn phiếm cổ giang thu
Truy ký tiên triều nhất kì ngộ.


DÞch nghÜa:



Móng rùa, lơng ngỗng theo đờng mây nớc



Bè than của tớng qn thành bến đị danh tiếng
Ơng chài bng câu, ca sáo thanh nhàn


Chú lái chở đị, nón tơi cũ k


Quang cảnh dòng sông vẫn nh thế mÃi
Gió trăng mùa thu trong, nay bao lâu rồi
Thuyền khách dạo chơi với con sông xa
Cũng nhớ sự kiện của triều Trần trớc.

Dịch th¬:



Móng rùa, lơng ngỗng chuyện khơn bàn,
Danh tiếng cịn truyền bn Nhn Loan.
Chỳ lỏi ch ũ ti t rỏch,


Ông chài câu cá sáo nhặt khoan.
Cảnh xa sông nớc coi nh hệt,
Thu trớc gió trăng thú vẫn nhàn.
Thuyền khách dạo chơi trên bến cũ,
Duyên may gặp gỡ buổi lầm than.


5 - Thợng tể cổ trạch



<b>Thng t cổ trạch</b> - Đất cũ của tể tướng, là một trong "Chí Linh bát cổ"
nằm ở tổng Kiệt Đặc, nay là xã Chí Minh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây
là đất phong của Thân vương Trần Quốc Chẩn, tể tướng dưới triều Trần Minh
Tơng. Tục truyền ơng có phép lạ, những ngày chầu vua hơm trước thấy ơng cịn ở
nhà mà sáng hơm sau đã thấy có mặt ở triều. Là một trung thần ông thường khẳng
khái khuyên vua làm những điều có lợi cho nước cho dân nên bị bè lũ gian thần


ghen ghét. Chúng đã tìm cách hãm hại ông, vu cho ông tội mưu phản. Trần Minh
Tông nghe theo lời bọn gian thần cách hết chức quan của ơng. Ơng lui về Kiệt Đặc
dựng nhà sống ở đó đến khi qua đời. Sau khi ơng mất dân chúng thương tiếc sửa
ngôi nhà của ông thành đền thờ gọi là đền "Quốc Phụ" (có sách gọi là đền "Quân
Phụ"- bố vợ vua). Dưới đây là bài thơ v Thng T c trch.


Phiên âm:



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Lan phm kháo ngạn đê
Thơn ơng tầm ngã dao
Thạch tích cố mơn khê

Dịch nghĩa:



Huyện ta ở phía Bắc sơng lớn
Phía Tây trại Hà Đông.
Ngời truớc ở chốn đỉnh nại
Ngày nay về ở nơi suối khe
Cây hạnh mọc xuyên bên khe đá
Buồm lan da mộ b ờ


Ông già trong xóm tìm ta nói
Dấu cổ ở khe nớc cổng cũ.

Dịch thơ:



Phớa bc sơng trong huyện
Phía tây trại Hà Đơng
Ngày nay là ẩm khách
Ngày xa ấy tớng công
Gốc hạnh xuyên khe đá
Buồm lan dựa bờ sông


Lạch khe bên cổng cũ
Đợc nghe chuyện thôn ông.

6 - Phao sơn cổ thành



<b>Phao Sơn cổ thành</b> - Thành cổ Phao Sơn, được xây dựng vào thời nhà Hồ
nhằm chống lại sự xâm lược của quân Minh, sau này lại được nhà Mạc củng cố để
tranh giành quyền lực với nhà Lê. Vị trí của thành nằm ở khu vực nhà máy nhiệt
điện Phả Lại, hiện nay nên khơng cịn dấu tích, chỉ để lại tên cho một xã của huyện
Chí Linh là xã Cổ Thành cùng với những câu chuyện truyền kỳ trong dân gian.
Dưới đây là bi th vit v "Phao Sn c thnh"


Phiên âm:



Minh H trì đấu nhật
Lê Mạc chiến tranh thu
Nam độ Vĩnh Lạc tự
Đơng hồn Khánh Hựu tự
Chí kim giai trần tích
Thử địa nhất danh tu
Cảm khái trùng đăng diểu
Cao sơn dữ thủy lu

Dịch nghĩa:



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Sang phía Nam dựng chùa Vĩnh Lạc
Về phía Đơng sửa chùa Khánh Hựu
Đến bây giờ đều thnh du vt c


ở chốn này tôn tạo thành một nơi danh thắng
Cảm khái thay khi lên trông ngắm



Núi cao với dòng sông chảy xuôi

Dịch thơ:



Ngy H Minh chng c,
Bui Lê, Mạc chiến tranh.
Nam, Vĩnh Lạc xây dựng,
Đông, Khánh Hựu hồn thành.
Ngày nay thành cổ tích,
Đất ấy thật vang danh.
Cảm khái khi lên ngắm,
Nớc biếc với non xanh.

7 - Vân tiên cổ động



Trong dãy Phượng Hoàng tổng Kiệt Đặc xưa, nay là xã Văn An, Chí Linh, Hải
Dương có một khu vực cảnh trí hết sức hữu tình nhưng cũng vơ cùng huyền bí.
Tương truyền ngày xưa đấng Huyền Thiên (Ngọc Hoàng thượng đế) đã về đây luyện
đan. Sau này nhiều bậc trí giả cũng về đây tu luyện như Tư đồ Trần Nguyên Đán,
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm v.v... Nơi đó chính là <b>Vân Tiên cổ động</b> tức là
Động Cổ của Vân Tiên. Dưới đây là bài th v thng tớch ny:


Phiên âm


Huyn thiờn nht luyn an
Thiờn cổ thành danh san
Sơn danh kim bất cải
Đan lơ tích dĩ hàn
Lu Quang cổ điện thất
Băng Hồ cổ điển san
Nham hạ tuyền thanh ẩn
Động lí thảo hoa nhàn


Thơng thơng tùng lão nộn
Tạc tạc thạch toàn ngoan
Tiều thán phi quang dị
Phạm đăng tục diện nan
Trần thế oanh tơng lão
Vân tiên hạc bất hồn
Vi phỏng cao nhân tích
Lý hài cập tầng san
Sơn thâm tăng tĩnh mịch
Thu hứng khách bàn hồn
Thơn ơng tơng đối thoại
Giang sơn nhỡn giới khoan


DÞch nghÜa:


Ơng Huyền thiên luyện thuốc đan
Nghìn thu thành núi có danh tiếng
Núi cũ danh tiếng nay khơng thay đổi
Lò luyện thuốc nay đã lạnh rồi
Điện Lu Quang xa đã mất
Thơ Băng Hồ nay còn ghi


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Lởm chởm hịn đá chót vót
Than củi sáng bay lấp lống
Đèn chùa ánh sáng lờ mờ
Cõi trần chim oanh sắp già
Động Vân chim hạc chẳng về
Muốn hỏi di tích bậc cao nhân
Guốc dép leo trèo lên tầng núi
Núi thẳm càng thêm vắng vẻ


Hứng thú để khách mơ màng
Cùng thôn ông ôn chuyn c
Mt nhỡn non nc mờnh mang.


Dịch thơ:


Nỳi cao rng thẳm động Vân tiên,
Phong cảnh ngày nay đã biến thiên.
Luyện đạo, tu hành tiên để dấu,
Trèo non du ngoạn khách vui dun.
Băng Hồ thi phẩm cịn lu đó,


Nguyễn Trãi danh nhân ấy vẫn truyền.
Hình bóng động xa tuy đổi khác,
Trập trùng Ngũ nhạc vẫn y ngun.


8- Tinh phi cỉ th¸p



Nguyễn Thị Duệ người tổng Kiệt Đặc, nay là xã Văn An, Chí Linh, Hải
Dương. Bà là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thi đỗ trạng nguyên. Khi bị phát
hiện giả trai đi thi bà khơng những khơng bị phạt mà cịn được vua Mạc vời vào
cung và phong làm Tinh Phi (dân gian gọi là Bà chúa Sao Sa). Khi bà mất được
đem về quê nhà mai táng trên một ngọn núi thuộc dãy Phượng Hồng. Người đời
sau đã xây tại đó một ngọn tháp để ghi nhớ công đức của bà- đó chính là <b>Tinh Phi</b>
<b>cổ tháp</b>, một trong Chí Linh bỏt c


Phiên âm:



Ngc th chit cao chi
Kinh nhan lu c tháp


Tịng thử cổ giang sơn
Chí kim kỷ minh giáp
Hoa thảo tự tạ khai
Ng tiều tơng vấn đáp
Sơn sắc chính thanh thơng
Thu thanh hà tiêu táp

Dịch nghĩa:



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Tay ngọc bẻ cành cao,
Mặt gơng in ngọn tháp.
Từ xa nuớc non này,
Mấy phen thay đổi khác.
Cỏ hoa tự nở tàn,
Ng tiều cùng đối đáp.
Sắc núi vẫn xanh xanh,
Gió thu nghe xào xc.


<b>Phụ lục tham khảo</b>



<b>Một số bản dịch thơ khác về chÝ linh b¸t cỉ</b>



Trạng ngun cổ đờng


Đến thăm cảnh vắng, lịng buồn.


Phía Tây, quan trạng từng đơng giảng bài.
Đơng A danh tiếng còn dài,


Cảnh xa còn dấu, lòng ngời khác sao.
Trạng nguyên đức trọng, tài cao,
Hậu sinh khả úy làm sao giữ gìn.


Lịch sử ghi chép rành rành


Cơng lao danh trạng nỡ đành lãng qn ?

Tiều ẩn cổ bích



Kìa núi Phợng Hồng chẳng đổi thay,
Nhà xa tiều ẩn chính nơi đây.


Trăng soi phiến đá trơ ngày tháng,
Nắng dãi bên thềm mặc gió mây.
Dấu cũ cịn đâu nh lúc trớc,
Cảnh xa hầu đã khác ngày nay.
Cơng minh chính trực gơng cao p,
Trng o, tụn s nh chn ny.


Dợc lĩnh cổ viên



Danh tiếng lừng vang bến Lục Đầu,
Dợc sơn tích cũ tởng cha lâu.
Vui cùng vờn thuốc cùng binh pháp,
Bỏ cả cờ tiên, biếng thú câu.


Hin thỏnh tuy xa t tha trc,
S xanh cịn mãi để đời sau.
Lịng thơng binh sĩ ln ghi nhớ,
Dợc lĩnh vờn xa thắng giặc tàu.


Nhạn loan cổ độ



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Chuyện thực còn đây, bến Nhạn Loan.


Chú lái chở đò tơi tả rách,


Ông chài câu cá, sáo ngân vang.
Kẻ thù đất nớc còn xâm lấn,


Cuộc sống mây trăng ấy chẳng nhàn.
Một chuyến đị đa trên sơng nớc,
Dun may gặp gỡ buổi lầm than.


Tinh phi cỉ th¸p



Lạ thay một kính chiếu tam vơng,
Kiệt Đặc tinh phi vốn cố hơng.
Đẹp tuyệt trần đời, cao trí tuệ,
Đỗ đầu thi hội, giỏi văn chơng.
Mất, còn, chuyện ấy do dâu bể,
Mến trọng ơn này tự phấn hơng.
Chuyện cũ sao xa còn để lại,
Tháp hoa đầu núi mấy tinh sơng.


Thỵng tĨ cỉ tr¹ch



Trừ giặc Chiêm xâm lấn,
Đầy khí phách anh hùng.
Giúp vua Trần dựng nớc,
Danh tiếng khắp miền Đông.
Nơi đây vui thắng cảnh,
Nhà cũ quan tớng công.
Gốc hạnh xuyên khe đá,
Buồm lan dựa bến sông.


Khách du thăm cảnh cũ,
Nhớ mãi tấm gơng trung.


Phao sơn cổ thành



nh Phao Sn p vụ cựng,


Quần tiên quay lại, dơng long chầu vào.
Thành xa còn vết anh hào,


Chùa xa còn dấu ra vào sớm cha.
Tiếng chuông Phả Lại gió đa,


Bỡnh Than nguyt dói nht tha la chiu.
Tri bao triều đại đổi thay,


</div>

<!--links-->

×