Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Nguyen Dinh Thi nghi ve lao dong viet van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.7 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Nguyễn Đình Thi nghĩ về lao động viết văn
PGS.TS. Văn Giá


Đại học Văn hóa


Một nhà văn lớn thông thường không chỉ sáng tạo nên các tác phẩm văn học, mà cịn
hay nghĩ ngợi về nghề viết với bao nhiêu cơng việc bếp núc, những vui buồn cùng hệ lụy mà
nghề nghiệp đem lại. Đó là cách tự ý thức về nghề. Suy cho cùng, đã là người cầm bút thì ai
cũng có nghĩ ngợi ít nhiều về cái nghề mà mình đeo đuổi. Nhưng nghĩ về nó một cách ráo riết,
rồi lại trình bày nó ra như những xác tín nghề nghiệp thì khơng phải mấy ai cũng làm được.
Tơi muốn nói đến Nguyễn Đình Thi, ơng là một trong số những người trăn trở nhiều với nghề,
<i>đặt ra nhiều vấn đề để nghĩ. Trong số đó, tơi đặc biệt quan tâm đến vấn đề lao động viết văn,</i>
một loại cơng việc đặc biệt mà nhà văn Nguyễn Đình Thi đã bận tâm về nó trong suốt cuộc
đời cầm bút của mình.


1. Để có điều kiện triển khai vấn đề, tôi phải khẳng định ngay một điều rằng, trong bối
cảnh những năm 1945-1954, khi văn nghệ tập trung nhằm phục vụ kháng chiến, tuyên truyền
cho kháng chiến theo nghĩa sát sườn, trực tiếp, mang tính vụ lợi nhất, thì Nguyễn Đình Thi
vẫn tìm cách vượt thốt ra khỏi cái tinh thần đám đông ấy. Ai cũng biết ông là một quan chức
văn nghệ. Lẽ thông thường, ông phải răm rắp tuân theo cái mệnh lệnh chung của thời cuộc.
Thế nhưng, bằng một lý do nào đó, cả thời gian sau này cũng vậy, ơng cứ tìm cách tn ra,
vượt ra ngồi khn phép. Bằng cớ là, có thể tìm thấy mấy biểu hiện sau: a) Theo ơng, thơi thì
cứ tạm chấp nhận cho là văn nghệ phải làm nhiệm vụ tuyên truyền đi, nhưng phải hiểu tuyên
truyền theo cách đặc thù, tinh tế, quyết không như cách tuyên truyền của một cán bộ chính trị.
Ơng nói: “Nếu bảo văn nghệ là mượn sự việc để tun truyền, thì ít ra đó cũng là một loại
tuyên truyền rất đặc biệt. Chất đem tuyên truyền ra là cả sự sống con người, và cách tuyên
truyền cũng không giống chút nào với cách diễn thuyết trong một cuộc mít tinh chẳng hạn.


<i>Văn nghệ là một thứ tuyên truyền không tuyên truyền nhưng lại hiệu quả và sâu sắc hơn cả”</i>(1)
(V.G nhấn mạnh). Vào thời điểm bấy giờ, những cách nói như thế quả là điều bất cẩn. b) Đang
trong lúc hô hào văn nghệ phải mang tính đại chúng, nghĩa là dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhớ,


Nguyễn Đình Thi thể nghiệm, cơng khai đưa ra chủ trương làm thơ tự do không vần, và lúc
bấy giờ được xem như một tiếng nói lạc điệu(2)<sub>. Chỉ cần hai biểu hiện ấy thôi, để thấy ông là</sub>
người mang trong máu ý thức đổi mới nghệ thuật. Không chỉ bằng cách phát biểu trực diện
theo hướng mệnh đề, mà bằng vào nhiều tác phẩm thơ ca lúc kháng chiến, sau này là một số
vở kịch, ta thấy khao khát cách tân, đổi mới nghệ thuật ln cựa quậy ở trong con người này.
Chỉ có thể giải thích được điều đó bởi một lý do tưởng như rất giản dị này thôi, nhưng không
phải ai cũng có được, ấy là: nội lực nghệ sĩ trong ơng quá mạnh. Khi cầm bút, cái nội lực nghệ
sĩ ấy lên tiếng, ra lệnh. Và cứ thế, trong dòng chảy đời sống văn nghệ chính thống mà ơng là
một trong những kiến trúc sư trưởng, đã có lúc ơng đi những bước chệch đáng u như vậy.


Đó chính là lý do trực tiếp để Nguyễn Đình Thi có được một số bài tiểu luận bàn về nhà
văn, về lao động thơ và tiểu thuyết khá sâu sắc và cho đến nay vẫn còn nhiều giá trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

a) trước hết, người nghệ sĩ phải giữ được “cái trong” của tâm hồn. Ơng nói: “Tâm hồn con
người càng trong bao nhiêu, thì đón nhận sự vật bên ngồi càng dễ bấy nhiêu”, và phải “Sống
thế nào để càng sống càng trong. Càng sống càng mờ đi, đục đi, dày cộm lên, thì khơng làm
nghệ thuật cho hay được”. Theo tơi hiểu, “cái trong” mà ơng nói đến là cái vẻ hồn nhiên, tự
nhiên, không vụ lợi, không cố chấp của tâm hồn, nhờ vậy mà có trực giác mạnh, mẫn cảm
tinh. Phẩm chất này thực sự quan trọng trong năng lực của người nghệ sĩ. Nếu một người nào
đó sống với nhiều toan tính, vướng bận nhiều thứ của cõi phàm rất khó có thể làm nghệ
thuật(4)<sub>; b) Từ xuất phát điểm này, ông đề cập đến một cặp phẩm chất quan trọng đặc biệt của</sub>
nhà văn là năng lực hiểu biết đời sống và năng lực tưởng tượng, nhờ tưởng tượng mà sinh ra
xúc động, sinh ra đạo đức.


Bàn về nhà văn, ông nêu lên một khái quát sâu sắc: “Tất cả những cái viết của nhà văn,
sáng tạo của nhà nghệ sĩ là để cuối cùng tác động vào tâm hồn con người, và từ đó mà con
người làm thay đổi thế giới”.


Cũng trong bài giảng này, ơng cịn đề cập đến ý thức của mỗi nhà văn sao cho mỗi tác
phẩm của mình phải có được “bản sắc dân tộc”. Vì là bài giảng, trong một thời lượng có hạn,


chỉ nêu lên các khía cạnh vấn đề đã là một cố gắng, chứ khó có thể giải quyết thấu đáo được.
Tuy nhiên, về phẩm chất nhà văn trong tư cách người lao động viết văn cũng có thể tìm thấy
rải rác trong các tiểu luận, bút ký khác nữa, nhất là những bài viết về bạn văn của ông như
Trần Đăng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng…


Với văn nghệ sĩ, mỗi người một thân phận không ai giống ai, khổ đau và hạnh phúc cũng
không giống nhau, có người mắc tai nạn nghề nghiệp, có người xi chèo mát mái từ đầu chí
cuối. Có khơng ít người kém tài hoặc bất tài, đánh mất khả năng sáng tạo, bèn đổ lỗi cho hồn
cảnh. Có tình trạng một số người thổi phồng những “tai nạn nghề nghiệp” như một thứ thời
thượng để che đậy cái kém tài của mình. Chính vì thế, tơi tâm đắc với lời tâm sự này của
Nguyễn Đình Thi: “Cũng có những lúc tơi va chạm với những khó khăn do quan niệm chung
quanh khơng thuận, nhưng sự khó khăn nhất vẫn là ở chỗ phải luôn tự đánh vật với những yếu
kém của chính mình”(5)<sub>. Đây là một sự tự ý thức có tính kỷ luật của người cầm bút thời nào và</sub>
với ai cũng đều trở nên quan trọng.


3. Không dừng lại ở đơn vị người viết - chủ thể sáng tạo, mà Nguyễn Đình Thi tiến hành
bàn sâu vào công việc viết tác phẩm văn học theo từng thể loại như thế nào. Có hai thể loại mà
ơng quan tâm nhất là thơ và tiểu thuyết.


3.1. Về sáng tạo tiểu thuyết, Nguyễn Đình Thi thực sự có hứng thú bàn bạc, trao đổi(6)<sub>.</sub>
Ông đặt ra khá nhiều vấn đề trong công việc viết tiểu thuyết, và ở mỗi bài lại đặt ra những khía
cạnh khác nhau. Chung qui lại, ơng tập trung trình bày một số luận điểm chính như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

b) Ông cho rằng nhà tiểu thuyết cần tôn trọng thực tế và lý tưởng. Thực tế ở đây theo
<i>cách diễn giải của ông là sự thật, bao gồm cả sự thật khách quan của đời sống và sự thật tâm</i>
hồn. Ơng nói: “Phải nhìn vào sự thật, khơng ngại nó khác với mọi điều tưởng tượng, mong
muốn của mình, và phải ln ln cảm thấy sự thật của đời sống vùng vẫy cưỡng lại ngòi bút
của mình, phải thấy nó vật lại những điều tưởng tượng hoặc bịa đặt khơng đúng. Đó chính là
chỗ hào hứng và say mê của công việc viết tiểu thuyết”(7)<sub>. Còn vế thứ hai là “lý tưởng”, nhà</sub>
văn cho rằng mỗi người viết tiểu thuyết bao giờ cũng “có lời kêu gọi gửi tới người đọc”, đó là


lẽ sống lớn, tình cảm sâu sắc của nhà văn đặt vào trang viết và mối quan hệ máu thịt giữa
chúng. Ơng hình dung cho dù có “những quan niệm đúng về lẽ sống, về cách mạng, nhưng
nếu không chứa sức điện của tình cảm bên trong thì cũng như những con chim cắt bằng bìa
giấy”. Đây cũng là một bài học rất thấm thía đối với mỗi người cầm bút. Mà chẳng cứ ở tiểu
thuyết, thể loại nào cũng cần những cảm xúc lớn và mạnh mẽ.


c) Khi bàn về lao động tiểu thuyết, ông đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng nhân vật.
<i>Trong bài “Mấy nhận xét nhỏ về nghệ thuật viết tiểu thuyết”</i>(8)<sub> được viết năm 1964, ông</sub>
khẳng định: “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật viết tiểu thuyết, theo tôi, là miêu tả những con
người và tìm hiểu con đường đi của họ trong xã hội”. Trên tinh thần ấy, ơng triển khai mấy
<i>khía cạnh chính sau: Thứ nhất, nhân vật trong tiểu thuyết phải là những con người bình</i>
thường chân thực trong cuộc sống thường ngày, ngay cả khi đặt họ vào những sự kiện lớn
của lịch sử thì cái phương diện con người thường ngày vẫn rất quan trọng. Đây là một cái
nhìn rất tiến bộ vào thời điểm bấy giờ. Đại đa số các nhân vật tiểu thuyết vào thời đoạn lịch
sử ấy đều hướng về những con người phi thường, những người anh hùng, những “con người
mới”, con người cán bộ gác tình riêng vì nghĩa lớn, và chỉ khai thác cái phương diện cao cả
phi thường của họ. Ấy thế mà Nguyễn Đình Thi đã dám đặt vấn đề như vậy, quả ơng có cái
<i>nhìn thật sâu sắc và khác với dịng chủ lưu khi ấy. Thứ hai, ơng cho rằng cốt truyện phải phụ</i>
thuộc vào nhân vật, do nhân vật quy định, chứ không phải là chiều ngược lại. Ơng viết: “Chỉ
khi nào nhà văn tìm ra được ý nghĩa của sự việc đối với vận mệnh những con người, và nhìn
rõ sự diễn biến của những con người tham gia vào sự việc ấy, thì bấy giờ mới thực sự có cốt
<i>truyện để viết thành tiểu thuyết”. Thứ ba, ông đặc biệt quan tâm đến việc dựng nhân vật.</i>
<i>Ông nhấn mạnh đến “một phương pháp thần tình là miêu tả nhân vật từ bên trong ra”. Nhờ</i>
phương pháp này, các nhân vật được hiện ra không chỉ với dáng vẻ bên ngồi, mà cịn có cả
<i>một thế giới tinh thần vô cùng sống động, phong phú và bí ẩn. Trong bài viết Nguyễn Du và</i>


<i>Truyện Kiều, Nguyễn Đình Thi cũng trở lại vấn đề này. Ơng viết: “Có thể nói trong Truyện</i>
<i>Kiều đã có đủ những nhân tố, những phương pháp của tiểu thuyết hiện đại (…). Khi miêu tả</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

mặn mà. Phải chờ đến thập niên 80 của thế kỷ XX, luận điểm này mới được quan tâm đến và


chính thức đưa vào trong trong Giáo trình đại học, nằm trong vấn đề trần thuật tiểu thuyết(10)<sub>.</sub>
Rất tiếc là Nguyễn Đình Thi không quảng bá mạnh mẽ luận điểm này vào thời bấy giờ.


d) Cùng với các luận điểm như đã nêu ở trên, trong tiểu luận này, Nguyễn Đình Thi cịn
<i>chú ý đến vấn đề văn phong tiểu thuyết. Ông triển khai mấy khía canh sau: Thứ nhất, tiểu</i>
<i>thuyết là một loại văn tổng hợp, có thể dung nạp cả chất kịch, chất báo chí, chính luận, chất</i>
<i>thơ… Thứ hai, có hai loại văn trong tiểu thuyết: kể và tả. Tiểu thuyết truyền thống trọng về kể,</i>
tiểu thuyết hiện đại trọng về tả. Ơng nói: “Người viết tiểu thuyết phải dùng tiếng nói mà dựng
lên những cảnh vật, những sự việc, những con người, và cả những trạng thái tâm hồn khơng
<i>nhìn thấy được”. Thứ ba, chi tiết trong tiểu thuyết đặc biệt quan trọng. Ơng viết: “Có thể nói</i>
rằng, nghệ thuật miêu tả là ở chỗ nhìn thấy chi tiết”. Để chứng minh cho luận điểm này, ông
<i>viện dẫn đến những chi tiết kỳ tài trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, kịch Con chim hải âu</i>
<i>của Sekhov, Chúc phúc của Lỗ Tấn, Lão Hạc của Nam Cao, Anna Karenina của L.Tonxtoi.</i>
Đây là một bài học làm nghề rất quan trọng cho những người viết truyện ngắn và tiểu thuyết.


Trên đây là một số luận điểm chính trong những luận bàn về tiểu thuyết của nhà văn
Nguyễn Đình Thi. Có thể nói rằng, tồn bộ tri thức về lao động tiểu thuyết của nhà văn
Nguyễn Đình Thi chỉ giới hạn trong phạm vi tiểu thuyết của chủ nghĩa hiện thực. Ông
<i>thường viện dẫn Banzac, L.Tonxtoi, Đotxtoievxki, Nguyễn Du với Truyện Kiều, Hồng Lê</i>


<i>nhất thống chí… để minh chứng cho sự khai triển của mình. Thực ra thì ơng cũng có biết</i>


đến chút ít về một số tri thức thể loại tiểu thuyết hiện đại trên thế giới lúc bấy giờ. Ông có
nhắc đến lối viết của Hemingway với các thủ pháp diễn tả lời nói thầm của nhân vật theo
cách in nghiêng, hay lối “phục hiện” (nghĩa là đan xen thời gian trần thuật khơng theo hình
thức tuyến tính - V.G) của một số nhà tiểu thuyết khác. Nhưng xem chừng ông cũng không
tha thiết lắm các kỹ thuật tự sự đó. Có thể do thiếu hiểu biết kỹ về chúng. Hoặc cũng có thể
do bị cản trở bởi sự hồi nghi có tính phổ biến lúc bấy giờ. Đây là một hạn chế tất yếu trong
bối cảnh tự trị tài liệu giữa hai phe phái trên thế giới do chiến tranh lạnh toàn cầu gây ra.
Tuy nhiên, cũng lại phải nói rõ ra điều này, chưa có dấu hiệu nào cho thấy ở ơng có sự say


mê cái gọi là “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Bằng một cảm quan nghệ sĩ bén nhạy,
ông đã không rơi vào một số luận điểm khá ấu trĩ của lý thuyết về phương pháp sáng tác
hiện thực XHCN độc tôn lúc ấy. Sự đóng khung các tri thức về thể loại tiểu thuyết vào quan
niệm của chủ nghĩa hiện thực đúng là hạn chế, nhưng cũng lại có ý nghĩa bảo tồn cho
những kiến giải của ơng.


3.2. Về lao động thơ ca, trong hình thức là các tiểu luận bàn bạc trực tiếp, Nguyễn Đình
Thi dành cho vấn đề này không nhiều quan tâm và không thường xuyên. Tuy nhiên, chỉ một
<i>bài viết Mấy ý nghĩ về thơ</i>(11)<i><sub> được viết vào ngày 12-9-1949 lại đặt ra được một số vấn đề căn</sub></i>
cốt nhất của thơ ca. Ở bài viết này, Nguyễn Đình Thi tập trung vào hai vấn đề lớn: thơ là gì, và
thơ tự do khơng vần - một kiểu thơ của thời đại mới.


<i>Trước hết, ông bàn về vấn đề bản chất của thơ ca. a) Ông cho rằng bản chất của thơ là ở</i>


<i>bên trong tâm hồn con người, khi nào tâm hồn có một rung động thơ, khi ấy tâm hồn có một</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

thức, “Nhưng tư tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống. Tư
tưởng của thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự (...). Nên thơ khơng nói bằng ý niệm thuần t”.
Tưởng khơng gì có thể rõ ràng và thuyết phục hơn yêu cầu về xúc cảm, tâm hồn và tư tưởng
trong thơ mà Nguyễn Đình Thi đã chỉ ra. c) Về vấn đề hình ảnh trong thơ, ơng nói, nó “phải là
hình ảnh thực nẩy lên trong tâm hồn ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”,
“Thơ là nơi tư tưởng, tình tự, quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn
thể, bằng tất cả tâm hồn, không phải bằng ý niệm, bằng tri thức”. d) Từ yêu cầu về hình ảnh
thơ như vậy, Nguyễn Đình Thi cũng yêu cầu: “Chữ và tiếng trong thơ phải có một giá trị khác,
ngồi giá trị ý niệm (...). Điều kỳ diệu của thơ là mỗi tiếng mỗi chữ, ngồi cái nghĩa của nó,
ngồi cơng dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến chung quanh nó những
cảm xúc, những hình ảnh khơng ngờ, toả ra chung quanh nó một vùng sáng động đậy. Sức
mạnh nhất của câu thơ chính là ở sức gợi ấy”. e) Cuối cùng, ông bàn đến vấn đề nhịp điệu của
thơ. Ơng cho rằng có loại nhịp làm nên thứ nhạc điệu ngồi tai, và có “một thứ nhịp bên trong,
một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn”.



Tất cả những khía cạnh trên khơng chỉ trực tiếp bàn về bản chất của thơ ca mà đụng chạm
đến hầu hết các yếu tố nghệ thuật cơ bản nhất của một tác phẩm thơ. Ông đã đi vào nghiên cứu
bản thể thơ, chứ khơng bị những thứ ngồi thơ, ngồi nghệ thuật làm rối sự quan tâm của
mình.


<i>Thứ hai, ơng đặt vấn đề thơ tự do không vần. Cách đặt vấn đề của ông bắt đầu đi từ một</i>


nhận định quan trọng: ở thơ, vần không phải là yếu tố tất yếu, nghĩa là không bắt buộc; gắn
liền với vần chỉ là “những hình thức đều đặn, cố định”, “nhịp điệu cũ” khơng cịn phù hợp
nữa. Ơng khẳng định một cách dứt khốt: “Tơi cho rằng, chúng ta khơng nên lo thơ đi vào
hình thức này hay hình thức khác. Mà trước hết nên lo sao thơ phải nói lên được những tình
<i>cảm, tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào, miễn là thơ diễn tả được đúng</i>


<i>tâm hồn con người mới hôm nay” (V.G nhấn mạnh). Những cách nói như vậy rõ ràng là rất</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Lữ, Ngô Tất Tố... Về chuyện này, cho đến hôm nay, nhiều người đã lên tiếng tiếc cho một nỗ
lực cách tân rất có triển vọng của Nguyễn Đình Thi về thơ tự do không vần đã không được
chắp cánh và bay hết đường bay của nó. Lịch sử là như vậy. Tơi tự thấy khơng cần phải nói
thêm gì nữa về câu chuyện này.


4. Sau khi chỉ ra những đóng góp của Nguyễn Đình Thi trên phương diện tiểu luận phê
bình bàn về lao động viết văn, tự nhiên một câu hỏi được đặt ra: vậy thì giữa tư duy có tính lý
thuyết ấy với thực tiễn sáng tạo của Nguyễn Đình Thi có sự tương hợp hay độ chênh nào
không? Về câu hỏi này chúng ta đã tìm thấy ít nhiều câu trả lời trong một số bài viết khác(12)<sub>.</sub>
<i>Tôi chỉ nghĩ rằng, lý thuyết là điều muốn làm, cịn thực tiễn sáng tác là những gì đã làm, điều</i>
muốn làm không phải bao giờ cũng làm được. Thực ra, ơng ít bàn về thơ, thì thơ ơng lại có
nhiều thành tựu và sáng giá hơn; cịn về tiểu thuyết, ông bàn hơi nhiều, và sáng tác cũng khá
nhiều, thế nhưng chất lượng tiểu thuyết của ông lại có vẻ non lép, thiếu kết tinh.



Cùng với thành tựu ở các lĩnh vực nghệ thuật khác, cùng với thơ ca và tiểu thuyết, những
tiểu luận, phê bình, bút ký... của Nguyễn Đình Thi giúp ta nhận ra một thân phận nghệ sĩ điển
hình trong một thời kỳ lịch sử cụ thể và cũng hiểu thêm giới hạn có tính định mệnh ở người
nghệ sĩ lớn này


<i><b> Cự Lộc, ngày 31.3.2004</b></i>
_________________


<i>([1]) Trong bài Tiếng nói của văn nghệ (1948), in trong Tuyển tập Nguyễn Đinh Thi, tập 3, Nxb. Văn học,</i>
1997, tr.67. Từ đây trở đi, các dẫn liệu lấy từ quyển sách này được ghi là Sđd.


<i>(2) Xem bài Mấy ý nghĩ về thơ (12-9-1949), Sđd.</i>


<i>(3) “Câu chuyện xung quanh công việc sáng tác nghệ thuật”, in trong Công việc viết văn, Trường viết văn</i>
Nguyễn Du, 1985.


(4) Sau này, ở một bài viết khác, ý kiến dưới đây của ông như một diễn giải thật chí lí cho điều vừa bàn ở
trên: “Viết theo lương tâm và tình cảm tự nhiên, viết theo sự thật mà mình thấy và hiểu biết, viết vì lẽ phải mà
<i>mình nhận ra được, viết để cố gắng góp một phần làm hay, làm đẹp cho con người” (“Nhọc nhằn công việc văn</i>


<i>chương”), Sđd, tr.384.</i>


<i>(5) Qua những tháng năm cầm bút, Sđd, tr.374.</i>


(6) Xin nói thêm: Luận bàn về lao động tiểu thuyết, ngay từ 1964, Nguyễn Đình Thi đã có cả một quyển
<i>sách mang tên Công việc của người viết tiểu thuyết. Rất tiếc tơi khơng có trong tay quyển sách này. Được biết,</i>
<i>một phần của quyển sách ấy đã được đưa vào Tuyển tập Nguyễn Đình Thi. Tuyển tập này được xuất bản lúc</i>
Nguyễn Đình Thi cịn khoẻ mạnh, chắc được ông chăm sóc bản thảo, và lựa chọn những bài chất lượng tốt nhất.
Vậy thì, có thể tạm n tâm khi dựa vào những bài viết trong tuyển tập này để làm tư liệu khảo sát.



<i>(7) Thực tế và lý tưởng trong tiểu thuyết, Sđd, tr.117.</i>
(8) Sđd, tr.130.


(9) Sđd, tr.162.


<i>(10) Xem Giáo trình Lý luận văn học do nhóm các giáo sư Đại học Sư phạm Trần Đình Sử, Phương Lựu,</i>
Nguyễn Xuân Nam viết, Nxb. Giáo dục, 1987.


(11) Sđd, tr.72.


<i>(12) Xem: - Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Thi như tôi biết, In trong Nhà văn Việt Nam hiện đại- Chân</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7></div>

<!--links-->

×