Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.19 KB, 21 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b> Câu 1: Đồng chí (bạn) cho biết đại hội lần thứ nhất của Đảng cộng sản</b></i>
<b>Việt Nam họp tháng 3 năm 1935 tại Ma Cao (Trung Quốc) ngoài những nội dung</b>
<b>về đường lối cách mạng, về các mặt công tác để chuẩn bị điều kiện cho phong</b>
<b>trào cách mạng Đơng Dương bước sang một thời kì mới, Đại hội cịn có Nghị</b>
<b>Quyết nào khác? Nêu rõ mục đích, ngun tắc của Nghị quyết đó?</b>
<i><b>Trả lời:</b></i>
Từ ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tai Ma
Cao (Trung Quốc). Ngoài những nghi quyết về đường lối cách mạng, về các mặt công
tác để chuẩn bị điều kiện cho phong trào cách mạng Đông Dương bước sang một thời
kì mới, Đại hội có riêng một nghị quyết về đội tự vệ nhằm tổng kết những kinh
nghiệm về tổ chức, lãnh đạo và hoạt động của đội tự vệ.
Phân tích tình hình cuộc vận động cách mạng lúc đó, Nghị quyết về đội tự vệ của
Đại Hội lần thứ nhất của Đảng chỉ rõ: Đảng ta phải chống lại cuộc “Đại tấn công của
khủng bố trắng”, chưa từng thấy trong lịch sữ cách mạng và phản cách mạng ở Đông
Dương.
Nghị quyết nêu rõ mục đích của việc tổ chức đội tự vệ:
a. Ủng hộ quần chúng hàng ngày ;
b. Ủng hộ quần chúng trong các cuộc đấu tranh;
c. Ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng của công nông;
d. Quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng, chống quân thù giai cấp tấn công
và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi.
Nghị quyết nhấn mạnh: “công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy
thống nhất của Trung ưng, quân ủy của Đảng cộng sản” . “Luôn ln phải giữ tính
Nghị quyết đề ra: “ Từ Trung ưng quân ủy tới mỗi thành ủy, tỉnh ủy phải tổ chức
ngay quân ủy, quân ủy này một bộ phận thì lo quân đội vận động, một bộ phận thì lo
tổ chức và chỉ huy Đội tự vệ”. Các Đảng bộ “ Phải đem Đảng viên và đoàn viên
cương quyết nhất vào tự vệ và các cấp bộ chỉ huy của tự vệ, nhưng như thế nào không
phải là không cho những hội viên thường hăng hái dự cuộc chỉ huy tự vệ”.
Nghị quyết Đại hội lần thứ nhất của Đảng cũng đã nêu ra vấn đề vận động binh
lính địch . Mỗi quân ủy của Đảng ở các giai cấp phải có một bộ phận chăm lo cơng
tác binh vận. Đại hội ra một nghị quyết riêng về công tác này.
Giữ vững bản chất cách mạng, bản chất giai cấp của đội tự vệ, giữ vững và cũng cố
sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với lực lượng tự vệ, giáo dục nhiệm vụ trách
nhiệm, chính tri cho đội viên tự vệ thực hiện chế độ dân chủ đi đơi với kỷ luật nghiêm
minh đồn kêt nội bộ, tăng cường quan hệ mật thiết với nhân dân vận động quân lính
địch… Là những nguyên tắc xây dựng lực lượng tự vệ về mặt chính trị mà Đai hội lần
thứ nhất của Đảng đã đề ra. Đó cũng là những quan điểm đầu tiên của Đảng ta trong
việc xây dựng LLVTND.
Về trang bị của đội tự vệ, Đảng ta đấu tranh chống khuynh hướng cho rằng cần
phải có súng , có lựu đạn mới tổ chức được đội tự vệ.
Về huấn luyện quân sự, Nghị quyết đề ra chủ trương “ Huấn luyện cho đồng chí,
cho các đội tự vệ công nông biết dung các môn binh khí thơng thường như súng lục,
tạc đạn; biết chiến về chính thuật đánh nhau trong thành phố, chiến thuật du kích
chiến tranh, …
Nghị quyết về đội tự vệ của đai hội lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa quan trọng
<b> </b>
<b> </b> <b>Trả lời:</b>
<b> Tháng 11/1941 Đồng chí Nguyễn Ái Quốc chỉ thị tổ chức đội vũ trang ở Cao</b>
Bằng gồm 12 đồng chí do đồng chí Lê Quảng Ba là đội trưởng, đồng chí Lê Thiết
Hùng làm chính trị viên và đồng chí Hồng Sâm làm đội phó.
Tháng 12/1944 Đồng chí Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân. Chỉ thị như sau
1. Tên, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nghĩa là chính trị trọng hơn
qn sự. Nó là đội tun truyền. Vì muốn hành động có kết qủa thì về quân sự,
nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên chỉ thị mới của đoàn thể
sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những đội du kích Cao-Bắc- Lạng số cán bộ và đội viên
kiên quyết , hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực.
Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, cần phải động viên toàn
dân vũ trang toàn dân, cho nên khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên
cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và
giúp đỡ mọi phương tiện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ diều dắt cán bộ vũ
trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm
cho các đội này trưởng thành mãi lên.
2. Đối với cán bộ vũ trang địa phương: Đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện,
tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông
suốt, phối hợp tác chiến.
3. Về chiến thuật: Vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chống, tích cực, nay
đơng mai tây, lai vô ảnh, khứ vô tung.
Đội VNTTGPQ là đội quân đàn anh, mong cho chóng có đội đàn em khác.
Tuy lúc đầu quy mơ của nó cịn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi là
khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc khắp đất nước Việt
Nam chúng ta.
Sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, ngày 22/12/1944, Đội VNTTGPQ được thành lập
tại một khu rừng giữa 2 tổng Hoàng Hoa Thắm và Trần Hưng Đạo thuộc Châu
Ngun Bình, tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Ngun Giáp được Đảng và lãnh tụ Hồ
Chí Minh ủy nhiệm tổ chức lãnh đạo và chỉ huy.
Đội VNTTGPQ gồm 34 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Hồng Sâm (Trần Văn
Kỳ) làm đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm chính trị viên,
đồng chì Hồng Văn Thái phụ trách kế hoạch-tình báo, đồng chí Vân Tiên (Lộc Văn
Lùng) quản lí. Đội có chi bộ Đảng lãnh đạo và biên chế thành 3 tiểu đội, do các đồng
chí Thu Sơn, Bể Văn Sắt, Xuân Trường làm Tiểu đội trưởng.
Tháng 8/1949, ban thường vụ Trung Ương Đảng ra chỉ thị xây dựng bộ đội địa
phương và phá triển dân quân. Chỉ thị nêu rõ: “Bộ đội địa phương và dân quân trong
quá trình tiến triển của chiến tranh là lực lượng hậu bị trực tiếp của quân chủ lực. Nhờ
sự phát triển của những lực lượng ấy, tài sản nhân dân, chính quyền nhân dân, các
đoàn thể nhân dân và cơ sỡ Đảng đươc bảo vệ, chính quyền bù nhìn của giặc, kinh tế
của chúng, ngụy binh và âm mưu chiến đấu của địch bị phá hại”. Chỉ thị nhấn mạnh:
Các bộ đội địa phương đều đặt dưới sự lãnh đạo của các tỉnh ủy, huyện ủy và do cơ
quan quân đội địa phương chỉ huy. Việc đảm bảo vật chất trang bị vẫn do Uy ban
hành chính kháng chiến, các đồn thể quần chúng và nhân dân địa phương đảm
nhiệm.
Bộ đội địa phương từng bước thực hiện được nhiệm vụ làm nồng cốt cho chiến
tranh du kích ở địa phương, tạo điều kiện để các đại đội độc lập rút về xây dựng bộ
đội chủ lực.
<i><b> Câu 3: Đồng chí (bạn) trình bày khái qt quá trình hình thành lực lượng</b></i>
<b>vũ trang QK5. Những căn cứ để Đảng ủy, Bộ tư lệnh QK đề nghị BQP công</b>
<b>nhận ngày truyền thống của lực lượng vũ trang QK là ngày 16/10/1945? .</b>
<i><b>Trả lời: </b></i>
Khu 5 là chiến trường có vị trí chiến lược quan trọng, là một căn cứ địa vững
chắc và lâu dài của Cách mạng Việt Nam.
Đội du kích Ba Tơ:
Sáng ngày 12/3/1945 trong cuộc mít tinh mừng khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi, trước
hàng ngàn quần chúng kinh-thượng, ủy ban lãnh đạo khởi nghĩa Ba Tơ đã tuyên bố
chính thức thành lập “ Đội du kích cứu quốc quân Ba Tơ” gọi tắt là “ Đội du kích Ba
Tơ”.
1. Đây là đội du kích đầu tiên của Đảng được chính thức thành lập ở Nam
Trung bộ.
2. Đội du kích Vũ Hùng.
3. Đội Tự vệ sắt, Tự vệ cứu quốc (Bình Định)
4. Chi đội Phan Thanh (Đà Nẵng)
5. Chi đội Trần Cao Vân( Quảng Nam)
6. Chi đội Lê Trung Đình (Quảng Ngãi)
7. Chi đội Phan Đình Phùng(Bình Định)
8. Chi đội Tây Sơn (Gia Lai)
9. Chi đội 1 (Bình thuận)
10.Chi đội 2 (Ninh thuận)
11.Chi đội 3 (Khánh Hòa)
12.Chi đội 4 (Phú Yên)
13.Chi đội 7 (Kum Tum- Chi đội Tăng Bạt Hổ; chi đội Hoàng Hoa Thám)
14.Hai đại đội N’ Trang Lơng (Đắc Lắc)
15.Đại đội Phan Thanh (Đà Nẵng)
Ngồi ra cịn thành lập thêm một số phân đội ở Lâm Viên và Đồng Nai Thượng.
<b>Ngày 16/10/1945 </b>
Theo chỉ thị của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng đã quyết định thành lập
Chiến Khu 5 , Chiến Khu 6 vào ngày 16/10/1945 .
- Chiến khu 5 gồm các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai, Kum
Tum.
- Chiến khu 6 gồm các tỉnh: Phú n, Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thn,
Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng. (2 tỉnh Lâm Đồng và Bình Thuận được
tách chuyển về Quân khu 7 vào năm 1999).
Khu trưởng: Lúc đầu đồng chí Trần Cơng Khanh, sau đó là đồng chí Nguyễn
Thế Lâm.
Chính ủy: Trịnh Huy Quang
<b>Tháng 5/1961</b>
Bộ chính trị BCHTW Đảng quyết định tổ chức chiến trường Miền Trung thành 2 khu
và thành lập các Quân khu:
- Quân khu 5 gồm các tỉnh: Quảng Trị , Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai,KumTum.
- Quân khu 6 gồm: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Quảng Đức,
Tuyên Đức, Lâm Đồng.
<b>Ngày 20/9/1975</b>
Bộ chính trị BCHTW Đảng khóa 3 ra nghị quyết số 245NQTW về việc giải thể
cấp khu và họp nhất một số tỉnh ở Miền Nam, theo đó, ngày 6/12/1975 chính phủ
cách mạng lâm thời cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra quyết định giải thể khu 5, khu
6. Xác nhập Quân khu 6 và Quân khu 5 thành Quân khu 5. Địa bàn Quân khu 5 quản
lí từ Quảng Nam- Đà Nẵng đến Bình Thuận và 4 tỉnh Tây Nguyên.
Căn cứ vào chỉ thị của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và quyết định của BCT BCHTW
Đảng, Đảng ủy- Bộ Tư Lệnh Quân khu xác định và đề nghị BQP lấy ngay 16/10/1945
làm ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu.
Ngày 25/9/2000 , Bộ Trưởng BQP Phạm Văn Trà đã ký quyết định số 2029 QĐ-QP
về việc công nhận ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 5 là ngày
16/10/1945
<i><b> Câu 4: Đồng chí (Bạn) hãy nêu những trận đánh và chiến dịch tiêu biểu trên</b></i>
<b>địa bàn Quân khu 5 mà lực lượng vũ trang Quân khu đã tham gia trong cuộc</b>
<b>kháng chiến chống thực dân pháp? Trong đó trận đánh nào tiểu biểu được Bác</b>
<b>Hồ gửi thư khen tặng thưởng cho các đơn vị tham gia trận đánh? Tóm tắt diễn</b>
<b>biến, kết quả và ý nghĩa trận đánh đó?</b>
<i><b>Trả lời:</b></i>
1. Chiến dịch Quảng Nam-Đà Nẵng
Chiến dịch diễn ra từ ngày 24/1/1949 đến ngày 31/3/1949
Đây là chiến dịch tiến công quân Pháp ở Bắc Quảng Nam-Đà Nẵng do BCH Liên
Khu 5 tổ chức, chỉ huy nhằm tiêu diệt một số bộ phận sinh lực địch, đánh phá tiến
đường giao thông Đà Nẵng- Huế, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch
hậu.
2. Chiến dịch An Khê
Chiến dịch diễn ra vào lúc 1h00 ngày 13/1/1953 đến 28/1/1953.
Đây là chiến dịch tiến cơng của 2 Trung đồn chủ lực Liên khu 5 ( 108,803) và
Trung đoàn 120 bộ đội địa phương Bình Định nhằm phá vỡ bàn đạp của Pháp ở cụm
3. Chiến dịch Bắc Tây Nguyên
Chiến dịch diễn ra từ ngày 26/1/1954 đến 17/2/1954
Diễn biến chiến dịch chia 2 đợt.
- Đợt 1 : Từ ngày 26/1 đến 28/1/1954
- Đợt 2: Từ ngày 29/4 đến 17/2/1954
4. Trận phục kích Đăk-pơ của eBB96 Liên khu 5
Đây là trận tập kích mưu trí , táo bạo diễn ra trước khi ký hiệp định đình chiếm
giơ-ne-vơ 26 ngày đã đánh bại cuộc hành quân Át Lăng của địch trong chiến dịch
giải phóng Bắc Tây Nguyên. Xuân hè 1954 ở chiến trường Liên khu 5 do BTL
Liên khu 5 tổ chức chỉ huy. Là một trận đánh đã đi vào lịch sữ oanh liệt của dân
tộc Việt Nam trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- Kết quả:
Ta làm chủ tiểu khu An Khê.
Tiêu diệt khoảng 500 tên ( Có tên tham mưu trưởng GM100, 600 tên bị thương )
Bắt sống 800 tên ( có tên quan 5 Barou và bộ tham mưu binh đoàn 100…
Thu và phá hủy 375 xe tăng các loại, 18 khẩu 105 ly và nhiều quân trang quân
dụng khác.
Trận phục kích Đăk –pơ tiêu diệt GM100 quân Pháp của Trung đoàn 96 Liên
khu 5 ngày 24/5/1954 là trận đánh mưu trí, táo bạo, hiệu suất cao. Một trận đánh
- Ý nghĩa: Đây là trận vận động phục kích lớn nhất và thắng lợi vang dội nhất
của Liên khu5, lần đầu tiên bộ đội Liên khu 5 tiêu diệt gon 1 binh đồn cơ động
An Phi của địch, cũng là một địn nặng nề bồi thêm sau khi thực dân Pháp bị
thất bại ở Điên Bien Phủ.
<b> </b>
<i><b>Câu 5: Đồng chí (bạn) hãy nêu những trận đánh và chiến dịch tiêu biểu trên địa</b></i>
<b>bàn quân khu 5 mà lực lượng vũ trang Quân khu đã tham gia trong cuộc kháng</b>
<b>chiến chống Mỹ cứu nước? Nêu tóm tắc diễn biến, kết quả, ý nghĩa một trận</b>
<b>đánh mà đ/c cho là tiêu biểu nhất trong giai đoạn này?</b>
<i><b>Trả lời:</b></i>
1. Chiến thắng núi thành.
Trận đánh diễn ra vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 26/5/1965 đến 1 giờ ngày
26/5/1965. Đây là trận phục kích phủ đầu tiêu diệt gọn một đơn vị Mỹ, mở đầu
cho cao trào diệt Mỹ của các lực lượng trong Quân khu và chiến trường Miền
Nam.
2. Chiến dịch Ba Gia
Chiến dịch diễn ra từ ngày 28/5/1965 đến ngày 20/7/1965
Diễn biễn chiến dịch chia làm 3 đợt.
- Đợt 1 Từ ngày 29/5 đến ngày 7/6/1965
- Đợt 2 Từ ngày 10/6 đến ngày 25/6/1965
- Đợt 3 Từ ngày 4/7 đến ngày 20/7/1965
Kết quả:
Đây là chiến dịch tiến công tổng hợp đánh bại biện pháp ứng cứu giải tỏa
bằng lực lượng lớn nhất của địch ở miền Trung. Đồng thời cũng là trận đánh
đặc biệt tiêu biểu trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh đánh giá là “Một trận đánh chiến tuyệt đẹp…”
Chỉ đạo chiến dịch Đồng Xoài (Phước Long) Dành thắng lợi nghe báo cao quân
và dân khu 5 thắng lớn trong trận Ba Gia ở Quảng Ngãi. Trong khi chiến thắng
dồn dập trên khắp các chiến trường, ngay hôm sau, Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh ngồi viết một mạch bài báo lấy tựa đề là: “ Ba Gia gọi Đồng Xồi”, phân
tích sâu sắc về 2 chiến thắng vang dội này với bút hiệu trường sơn – có nội
dung:” Chiến thắng Ba Gia cuối tháng 5/1965 tại Quảng Ngãi là một trận tiêu
diệt chiến tuyệt đẹp của quân ta. Lần đầu tiêu ta tiêu diệt 4 tiểu đoàn khá tinh
nhuệ của địch …” Bài báo đã được đài phát thanh giải phóng phát đi phát lại
nhiều lần và gây sự chú ý đặc biệt của cả dư luận trong nươc và ngoài nước.
- Ý nghĩa :
Chiến thắng Ba Gia có ý nghĩa đặc biệt quân trọng, đã đánh dấu bước
phát triển của nghệ thuật chiến dịch trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước; đồng thời chứng minh được sự trưởng thành của phong
trào cách mạng ở Qn khu 5 nói riêng và tồn miền nam nói chung.
Thắng lợi đó cịn khẳng định sự phá sản tất yếu chiến lược” chiến tranh đặc
biệt” của Mỹ- Ngụy, điều quan trọng là ta đánh bại biện pháp ứng cứu giải tỏa
bằng lực lượng lớn nhất của địch ở miền trung.
3. Chiến thắng Vạn Tường.
Trận chiến đấu diễn ra từ ngày 18/8/1965 đến ngày 19/8/1965
Đây là trận tập kích chống càn của Trung Đoàn 1 và sự hổ trợ của nhân dân và
sự phối hợp chiến đấu của lực lượng vũ trang đại phương, quân-dân khu 5 đã
thể hiện ý chí quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
4. Chiến dịch Play-Me
Chiến dịch diễn ra từ ngày 19/10 đến ngày 26/11/1965
vận số 3 của Mỹ nhằm mở rộng vùng giải phóng, đẩy mạnh chiến tranh du
kích…
5. Chiến dịch Bắc Tây Nguyên.
Diễn ra từ ngày 30/3 đến ngày 5/6/1972
Diễn biến chiến dịch chia ra làm 2 đợt
6. Chiến dịch Tây Nguyên
Chiến dịch diễn ra từ ngày 4/3 đến ngày 25/3/1975
7. Chiến dịch Huế- Đà Nẵng
Chiến dịch diễn ra từ ngày 21/3 đến ngày 29/3/1975
Diễn biến chiến dịch diễn ra gồm 2 đợt
Đợt 1: từ ngày 21/3 đến 26/3/1975: ta tiến công giải phóng Huế, Tam Kỳ,
Quảng Ngãi, uy hiếp Đà Nẵng từ hướng Bắc và hướng Nam.
Đợt 2: Từ Ngày 27/3 đến ngày 29/3/1975. Tiến cơng tiêu diệt lực lượng cịn lại
của qn đồn 1 ngụy, giải phóng Đà Nẵng .
<b> </b>
<i><b>Câu 6: đồng chí (bạn) cho biết nguồn gốc, ý nghĩa và tác giả của “lá cờ đỏ sao</b></i>
<i><b>vàng”, “Quốc hiệu Việt Nam” ?</b></i>
<b>Trả lời:</b>
Tiên, tỉnh Hà Nam ngày nay. Năm 1927, Nguyễn Hữu Tiến tham gia tổ chức thanh
niên cách mạng đồng chí hội. Năm 1931 ơng bị bắt và bị địch đưa ra nhà tù côn đảo.
Mẫu cờ do Nguyễn Hữu Tiến vẽ đã được xứ ủy Nam Kỳ nhất trí và xuất hiện ở
nhiều nơi trong phong trào Việt Minh (1941-1945). Năm 1945, Hồ Chủ Tịch đã ký
sắc lệnh quy định mẫu quốc kỳ nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa với nền đỏ và ngôi
sao vàng năm cánh như mẫu vẽ của Nguyễn Hữu Tiến. Ngày 2-2-1945 cờ đỏ sao vàng
chính thức xuất hiện trong buổi lễ tuyên bố độc lập. Quốc hội khóa 1 ngày 2-3-1946
quy định cụ thể: ngơi sao vàng năm cánh đặc giữa nền đỏ hình chữ nhật, chiều rộng
phải bằng hai phần ba chiều dài. Trong cuộc hộp này, Bác Hồ đã nói: “lá cờ đỏ sao
vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã
cùng phái đồn chính phủ đi từ châu Á, cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt
Nam.Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, cịn ai khơng có quyền thay đổi quốc kỳ và quốc
ca”. Người vẽ lá cờ tổ quốc ấy bị địch bắt và xử bắn ngày 28-8-1941 cùng các chiến
sỹ nam kỳ khởi nghĩa tại hóc mơn, trong đó có cả Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn
Tần, Hà Huy Tập...
Quốc hiệu Việt Nam – một sản phẩm của sáng tác hội họa, là biểu tượng cơ
động, súc tích và đầy đủ về con người và đất nước Việt Nam, nó hàm chứa khác vọng
Cũng tại quốc hội khóa 1, cùng lúc thơng qua quốc kỳ, Quốc hội cũng đã nhất
trí lấy bài tiến quân ca của Văn Cao làm quốc ca chính thức. Theo lời của nhạc sỹ
Văn Cao, bài tiến quân ca được hoàn thành vào cuối tháng 10/1944. Nhà văn Vũ
Bằng nhớ lại trong một bài viết như sau: ....19/8 là ngày khởi nghĩa cả nước vùng lên
mở hội, từ thôn quê đến thành thị, từ ngõ hẻm đến hang cùng, cuồn cuộn làn sóng ghê
gớm, đâu đâu cũng vang âm những tiếng hát “Tiến Quân Ca” và “Diệt phát xít”.
<i><b>Câu 7: Đồng chí (bạn) cho biết ai là người quyết định dời kinh đô nước ta từ Hoa</b></i>
<i><b>Lư về Đại La và đổi tên gọi là kinh đô Thăng Long? Tên gọi Thăng Long được ra</b></i>
<i><b>đời như thế nào ?</b></i>
<b>Trả Lời:</b>
song Phú Lương như hào trời sinh ra, ngàn dặm bằng phẳng trăm họ giàu có, phía tây
thơng với Sơn Tây, Tun Hưng, phía bắc thấu đến Ninh Sóc, Kinh Bắc. Miền đơng
nam thì vẫn chuyển bằng thuyền, miền Cần Xương thì liên lạc bằng trạm, là nơi trung
tâm của nước, bốn phương chầu về, núi là vạt áo che, sông là dải đại thắt, sau lưng là
sông, trước mặt là biển, địa thế hung mạng và hiểm, rộng mà dài, có thế làm cho nơi
vua ở hung tráng, ngơi báu vững bền. Hình thế nước Việt khơng nơi nào thuận bằng
nơi nay…
Đầu năm 1010, Lý Thái Tổ tự tay viết Chiếu dời đơ, nói rõ lý do dời đô là “để
mưu viêc lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời” và quyết định
chọn “thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng
cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước…” làm:
thượng đô kinh sư muôn đời”.
Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), đoàn thuyền ngự của nha vua từ Hoa
Lư đến Đại La “tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân
đó đổi tên là Thăng Long (rồng bay)”
Tên gọi Thăng Long chứa đựng một ý nghĩa lớn lao. Trước hết tên gọi rồng
bay (Thăng Long) vạch được khí thế mạnh mẽ vươn lên của kinh thành đất nước, của
toàn dân tộc. Nhưng tên gọi “Rồng Bay” còn thể hiện một khát vọng hịa bình, đời
sống hạnh phúc, tự do của nhân dân Việt Nam thời bấy giờ… Hơn thế nữa, biểu
tượng Rồng Bay còn chứa đựng ý thiêng liêng trở về cội nguồn Rồng- Tiên và mơ
ước về nguồn nước, mưa thuận gió hịa của cư dân văn minh nơng nghiệp trồng lúa
nước.
Năm 1010 đã được ghi vào lịch sử Hà Nội một mốc lớn với hai sự kiện trọng
đại: Định đô ở vùng Hà Nội và đặt tên thành Thăng Long. Và từ đó, Thăng Long đã
vươn lên như rồng bay trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, xứng đáng là
kinh đô của nước Đại Việt, là trung tâm chính trị-kinh tế-văn hóa lớn nhất của cả
nước.
<i><b> Trả Lời:</b></i>
<b>CHIẾN THẮNG NHƯ NGUYỆT</b>
<b>MÙA XUÂN NĂM 1077</b>
Sau thất bại cuối thế kỷ X, nhà Tống lại cố vào chiến tranh xâm lược nước ta
một lần nữa. Vì vậy, Lý Thường Kiệt đã chủ động đưa quân sang các Châu
Ung-Khâm- Liêm phá tan âm mưu của địch, rồi rút về nước chuẩn bị sẵn sang đối phó với
cuộc tiến cơng mới của chúng.
Lý Thường Kiệt đã phản đoán và đánh giá đúng cuộc tiến cơng của địch. Kế
Sau khi tập trung lực lượng tiến hành trinh sát, một đêm đầu tháng 2 Quách
Quỳ bắc cầu phao, tung kỵ binh vượt sông đánh vào trận địa ta. chúng đột phá qua
dãi phòng ngự tiến về phía Thăng Long, nhưng tập tức bị ta chặn lại khi cách Thăng
Long khoản 8 km. đồng thời ta tung kỵ binh đột kích cạnh sườm, địch bị rối loạn đội
hình , một phần lớn bị tiêu diệt, phần cịn lại tháo chạy về phía bắc . đợt tấn cơng của
địch bị đẩy lùi.
Sau đó Qch Quỳ mở đợt tấn cơng thứ hai. Nhưng vì phương tiện thiếu, lại chỉ
có thể vượt sơng trên hai đoạn hẹp (bến Thị Cầu và bến Như Nguyệt) nên cuộc tấn
công thứ hai của chúng bị thất bại. Hai lần vượt sông, hai lần thất bại thảm hại.
Tuy thế nhưng còn trong tay gần nguyên vẹn quân số 10 vạn, số phu là 20 vạn
mà Quách Quỳ không dám nghĩ đến tiến cơng lần nữa. Qch Quỳ quyết định dứt
khốt phải chờ thủy binh và buồn ràu ra lệnh “ai bàn đánh sẽ chém”. Chúng bố trí
thành lập hai tập đồn: Quách Quỳ ở cửa bắc Thị Cầu và Triệt Tiết ở phía bắc Như
Nguyệt để chờ viện binh.
Chiến thắng Như Nguyệt lần thứ hai này vào cuối mùa xuân 1077. Đó là chiến
thắng của trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa kết thúc chiến tranh. Lúc này quân
Tống đã ở vào cảnh thế cùng lực kiệt. Nếu cịn đóng qn thì rõ ràng sẽ bị tiêu diệt
hồn tồn. Nhưng rút lui thì mất hết thể diện của “Thiên triều”, biết rõ ý chí xâm lượt
của giặc đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động đề nghị “Giảng hòa”, thực chất
<b>TRẬN BÌNH LỆ NGUN (17/01/1028)</b>
Bình Lệ Nguyên là trận đánh lớn đầu tiên của quân và dân nhà Trần được ghi lại trong
sử sách kể từ khi quân Mông Cổ kéo vào xâm lược đất nước ta. Mặc dù chưa đánh bại
được đội quân xâm lược, không chặn đứng được cuộc tấn công của chúng nhưng trận
Bình Lệ Ngun đã làm cho kế hoạch tiến cơng của chúng bị thất bại ngay từ đầu. Lối
đánh chớp nhống của đội qn thiện chiến này khơng có được kết quả như chúng
từng đạt được trong suốt nửa thế kỉ chinh phục các dân tộc ở nhiều nơi trên Thế Giới.
Bình Lệ Ngun là chiến tuyến phịng ngự nằm ở phía Bắc cách kinh đơ khơng
xa, trực tiếp bảo vệ kinh đô trước cuộc tiến công của quân xâm lược. Nhưng sau khi
quân ta tiếp chiến, trước thế giặc đông và mạnh, nhận thấy nếu cứ tiếp tục giao chiến
thì ta càng bất lợi nên Trân Thái Tơng và các tướng lĩnh quyết định nghe theo lời
khuyên sáng suốt của Lê Tần, tạm lui quân để tránh nhuệ khí ban đầu của địch. Việc
quân ta rút khỏi Bình Lệ Nguyên sau khi đã giáp chiến với quân Mông Cổ chứng tỏ
khả năng phân tích đánh giá đúng thực lực ta và địch của nhừng người chỉ huy cuộc
chiến đấu, trong đó tiêu biểu là Lê Tần trước quân địch lớn mạnh. Ơng đã biết lượng
sức mình khơng dốc tồn lực ra chống chọi, tránh quyết chiến trong điều kiện khơng
có lợi khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu, mà quyết định lui quân để tránh cái thế hăng
hái ban đầu của qn Mơng Cổ, nhằm bảo tồn lực lượng, tranh thủ thời gian, tạo nên
thế có lợi cho ta để rồi từng bước tiêu diệt địch dành thắng lợi cuối cùng.
<b>TRẬN ĐÔNG BỘ ĐẦU (28-29/01/1258)</b>
Để tránh sức mạnh ban đầu và sở trường của địch nhà Trần đã tiến hành rút lui chiến
lược khỏi Bình Lệ Ngun, sau đó rút lui khỏi cả kinh đô Thăng Long, làm kế hoạch
<b>TRẬN HÀM TỬ (5/6/1285)</b>
Trận quyết chiến giữa quân nhà Trần (Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải chỉ huy) và
quân Nguyên (Toa Đô chỉ huy) trong cuộc kháng chiến chống Nguyên 1285.
Trong cuộc chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên lần hai (1285) trận
Chương Dương – Thăng Long có một vị trí to lớn. Đây là một trận thăng chốt quyết
định thắng lợi của quân dân nhà Trần với xâm lược Mông – Nguyên ngay trên mảnh
đât kinh thành Thăng Long.
Dưới sự chỉ đạo của tướng lĩnh nhà Trần, chiến trận Chương Dương – Thăng
Long cịn để lại nhiều bài học lớn. Đó là tổng hợp sức mạnh của toàn dân tổ chức
đánh giặc khắp nơi, mọi lúc, buộc địch phải tác chiến liên miên, thường xuyên lâm
vào thế bị động. Ngoài quân chủ lực của triều đình khắp các lộ, các hướng, các xã
trong cả nước đều có quân địa phương, có hướng binh, dân binh.
<b>TRẬN NGỌC HỒI – ĐẦM MỰC (30/01/1789)</b>
Trận Ngọc Hồi – Đầm Mực (30/01/1789) là trận tiến công trên hướng chủ yếu của
quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, diệt quân Thanh (Trung Quốc) ở đồn Ngọc
Hồi (Nay thuộc Thường Tín, Hà Tây), trong kháng chiến chống Thanh (1788-1789).
Mờ sáng ngày 30/01, từ hướng Nam, quân Tây Sơn bắt
đầu tiến công: Mở đầu đối tương binh (hơn 100 voi chiến) đánh tan phản kích của kị
binh Hứa Thế Hanh rồi vóng sang tiến cơng ở hai hướng tả, hữu, dùng đại bác, hỏa hổ
bắn phá thành lũy, đốt cháy doanh trại địch. Tiếp đến, đội cảm tử (khoảng 600 quân,
chia thành 20 toán), trang bị đoản đao, ván gỗ quấn rơm ướt chống hỏa lực, tiến thành
hàng ngang, áp sát chiến lũy, tạo điều kiện cho đại quân do Nguyễn Huệ đốc chiến ập
<b>TRẬN ĐỐNG ĐA – THĂNG LONG (30/01/1789)</b>
Trận tiến công trên hướng thứ yếu của quân Tây Sơn do đô đốc Long (có tài
liệu nói là Đặng Tiến Đơng) chỉ huy, diệt quân Thanh ở đồn Đống Đa (Khương
Thượng, Tây Nam Hà Nội 2km) phối hợp với hướng chủ yếu tiến công Ngọc Hồi
(Trận Ngọc Hồi – Đầm Mực 30/01/1789).
Cuối năm Mậu Thân (1788) nhân dân Thăng Long và Bắc Hà pahir chịu đựng
những ngày tháng đau thương, tủi nhục vì nạn ngoại xâm. Lợi dụng sự cầu cứu của Lê
Chiêu Thống, 290000 quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lãnh, đã tràm vào chiếm
đánh kinh thành và kiểm soát phần lớn đất Bắc Hà. Quân đồn trú Tây Sơn do tướng
Ngô Văn Sở chỉ huy, đã theo kế sách mưu trí của tiến sĩ Ngơ Thì Nhậm, lui về giữ
phòng tuyến Tam Điệp-Biện Sơn.
Giành được thắng lợi tương đối dẽ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan. Hắn ra
lệnh cho quân tạm đóng ở Thăng Long để nghỉ ngơi ăn tết và chuẩn bị mọi mặt thật
chu đáo rồi sau tết sẽ “tiến vào tận sào huyệt của giặc bắt sống Nguyễn Huệ” (Hoàng
Lê Nhất Thống Chí), hắn đóng đại bản doanh ở cung Tây Long bên bờ sơng Nhị và
bố trí lực lượng phòng thủ quanh Thăng Long, nhất là hướng đường Thiên Lý và
35 ngày chuẩn bị, trên đường hành quân dài khoảng 500km từ Phú Xuân đến
Tam Điệp và 5 ngày đêm tiến cơng tiêu diệt trên một tuyến phịng ngự dài khoảng
90km từ Gián Khẩu đến Thăng Long, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang
Trugn đã đật mức kỉ lục về tính thần tốc trong hành quân chuẩn bị và tiến công tiêu
diệt địch.
Đại thắng Thăng Long xuân Kỉ Dậu 1789 là một trong những vũ công hiển
hách nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
<b>TRẬN HÀ NỘI</b>
Trận Hà Nội thứ hai xảy ra ngày 25/4/1882. Lần này việc đánh chiếm Hà Nội
nằm trong âm mưu chung đánh chiếm Bắc Kì của Thực Dân Pháp. Ngày 25/3 thống
đốc Nam Kỳ cử trung tá Rivie (H.Rivière) đem theo hai chiến hạm và 300 quân tăng
cường cho quân viễn chinh đánh chiếm Bắc Kì. Cũng như THN ngày 20/11/1873,
đúng 5 giờ sáng ngày 25/4/1882, Rivie gởi tối hậu thư buộc Hồng Diệu (tổng đốc Hà
Nội) hạ khí gới và giao nộp thành trước 8 giờ sáng, bốn pháo thuyền Pháp bắt đầu bắn
phá thành Hà Nội. Đến 10 giờ 45 phút quân Pháp đổ bộ đánh chiếm thành. Hà Nội
thất thủ Hoàng Diệu tuẫn tiết.
<b>21-12-1873: Trận Cầu Giấy (Hà Nội). P. Gacniê bị giết.</b>
Chiến thắng Cầu Giấy có ý nghĩa quân sự và tâm lý hết sức quan trọng. Ở nhiều
địa phương khác, cuộc kháng chiến chống Pháp nổi lên càng nhiều khiến Pháp ngày
bị sa lầy.
<b>TRẬN BA ĐÌNH (18/12/1886 ĐẾN 20/01/1887)</b>
Gồm hai đợt: Ngày 18/12/1886, nghĩa quân đánh lui cuộc tiến công đầu tiên
cảu quân Pháp từ hai hướng: Hướng Tây Nam do trung tá MetZanhzơ (Metzinzer) và
hướng Đông Bắc do trung tá Đôt (Dodds) chỉ huy. Sau đợt này, thấy không thể thắng
nhanh được, nên từ 31/12 quân Pháp chuyển sang bao vây.
Đợt hai: Ngày 6/01/1887 đến 20/01/1887, Pháp lại tiến công đợt hai do trung tá
Đôt chỉ huy, nhưng không thành công, đành rút ra sau để tổ chức bao vây và chờ xin
viện binh. Khơng thể để Ba Đình tồn tại giữa vùng đồng bằng giáp ranh Thanh Hóa
và Ninh Bình như một thách thức kiêu hãnh, Bộ tự lệnh quân viễn chinh Pháp quyết
định: Nâng số quân Pháp đánh Ba Đình lên 3.530 lính (trong đó có 1.580 lính Âu và
1.950 lính bản xứ); đưa số pháo sử dụng lên 36 khẩu, tăng cường 5.000 dân binh và
giáo dân của linh mục Trần Lục; cử đại tá Brixô (Brissaud) làm tổng chỉ huy và xiết
chặt hơn nữa việc bao vây Ba Đình, bắt sống hoặc giết Đinh Cơng Tráng, Phạm Bành,
Trần Xuân Soạn. Tuy Pháp đã nỗ lực cao độ nhưng vẫn khơng đạt các mục đích đề ra.
Sau hơn một tháng chiến đấu phòng ngự, đánh bật hai đợt tấn công quy mô lớn của
Pháp, nghĩa quân Ba Đình đã tiến hành tát chiến phá vây vào đêm 20 rạng ngày
21/01/1887, rút về căn cứ dự phòng Mã Cao.
<b>CUỘC CHIẾN ĐẤU OANH LIỆT 60 NGÀY ĐÊM TẠI THỦ ĐÔ HÀ NỘI</b>
Đêm ngày 19/12/1946, quân và dân ta đồng laotj nổ súng đánh quân xâm lược
Pháp tại thủ đô Hà Nội và các thành phố lớn, kháng chiến tồn quốc bùng nổ. Sáng
<i><b>ngày 20/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đây là</b></i>
tiếng gọi của non sông đất nước, là mệnh lệnh tiến công, thôi thúc, dục dã, tập hợp và
soi đường chỉ lối cho mọi người Việt Nam đứng dậy cứu nước.
Tiêu biểu cho cả nước là cuộc chiến đấu oanh liệt trong 60 ngày đêm của quân
và dân ta tại thủ đô Hà Nội. Chiều ngày 19/12/1946, giờ nổ súng tồn thành được phổ
biến khắp đơn vị. Đúng 2000 cơng nhân nhà máy điện Hà Nội phá máy; cả thành phố
tắt điện, hiệu lệnh chiến đấu hoàn thành. Vệ Quốc quân, công an xung phong, tự vệ
<b>TRẬN GIA LÂM NGÀY (4/3/1954)</b>
Trận tập kích của 16 chiến sĩ biệt động vào sân bay Gia Lâm (Hà Nội). Bằng kĩ
thuật tìm nhập, các chiến sĩ đã vươt qua hệ thống bảo vệ của một trung đoàn Âu – Phi,
dùng bộc phá phá hủy 18 máy bay, đốt cháy 1 kho xăng gây tổn thất lớn cho không
quân Pháp trong việc chi viện đường khơng cho tập đồn cứ điểm Điện Biên Phủ.
<b>ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHƠNG CHIẾN THẮNG CỦA Ý CHÍ VÀ TRÍ TUỆ</b>
<b>VIỆT NAM</b>
Vào tháng 10/1972, lẽ ra giữa ta và Mỹ đã đi tới một hiệp định chấm dứt chiến
tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam như đã thỏa thuận, nhưng phía Mỹ đã bội ước, đưa
máy bay chiến lược B52 đến ném bom Hà Nội, Hải Phòng.
Cuộc tập kích chiến lược quy mơ lớn bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội,
Hải Phòng kéo dài 12 ngày, đêm đã bị thất bại hoàn toàn.
Trong 12 ngày, đêm “Điện Biên Phủ trên không”, quân và dân ta đã bắn rơi 81
máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 và 42 máy bay chiến
thuật khác.
Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”,
đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt trong suốt 8 năm chống chiến tranh
phá hoại của Đế Quốc Mỹ. Đây là cuộc đọ sức quyết liệt nhất từ trước tới nay. Nghệ
<i><b>Câu 9: Đồng chí (Bạn) cho biết Hà Nội cịn có những tên gọi nào khác, hãy kể các</b></i>
<b>tên gọi đó</b>
<i><b>Trả lời:</b></i>
Tên chính quy
Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước
Việt Nam chính thức đặt ra:
Tên khơng chính quy
Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ …. Dùng để chỉ thành Thăng
Long – Hà Nội:
1. Trường An (Tràng An); 2. Phượng Thành (Phụng Thành); 3. Long Biên;
4. Long Thành; 5. Hà Thành; 6. Hoàng Diệu.
<i><b>Câu 10:</b></i>
<b>Đồng chí (bạn) hãy viết một kỷ niệm sâu sắc về người chiến sĩ khu V, một</b>
<b>gươmg điển hình tiêu biểu trong PTTĐ quyết thắng trong thực hiện cuộc vận</b>
<b>động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh, trong xây dựng nền</b>
<b>quốc phịng toàn dân, xây dựng LLVT quân khu VMTD mà đồng chí (bạn) được</b>
<b>biết ở đơn vị, địa phương mình.</b>
<b>Trả lời:</b>
Niềm an ủi lớn nhất của tôi là những đứa con đã trưởng thành, hiểu một cách
sâu sắc con đường mà thế hệ cha ông và bác hồ đã lựa chọn. Các con tôi chưa một
lần được gặp Bác, nhưng tôi đã truyền lại cho các con tất cả những gì mà tơi cảm
nhận được qua những lần được gặp Bác……”chị Trần Thị Kim Cúc tâm sự:
Chị Trần Thị Kim Cúc (SN1946), hiện đang trú tại 149 đường Thanh Long,
phường Thanh Bình, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
chị Kim Cúc kể lại: năm 17 tuổi chị trở thành đại đội trưởng đội công tác đặc biệt,
hoạt động tại nội thành Đà Nẵng, 20 tuổi chị vinh dự được đứng vào hàng ngũ của
Đảng, chị là thương binh nặng 1/4 và chị bắt đầu từ câu chuyện diệt Mỹ. Hơm đó, đầu
năm 1962 từ nguồn tin cơ sở có 34 sỹ quan Mỹ đến Đà Nẵng.
Đội công tác đặc biệt chị Cúc lập tức bí mật gặp nhau tại chùa Diệu Phát bàn
bạc. Khoảng 5 ngày, h2 là bí danh của anh Lê Lợi lái xe cho trại lính ở Sơn Trà đưa
cho chị Kim Cúc một mảnh gấy của H1 ghi nội dung: “9 giờ sáng này có cinema, cậu
theo xe đến đúng hẹn để gặp xem”. Chị Kim Cúc cho biết H1 tức là anh hùng
LLVTND Phạm Nổi. Là một cơ sở nội tuyến của ta hoạt động ở sở chỉ huy qn đồn
địch đóng ở Sơn Trà.
vừa trên núi xuống…..Thấy chúng gần quá, dễ đánh như chơi. H1 liền móc túi lấy hai
quả lựu đạn M26 bảo: “ngứa mắt quá vợt luôn đi đội trưởng ơi!” H1 hăng hái quá và
là cơ hội ngàn vàng nên tôi gật đầu. H1 đưa cho tôi một quả M26, cùng lúc hai quả
lựu đạn bay vào bọn lính Mỹ nổ vang, bọn chúng rống lên như bò bị chọc tiết còi báo
động khu Sơn Trà réo lên inh ỏi, xe nhà binh chở lính rầm rầm đổ xuống chặn các
ngã đường. H1 lại đùng xe đạp chở tơi phóng như bay tơi thốt khỏi khu qn sự, hối
tơi lên xe lam chở khách về nội thành, cịn anh bình tỉnh đạp xe quay về trại lính…….
Một lần khác, trong lúc đi trinh sát để chuẩn bị cho một trận đánh mới thì chị
Kim Cúc bị địch bắt, chúng tra tấn dã man, đóng cây đinh 5 phân vào sọ não để lấy