A
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƢỚC
NGƠ THỊ HỒNG NGÂN
MSSV:1353801014125
BẢO VỆ NGƢỜI TỐ CÁO:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
KHOÁ TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHOÁ: 2013 - 2017
Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. NGUYỄN VĂN TRÍ
MỤC LỤC
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ BẢO VỆ NGƢỜI TỐ CÁO Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................................ 5
1.1 Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết bảo vệ ngƣời tố cáo ............................ 5
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm bảo vệ người tố cáo ................................................... 5
1.1.2 Sự cần thiết bảo vệ người tố cáo ............................................................... 11
1.2 Sự hình thành và phát triển của quy định pháp luật về bảo vệ ngƣời tố
cáo .......................................................................................................................... 17
1.3 Nội dung, phạm vi và phƣơng thức bảo vệ ngƣời tố cáo ........................... 23
1.3.1 Nội dung bảo vệ người tố cáo ................................................................... 23
1.3.2 Phạm vi bảo vệ người tố cáo ..................................................................... 27
1.3.3 Phương thức bảo vệ người tố cáo .............................................................. 29
1.4 Đối tƣợng đƣợc bảo vệ và chủ thể có trách nhiệm bảo vệ ......................... 33
1.4.1 Đối tượng được bảo vệ .............................................................................. 33
1.4.2 Chủ thể có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo ............................................. 34
1.5 Thủ tục bảo vệ ngƣời tố cáo .......................................................................... 35
1.5.1 Căn cứ yêu cầu bảo vệ ............................................................................... 35
1.5.2 Thủ tục yêu cầu bảo vệ .............................................................................. 35
1.5.3 Thủ tục tiếp nhận, xử lý và tiến hành bảo vệ người tố cáo ....................... 36
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ BẢO
VỆ NGƢỜI TỐ CÁO Ở VIỆT NAM .................................................................... 38
2.1 Thực trạng bảo vệ ngƣời tố cáo ở Việt Nam hiện nay ................................ 38
2.1.1 Những tiến bộ và hạn chế trong quy định của pháp luật về bảo vệ người tố
cáo....................................................................................................................... 38
2.1.2 Thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện nay ... 49
2.2 Một số kiến nghị góp phần bảo đảm hiệu quả bảo vệ ngƣời tố cáo ở Việt
Nam ....................................................................................................................... 59
2.2.1 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo ............................................ 59
2.2.2 Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam ... 63
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 67
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 72
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành ở Việt Nam hiện nay cho
thấy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
cơng dân. Trong đó, quyền tố cáo, quyền khiếu nại được ghi nhận là quyền Hiến
định ở Việt Nam.
Điều 30 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được
bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Quyền tố cáo của công dân được cụ thể tại Luật Tố cáo được Quốc hội thông
qua ngày 11/11/2011, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2012 và các văn bản hướng
dẫn. Qua đó, cơng dân thể hiện được vai trò làm chủ việc kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, cũng như các chủ thể khác gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến xã hội. Mặt khác, bằng cách đấu tranh chống
lại những hành vi vi phạm pháp luật, người tố cáo đã góp phần ngăn chặn những
thiệt hại cho nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân, qua đó, góp phần bảo vệ tính
nghiêm minh của pháp luật. Đặc biệt là khuyến khích nhân dân tích cực tham gia
vào việc đấu tranh, phòng chống tham nhũng.
Thực tiễn cho thấy người tố cáo chân chính là người dám vạch trần những
hành vi vi phạm pháp luật, họ thực sự gan dạ, dũng cảm, dám gánh chịu những rủi
ro nguy hiểm cho mình và cả những người thân vì việc tố cáo của mình, đó là việc
họ có thể bị trả thù, trù dập, bị đuổi việc, cách chức hoặc những hành vi trả thù khác
từ phía người bị tố cáo.
Yêu cầu đặt ra là cần phải có những biện pháp hữu hiệu bảo vệ người tố cáo
trước những rủi ro, nguy hiểm mà bản thân họ và người thân họ phải gánh lấy.
Tuy nhiên, thực tiễn chứng minh rằng, bên cạnh cơng nhận những chuyển biến
tích cực về công tác giải quyết tố cáo cũng như công tác bảo vệ người tố cáo, vẫn
tồn tại những bất cập, cịn những trường hợp quyền tố cáo của cơng dân không được
bảo đảm, bị xâm phạm nghiêm trọng. Đặc biệt là tình trạng người tố cáo khơng
được bảo vệ trước các trường hợp bị đe dọa, trù dập, trả thù với nhiều hình thức.
Bên cạnh đó, những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật cũng là một nguyên
nhân khiến cơng tác bảo vệ người tố cáo cịn kém hiệu quả. Điều đó làm cho niềm
tin vào pháp luật của nhân dân giảm đi, họ sẽ sợ hãi, lo lắng bị trả thù, và thậm chí
sẽ im lặng, ngó lơ thay vì tiến hành tố cáo các hành vi sai trái đó. Chính vì vậy, cần
phải hồn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ người tố cáo hiên nay để phù hợp với
thực tiễn hiện nay cũng như nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ người tố cáo trong
thực tiễn sẽ giúp người tố cáo yên tâm khi thực hiện quyền cơng dân của mình.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, tác giả chọn đề tài “Bảo vệ ngƣời tố cáo:
Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu, hồn thành khóa luật tốt nghiệp cử nhân
luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tố cáo và bảo vệ người tố cáo tuy không phải là một vấn đề mới nhưng lại là
một vấn đề rất nóng trong xã hội hiện nay, giành được sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu về khoa học pháp lý và các nhà hoạt động thực tiễn ở nước ta từ những
năm gần đây, đặc biệt là trong bối cảnh Dự thảo Luật Tố cáo năm 2017 đang trong
giai đoạn thảo luận và thông qua.
Nhiều tác giả đã sử dụng vấn đề này để làm đề tài nghiên cứu, hồn thành luận
án tiến sĩ, khóa luận tốt nghiệp của mình. Có thể kể đến các bài viết như luận án tiến
sĩ của Mai Văn Duẩn (2016), “Pháp luật về bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện
nay”; khóa luận tốt nghiệp của Trần Thanh Thủy (2014), “Bảo vệ người tố cáo:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn”.
Ngồi ra có nhiều bài viết trên sách, tạp chí liên quan đến nội dung bảo vệ
người tố cáo hiện nay như bài viết của Trần Hà Bảo Khuyên (2016). “Cơ chế bảo vệ
người tố cáo ở một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam”, đăng trên
tạp chí Kiểm sát, (số 11); Mai Văn Duẩn (2015), “Kinh nghiệm về bảo vệ người tố
cáo của Hàn Quốc”, đăng trên tạp chí Thanh tra, (số 10);…
Mặc dù trước đây có nhiều bài viết liên quan đến nội dung đề tài bảo vệ người
tố cáo, tuy nhiên xuất phát từ tính thời sự của vấn đề này, thực tiễn thực thi công tác
bảo vệ người tố cáo ln nhận được sự quan tâm và có nhiều vấn đề cần nghiên cứu
chuyên sâu. Do đó, tác giả cho rằng đề tài về thực trạng bảo vệ người tố cáo và định
hướng giải pháp hoàn thiện của mình, trên cơ sở những lý luận pháp luật, phân tích
thực trạng hiện nay về công tác tác bảo vệ người tố cáo sẽ cần thiết và phù hợp với
thực tiễn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận tập trung khai thác đối tượng là thực trạng bảo vệ người tố cáo hiện
nay theo pháp luật tố cáo, cụ thể Luật Tố cáo năm 2011 và văn bản hướng dẫn chi
tiết. Theo đó, đề xuất một số kiến nghị giải pháp đối với các thực trạng hiện nay để
góp phần hồn thiện pháp luật bảo vệ người tố cáo cũng như thực hiện có hiệu quả
cơng tác bảo vệ người tố cáo trong thực tiễn.
4. Mục đích, phƣơng pháp nghiên cứu
Mục đích khóa luận là: i) làm sáng tỏ những quy định pháp luật hiện hành về
bảo vệ người tố cáo; ii) phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật tố cáo
hiện hành cũng như trong quá trình áp dụng pháp luật tố cáo, tồn tại nhiều bất cập;
iii) từ đó, tác giả đưa ra các kiến nghị, giải pháp để góp phần hồn thiện cơ chế bảo
vệ người tố cáo.
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, pháp luật tố cáo và giải
quyết tố cáo làm nền tảng nghiên cứu.
Ở Chương về các vấn đề lý luận và pháp lý thì tác giả chủ yếu sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp và liệt kê để làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận và
các quy định pháp luật.
Ở Chương về thực trạng và kiến nghị, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp
phân tích, chứng minh thực tiễn cũng như phương pháp tổng hợp, so sánh các số
liệu để làm sáng tỏ thực trạng của vấn đề. Cuối cùng là phương pháp suy luận logic
được áp dụng chủ yếu ở phần kiến nghị.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tố cáo được quy định ở nhiều văn bản, tuy nhiên, với thời hạn ngắn của khóa
luận tốt nghiệp cũng như khả năng có hạn của mình, tác giả chỉ tập trung phân tích
những vấn đề về bảo vệ người tố cáo được quy định trong Luật tố cáo 2011 và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
Về thực tiễn, Khoá luận chỉ nghiên cứu thực tiễn bảo vệ người tố cáo trong
phạm vi lãnh thỗ Việt Nam.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
Khóa luận gồm 02 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện nay;
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị bảo đảm hiệu quả bảo vệ người tố cáo ở Việt
Nam.
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ BẢO VỆ NGƢỜI TỐ CÁO Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết bảo vệ ngƣời tố cáo
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm bảo vệ ngƣời tố cáo
Khái niệm bảo vệ người tố cáo
Tố cáo là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong xã hội và được hiểu ở
nhiều khía cạnh khác nhau, góc độ khác nhau, cụ thể:
Theo từ điển Tiếng Việt, “tố cáo” được hiểu là “báo cho mọi người hoặc cơ
quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó” hay là “vạch
trần bộ mặt xấu xa hay tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn”1. Hiểu
theo góc độ này, tố cáo là sự thể hiện thái độ bất bình của một người với người khác
và báo cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền biết để có thái độ, biện pháp giải quyết.
Dưới góc độ về chính trị - pháp lý, tố cáo là một quyền cơng dân, quyền Hiến
định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”2. Qua đó
cơng dân thực hiện giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm quyền, lợi
ích của bản thân, nhà nước và xã hội.
Ngồi Hiến pháp, tố cáo cịn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác. Trong đó, khái niệm tố cáo lần đầu tiên được quy định tại Luật Khiếu nại, tố
cáo năm 1998: “tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”3.
Kế thừa Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, tại khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo
2011, khái niệm tố cáo cũng được quy định tương tự: “Tố cáo là việc công dân theo
thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết
về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng
dân, cơ quan, tổ chức”.
1
Hoàng Phê (Chủ biên) (2002), “Từ điển tiếng Việt”, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.1008.
Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013.
3
Khoản 2 Điều 2 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998.
2
Bên cạnh đó, để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền tố cáo của công
dân cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc giải
quyết tố cáo, Luật tố cáo năm 2011 đã quy định hai nhóm hành vi vi phạm pháp
luật: một là quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp
luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; hai
là quy định tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Trong đó:
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ4.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là
việc công dân báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền biết về hành vi vi
phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp hành quy
định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực5. Như vậy, hành vi vi phạm
pháp luật trong các lĩnh vực bao gồm tất cả các hành vi vi phạm pháp luật của bất
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong xã hội, kể cả vi phạm của cán bộ, cơng chức,
viên chức ngồi phạm vi thực hiện nhiệm vụ, công vụ và vi phạm của tổ chức, cá
nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Người tố cáo:
Người tố cáo được định nghĩa tại khoản 4 Điều 2 Luật Tố cáo 2011: “Người tố
cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo”. Luật quy định người tố cáo là “cơng dân”
mà khơng quy định gì khác thêm, do đó, dựa vào quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014: “Người có quốc
tịch Việt Nam là cơng dân Việt Nam”, chỉ cần một cá nhân mang quốc tịch Việt
Nam khi thực hiện quyền tố cáo sẽ trở thành người tố cáo. Như vậy, không cần xác
định người tố cáo có năng lực hành vi dân sự hay năng lực pháp luật đầy đủ hay
không, chỉ cần cá nhân đó là cơng dân Việt Nam khi thực hiện quyền tố cáo sẽ trở
thành người tố cáo.
Thực ra bản chất của việc thực hiện quyền tố cáo là thể hiện mối quan hệ giữa
Nhà nước và cơng dân, trong đó bên đi tố cáo báo cho chủ thể có thẩm quyền về
hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng
4
5
Khoản 2 Điều 2 Luật tố cáo năm 2011
Khoản 3 Điều 2 Luật tố cáo năm 2011
dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Đồng thời, việc thực hiện quyền tố cáo của một
chủ thể sẽ làm phát sinh những hậu quả pháp lý và trách nhiệm gắn với cá nhân.
Khi thực hiện quyền tố cáo, người tố cáo phải trình bày trung thực về nội dung tố
cáo, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình và phải bồi
thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra6. Do đó, chủ thể
thực hiện quyền tố cáo phải là “công dân”, pháp luật không thừa nhận người tố cáo
là tổ chức, hoặc tố cáo nặc danh. Rõ ràng ai cũng có quyền được tố cáo tội phạm, tố
cáo những hành vi sai trái nhằm đảm bảo cơng bằng xã hội, ổn định tình hình kinh
tế, chính trị của quốc gia. Song, quy định chủ thể thực hiện quyền tố cáo là công
dân là để tránh tình trạng lợi dụng cơ quan, tổ chức để nói sai sự thật, gây thiệt hại
cho người khác; đồng thời quy định như vậy nhằm cá thể hóa trách nhiệm, nhất là
trách nhiệm của người tố cáo sai sự thật, buộc người tố cáo có trách nhiệm với lời tố
cáo của mình, cụ thể là trách nhiệm hành chính hoặc hình sự tùy theo tính chất và
mức độ vi phạm. Vì vậy, nếu cơ quan, tổ chức có quyền tố cáo thì có thể làm phát
sinh những vấn đề phức tạp trong việc quy định cách thức để các chủ thể này thực
hiện quyền tố cáo như việc xác minh thơng tin về người tố cáo, việc bảo vệ bí mật,
xác định trách nhiệm của người tố cáo trong trường hợp tố cáo sai sự thật.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 3 Luật Tố cáo quy định việc tố cáo của cá nhân nước
ngoài đang cư trú tại Việt Nam cũng được điều chỉnh theo Luật Tố cáo năm 2011,
trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Cũng như đối với cơng dân Việt Nam khi thực hiện quyền tố cáo, nhằm cá thể hóa
trách nhiệm, pháp luật chỉ thừa nhận việc tố cáo của các cá nhân nước ngoài cư trú
tại Việt Nam. Theo đó, khi thực hiện quyền tố cáo, các cá nhân nước ngồi sẽ cung
cấp những thơng tin cần thiết như họ tên, địa chỉ của mình, đồng thời sẽ chịu trách
nhiệm về hoạt động tố cáo của mình, đảm bảo tố cáo đúng sự thật về hành vi vi
phạm pháp luật. Do đó, các cá nhân nước ngồi đang cư trú tại Việt Nam khi thực
hiện quyền tố cáo sẽ trở thành người tố cáo theo quy định pháp luật tố cáo Việt
Nam hiện hành. Trong trường hợp cá nhân nước ngồi khơng ở Việt Nam cung cấp
thơng tin về hành vi vi phạm pháp luật tại nước ta thì được coi là kiến nghị, phản
ánh và sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận, xem xét, phục vụ yêu
cầu công tác quản lý chứ không được coi là tố cáo.
Thuật ngữ “bảo vệ” được định nghĩa theo từ điển Tiếng Việt là “chống lại
mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn; bênh vực bằng lý lẽ để
6
Điều 9 Luật Tố cáo năm 2011.
giữ vững ý kiến hay quan điểm”7. Theo đó, bảo vệ được hiểu là một hành động của
một người, một cơ quan, tổ chức dùng để chống lại một sự hủy hoại hoặc xâm phạm
từ chủ thể khác để đảm bảo cho đối tượng bị xâm phạm được nguyên vẹn hoặc
dùng những lập luận, lý lẽ để giữ ý kiến, quan điểm nào đó mà bản thân cho rằng
quan điểm đó đúng. Chẳng hạn, ngày xưa khi nước nhà bị xâm lấn, để giữ nguyên
vẹn lãnh thổ Việt Nam, giữ vững độc lập dân tộc, ông cha ta đã anh dũng đứng lên
đấu tranh, có thể sẵn sàng hi sinh tính mạng; khi đất nước hịa bình, thay vì dùng vũ
lực, Đảng và Nhà nước ta có chính sách an ninh quốc phòng vững chắc, nhưng
chiến lược ngoại giao cũng mềm dẻo, linh hoạt, để đảm bảo đất nước được hịa
bình, phát triển. Hoặc để ngăn khơng cho lũ lụt tràn vào các ruộng đồng của mình,
người dân đã xây dựng các hệ thống đê điều kiên cố, hoặc nhằm giữ cho khơng khí
trong lành, Nhà nước ta có sử dụng nhiều biện pháp như trồng nhiều cây xanh, cấm
vứt rác bừa bãi nơi công cộng. Hoặc đơn giản là trong một buổi thuyết trình, khi
trình bày một quan điểm, người trình bày sẽ có những lý lẽ, lập luận, những luận cứ
xác thực để thuyết minh, trình bày để giữ vững quan điểm của mình.
Luật Tố cáo năm 2011 đã dành hẳn một chương (chương V – Bảo vệ người tố
cáo) để quy định về bảo vệ người tố cáo. Trong đó, Điều 34 của Luật quy định việc
bảo vệ người tố cáo được thực hiện tại tất cả những nơi có thể ảnh hưởng đến người
tố cáo, bao gồm: nơi cư trú, công tác, làm việc, học tập, nơi có tài sản của người cần
được bảo vệ hoặc những nơi khác do cơ quan có thẩm quyền quy định. Cũng theo
quy định của Điều này, đối tượng bảo vệ khơng chỉ có người tố cáo mà cịn cả
những người thân thích của người tố cáo như vợ hoặc chồng, con cái, bố mẹ, anh
chị em ruột thịt...; thời hạn bảo vệ do cơ quan có thẩm quyền quyết định tuỳ thuộc
vào tình hình thực tế của từng vụ việc, mức độ, tính chất của hành vi xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng cần được bảo vệ.
Luật xác định trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo thuộc về
người giải quyết tố cáo; đồng thời, cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người tố
cáo được bảo vệ và các nội dung cơ bản về bảo vệ người tố cáo như bảo vệ bí mật
thơng tin; bảo vệ tại nơi cơng tác, nơi làm việc, nơi cư trú; bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo.
Như vậy, “bảo vệ người tố cáo” được hiểu là hoạt động của các chủ thể có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định pháp luật để chống lại
7
Hoàng Phê (Chủ biên) (2002), “Từ điển tiếng Việt”, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr. 40
mọi sự xâm phạm đến người tố cáo hoặc người thân thích của người tố cáo sau khi
có hành động tố cáo.
Đặc điểm bảo vệ người tố cáo:
Thứ nhất, đối tượng bảo vệ là người tố cáo và người thân thích của người tố
cáo.
Như phần khái niệm đã trình bày, người tố cáo được pháp luật thừa nhận hiện
nay là cơng dân Việt Nam và cá nhân nước ngồi đang cư trú tại Việt Nam. Theo
quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung
một số điều năm 2014: “Người nước ngồi cư trú ở Việt Nam là cơng dân nước
ngồi và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam”. Như vậy,
không phân biệt một người bao nhiêu tuổi, có bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc mất năng lực hành vi dân sự hay khơng, chỉ cần họ thuộc đối tượng nêu trên
thì khi họ thực hiện tố cáo họ có thể sẽ là đối tượng bảo vệ của pháp luật bảo vệ
người tố cáo hiện nay.
Tuy nhiên không phải mọi trường hợp người tố cáo đều được bảo vệ theo quy
định pháp luật bảo vệ người tố cáo. Để khuyến khích người dân ngày càng yên tâm
trong việc thực hiện quyền tố cáo của mình, pháp luật nước ta ngày càng hồn thiện
hơn về cơ chế bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, khơng ít người lợi dụng quyền tố cáo
để nói xấu, tố cáo sai sự thật, gây hại đến cá nhân, tổ chức khác nhằm trục lợi cá
nhân mình, vì vậy nếu pháp luật vẫn có cơ chế bảo vệ đối với những người này thì
sẽ khơng cơng bằng đối với những người đã có thiện ý, tố cáo một cách trung thực
nhằm đưa các hành vi tham nhũng, hành vi vi phạm pháp luật ra trước ánh sáng. Do
đó, pháp luật chỉ có cơ chế bảo vệ đối với những người tố cáo đúng sự thật, trung
thực và có thiện ý.
Ngồi người tố cáo, những người thân thích của người tố cáo cũng được bảo
vệ. Cụ thể những người thân thích của người tố cáo theo pháp luật tố cáo hiện nay
bao gồm vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố mẹ bên vợ hoặc bên
chồng, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột của người tố cáo. Đây là những
người có quan hệ thân thích và vơ cùng quan trọng đối với mỗi người nói chung và
đối với người tố cáo nói riêng. Do đó, họ cũng được pháp luật quy định những biện
pháp nhằm bảo vệ tránh mọi sự xâm phạm từ phía người bị tố cáo.
Thứ hai, nội dung bảo vệ người tố cáo là những yếu tố gắn liền với người tố
cáo và người thân thích của người tố cáo.
Đối với mỗi cá nhân nói chung và người tố cáo nói riêng, các thơng tin cá
nhân bao gồm họ, tên, giới tính, độ tuổi và các vấn đề về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, uy tín, nhân phẩm, việc làm,... là những yếu tố gắn liền và có ý nghĩa đối với
họ. Khi người tố cáo thực hiện tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật nào đó đến cơ
quan có thẩm quyền, vấn đề đầu tiên được đảm bảo đó là thơng tin của người tố cáo.
Điều này là quan trọng, bởi vì khi thơng tin khơng được bảo mật, tính mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, việc làm… của người tố cáo cũng như người thân
thích của họ có nguy cơ cao bị người bị tố cáo hoặc những người khác có liên quan
xâm phạm. Do đó, pháp luật tố cáo hiện hành quy định nội dung bảo vệ người tố
cáo là bảo vệ các yếu tố gắn liền với người tố cáo và người thân thích của họ, bao
gồm các biện pháp nhằm bảo vệ bí mật thơng tin về người tố cáo; bảo vệ người tố
cáo, người thân thích của người tố cáo tại nơi công tác, làm việc; bảo vệ người tố
cáo, người thân thích của người tố cáo tại nơi cư trú; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài
sản, danh dự, nhân phẩm uy tín của người tố cáo, người thân thích của người; bảo
vệ việc làm cho người tố cáo, người thân thích của người tố cáo8.
Thứ ba, chủ thể thực hiện bảo vệ người tố cáo.
Pháp luật tố cáo hiện hành không quy định cụ thể trách nhiệm bảo vệ người tố
cáo thuộc về cơ quan nào nhất định, mà có sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền với nhau, trong q trình giải quyết vụ việc tố cáo họ sẽ thực hiện bảo vệ
người tố cáo. Tuy nhiên, Luật Tố cáo cũng quy định chủ thể có trách nhiệm chính
trong bảo vệ người tố cáo là cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo, sau
đó trong q trình giải quyết vụ việc tố cáo, các cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân
địa phương hoặc các tổ chức cơng đồn cơ sở, cơ quan quản lý ở địa phương sẽ
phối hợp với nhau để thực hiện bảo vệ người tố cáo và người thân thích của người
tố cáo.
Thứ tư, thời hạn bảo vệ người tố cáo.
Thời hạn bảo vệ là khoảng thời gian từ thời điểm các chủ thể có thẩm quyền
thực hiện bảo vệ người tố cáo đến khi kết thúc việc bảo vệ. Trong khoảng thời gian
này, các đối tượng được bảo vệ sẽ được áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm đảm
bảo an tồn tính mạng, tài sản, nhân phẩm, uy tín, danh dự của người tố cáo. Tuy
nhiên, hiện nay pháp luật tố cáo không quy định một khoảng thời gian cụ thể bảo vệ
người tố cáo, thay vào đó thời hạn bảo vệ sẽ do cơ quan có thẩm quyền quyết định
8
Điều 36, 37, 38, 39 Luật tố cáo năm 2011
tùy thuộc vào từng vụ việc, tình huống cụ thể cũng như tùy vào thủ đoạn, hành vi
xâm hại của người bị tố cáo mà có thời hạn bảo vệ phù hợp9. Với quy định này, mỗi
vụ việc sẽ có thời hạn bảo vệ riêng, đối với vụ việc này thời hạn bảo vệ có thể là hai
tháng nhưng khơng nhất thiết vụ việc khác cũng hai tháng mà có thể chỉ một tháng
thơi, hoặc nếu tính chất quan trọng hơn, người bị tố cáo lộ rõ những thủ đoạn, hành
vi trả thù nguy hiểm thì buộc các cơ quan có thẩm quyền sẽ có thời hạn bảo vệ
người tố cáo lâu hơn.
Thứ năm, mục đích bảo vệ người tố cáo là nhằm chống lại mọi sự xâm phạm
và nguy cơ rủi ro xảy đến người tố cáo và người thân thích của người tố cáo.
Tố cáo là việc người tố cáo báo đến cơ quan có thẩm quyền một hành vi vi
phạm pháp luật nào đó trong xã hội mà khơng nhất thiết hành vi đó có xâm hại đến
quyền, lợi ích cá nhân người tố cáo hay khơng, chỉ cần hành vi đó là vi phạm pháp
luật và có nguy cơ đe dọa đến lợi ích chung của Nhà nước hoặc của bất kỳ một cơng
dân nào thì người tố cáo có quyền báo lên cơ quan chức năng để góp phần giảm
thiểu các hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội. Đây là điểm đáng ghi nhận ở
người tố cáo và pháp luật đã dành sự quan tâm để quy định một cơ chế pháp luật
nhằm khuyến khích người tố cáo tiếp tục thực hiện quyền tố cáo trên thực tế. Theo
đó, pháp luật tố cáo đã có những quy định, những biện pháp bảo vệ nhằm chống lại
mọi sự xâm hại hoặc nguy cơ rủi ro của người bị tố cáo gây ra đối với người tố cáo
hoặc người thân thích của người tố cáo, để từ đó góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng của cơng dân cũng như bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
1.1.2 Sự cần thiết bảo vệ ngƣời tố cáo
Tố cáo vừa là quyền chính trị - pháp lý cơ bản của công dân, vừa là một
phương thức giúp Nhà nước kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật; đồng
thời là phương tiện để nhờ đó các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức trong
cơ quan đó kiểm tra được tính pháp lý, tính đúng đắn của các quyết định, hành vi
mà mình đã thực hiện.
Từ xưa đến nay, trong bất kỳ một xã hội, một chế độ nhà nước nào, các nhà
cầm quyền, giai cấp thống trị luôn muốn thế lực, chế độ của mình được vững bền,
trường tồn lâu nhất. Do đó, dù ít hay nhiều, họ vẫn dành sự quan tâm nhất định và
khuyến khích người dân kêu oan, báo án đến các cơ quan, người có thẩm quyền.
Thơng qua việc người dân tố cáo và việc cơ quan chức năng giải quyết tố cáo, các
9
Khoản 3 Điều 35 Luật Tố cáo năm 2011.
vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý, trật tự, kỷ cương xã hội được giữ vững, giai cấp
thống trị thêm củng cố niềm tin từ nhân dân, tạo sự tin tưởng và ủng hộ từ người
dân.
Tuy nhiên, muốn làm được điều đó thì bản thân nhà cầm quyền phải có những
bảo đảm để người tố cáo an tâm thực hiện quyền tố cáo. Nếu người tố cáo được bảo
vệ thì đồng nghĩa với việc Nhà nước đó đã tơn trọng, lắng nghe và quan tâm đến
quyền lợi của người dân cũng như của Nhà nước, của xã hội. Ngược lại, nếu người
tố cáo bị bỏ bê, người có thẩm quyền không quan tâm, lo lắng, không bảo vệ người
tố cáo thì họ sẽ cảm thấy bất an, lo sợ, bất mãn, làm cho mối quan hệ giữa Nhà
nước và nhân dân khơng cịn tốt đẹp, dẫn đến tư tưởng bỏ qua, mặc kệ ở người dân,
và người dân sẽ không buồn để đi tố cáo.
Người tố cáo được bảo vệ bởi một khung pháp lý an toàn với những quy định
chi tiết, cụ thể, đầy đủ, và với một cơ chế có hiệu lực, hiệu quả cao sẽ khuyến khích
mạnh mẽ được cán bộ, cơng chức, người lao động và mọi cơng dân tham gia tích
cực vào cơng tác phịng, chống tham nhũng và các vi phạm khác. Đó là mục đích,
mong muốn của khơng chỉ một quốc gia mà là mục đích, mong muốn chung của
nhiều quốc gia trên thế giới. Một số quốc gia đã tạo dựng riêng một đạo luật về bảo
vệ người tố cáo như Luật bảo vệ người tố cáo của Mỹ năm 1989. Nội dung của Luật
này quy đinh, người tố cáo có thể nộp đơn khi có những vấn đề được quy định,
chẳng hạn như bị phân biệt chủng tộc, màu da, tơn giáo, giới tính, tình trạng hơn
nhân hoặc liên kết chính trị; tuyển dụng hoặc nâng lương hoặc có các chế độ làm
việc dựa vào các yếu tố khác với kiến thức, trình độ cá nhân; tham gia vào việc đề
bạc hoặc tuyển dụng người thân của mình; tham gia trả thù người tố cáo đã tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật của mình; phân biệt đối xử do tư thù cá nhân, gây bất lợi
cho điều kiện làm việc của người khác. Hoặc nếu không xây dựng một đạo luật
riêng, các quốc gia lựa chọn xây dựng một cơ chế bảo vệ người tố cáo rải rác trong
các đạo luật, có thể kể tên một vài quốc gia như Hàn Quốc, Thụy Điển… Tại Hàn
Quốc, tố cáo được coi là một hệ thống tốt mà hiệu quả có thể kiểm soát tham nhũng
và bảo vệ người tố cáo trở thành một trong những trách nhiệm quan trọng của
Chính phủ để tạo một mơi trường ở đó ai cũng có thể tiếp xúc với các cơ quan chức
năng mà không sợ hãi và do dự10. Cơ chế bảo vệ người tố cáo ở nước này tương đối
hiệu quả, các quy định về bảo vệ người tố cáo được quy định tại Luật phịng, chống
tham nhũng năm 2001. Theo đó, người tố cáo, người cung cấp thông tin sẽ được
10
Mai Văn Duẩn (2015), “Kinh nghiệm về bảo vệ người tố cáo của Hàn Quốc”, tạp chí Thanh tra, (số 10).
bảo vệ vị trí cơng tác, khơng ai phải chịu thiệt thịi trong cơng việc hay bị phân biệt
điều kiện làm việc, như bị cơ quan kỷ luật, bị trù dập… do đã trình báo hay gửi tài
liệu vì nghi ngờ có hành vi tham nhũng ở cơ quan11. Mặc dù là quy định riêng thành
đạo luật cụ thể hay chỉ nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau, nhưng
suy cho cùng, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm và coi trọng công tác giải
quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo. Điều đó cho thấy, vấn đề bảo vệ người tố cáo là
vấn đề cần cân nhắc và cần có cơ chế pháp luật phù hợp, điều này càng có ý nghĩa
hơn đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhắc đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
lời dặn sâu sắc: “Đồng bào có oan ức khiếu nại vì chưa hiểu rõ chính sách của
Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào mới
thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố tốt hơn”12. Xuất phát
từ quan điểm lấy dân làm gốc, coi dân là chủ, đề cao vai trò của nhân dân, quan
điểm của Người như kim chỉ nam trong hoạt động của Đảng, Nhà nước ta. Ngay từ
khi mới giành chính quyền cho đến nay, Đảng ta ln có chỉ đạo nhằm quan tâm
đến công tác bảo đảm các quyền con người, quyền cơng dân nói chung cũng như
cơng tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói riêng. Các quan điểm đó được ghi nhận
trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, cụ thể như:
Nghị quyết số 48/2005/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 đã chỉ đạo: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân”, với các yêu cầu cụ thể
như: “Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc
xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và thực thi các quy định pháp luật, các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền cơng dân trong
các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Hồn thiện chế độ bảo hộ
của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm
của cơ quan nhà nước, nhất là tòa án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm
minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân;… Hồn thiện
pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm
tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng
11
Trần Hà Bảo Khuyên (2016). “Cơ chế bảo vệ người tố cáo ở một số nước trên thế giới và bài học đối với
Việt Nam”, tạp chí Kiểm sát, (số 11), tr.54-59.
12
Hồ Chí Minh (2000), “Bàn về Nhà nước và pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.726727
hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào cơng việc của Nhà
nước…”13.
Ngồi ra, Nghị quyết số 04/NQ-TW năm 2006 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng,
chống tham nhũng, chống lãng phí đã xác định nhiệm vụ: “Bảo vệ, biểu dương,
khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí”.
Như vậy, có thể thấy rằng, Đảng ta ln đề cao vai trị của xã hội, của chủ thể có
thẩm quyền trong việc phịng, chống tham nhũng, khẳng định ý chí bảo vệ người tố
cáo. Cũng theo đó, cần có cơ chế bảo vệ người tố cáo là cần thiết, và phù hợp với tư
tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như quan điểm chỉ đạo của Đảng ta.
Trong bối cảnh những năm gần đây, với xu hướng hịa nhập thế giới, Việt
Nam ta cũng có những bước phát triển, những thành tựu vượt bậc đáng ghi nhận
trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, vấn nạn tham nhũng vẫn đang là một vấn đề nhức
nhối, tràn lan trong xã hội, đe dọa đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Kéo theo đó, cơng tác phòng, chống tham nhũng nước ta đã và đang diễn ra
hết sức phức tạp. Để khắc phục tình trạng này, theo đề nghị của Thanh tra Nhà
nước, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cử đồn đại biểu Chính phủ Việt Nam
tham dự Hội nghị chính trị cấp cao về ký cơng ước, gồm đại diện Bộ ngoại giao,
Văn phịng Chính phủ, và Thanh tra Nhà nước. Ngày 30/6/2009, Chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết đã ký quyết định số 950/2009/QĐ-CTN về việc phê chuẩn Cơng
ước và có hiệu lực thi hành đối với Việt Nam kể từ ngày 18/9/2009. Bằng việc phê
chuẩn Cơng ước này, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Công ước
chống tham nhũng của Liên hợp quốc. Qua hoạt động trở thành thành viên của
Công ước, cho thấy rõ quyết tâm của Nhà nước ta trong cơng cuộc phịng, chống
tham nhũng. Một trong những nhân tố góp phần đẩy lùi vấn nạn tham nhũng này,
khơng thể khơng kể đến vai trị của những người đã mạnh dạn, dũng cảm đứng ra
vạch trần các hành vi vi phạm pháp luật, đó là người tố cáo. Điều 33 của Công ước
này đã nêu rõ quy định bảo vệ người tố giác, tố cáo: “Mỗi quốc gia thành viên sẽ
xem xét việc quy định các biện pháp thích hợp trong hệ thống pháp luật quốc gia để
bảo vệ trước những đối xử bất công đối với bất kỳ người nào tố giác, với thiện ý và
dựa trên những căn cứ hợp lý, với cơ quan có thẩm quyền về bất cứ vụ việc nào có
liên quan đến các tội phạm quy định theo Công ước này”. Một khi Việt Nam đồng
13
Nguyễn Quốc Văn, Vũ Công Giao (2017), “Cơ chế bảo vệ người tố cáo trong pháp luật hiện hành của Việt
Nam”, Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.143
ý trở thành thành viên của Cơng ước, có nghĩa rằng Việt Nam cũng phải quan tâm,
thực hiện công tác bảo vệ người tố cáo, tố giác. Do đó khuyến khích cơng dân thực
hiện quyền tố cáo, và bảo vệ người tố cáo một cách triệt để là một công việc cần
thiết phải thực hiện trong công cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng nói riêng
và phịng chống các hành vi trái pháp luật, vi phạm pháp luật nói chung.
Tố cáo là một trong những công cụ hữu hiệu nhất để phơi bày và khắc phục
tham nhũng, hành vi vi phạm pháp luật và các hành vi tiêu cực khác. Tuy nhiên một
số liệu cụ thể từ tổ chức quốc tế cho thấy không phải người dân nào cũng sẵn sàng
đứng ra tố cáo, có thể dẫn chứng, Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) ngày 25/01/2017
đã công bố Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng (CPI) 2016, xếp hạng 176 quốc gia và
vùng lãnh thổ dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và chuyên gia về tham nhũng
trong khu vực cơng14. Trong đó, Việt Nam xếp thứ 113/176 quốc gia với số điểm là
33/100 điểm. Mặc dù so với những năm trước, chỉ số này đã có sự thay đổi, Việt
Nam đã tăng 2 điểm so với các năm trước. Song với vị trí và số điểm này, Việt Nam
để lộ một thực trạng rằng chỉ khoảng 1/3 người dân Việt Nam sẵn sàng tố cáo tham
nhũng, và con số này rất thấp so với các quốc gia trong khu vực. Có thể có nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan từ vấn đề này, nhưng không thể không kể đến
nguyên nhân là người tố cáo sợ trả thù, trù dập từ phía người bị tố cáo hoặc những
người khác.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, người tố cáo chưa được bảo vệ một
cách triệt để và hiệu quả, vấn đề người tố cáo bị trả thù, trù dập đã trở thành một
hiện tượng trong xã hội. Bằng cách vạch trần các việc làm sai trái, người tố cáo có
thể ngăn chặn thiệt hại, bảo vệ quyền con người, cứu giúp tính mạng của người
khác và bảo vệ pháp luật. Nhưng việc tố cáo đó có thể khiến người ta phải trả giá
đắt, phải chịu rủi ro lớn cho bản thân mình cũng như những người thân thích của
mình để bảo vệ lợi ích chung như: có thể bị sa thải, tương lai nghề nghiệp bị ảnh
hưởng, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, ngồi ra còn chịu rủi ro bởi
trách nhiệm pháp lý, hay bị nhìn nhận một cách tiêu cực.
Trên thực tế khi cơng dân thực hiện quyền tố cáo của mình, họ có thể phải đối
mặt với những bất an do hành vi trả thù. Người bị tố cáo có thể lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình để trả thù người tố cáo, có thể chỉ là phân cơng những cơng
việc khơng phù hợp hoặc có thể nặng hơn là sa thải, buộc thơi việc. Ngồi ra, cuộc
14
Nguồn truy cập ngày 05 tháng 6 năm
2017.
sống người tố cáo cịn có thể bị gây rối, bị làm cho xáo trộn bởi các hành vi phá rối
từ phía người bị trả thù hoặc những người khác.
Với sự dũng cảm, gan dạ của mình, người tố cáo đã vạch trần những hành vi
sai trái, hành vi vi phạm pháp luật của người khác để bảo vệ an tồn xã hội, bảo vệ
được tính mạng của nhiều người. Song, thực tế cho thấy khả năng họ bị trả thù, đe
dọa trả thù, trù dập là rất cao. Những hành động trả thù, trù dập đó để lại những hậu
quả đáng tiếc và khơng ai có thể lường hết được nếu như người tố cáo không được
bảo vệ, được đảm bảo an tồn. Như đã nói, người bị tố cáo ln có xu hướng tìm
mọi cách để che đậy hành vi sai trái, hành vi vi phạm pháp luật của mình, vì thế họ
có thể thực hiện các hành vi trả thù, đe dọa, trù dập người tố cáo mình để bảo vệ
cho bản thân họ, hoặc họ sẽ tìm cách để cản trở khiến người tố cáo khơng thực hiện
được quyền tố cáo. Và, nếu người tố cáo khơng nhận được cơ chế bảo vệ, bảo đảm
an tồn từ phía các chủ thể có thẩm quyền thì hậu quả họ phải gánh chịu là vô cùng
khắc nghiệt. Không ai biết trước người bị tố cáo có thể làm những gì để chống lại
người tố cáo. Người tố cáo có thể bị mất mạng, gia đình mất người thân, con cái,
vợ, chồng mất đi người yêu thương, xã hội mất đi một người cơng dân lương thiện,
tích cực. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, mặc dù mình là thu nhập chính trong gia
đình, nhưng vì bất bình trước các hành vi vi phạm pháp luật của cấp trên, người tố
cáo đã dũng cảm đứng ra tố cáo cấp trên của mình. Vì hành động này, người tố cáo
đã bị sa thải, điều này làm kinh tế gia đình bị suy sụp, cuộc sống gia đình trở nên
khó khăn. Những ví dụ dưới đây là các minh chứng điển hình:
Chị Tuyền cho biết, sau khi vợ chồng chị bị sa thải và cắt hợp đồng lao
động, gia đình chị đã rơi vào cảnh túng quẫn, phải đi làm “đầu tắt mặt tối” để
kiếm tiền lo cho cuộc sống gia đình và nuôi hai đứa con nhỏ. Chị Tuyền thông
tin, nguyên nhân khiến gia đình chị rơi vào cảnh lao đao như hiện nay là vì
trước đây, tình cờ chị phát hiện ông Dương Huỳnh Khải (Giám đốc Sở VHTT-DL tỉnh Cà Mau) và ông Trần Thế Giang (Giám đốc Trung tâm TDTT) có
dấu hiệu tiêu cực. Trong đó, có việc hai vị lãnh đạo này đã sử dụng tiền của
trung tâm đi dự khai mạc Sea Games 27 tại Myanmar với tư cách cá nhân15.
Lại chỉ ra vườn nhãn, ông chẹp miệng tiếc rẻ, bảo đánh, doạ giết không
ăn thua, chúng chuyển sang triệt hạ kinh tế. Vườn nhãn 25 cây cổ thụ ông
15
Báo Người đưa tin, “Tố cáo tiêu cự, vợ bị sa thải, chồng bỗng bị „tinh giản biên chế‟” (nguồn
/>ngày 30/5//2016).
trồng từ những năm 60, mỗi mùa bói quả đều sai trĩu. Nhà thu hoạch nhiều
nhãn thứ hai trong làng, mỗi vụ mang về 30-40 triệu đồng giúp ông nuôi 6
người con ăn học đàng hoàng. Từ năm 2007, cây đang xanh tốt cứ héo rũ rồi
chết dần, phải chặt bỏ. Cây nào ơng cứu được thì cành trụi lủi, không ra thêm
được quả nào nữa. 25 gốc nhãn với 7 cây sấu già, ơng tiếc đứt ruột16.
Ngồi các ví dụ nêu trên, thực tế cho thấy còn rất nhiều trường hợp người tố
cáo, người thân thích của người tố cáo bị đe dọa, trả thù, trù dập. Tác giả sẽ trình
bày cụ thể tại chương 2 của bài viết.
Tất cả những điều này sẽ tạo nên tâm lý e dè, sợ sệt, không dám tố cáo của
công dân, bởi vì bản thân người tố cáo trong cơng cuộc đấu tranh phòng chống tham
nhũng hãy chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, hành vi tiêu cực sẽ không đủ
khả năng để tự bảo vệ cho mình và cả gia đình mình tránh khỏi những hậu quả khơn
lường. Chính vì vậy, người tố cáo cần được sự quan tâm, bảo vệ từ phía các cơ quan
có thẩm quyền để góp phần bảo đảm an tồn cho mình và người thân về thân thể, về
danh dự, tài sản, công việc làm,… bởi một lẽ tất nhiên rằng quyền bất khả xâm
phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm cũng là một quyền Hiến định
của công dân, và công dân đương nhiên được bảo vệ trước các nguy cơ xâm hại.
Mặt khác, việc bảo vệ người tố cáo là cần thiết để người tố cáo tránh khỏi sự đe
dọa, trả thù, trù dập; đây là sẽ là nền tảng quan trọng để các cá nhân dám đứng ra tố
cáo những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật. Bảo vệ người tố cáo hiệu quả còn thể
hiện sức mạnh và trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, hạn chế các hành vi
vi phạm pháp luật, ngăn chặn những cản trở, những khó khăn, áp lực mà người bị tố
cáo gây khó dễ để trả thù người tố cáo.
1.2 Sự hình thành và phát triển của quy định pháp luật về bảo vệ ngƣời tố
cáo
Kể từ khi giành được độc lập (năm 1945) đến nay, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm tới công tác giải quyết hiệu quả các khiếu nại, tố cáo nói chung, việc giải
quyết tố cáo nói riêng và coi việc thực hiện quyền tố cáo là phương thức thể hiện
dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và bảo vệ
16
Hoàng Phương, “Hai lão nơng dân bị cơ lập, trả thù vì phanh phui tiêu cực”, Báo Vnexpress, (nguồn
ngày
14/5/2017).
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân,
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các vi phạm pháp luật khác. Chính vì vậy
quyền tố cáo được ghi nhận là quyền Hiến định ở Việt Nam và ở nhiều văn bản luật,
dưới luật khác.
Hiến pháp năm 1946 mặc dù khơng có điều khoản cụ thể nào quy định về
quyền tố cáo cũng như giải quyết tố cáo của công dân, tất nhiên càng khơng có cơ
chế bảo vệ người tố cáo, song thể chế dân chủ mà bản Hiến pháp này tạo dựng nên
đã là nền tảng cơ bản để hình thành nên quyền tố cáo của cơng dân trên thực tế.
Kế thừa và phát huy tư tưởng dân chủ của Hiến pháp năm 1946, Điều 29 Hiến
pháp 1959 lần đầu tiên ghi nhận quyền tố cáo của công dân: “Cơng dân nước Việt
Nam dân chủ cộng hồ có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước
nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những việc
khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì
hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường”.
Đây cũng chính là lần đầu tiên khái niệm tố cáo được chính thức sử dụng trong văn
bản pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên giai đoạn này vẫn chưa hình thành cơ chế bảo
vệ người tố cáo, mà chỉ nêu lên quyền tố cáo của công dân và trách nhiệm giải
quyết tố cáo thôi.
Tiếp theo, Hiến pháp năm 1980 tiếp tục quy định theo hướng củng cố quyền tố
cáo của công dân tại Điều 73: “Cơng dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ
quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ
quan, tổ chức và đơn vị đó. Các điều khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải
quyết nhanh chóng. Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của cơng dân
phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường. Nghiêm cấm việc trả thù người khiến nại, tố cáo”. Như vậy, với
quy định “nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”, lần đầu tiên người tố
cáo đã được Hiến pháp bảo vệ. Mặc dù chỉ là quy định nghiêm cấm chứ chưa có bất
kỳ chế tài hay biện pháp bảo vệ được đưa ra, song quy định này cũng đã thể hiện sự
quan trọng của người tố cáo và sự đề cao tinh thần tố cáo, bảo vệ người tố cáo của
Hiến pháp.
Trong Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, bản Hiến pháp của
thời kỳ đổi mới, quy định về quyền tố cáo tiếp tục được củng cố, hoàn thiện và có
bước phát triển hơn: “Cơng dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời
hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh.
Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại,
tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”17. Theo đó, Hiến pháp cũng
không quên đề cập đến vấn đề bảo vệ người tố cáo, tuy vẫn dừng lại ở việc nghiêm
cấm hành vi trả thù.
Gần đây nhất là bản Hiến pháp năm 2013, đã có bước tiến vượt bậc trong việc
đề cao nhân quyền, dân quyền, vì vậy khơng thể thiếu quy định về quyền tố cáo,
quy định bảo vệ người tố cáo. Cụ thể, khoản 3 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy
định “nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Từ những quy định trong các bản Hiến pháp, có thể thấy rằng dù trực tiếp hay
gián tiếp thì Hiến pháp cũng đã khẳng định tầm quan trọng của quyền tố cáo, vai
trị, trách nhiệm của cơng dân trong cơng cuộc phịng, chống tội phạm cũng như các
hành vi vi phạm pháp luật, hành vi tiêu cực trong xã hội. Đặc biệt, bên cạnh Hiến
pháp thừa nhận, ghi nhận quyền tố cáo là quyền chính trị cơ bản của cơng dân thì
người tố cáo sẽ được pháp luật bảo vệ, người chịu thiệt thòi sẽ được bồi thường thỏa
đáng, và nghiêm cấm bất kỳ một hành vi trả thù nào đến người tố cáo. Những đảm
bảo pháp lý đối với quyền tố cáo và người tố cáo khẳng định tính chất đặc biệt quan
trọng của vấn đề, đồng thời khẳng định ý chí của Nhà nước trong việc xử lý những
người có hành vi cản trở việc thực hiện quyền tố cáo cũng như trả thù người tố cáo.
Để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp về việc tố cáo, giải quyết tố cáo
cũng như bảo vệ người tố cáo, Nhà nước ta ngay từ sau khi Cách mạng Tháng Tám
thành công năm 1945 đến nay đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, tiêu biểu như:
Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân năm
1981; Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991; Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998. Sự ra đời của Luật Khiếu nại, tố cáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho công
dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cơng dân. Sau đó, để hướng dẫn chi tiết một số điều của
17
Điều 74 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 1999,
ngày 07/8/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định 67/1999/NĐ-CP quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo. Sau đó, Nghị định 62/2000/NĐ-CP
đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/1999/NĐ-CP. Nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời kì hội nhập của đất nước,
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm
2004, 2005. Về cơ bản, Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, được sửa đổi, bổ sung
năm 2004, 2005 đã ghi nhận quyền được bảo vệ và các quy tắc nhằm bảo vệ người
tố cáo, xác định được trách nhiệm bảo vệ người tố cáo của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để đảm bảo cơng dân được tự do, sẵn sàng tố cáo các hành vi sai trái,
tiêu cực trong xã hội.
Cụ thể pháp luật đã nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo; đe doạ, trả thù, trù dập người khiếu nại, tố cáo; tiết lộ họ, tên, địa
chỉ, bút tích của người tố cáo; cố tình khơng giải quyết hoặc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trái pháp luật; bao che người bị khiếu nại, tố cáo; can thiệp trái pháp luật vào
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc người khác
khiếu nại, tố cáo sai sự thật; đe dọa, xúc phạm người có trách nhiệm giải quyết
khiếu nại, tố cáo; lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối trật
tự18.
Người tố cáo có quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền; u cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình; u cầu
được thơng báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
bảo vệ khi bị đe dọa, trù dập, trả thù19.
Luật đã quy định trách nhiệm bảo vệ người tố cáo về các cơ quan có thẩm
quyền, đồng thời quy định cách thức, biện pháp họ thực hiện bảo vệ người tố cáo:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo, giải quyết tố cáo phải giữ bí mật
cho người tố cáo; khơng được tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và
các thơng tin khác có hại cho người tố cáo20.
Người tiếp cơng dân có trách nhiệm:
1- Tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại,
tố cáo;
18
Điều 16 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)
Khoản 1 Điều 57 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)
20
Điều 72 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)
19
2- Hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo;
3- Giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo khi người tố cáo yêu
21
cầu .
Bên cạnh quy định trách nhiệm của các chủ thể có trách nhiệm, Luật Khiếu
nại, tố cáo năm 1998, sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 cịn có chế tài đối với hành
vi làm trái hoặc vi phạm trách nhiệm của mình, theo đó, người giải quyết khiếu nại,
tố cáo nếu có một trong các hành vi sau đây thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường theo quy định của pháp luật:
1- Thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;
2- Gây phiền hà, sách nhiễu, cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo;
3- Cố tình trì hỗn việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;
4- Làm sai lệch hồ sơ vụ việc trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo;
5- Ra quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo trái pháp luật;
6- Không kịp thời áp dụng biện pháp cần thiết để chấm dứt hành vi vi phạm
pháp luật;
7- Đe dọa, trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo; bao che cho người bị
khiếu nại, tố cáo;
8- Không thực hiện các yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức và đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại các điều 15, 85, 86, 87, 88, 89,
91 và 93 của Luật này;
9- Vi phạm các quy định khác của pháp luật về khiếu nại, tố cáo22.
Sau khi sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 vào
năm 2004, 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày
14/11/2006 hướng dẫn chi tiết các quy định của Luật này, trong đó có điều khoản
quy định trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan nhà nước các cấp, các ngành nhận
được thông tin người tố cáo bị đe dọa, trù dập, trả thù thì phải có trách nhiệm chỉ
đạo hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan làm rõ, có biện pháp bảo vệ
người tố cáo, ngăn chặn và đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp
luật người có hành vi đe dọa, trù dập, trả thù người tố cáo.
21
22
Điều 77 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)
Điều 96 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)