BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HOA
BUỘC THỰC HIỆN BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
BUỘC THỰC HIỆN BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Đ n ƣớn n dụn
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Hải An
Học viên: Nguyễn Th Hoa
Lớp: Cao học Luật, An Giang Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn “Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự” là kết quả quá trình tự nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn khoa học của Cô - TS. Nguyễn Hải An không sao chép kết quả
của bất kỳ luận văn nào trước đó. Nội dung luận văn có tham khảo các tài liệu,
thơng tin, bản án theo danh mục tài liệu tham khảo thể hiện trong luận văn. Số liệu
trong luận văn đảm bảo trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Tơi xin cam đoan và hồn tồn chịu trách nhiệm về tính chính xác luận văn
của mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày
/
Học viên
Nguyễn Th Hoa
/2020
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
Chữ viết tắt
BAPT
BAST
BLDS
BLTTDS
BPBĐ
BPKCTT
HĐXX
QSDĐ
TAND
TANDTC
TSĐTC
Chữ viết t ƣờng
Bản án phúc thẩm
Bản án sơ thẩm
Bộ luật dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự
Biện pháp bảo đảm
Biện pháp khẩn cấp tạm thời
Hội đồng xét xử
Quyền sử dụng đất
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
Tài sản đang tranh chấp
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. BUỘC THỰC HIỆN BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ĐỐI VỚI TÀI
SẢN ĐANG TRANH CHẤP ....................................................................................7
1.1. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản
đan tran c ấp ..................................................................................................... 9
1.2. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp cấm chuyển
d ch quyền về tài sản đối với tài sản đan tran c ấp ..................................... 16
1.3. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp cấm t ay đổi
hiện trạng tài sản đan tran c ấp .................................................................... 24
Kết luận C ƣơn 1 ..................................................................................................28
CHƢƠNG 2. BUỘC THỰC HIỆN BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM KHI ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP PHONG TỎA ....................................................................................30
2.1. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp phong tỏa tài
khoản tại ngân hàng ............................................................................................ 30
2.2. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp phong tỏa tài
sản của n ƣời có n ĩa vụ ................................................................................... 37
Kết luận C ƣơn 2 ..................................................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời được quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo
đó, người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời
quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật Tố tụng
dân sự thì phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của
ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tịa án ấn
định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu
quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khơng đúng để bảo vệ lợi ích
của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng
quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu
cầu. Có thể nói, từ những quy định cụ thể của luật về buộc thực hiện biện pháp
bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự khi áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đã bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của khơng chỉ cho nguyên
đơn mà còn bảo vệ được quyền lợi của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc buộc thực hiện biện
pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự tại Tòa án trên thực tế vẫn cịn gặp nhiều bất cập như khó xác định
được giá trị tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khơng đúng. Vì trong thực tế cơ sở, nhận
thức để Thẩm phán ấn định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm là khác nhau. Mặt
khác, việc chứng minh thiệt hại nếu có xảy ra và yêu cầu bồi thường để giải quyết
trong cùng vụ án hay tranh chấp vụ án khác cũng là vấn đề bất cập.
Thực tiễn cho thấy trình tự, thủ tục và tính khả thi của biện pháp bảo đảm
trong áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa
án còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Xuất phát từ đó, em chọn đề tài “Buộc thực
hiện biện pháp bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự” làm luận văn thạc
sĩ để nghiên cứu trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
2
2. Tình hình nghiên c u đề tài
Giáo trình, sách chuyên khảo: Nguyễn Văn Pha (1997), Biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội;
Về các bài viết, tạp chí: Nguyễn Thị Hạnh (2012), Một số trao đổi từ thực
tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết vụ án dân sự, Tạp chí Tịa
án; Trần Xn Hiệp (2012), Hậu quả pháp lý của quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật; Tạ Hữu Huy (2014), Về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi yêu cầu
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự, Tạp chí Kiểm sát;
Trần Phương Thảo (2009), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí Luật
học - Đại học Luật Hà Nội; Đinh Bá Trung (2015), Góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng
dân sự về biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam; Trần
Phương Thảo (2011), Bàn về các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong
Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Luật học - Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Hoài
Phương (2010), Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp
về Kinh doanh Thương mại tại Tịa án; Những vấn đề đặt ra cho việc hồn thiện Bộ
luật tố tụng dân sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Tưởng Duy Lượng (2006), Tìm
hiểu các quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật
tố tụng dân sự;
Các cơng trình nghiên cứu này đã xây dựng nền tảng lý luận căn bản về biện
pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó có nội dung liên quan đến “Biện pháp bảo đảm
trong áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Các công trình này các tác giả nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp khẩn cấp tạm thời và nguyên tắc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nói chung trong tố tụng dân sự, chưa nghiên
cứu sâu về những bất cập, vướng mắc trong việc buộc thực hiện biện pháp bảo đảm
và giải quyết bồi thường khi có thiệt hại xảy ra do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời khơng đúng trong q trình giải quyết vụ án dân sự. Vì vậy, em đăng ký đề tài
“Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự” làm đề
tài nghiên cứu.
Việc chọn lựa đề tài này là sự phân tích, đánh giá cụ thể, để thấy được tầm
quan trọng của việc buộc thực hiện biện pháp bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ
3
án dân sự. Qua đó thực hiện có hiệu quả hơn việc bảo vệ lợi ích của người bị áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền, khơng trùng lắp với các
cơng trình khoa học đã được cơng bố.
3. Mục đíc n
iên c u của đề tài
Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam trong quy định “Buộc thực
hiện biện pháp bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án”. Mục
đích nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những quy định pháp luật và chỉ rõ những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật, để từ đó đi sâu
vào phân tích các biện pháp đảm bảo. Đồng thời, đánh giá việc áp dụng pháp luật
trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp dân sự tại Tòa án, góp phần hồn
thiện những quy định pháp luật, bảo đảm quyền lợi của các đương sự trong vụ án.
Mặt khác, mục đích nghiên cứu cịn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án. Trên cơ sở đó thấy được những kết quả đạt được khi
áp dụng trong thực tế cũng như vấn đề cịn bất cập để từ đó đưa ra một số đề xuất
nhằm hoàn thiện quy định của luật hiện hành có liên quan.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận văn phải thực hiện đó là:
Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về buộc thực hiện
biện pháp bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự khi áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời và những bất cập, khó khăn phát sinh từ nội dung này.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện quy định của luật hiện hành có
liên quan đến biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án.
4. Phạm vi nghiên c u và p ƣơn p áp n
iên c u
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam
về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tịa
án. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua các bản án, quyết định
của Tòa án. Đánh giá hiệu quả trong xét xử tại Tòa án về buộc thực hiện biện pháp
bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, từ đó phát hiện những vướng mắc,
4
bất cập trong quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật và
đề xuất các kiến nghị cần thiết.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi khuôn khổ luận văn này, tác giả kết hợp nghiên cứu các quy
định của luật và nghiên cứu những vướng mắc phát sinh trong việc thực hiện pháp
luật về biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
vụ án dân sự tại Tòa án để có những kiến nghị quy định pháp luật có liên quan.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 136 BLTTDS năm 2015 thì “Người u cầu
Tịa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản
6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 (trong đó khoản 15 và 16 Điều 114 BLTTDS năm
2015 thuộc chuyên ngành kinh tế) của Bộ luật này phải nộp cho Tòa án chứng từ
bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc
của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí q, đá q
hoặc giấy tờ có giá do Tịa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc
thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và
ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía
người có quyền u cầu”. Vì luận văn theo định hướng ứng dụng nên tác giả của
luận văn chỉ nghiên cứu bất cập từ thực tiễn khi Tòa án ấn định tài sản bảo đảm
tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11 Điều 114 của BLTTDS năm 2015 là: Kê
biên tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang
tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong tỏa tài khoản tại
ngân hàng, tổ chức tín dụng khác và phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ để phù
hợp với chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự.
5. P ƣơn p áp n
iên c u
Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong luận văn gồm phương
pháp phân tích được sử dụng ở mục 1.1 và 1.2 để phân tích các nội dung của luật
quy định về nghĩa vụ phải thực hiện khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời được quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015. Đồng thời, tác giả cũng vận dụng phương pháp này để phân
5
tích những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng quy định của luật hiện hành, để từ đó
có những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp so sánh được sử dụng ở mục 2.1, 2.2 dùng để so sánh, đánh giá
tồn diện, nhằm phân tích điểm ưu việt và hạn chế của quy định pháp luật hiện
hành. Để nhận định về thực tiễn áp dụng pháp luật khi áp dụng vào quá trình giải
quyết vụ án.
Phương pháp bình luận bản án được sử dụng để phân tích các quyết định, bản
án của Tòa án trong khi giải quyết, từ đó giúp tác giả thấy được sự bất cập, chưa
thống nhất trong nhận thức khi áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về buộc
thực hiện biện pháp bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Sau cùng, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để đưa ra những kiến nghị,
đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự, ngoài ra, phương pháp tổng hợp cũng được tác giả
lồng vào toàn bộ nội dung luận văn để người đọc dễ nắm bắt vấn đề mà tác giả
muốn trình bày.
6. Ý n
ĩa k oa ọc và giá tr
ng dụng của đề tài trong thực tiễn
Ý nghĩa khoa học của Luận văn: Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề còn bất cập về nhận thức của cán bộ Tòa án đối với quy định buộc nộp cho
Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức
tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền,
kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tịa án ấn định nhưng phải tương đương
với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng BPKCTT
không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng BPKCTT và ngăn ngừa sự lạm
dụng quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT từ phía người có quyền u cầu và cịn nhằm
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu những vướng mắc, bất cập. Từ đó đề xuất giải pháp
nhằm hồn thiện chế định về BPBĐ khi áp dụng BPKCTT trong tố tụng dân sự,
nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Giá trị của đề tài ứng dụng: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên,
Thư ký, Luật sư, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu nghiên cứu có thể tham khảo và
vận dụng trong q trình giải quyết, bảo vệ quyền lợi cho đương sự, khách hàng và
6
bản thân khi tham gia tố tụng trong vụ án khi có phát sinh tranh chấp về buộc thực
hiện BPBĐ khi áp dụng BPKCTT trong giải quyết vụ án dân sự.
Tuy nhiên, do nhận thức của tác giả về quy định của luật cịn hạn hẹp, nên
chắc chắn khơng tránh khỏi nhiều thiếu sót, hạn chế trong lập luận, diễn giải. Vì
vậy, tác giả rất mong được đón nhận sự đóng góp, chỉ dạy của Q Thầy, Cơ để
Luận văn này được hoàn thiện hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận từng chương và kết luận chung cũng như danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao gồm 02 chương, cụ thể như sau:
C ƣơn 1. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với tài sản đang tranh chấp.
C ƣơn 2. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi áp dụng biện pháp phong tỏa.
7
CHƢƠNG 1
BUỘC THỰC HIỆN BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
ĐỐI VỚI TÀI SẢN ĐANG TRANH CHẤP
Buộc thực hiện BPBĐ đối với TSĐTC là các BPKCTT. Tính khẩn cấp được
thể hiện ở khía cạnh Tòa án phải ra quyết định áp dụng ngay và quyết định này
được thực hiện ngay sau khi được Tịa án quyết định áp dụng. Trong khi đó, tính
tạm thời của biện pháp này được thể hiện ở khía cạnh, quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời chưa phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự.
Sau khi quyết định áp dụng BPKCTT, nếu lý do của việc áp dụng khơng cịn nữa thì
Tịa án có thể hủy bỏ quyết định này. Việc áp dụng các BPKCTT có thể gây thiệt
hại đến quyền, lợi ích của người bị áp dụng. Do đó để đảm bảo việc áp dụng đúng
đắn, Tòa án phải xem x t thận trọng trước khi quyết định áp dụng và phải thực hiện
đúng các quy định của luật.
Kịp thời khắc phục những hậu quả, thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra,
ngăn chặn những hành vi hủy hoại bằng chứng làm sai lệch nội dung vụ việc. Kịp
thời ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản và đảm bảo việc thi hành bản án, quyết định
của Tòa án. Như vậy, việc áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự khơng chỉ có ý nghĩa pháp lý mà cịn có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Trong điều kiện
hội nhập kinh tế hiện nay, BPKCTT ngày càng trở thành công cụ pháp lý vững chắc
để các đương sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi tham gia vào các quan hệ
Dân sự, Kinh doanh Thương mại và Lao động.
Từ những quan điểm về khái niệm BPKCTT cùng sự phân tích các đặc điểm,
theo tác giả bản chất BPKCTT một công cụ mà các bên tranh chấp được sử dụng để
bảo vệ các quyền và lợi ích của mình một cách tạm thời cho đến khi vụ án được giải
quyết xong. BPKCTT có thể được áp dụng để hạn chế hoặc buộc các bên tranh chấp
hoặc bên thứ ba thực hiện một hành vi nhất định với mục đích giải quyết yêu cầu
cấp bách của đương sự, thu thập chứng cứ kịp thời, giữ nguyên hiện trạng nhằm
tránh những thiệt hại không thể khắc phục hoặc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa
vụ của bên có nghĩa vụ khi có tranh chấp. Với chức năng đó, mặc dù mang tính chất
tạm thời nhưng việc áp dụng BPKCTT vẫn tiềm ẩn khả năng gây ra thiệt hại đối với
bên bị áp dụng hoặc bên thứ ba. Do vậy, bên cạnh việc xác định quyền yêu cầu của
các chủ thể, pháp luật tố tụng dân sự đặt ra các điều kiện khi yêu cầu áp dụng
8
BPKCTT, trong đó người yêu cầu áp dụng BPKCTT buộc phải thực hiện BPBĐ1, là
một quy định bắt buộc, nhằm cân bằng quyền lợi của các bên trong tranh chấp.
Do tính chất đa dạng của các vụ việc phát sinh tranh chấp tại Tịa án, tình thế
khẩn cấp của mỗi vụ việc là khác nhau, nên khoản 1 Điều 136 BLTTDS năm 2015
quy định “Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các BPKCTT quy định tại các
khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật này phải nộp cho Tòa án
chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng
khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí
q, đá q hoặc giấy tờ có giá do Tịa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn
thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng BPKCTT khơng
đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng BPKCTT và ngăn ngừa sự lạm dụng
quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT từ phía người có quyền yêu cầu”.
Buộc thực hiện BPBĐ là quy định bắt buộc được ghi nhận tại Chương VIII của
BLTTDS năm 2015 về các BPKCTT, cụ thể từ Điều 111 đến Điều 142 BLTTDS
năm 2015. Theo đó, pháp luật quy định cụ thể người yêu cầu loại biện pháp khẩn cấp
tạm thời nào thì phải thực hiện nộp BPBĐ và BPKCTT nào thì khơng phải nộp các
BPBĐ. Thời hạn thực hiện BPBĐ, loại tài sản để thực hiện BPBĐ.
Về việc áp dụng các quy định của BLTTDS năm 2015 liên quan đến việc
buộc thực hiện BPBĐ. Để đảm bảo lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng BPKCTT
và ngăn ngừa sự lạm dụng từ phía người có quyền u cầu, các nhà lập pháp đã xây
dựng trong BLTTDS năm 2015 những qui định về BPBĐ buộc người yêu cầu áp
dụng BPKCTT phải gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ
trị giá bằng tiền vào một tài khoản phong tỏa tại ngân hàng. Đây là một điểm tiến bộ
của BLTTDS năm 2015 so với các văn bản pháp luật trước đó. Theo quy định tại
Điều 120 BLTTDS năm 2015 thì "Người yêu cầu áp dụng BPKCTT quy định tại
khoản 6, 7, 8, 10, 11 Điều 102 BLTTDS phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá
q hoặc giấy tờ có giá do Tịa án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài
sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện". Thực tiễn áp dụng điều luật này cho thấy
xuất hiện bất cập trong q trình áp dụng, đó là, mục đích của BPKCTT nhằm để
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhưng khơng phải mọi chủ thể
đều có điều kiện về kinh tế để thực hiện quy định về buộc thực hiện BPBĐ khi áp
dụng BPKCTT để bảo vệ quyền lợi cho chính người yêu cầu.
1
Điều 136 BLTTDS năm 2015.
9
1.1. Buộc t ực iện biện p áp bảo đảm k i áp dụn biện p áp kê biên
tài sản đan tran c ấp
Hiểu theo nghĩa thơng thường thì kê biên TSĐTC là việc kiểm kê, kê ra danh
mục các tài sản để chờ xử lý2. Dưới góc độ pháp luật tố tụng dân sự, kê biên tài sản
được hiểu là biện pháp cưỡng chế nhà nước do Tòa án quyết định áp dụng và Chấp
hành viên tiến hành kê khai, ghi lại từng loại tài sản, giao lại cho chủ tài sản hoặc
thân nhân bảo quản, cấm việc tẩu tán, phá hủy nhằm đảm bảo cho việc x t xử, thi
hành án và các quyết định của cơ quan nhà nước được thuận lợi, đúng pháp luật3.
Trong tố tụng dân sự, BPKCTT kê biên TSĐTC do Tòa án quyết định áp dụng là
việc Tòa án kiểm kê, thống kê những tài sản đang có tranh chấp trong vụ kiện để
nắm rõ về những tài sản đó và buộc người đang giữ tài sản tranh chấp không được
chuyển dịch, tẩu tán hay phá hủy tài sản đang có tranh chấp đó. BPKCTT được quy
định tại khoản 6 Điều 114 BLTTDS năm 2015 và điều kiện áp dụng biện pháp này
được quy định tại Điều 120 BLTTDS năm 2015.
Khác với những BPKCTT đã nêu trên, biện pháp kê biên tài sản đang có
tranh chấp chỉ được áp dụng khi có yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
yêu cầu áp dụng BPKCTT mà Tịa án khơng có quyền tự mình áp dụng. Theo quy
định tại Điều 120 BLTTDS năm 2015, BPKCTT kê biên tài sản tranh chấp chỉ được
Tịa án quyết định áp dụng nếu trong q trình Tịa án giải quyết vụ án, có căn cứ
cho thấy người giữ TSĐTC có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản. Tài sản bị kê biên
có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan Thi hành án hoặc hoặc lập biên bản giao
cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Tòa
án. Biện pháp này được xây dựng dựa trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự, do đó nó chỉ được áp dụng khi có yêu cầu của đương sự.
Từ quy định này, việc áp dụng BPKCTT kê biên TSĐTC phải đáp ứng các
điều kiện sau:
Th nhất: BPKCTT kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với tài sản đang có tranh
chấp mà khơng phải là áp dụng đối với tất cả tài sản của đương sự trong vụ án dân sự.
Những tài sản không phải là tài sản tranh chấp hoặc những tài sản chỉ liên quan đến tài
sản tranh chấp sẽ không nằm trong phạm vi những tài sản bị áp dụng BPKCTT kê biên.
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, tr 485
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb
Tư pháp, Hà Nội, tr 408
2
3
10
T
ai: BPKCTT kê biên TSĐTC chỉ được Tòa án quyết định áp dụng
khi có căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản
tranh chấp.
Như vậy, khi đương sự có yêu cầu áp dụng BPKCTT kê biên TSĐTC, ngoài
việc phải làm đơn và đưa ra chứng cứ chứng minh cho việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT là cần thiết và hợp pháp, còn phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được
bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá q hoặc giấy tờ có
giá do Tịa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể
phát sinh do hậu quả của việc áp dụng BPKCTT khơng đúng để bảo vệ lợi ích của
người bị áp dụng BPKCTT cũng như để ngăn ngừa, hạn chế quyền yêu cầu của
người có quyền yêu cầu.
Để làm rõ vấn đề trên, tác giả nêu vụ án do Tòa án Long Xun thụ lý giải
quyết, trong đó, Tịa án có áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của nguyên đơn.
Vụ án 1: “Tranh chấp ly hơn - Địi tài sản” do Tòa án nhân dân thành phố Long
Xuyên thụ lý số 44/2017/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 02 năm 2017, giữa nguyên đơn
bà Bùi Thị Quang Châu, bị đơn ông Phan Cẩm Thịnh, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Cơng ty Cho thuê Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Quốc tế
Chailease và Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ in Quảng cáo Phan Tường.
Nội dung vụ án: Bà Châu và ông Thịnh sống chung từ năm 2014, không đăng
ký kết hôn. Khi sống chung bà cho ông Thịnh mượn 766.737.000 đồng và 15 lượng
vàng 24kra, do tin tưởng nên không yêu cầu ông Thịnh làm biên nhận.
Bà Châu u cầu Tịa án khơng cơng nhận bà và ơng Thịnh là vợ chồng; yêu
cầu ông Thịnh trả 766.737.000 đồng và 15 lượng vàng 24kra.
Yêu cầu duy trì quyết định áp dụng BPKCTT kê biên TSĐTC quy định tại
khoản 6 Điều 114 BLTTDS năm 2015 đối với các tài sản: Máy in KTS INKOTEK;
Máy cắt bế decal; Máy in màu A3; Máy cắt; Máy cấn; Máy keo; Máy in màu A3;
Máy photo; Máy cán màng nóng; Máy in KTS XULY; Máy vi tính IMAC APPLE;
Máy đóng khung tranh; Máy n n khí; Máy in chuyển nhiệt; Máy in màu Ricoh 901.
Lý do bà yêu cầu áp dụng BPKCTT kê biên tài sản trên, vì ơng Thịnh mượn tiền,
vàng của bà Châu để mua sắm các máy móc, thiết bị trên nhằm phục vụ cho việc
kinh doanh của Công ty Phan Tường.
11
Theo Quyết định số 10/2017/QĐ-BPBĐ, ngày 27 tháng 4 năm 2017 về buộc
thực hiện BPBĐ, thì bà Châu đã nộp tài sản bảo đảm là tiền có giá trị là 23.200.000
đồng, tương đương 10% giá trị tài sản bà Châu yêu cầu kê biên vào tài khoản phong
tỏa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gịn Thương Tín chi nhánh An Giang,
Phòng Giao dịch Long Xuyên.
Tại Bản án số 120/2019/HNGĐ-ST, ngày 18/11/2019 Tịa án Long Xun,
quyết định: Khơng cơng nhận bà Bùi Thị Quang Châu và ông Phan Cẩm Thịnh là
vợ chồng; Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Châu buộc ông Thịnh trả
135.587.000 đồng; Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Châu buộc
ông Thịnh trả 631.150.000 đồng và 15 lượng vàng 24kra, loại vàng 9999; Hủy bỏ
Quyết định áp dụng BPKCTT số 10/2017/QĐ-BPKCTT, ngày 28/4/2017 và Quyết
định số 01/2017/QĐ-BPKCTT, ngày 03/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố
Long Xuyên; Hủy bỏ Quyết định buộc thực hiện BPBĐ số 10/2017/QĐ-BPBĐ,
ngày 27/4/2017 của Tòa án thành phố Long Xuyên; Bà Châu được nhận lại tiền đã
nộp BPBĐ và lãi (nếu có) tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gịn Thương Tín
chi nhánh An Giang, Phòng Giao dịch Long Xuyên theo giấy nộp tiền ngày
28/4/2017 và Giấy tạm khóa tài khoản do Ngân hàng lập ngày 28/4/2017.4
Quan điểm của tác giả về nội dung vụ án nêu trên: Tòa án Long Xuyên căn
cứ Cơng văn số 05/2017/PĐ-PGD LX ngày 26/4/2017 của Phịng Giao dịch Long
Xuyên, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh An Giang
phúc đáp Cơng văn số 85/2017/QĐ-CCTLCC ngày 19/4/2017 của Tòa án Long
Xuyên xác nhận sổ Phụ tài khoản đối ứng số 070014842614 thể hiện khách hàng thụ
hưởng là ông Phan Cẩm Thịnh đã nhận từ bà Bùi Thị Quang Châu với số tiền
135.587.000 đồng, để buộc ơng Thịnh trả bà Châu 135.587.000 đồng là có căn cứ.
Về quyết định của Tòa án hủy bỏ Quyết định áp dụng BPKCTT số 10/2017/QĐBPKCTT, ngày 28/4/2017 và Quyết định số 01/2017/QĐ-BPKCTT, ngày
03/5/2017. Hủy bỏ Quyết định buộc thực hiện BPBĐ số 10/2017/QĐ-BPBĐ, ngày
27/4/2017. Bà Châu được nhận lại tiền đã nộp BPBĐ và lãi (nếu có), là có căn cứ.
Vì các tài sản bà Châu yêu cầu kê biên là tài sản của Công ty Phan Tường, bà Châu
tranh chấp cho rằng các máy móc, thiết bị trên được mua từ nguồn tiền, vàng ông
Thịnh đã mượn của bà, mà không tranh chấp đối với tài sản bị áp dụng biện pháp kê
biên, nên khơng duy trì là đúng quy định của luật.
4
Bản án số 120/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 của TAND thành phố Long Xuyên.
12
Tại phiên tịa ơng Thịnh cho rằng khi bị áp dụng BPKCTT kê biên tài sản đối
với các máy móc đã gây khó khăn cho tình hình hoạt động của Cơng ty, nhưng vì
nghĩ tình nghĩa vợ chồng, nên ơng không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Vấn đề cần đặt ra Tòa án áp dụng BPKCTT kê biên TSĐTC theo yêu cầu của
bà Châu trong vụ án trên là có căn cứ không, khi bà Châu không tranh chấp đối với
tài sản yêu cầu kê biên, dù Tòa án đã giải thích về căn cứ để yêu cầu áp dụng
BPKCTT kê biên TSĐTC, nhưng bà Châu vẫn không thay đổi BPKCTT.
Đối chiếu quy định tại Điều 111 BLTTDS năm 2015 quy định quyền yêu cầu
áp dụng BPKCTT và quy định về buộc thực hiện BPBĐ tại Điều 136 BLTTDS năm
2015 thì bà Châu đã đáp ứng các quy định trên về nghĩa vụ của người yêu cầu áp
dụng BPKCTT. Bên cạnh đó, nếu Tịa án áp dụng BPKCTT khác với BPKCTT mà
cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu5 mà gây ra thiệt hại cho người bị áp dụng
BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì Tịa án phải bồi thường.6
Chế định các BPKCTT trong BLTTDS năm 2015 được xây dựng dựa trên
nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, đương sự có quyền lựa chọn các
BPKCTT để bảo vệ quyền lợi của mình, quyền tự định đoạt của họ ln được pháp
luật tơn trọng. Vì vậy, khi đương sự yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số
BPKCTT cụ thể để bảo vệ quyền lợi của họ, nhưng Tòa án đã áp dụng BPKCTT
khác với BPKCTT mà đương sự yêu cầu là vi phạm nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự.
Trở lại vụ án trên, bà Châu yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT kê biên TSĐTC.
Mặc dù, theo vụ án trên ngoài tranh chấp yêu cầu không công nhận bà Châu và ông
Thịnh là vợ chồng, bà Châu cịn tranh chấp địi ơng Thịnh trả 766.737.000 đồng và
15 lượng vàng 24kra. Tuy bà Châu không tranh chấp đối với các tài sản bà Châu yêu
cầu áp dụng BPKCTT kê biên TSĐTC, nhưng nếu Tòa án nhận định cho rằng do bà
Châu không tranh chấp tài sản u cầu kê biên, nên Tịa án khơng áp dụng BPKCTT
kê biên tài sản đang tranh chấp mà Tòa án tự ý áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản
của người có nghĩa vụ dẫn tới gây thiệt hại cho Công ty Phan Tường là bên thứ ba mà
người bị thiệt hại có yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp này Tòa án phải bồi
thường theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 113 BLTTDS năm 2015.
5
6
Điểm b khoản 2 Điều 113 BLTTDS năm 2015.
Khoản 2 Điều 113 BLTTDS năm 2015.
13
Về nguyên tắc, Tòa án chỉ được quyết định một hoặc một số BPKCTT quy
định tại các khoản 6, 7 và 8 Điều 114 BLTTDS năm 2015 đối với TSĐTC.
Do đó, khi có u cầu áp dụng BPKCTT này thì người yêu cầu phải chứng
minh đó là tài sản có tranh chấp và Thẩm phán, Hội đồng x t xử phải xác định đó
có phải là tài sản có tranh chấp hay không.
Tuy nhiên, như đã đề cập phần trên mặc dù Tịa án đã giải thích về căn cứ để
yêu cầu áp dụng BPKCTT kê biên TSĐTC, nhưng bà Châu vẫn khơng thay đổi
BPKCTT đã u cầu. Vì cho rằng tài sản bà yêu cầu kê biên là do ông Thịnh mượn
tiền, vàng của bà để mua. Như vậy, trong trường hợp này Tịa án có thơng báo khơng
chấp nhận u cầu áp dụng của bà Châu vì khơng có căn cứ khơng? Vì Điều 113
BLTTDS năm 2015 quy định trách nhiệm do áp dụng BPKCTT không đúng mà gây
thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba, thì Tịa án phải bồi thường.
Với quy định nêu trên trong thực tế đã tạo khơng ít áp lực cho Thẩm phán
trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án dân sự. Thẩm phán luôn bị trách nhiệm trong
việc áp dụng hoặc không áp dụng BPKCTT, khi mà BLTTDS năm 2015 quy định
về thời hạn ra quyết định áp dụng hoặc từ chối áp dụng BPKCTT quá ngắn.
Từ p ân tíc nêu trên, tác iả n ận t ấy có n ữn bất cập n ƣ sau:
Mặc dù Chương VIII của BLTTDS năm 2015 quy định các BPKCTT, theo đó,
gồm: Quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT; Thẩm quyền; Trách nhiệm do áp dụng
BPKCTT không đúng; BPKCTT nào phải thực hiện BPBĐ và BPKCTT nào thì Tịa
án được tự mình áp dụng; Thời hạn thực hiện BPBĐ; Thay đổi, áp dụng bổ sung, hủy
bỏ áp dụng BPKCTT; Khiếu nại, giải quyết khiếu nại khẩn cấp tạm thời là khá cụ thể.
Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định chưa thực sự rõ ràng, mang tính tùy nghi nếu
khơng muốn nói là e ngại, sợ trách nhiệm, từ đó dẫn đến việc khơng ít trường hợp
Thẩm phán Tịa án cịn lúng túng khi xem x t giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT.
Vì trên thực tế, trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự mà có áp dụng các
BPKCTT, Thẩm phán buộc người yêu cầu thực hiện BPBĐ khơng có sự thống nhất,
có Tịa án buộc nộp 5%, 10%, 20% thậm chí 100%. Vì cho rằng, luật quy định
chung chung là Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại
có thể phát sinh, có nghĩa là thiệt hai chưa phát sinh trên thực tế nên Tòa án buộc
nộp bao nhiêu là tùy theo nhận định của mỗi Tịa. Nói cách khác, việc ấn định mức
bảo đảm phụ thuộc rất lớn vào ý chí chủ quan của những người có thẩm quyền.
14
Có trường hợp giá trị tranh chấp rất lớn nhưng lại ấn định giá trị bảo đảm nhỏ
là không đảm bảo được quyền lợi của người bị yêu cầu trong trường hợp có thiệt hại
hoặc giá trị tranh chấp nhỏ nhưng lại ấn định giá trị bảo đảm lớn, nên nhiều trường
hợp người yêu cầu không thực hiện được và Tịa án căn cứ vào đó để thơng báo
khơng áp dụng BPKCTT.
Bên cạnh đó, với quy định BPKCTT chỉ áp dụng đối với TSĐTC quy định tại
Điều 120 BLTTDS năm 2015 làm hạn chế khả năng áp dụng với tài sản không tranh
chấp để bảo vệ chứng cứ hoặc đảm bảo thi hành án của các biện pháp này.
Từ những bất cập nêu trên, tác giả xin đưa ra kiến nghị giải pháp áp dụng
như sau:
Thứ nhất, tác giả nhất trí với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLTTDS năm 2015 về các
BPKCTT Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT kê biên TSĐTC khi có căn cứ
sau đây:
“1. TSĐTC là đối tượng của quan hệ tranh chấp mà Tịa án đang thụ lý
giải quyết.
2. Có tài liệu, chứng cứ chứng minh người giữ TSĐTC có hành vi tẩu tán,
hủy hoại tài sản”7.
Thứ hai, vì với quy định chung chung như tại khoản 1 Điều 136 BLTTDS
năm 2015 “....do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại
có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng BPKCTT không đúng...”8, là quy định
mang tính tùy nghi của Thẩm phán, nhất là khó có thể dự tính được mức tương
đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh, khi mà thiệt hại đó chưa xảy ra
vào thời điểm yêu cầu. Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần sớm ban hành Nghị
quyết hướng dẫn về cách tính tạm tính tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh khi áp
dụng BPKCTT. Tác giả nhất trí với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn về buộc thực hiện BPBĐ quy định tại khoản 1 Điều 136 của
BLTTDS năm 2015 như sau: Vì tổn thất hoặc thiệt hại thực tế có thể phát sinh do
hậu quả của việc áp dụng BPKCTT không đúng chưa xảy ra, cho nên để ấn định
Điều 7 Dự thảo (lần 3) Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
8
Khoản 1 Điều 136 BLTTDS năm 2015.
7
15
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá tương đương với tổn thất
hoặc thiệt hại thì Thẩm phán hoặc HĐXX phải dự kiến và tạm tính có tính chất
tương đối thiệt hại thực tế có thể xảy ra nhưng không thấp hơn 20% giá trị tài sản
bị áp dụng BPKCTT, trừ trường hợp có chứng cứ rõ ràng chứng minh tổn thất hoặc
thiệt hại thấp hơn 20% giá trị tài sản bị áp dụng BPKCTT9.
Mặt khác, với quy định thời hạn xem x t, giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT
là quá ngắn, dẫn tới bất cập trong quá trình giải quyết yêu cầu của đương sự.
Thứ ba, ngoài việc căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật thì người yêu
cầu áp dụng BPKCTT là người nắm rõ tổn thất và thiệt hại có thể phát sinh do hậu
quả của việc áp dụng BPKCTT không đúng. Tham khảo hướng dẫn trước đây của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC để hướng dẫn theo hướng việc tạm tính tổn thất
hoặc thiệt hại có thể phát sinh tùy vào từng BPKCTT cụ thể, tùy từng trường hợp cụ
thể mà Thẩm phán, HĐXX có thể thực hiện là yêu cầu người yêu cầu áp dụng
BPKCTT dự kiến và tạm tính tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của
việc áp dụng BPKCTT không đúng.
Việc dự kiến và tạm tính tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh phải được
làm thành văn bản nêu rõ các khoản tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh, các căn
cứ và cơ sở của việc dự kiến và tạm tính đó.
Hoặc cũng có thể quy định thống nhất khoản tiền hay tỷ lệ phần trăm cụ thể
trên giá trị tài sản mà người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải thực hiện.
Có nên chăng cần quy định rõ quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT là quyền tự
định đoạt của đương sự. Khi họ lựa chọn BPKCTT nào thì Tịa án áp dụng biện
pháp mà họ u cầu, nếu họ chứng minh được sự cần thiết của việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT cũng như họ đã thực hiện đủ các nghĩa vụ của người yêu cầu nhằm bồi
thường thiệt hại có thể phát sinh.
Vì vậy, tác giả nhất trí với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn về buộc thực hiện BPBĐ quy định tại khoản 1 Điều 136
BLTTDS năm 2015 về việc dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra tùy
thuộc vào từng BPKCTT cụ thể, từng trường hợp cụ thể và được thực hiện như sau:
“Thẩm phán hoặc HĐXX đề nghị người yêu cầu áp dụng BPKCTT dự kiến và tạm
tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra. Trong trường hợp có hỏi ý kiến của người bị áp
9
Khoản 2 Điều 13 Dự thảo (lần 3) Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, tlđd (10).
16
dụng BPKCTT được hướng dẫn tại khoản 1 Điều 10 Nghị quyết này thì đề nghị họ
dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra.
Dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra phải được làm thành văn
bản, trong đó cần nêu rõ các khoản thiệt hại và mức thiệt hại có thể xảy ra, các căn
cứ, cơ sở của việc dự kiến và tạm tính đó; nếu tại phiên tịa thì không phải làm
thành văn bản nhưng phải ghi vào biên bản phiên tòa.
Thẩm phán hoặc HĐXX xem xét các dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có
thể xảy ra, căn cứ vào các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
để ấn định một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá và buộc người
yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện biện pháp bảo đảm”10.
1.2. Buộc t ực iện biện p áp bảo đảm k i áp dụn biện p áp cấm
c uyển d c quyền về tài sản đối với tài sản đan tran c ấp
Biện pháp này được quy định tại Điều 121 BLTTDS năm 2015. Theo đó,
biện pháp buộc thực hiện BPBĐ khi áp dụng biện pháp cấm chuyển dịch quyền về
tài sản đối với TSĐTC được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện, nếu trong q
trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ TSĐTC
có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với TSĐTC cho người khác.11
BPKCTT cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với TSĐTC là việc Tòa án buộc
người đang giữ tài sản tranh chấp không được thay đổi, chuyển đổi quyền về tài sản
đối với TSĐTC. Biện pháp này được quy định tại khoản 7 Điều 114 BLTTDS năm
2015. Như vậy, cũng như quy định về BPKCTT kê biên TSĐTC quy định tại Điều
120 BLTTDS năm 2015, biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản chỉ được
phép áp dụng đối với những tài sản tranh chấp mà thường là những tài sản mà
quyền đối với tài sản đã được xác định rõ thông qua thủ tục đăng ký tại cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước mà chủ yếu là bất động sản. Mặt khác, Tòa án chỉ được
quyết định áp dụng biện pháp này khi có yêu cầu áp dụng của người có quyền u
cầu áp dụng BPKCTT mà Tịa án khơng có quyền tự mình áp dụng. Căn cứ để Tòa
án quyết định áp dụng biện pháp này phải là có căn cứ cho thấy người đang giữ tài
sản tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đang có tranh chấp cho
người khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ của họ. Căn cứ này cho thấy tình trạng khẩn
cấp là quyền đối với tài sản tranh chấp đang có nguy cơ bị chuyển dịch, cần phải có
10
11
Khoản 3 Điều 13 Dự thảo (lần 3) Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
Điều 121 BLTTDS năm 2015.
17
ngay biện pháp ngăn chặn việc chuyển dịch để bảo tồn TSĐTC đó. Nếu khơng kịp
thời ngăn chặn thì tài sản tranh chấp sẽ bị chuyển dịch, khơng cịn tài sản để thi
hành án.
Như vậy, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với TSĐTC là trường hợp Tòa
án buộc người người chiếm hữu hoặc giữ TSĐTC không được thay đổi, dịch chuyển
quyền về tài sản đối với TSĐTC. Dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt
của đương sự, Tòa án chỉ áp dụng biện pháp này khi đương sự có đơn yêu cầu.
Để làm rõ quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định
này, xin được tóm tắt vụ án như sau:
Vụ án 2: Ngày 09/8/2016 Tòa án Long Xuyên thụ lý vụ án dân sự số:
178/2016/TLST-DS, về việc “Tranh chấp Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất” theo đơn khởi kiện của ông Hồ Văn Cần và bà Đỗ Thị Thạnh. Địa chỉ:
126C/63, khóm Bình Đức 3, phường Bình Đức, thành phố Long Xuyên.
Ông Cần và bà Thạnh yêu cầu áp dụng BPKCTT cấm chuyển dịch quyền về
TSĐTC là phần đất có diện tích 39,2m2 tọa lạc tại thửa số 112, tờ bản đồ số 55 thuộc
phường Bình Đức, Tp. Long Xuyên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BA339208, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH 00009 do Ủy ban
nhân dân Tp. Long Xuyên cấp cho ông Hồ Văn Cần và bà Đỗ Thị Thạnh, ngày
30/12/2009 và phần đất có diện tích 8,9m2 tọa lạc tại thửa số 6, tờ bản đồ số 55 thuộc
phường Bình Đức, Tp. Long Xuyên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM
479010, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H03684/aA do Ủy ban nhân
dân Tp. Long Xuyên cấp cho ông Hồ Văn Cần và bà Đỗ Thị Thạnh, ngày 04/02/2009.
Để thực hiện thủ tục áp dụng BPKCTT, ông Cần và bà Thạnh đã nộp
5.000.000 đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, chi
nhánh thành phố Long Xuyên theo Quyết định buộc thực hiện BPBĐ số
07/2016/QĐ-BPBĐ, ngày 16/8/2016 của Tòa án Long Xuyên.
Ngày 16/9/2016 Tòa án thụ lý yêu cầu phản tố của bà Kiều đối với ông Cần,
bà Thạnh. Bà Kiều yêu cầu ông Cần và bà Thạnh phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng
chuyển nhượng đối với 02 diện tích 39,2m2 và 8,90m2 theo Hợp đồng Cơng chứng
tại Văn phịng Cơng chứng Cao Thị Hồng Cúc ngày 13/6/2016.
Ngày 07 tháng 12 năm 2016, Tòa án Long Xuyên đình chỉ giải quyết vụ án
với lý do ông Cần, bà Thạnh có đơn rút yêu cầu khởi kiện; ơng Thuận, bà Kiều có
18
đơn rút yêu cầu phản tố, vì đã thỏa thuận được với nhau các vấn đề phải giải quyết
trong vụ án12.
Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện xuất phát từ quan hệ cha
mẹ con, nên ông Cần và bà Thạnh cho con là bà Kiều QSDĐ như nêu trên, tuy
nhiên lại làm thủ tục chuyển nhượng QSDĐ. Sau đó do khơng hài lịng vợ chồng
Kiều, nên ông Cần, bà Thạnh yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa
ông bà với bà Kiều.
Bà Kiều cho rằng bà có nhận chuyển nhượng QSDĐ của cha mẹ là ông Cần,
bà Thạnh như nêu trên. Bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Cần, bà Thạnh
mà yêu cầu ông Cần, bà Thạnh phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đối
với 02 diện tích 39,2m2 và 8,90m2 theo Hợp đồng chuyển nhượng được Công
chứng tại Văn phịng Cơng chứng Cao Thị Hồng Cúc ngày 13/6/2016.
Lý do ông Cần, bà Thạnh yêu cầu áp dụng BPKCTT cấm chuyển dịch
quyền về tài sản đang tranh chấp là nhằm bảo tồn tình trạng hiện có đối với
TSĐTC, nếu khơng u cầu áp dụng thì vợ chồng bà Kiều sẽ chuyển nhượng
TSĐTC cho người khác.
Quan điểm tác giả Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, do bà Kiều
chuyển nhượng QSDĐ nêu trên cho người khác, nên ông Cần bà Thạnh yêu cầu áp
dụng BPKCTT cấm chuyển dịch quyền về TSĐTC là có căn cứ, thỏa mãn các quy
định tại khoản 1, Điều 111; khoản 1, Điều 112; khoản 7, Điều 114 và Điều 121 của
BLTTDS năm 2015 về cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với TSĐTC.
Do đình chỉ giải quyết vụ án, nên Tịa án hủy bỏ Quyết định áp dụng
BPKCTT và hủy bỏ Quyết định buộc thực hiện BPBĐ là có căn cứ, đúng quy định
tại điểm d, khoản 1, Điều 138, đồng thời quyết định cho ông Cần và bà Thạnh được
nhận lại 5.000.000 đồng và tiền lãi (nếu có) tại Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam, chi nhánh thành phố Long Xuyên theo Quyết định Buộc
thực hiện BPBĐ số 07/2016/QĐ-BPBĐ, ngày 16/8/2016 của Tòa án Tp. Long
Xuyên là đúng quy định tại khoản 2, Điều 138 vì khơng thuộc trường hợp phải bồi
thường do yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp
dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường, theo quy định tại khoản
1 Điều 113 BLTTDS năm 2015.
12
Quyết định Đình chỉ số 113/2016/QĐST-DS, ngày 07/12/2016 của TAND thành phố Long Xuyên.
19
Vụ án 3: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” giữa
nguyên đơn là ông LuGen với bị đơn là Đỗ Thị Thu Hiền13
Ngày 12/6/2019 cùng với đơn khởi kiện, ơng Lu Gen có đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với TSĐTC là ngôi nhà số 09 Kiều
Phụng, phường Hòa Xuân, Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng. Cùng ngày
14/6/2019, Tịa án thụ lý vụ án và ơng Lu Gen đã thực hiện xong BPBĐ. Tòa án đã
căn cứ khoản 2 Điều 111 BLTTDS năm 2015 ra quyết định áp dụng BPKCTT quy
định tại khoản 7 Điều 114 BLTTDS năm 2015 cấm chuyển dịch quyền về tài sản
đối với TSĐTC.
Quan điểm tác giả Thống nhất Kết luận của Đồn kiểm tra TANDTC đối với
Tịa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng khi ban hành quyết định áp dụng
BPKCTT cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với TSĐTC, vì cùng với việc nộp
đơn khởi kiện, ơng Lu Gen chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh yêu cầu áp
dụng BPKCTT trên là thuộc trường hợp tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay
chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra được quy định tại khoản 2
Điều 111 BLTTDS năm 2015 và tham khảo hướng dẫn tại mục 2 Nghị Quyết
02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, đó là, việc
áp dụng BPKCTT quy định tại khoản 2 Điều 111 BLTTDS năm 2004 khi có đủ các
điều kiện: a) Do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải được giải quyết ngay, không chậm
trễ; b) Cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị
tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; c) Ngăn chặn
hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (có thể là hậu quả về vật chất hoặc phi vật chất).
Vụ án 4: “Yêu cầu thanh toán phát sinh từ hợp đồng xây dựng” giữa: Nguyên
đơn Công ty Daewo E&C với bị đơn Công ty TNHH Hi Brand Việt Nam. (Quyết
định số 119/2017/QĐ-BPKCTT ngày 23/3/2017, Quyết định số 124/2017/QĐBPKCTT ngày 31/5/2017, Quyết định số 26/2017/QĐ-BPKCTT ngày 23/11/2017,
Quyết định giải quyết khiếu nại số 2808 ngày 30/11/2017, Quyết định giải quyết
khiếu nại số 1842 ngày 19/7/2019, Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội)14.
Cơng ty Daewo E&C khởi kiện yêu cầu Công ty Hi Brand thanh tốn
553.336.285.000 đồng (gồm cả lãi) tiền chi phí thi cơng phát sinh từ hợp đồng xây
dựng cơng trình thi cơng tịa nhà H-CT1 (Tịa nhà H - cao tầng 1), đồng thời yêu
13
14
Kết luận của Đoàn Kiểm tra TANDTC tại Tòa án hai cấp thành phố Đà Nẵng năm 2019.
Kết luận của Đồn Kiểm tra TANDTC tại Tịa án hai cấp thành phố Hà Nội năm 2019.
20
cầu áp dụng BPKCTT cấm Công ty Hi Brand thực hiện hành vi chuyển nhượng dự
án thuộc dự án khu nhà ở Văn Phú cho bất cứ bên thứ ba nào khác, khi khơng có ý
kiến của chấp thuận của Công ty Daewo E&C.
Tại Quyết định số 119/2017/QĐ-BPKCTT ngày 23/3/2017, Thẩm phán quyết
định áp dụng Điều 127 BLTTDS năm 2015 áp dụng BPKCTT: Cấm Hi Brand thực
hiện hành vi chuyển nhượng dự án thuộc dự án khu nhà ở Văn Phú có mục tiêu và
quy mơ là đầu tư xây dựng, kinh doanh tòa nhà chung cư kết hợp dịch vụ (H-CT1,
H-CT2) và nhà ở thấp tầng (H-TT1, H-TT2, H-TT3, H-TT4, H-TT5) tại các ô đất
quy hoạch ký hiệu từ CT1 đến CT8 cho bất cứ bên thứ ba nào khác cho đến khi có
quyết định có hiệu lực của Tòa án. Bị đơn đề nghị thay đổi BPKCTT.
Tại Quyết định số 124/2017/QĐ-BPKCTT ngày 31/5/2017, Thẩm phán áp dụng
Điều 121, Điều 127 BLTTDS năm 2015 quyết định thay đổi BPKCTT trên bằng
BPKCTT cấm Hi Brand thực hiện hành vi chuyển nhượng chung cư trên lô đất H-CT1
(quy hoạch cũ CT2) thuộc dự án xây dựng khu nhà ở cao tầng Văn Phú cho bất cứ bên
thứ 3 nào khác cho đến khi có quyết định có hiệu lực của Tịa án đối với vụ án trên.
Nguyên đơn có yêu cầu áp dụng bổ sung BPKCTT cấm Hi Brand thực hiện
hành vi chuyển nhượng phần dự án trên lô đất H-TT2 hoặc bán sản phẩm của dự án
trên lô đất H-TT2 thuộc Dự án trên.
Tại Quyết định số 26/2017/QĐ-BPKCTT ngày 23/11/2017, Thẩm phán áp
dụng khoản 12 Điều 114, Điều 127 BLTTDS quyết định áp dụng BPKCTT cấm Hi
Brand thực hiện hành vi chuyển nhượng phần dự án trên lô đất H-TT2 hoặc bán sản
phẩm của dự án trên lô đất H-TT2 thuộc Dự án trên cho bất cứ bên thứ 3 nào khác
cho đến khi có quyết định có hiệu lực của Tòa án đối với vụ án trên; tiếp tục duy trì
BPKCTT tại Quyết định 124/2017/QĐ-BPKCTT ngày 31/5/2017.
Tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 2808 ngày 30/11/2017, Chánh án
TAND Thành phố Hà Nội quyết định không chấp nhận đơn khiếu nại của Công ty
Hi Brand, giữ nguyên Quyết định số 26/2017/QĐ-BPKCTT ngày 23/11/2017.
Sau đó, bị đơn có nhiều đơn khiếu nại và Tịa án đã có kết quả thẩm định giá
Cơng trình do phía ngun đơn xây dựng (theo Chứng thư của Cơng ty kiểm tốn
thì tổng số tiền là 390.071.342.574 đồng; Số tiền bị đơn đã thanh toán cho nguyên
đơn là 219.883.031.650 đồng, nên số tiền bị đơn cịn phải thanh tốn cho ngun
đơn là 170.188.310.924 đồng).