Tải bản đầy đủ (.pdf) (216 trang)

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.63 MB, 216 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦM MINH KHANG

TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
“PHẠM TỘI NHƯNG CHƯA GÂY THIỆT HẠI
HOẶC GÂY THIỆT HẠI KHƠNG LỚN”
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
“PHẠM TỘI NHƯNG CHƯA GÂY THIỆT HẠI
HOẶC GÂY THIỆT HẠI KHÔNG LỚN”
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã CN: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
Học viên: Trầm Minh Khang
Lớp: CHL khóa 1 – Sóc Trăng


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi với sự
hướng dẫn của PGS-TS.Nguyễn Thị Phương Hoa.
Các thơng tin trích dẫn trong Luận văn đã được nêu rõ nguồn gốc. Các kết
quả trình bày trong Luận văn là trung thực và chưa được cơng bố trong bất cứ cơng
trình khoa học nào trước đây.
Tác giả luận văn

Trầm Minh Khang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nội dung từ viết tắt

BLHS

Bộ luật hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND


Tịa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ “PHẠM
TỘI NHƯNG CHƯA GÂY THIỆT HẠI” ............................................................ 6
1.1. Quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” .............................. 6
1.1.1. Khái niệm, điều kiện áp dụng của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” ................................................................. 6
1.1.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” ................................................................................. 10
1.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” ................................................................................. 21
1.2.1. Cơ sở của kiến nghị ................................................................................. 21
1.2.2. Kiến nghị cụ thể....................................................................................... 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 25
CHƯƠNG 2. TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ “PHẠM
TỘI NHƯNG GÂY THIỆT HẠI KHƠNG LỚN” .............................................. 26
2.1. Quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng gây thiệt hại khơng lớn” ................... 26
2.1.1. Khái niệm, điều kiện áp dụng của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” ....................................................... 26
2.1.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng gây thiệt hại không lớn” ......................................................................... 29
2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng gây thiệt hại không lớn”......................................................................... 45
2.2.1. Cơ sở của kiến nghị ................................................................................. 45
2.2.2. Kiến nghị cụ thể....................................................................................... 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 49
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là vấn đề vơ cùng quan
trọng trong q trình giải quyết vụ án hình sự, được Bộ luật hình sự quy định là một
trong những căn cứ bắt buộc Tòa án phải xem xét, cân nhắc khi quyết định hình
phạt đối với bị cáo. Trong đó, các tình tiết giảm nhẹ, với ý nghĩa làm giảm mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục
hoặc các đặc điểm về nhân thân đáng để khoan hồng cho người phạm tội, khi được
áp dụng một cách đúng đắn, phù hợp sẽ có vai trị đặc biệt tích cực trong việc giáo
dục, giúp người phạm tội nhận thức được hành vi sai trái của mình và chính sách
khoan hồng của Nhà nước, tạo ra cơ hội để những người được hưởng các tình tiết
giảm nhẹ sớm trở về với xã hội, tái hòa nhập cộng đồng. Mặt khác, nếu hiểu và áp

dụng khơng chính xác các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm
tội có thể dẫn đến mục đích của hình phạt và việc áp dụng các chính sách khoan
hồng của Nhà nước trong việc giáo dục người phạm tội, việc đấu tranh, phịng ngừa
tội phạm khơng đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu hồn thiện các
quy định về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là hết sức cần thiết
và quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Theo quy định của BLHS 2015, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
được liệt kê từ điểm a đến điểm x khoản 1, Điều 51 và ngồi ra tại khoản 2 Điều 51
cịn quy định Tịa án có thể coi đầu thú hoặc các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ
nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Tuy nhiên, quy định của luật lại
chưa giải thích một cách cụ thể và đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ này mà cịn mang
tính chất liệt kê, chính vì vậy nên dẫn đến việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự hiện nay cịn nhiều bất
cập. Qua thời gian công tác tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, bản
thân nhận thấy một trong những vướng mắc, bất cập phổ biến liên quan đến vấn đề
này là việc hiểu và áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn” được quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 51 BLHS
năm 2015 hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể, xuất phát từ việc
BLHS chưa quy định rõ ràng về khái niệm cũng như điều kiện áp dụng của tình tiết
giảm nhẹ này, đồng thời Hội đồng thẩm phán TAND tối cao cũng như giữa liên
ngành Tư pháp trung ương cũng chưa ban hành Nghị quyết hoặc văn bản chung
thống nhất để hướng dẫn áp dụng mà việc xác định chủ yếu dựa vào quan điểm chỉ
đạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và nhận thức của người tiến hành tố tụng.
Chính vì vậy đã dẫn đến thực trạng việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này trong


2

các vụ án hiện nay chưa được nhất quán giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, thậm
chí là trong nội bộ các cơ quan này thì cũng có sự áp dụng khác nhau giữa các đơn

vị trực thuộc, hoặc trong cùng một đơn vị ở từng giai đoạn khác nhau cũng có
những quan điểm khác nhau về một số vấn đề như: đối với các tội phạm xâm hại
cùng lúc nhiều khách thể hoặc thiệt hại gây ra có thể là phi vật chất thì có được áp
dụng tình tiết giảm nhẹ này không? việc tài sản được thu hồi nằm ngoài ý muốn chủ
quan của người phạm tội thì có được áp dụng khơng hay việc xác định mức thiệt hại
như thế nào là “khơng lớn”…, đã có nhiều trường hợp Viện kiểm sát ban hành kiến
nghị, kháng nghị bản án của Tịa án vì quan điểm khác nhau trong việc áp dụng hay
khơng áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt
hại không lớn” khiến cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài. Trong khi đó, số lượng
các vụ án hình sự có chiều hướng ngày càng gia tăng phức tạp hơn trước, khiến cho
yêu cầu giải quyết vướng mắc trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trở nên cấp
bách. Trước tình hình đó, liên ngành tư pháp địa phương cũng đã tiến hành nhiều
cuộc Hội nghị chuyên đề liên quan đến việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, tuy nhiên vẫn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, nêu lên các quan
điểm chứ chưa đưa ra một khái niệm chung cũng như chưa có giải pháp hiệu quả
nào để khắc phục hạn chế trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trên thực tế.
Xuất phát từ thực trạng như trên, nhận thấy cần phải có sự nghiên cứu nhằm
tạo ra sự nhận thức một cách đầy đủ, chính xác hơn quy định về tình tiết giảm nhẹ
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”, người viết đã
chọn đề tài nghiên cứu: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại khơng lớn” theo luật hình sự Việt
Nam, nhằm mục đích thơng qua việc nghiên cứu đề tài có thể phân tích, làm sáng tỏ
những bất cập, hạn chế trong thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, xây dựng
được cơ sở lý luận chung nhất về khái niệm cũng như điều kiện áp dụng của tình
tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại khơng lớn”, từ
đó đề ra được các giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm khắc phục các vướng mắc,
hạn chế trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, giúp cho việc áp dụng tình tiết
giảm nhẹ nói trên của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và các cơ quan tiến
hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng được chính xác, khách quan và thống nhất.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Qua tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn, tác
giả nhận thấy chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chun sâu, đầy đủ và
riêng biệt về tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt
hại không lớn”. Nghiên cứu các quy định của pháp luật thì hiện nay trong các Nghị


3

quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hay các Thông tư liên tịch của liên
ngành Tư pháp trung ương cũng chưa hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng tình tiết
giảm nhẹ này. Tuy nhiên, liên quan đến đề tài về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo luật Hình sự Việt Nam thì có khơng ít các cơng trình
nghiên cứu, bài viết khoa học của nhiều nhà khoa học như: Các sách chuyên khảo
của tác giả Đinh Văn Quế, ngun Chánh tịa Hình sự TAND tối cao như: Bình luận
khoa học BLHS Tập 1 (2012), Nhà xuất bản Lao Động; Bình luận các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (2009), Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh; Luận án tiến sỹ: “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam”, tác giả Trần Thị Quang Vinh (năm 2000); Bình luận khoa học
BLHS 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức, do Trần Văn Biên chủ biên cùng nhóm tác
giả đang cơng tác tại Bộ Tư pháp thực hiện (năm 2016); Giáo trình Luật Hình sự
Việt Nam phần chung (2012), do Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh biên
soạn, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam; Lê Văn Luật (2010), Pháp luật hình
sự Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Tư pháp.
Ngồi ra, cịn có các bài viết khoa học đăng trên các tạp chí như: Bùi Kiến
Quốc (2000), Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong BLHS
Việt Nam, Tạp chí Luật học (số 06); Trịnh Tiến Việt (2004), Về ảnh hưởng của các
tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt, Tạp chí Khoa học pháp luật (số
01); Phạm Hồng Hải (2006), Bàn về nhận thức và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, Tạp chí Kiểm sát (số 17); Minh Lương (2007), Khái niệm và
các đặc điểm của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam,

tạp chí TAND (Số 12); Lê Văn Luật (2005), Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng
tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g khoản 1 điều 46 BLHS, Tạp chí Khoa học
pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2005 (Số 02); Trần Thị Quang Vinh
(2002), Phạm vi của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong vụ án hình sự,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật (Số 8); Bùi Kiến Quốc
(2000), Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong BLHS Việt
Nam, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội (Số 6).
Các công trình nghiên cứu, các bài viết khoa học của các tác giả nói trên đều
đã có đề cập đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam ở các phương diện và mức độ khác nhau, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nghiên cứu đề tài của tác giả thông qua việc kế thừa các kết quả nghiên cứu về khái
niệm, bản chất pháp lý, phạm vi và ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự nói chung. Tuy nhiên chưa có một cơng trình nghiên cứu nào riêng biệt về
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây


4

thiệt hại không lớn” mà chủ yếu mới đề cập một cách khái quát về tình tiết này, đặc
biệt là chưa phản ánh đầy đủ được những vướng mắc, bất cập của việc hiểu và áp
dụng tình tiết này trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, do đó cần có sự phát
triển các kết quả đã đạt được trên để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện những vấn đề
còn vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn mà hiện nay chưa giải quyết được.
Do đó có thể nói rằng đề tài nghiên cứu về “Tình tiết giảm nhẹ phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại khơng lớn trong luật hình sự Việt Nam” nghiên
cứu những vấn đề mới liên quan đến vướng mắc phát sinh trong thực tiễn giải quyết
án hình sự và khơng trùng với các cơng trình đã cơng bố liên quan đến đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật về tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại

hoặc gây thiệt hại khơng lớn”, luận văn hướng tới mục đích là đề ra các giải pháp
hướng tới thống nhất, hoàn thiện về mặt lý luận cũng như là đưa ra được các giải pháp
thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trong thực
tiễn giải quyết các vụ án hình sự nói chung và trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu
như sau:
- Về mặt lý luận: Phân tích và xây dựng định nghĩa khoa học cũng như những
vấn đề về điều kiện áp dụng của tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại hoặc gây thiệt hại không lớn”.
- Về mặt thực tiễn: Phản ánh và phân tích, làm rõ những tồn tại, hạn chế trong
thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây
thiệt hại không lớn”, thể hiện qua việc giải quyết từng vụ án cụ thể.
- Cuối cùng là kiến nghị, đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề
bất cập, hạn chế đã được làm rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng tình tiết
giảm nhẹ nói trên trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, quy định
của BLHS hiện hành về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa
gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại khơng lớn”, đồng thời nghiên cứu tình hình áp dụng,
các vướng mắc, hạn chế của việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trong thực tiễn giải
quyết các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng và một số địa phương khác.
Phạm vi nghiên cứu: Các vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn áp
dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không
lớn” qua việc giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn một số địa phương khác.


5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được trình bày trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy

vật lịch sử, Lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và Pháp luật, nguyên
tắc của Đảng và Nhà nước ta về xử lý tội phạm. Đặc biệt là những quan điểm chỉ
đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết 08/NQTW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể khác như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu trên cơ sở các
quy định của pháp luật, các nghiên cứu khoa học và hồ sơ, bản án thực tế các vụ án
hình sự trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng và một số địa phương khác.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu: thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả dự kiến kết quả
đem lại về mặt lý luận là sẽ đưa ra được khái niệm chung nhất về tình tiết giảm nhẹ
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại khơng lớn”, đồng thời phân
tích làm rõ được nội dung cũng như các điều kiện để người phạm tội có thể được
hưởng tình tiết giảm nhẹ này cũng như giải quyết một số trường hợp phức tạp về áp
dụng tình tiết giảm nhẹ này trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, chỉ ra được
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, từ
đó đề xuất, kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.
- Địa chỉ ứng dựng các kết quả nghiên cứu: Kết quả nghiên cứu của Luận văn
có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo về mặt nghiệp vụ cho các cơ quan
tiến hành tố tụng nói chung và trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng trong việc đánh
giá, nhận định để áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn” trong giải quyết từng vụ án cụ thể, đồng thời luận văn
có thể làm nguồn tư liệu để Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, liên ngành tư pháp
trung ương xem xét trong việc ban hành các Nghị quyết, Thông tư liên tịch để
hướng dẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo thì Luận văn
được chia thành 2 Chương cụ thể như sau:
- Chương 1: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa

gây thiệt hại” trong luật hình sự Việt Nam
- Chương 2: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng gây
thiệt hại khơng lớn” trong luật hình sự Việt Nam


6

CHƯƠNG 1
TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
“PHẠM TỘI NHƯNG CHƯA GÂY THIỆT HẠI”
1.1. Quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại”
1.1.1. Khái niệm, điều kiện áp dụng của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại”
a) Về khái niệm:
Quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây
thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” đã xuất hiện từ rất sớm kể từ khi BLHS đầu
tiên của nước ta ra đời năm 1985, sau đó lần lượt là BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung
năm 2009 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999) và cho đến BLHS năm 2015 sửa đổi
bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) chính thức có hiệu lực thì tình
tiết giảm nhẹ này vẫn được giữ nguyên là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự thuộc khoản 1 của Điều luật quy định về tình tiết giảm nhẹ cũng như là
nội dung của tình tiết hầu như khơng có sự thay đổi nào cho đến nay, được quy định
cụ thể tại điểm h, khoản 1, Điều 51 BLHS năm 2015. Khác với một số tình tiết giảm
nhẹ khác, tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại
không lớn” về bản chất chỉ là một tình tiết giảm nhẹ nhưng được chia thành hai mức
độ khác nhau, trong đó người phạm tội chỉ có thể được áp dụng đồng thời một trong
hai mức độ đó là “chưa gây thiệt hại” hoặc “gây thiệt hại khơng lớn” của tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này đối với tội phạm mà mình thực hiện.
Tuy nhiên, quy định về tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại

hoặc gây thiệt hại khơng lớn” đến nay nhìn chung vẫn cịn được nêu trong BLHS ở
dạng liệt kê mà chưa có một quy định cụ thể nào trong các Nghị quyết của Hội đồng
thẩm phán TAND tối cao cũng như các Thông tư liên tịch của liên ngành tư pháp
trung ương hướng dẫn về việc hiểu và áp dụng tình tiết này. Qua nghiên cứu, tìm hiểu
và khảo sát các văn bản mang tính hướng dẫn nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố
tụng trung ương thì “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” có thể được hiểu như sau:
- Theo Công văn số 994/VKSTC-V3 ngày 09/4/2012 của Vụ Thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử (Vụ 3) - VKSND tối cao về việc áp dụng tình tiết giảm
nhẹ trong BLHS thì “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” là nằm ngoài ý thức chủ
quan của người phạm tội và được hiểu là trường hợp: “hậu quả vật chất do hành vi
phạm tội chưa xảy ra trên thực tế như trộm cắp chưa lấy được tài sản, chưa dịch
chuyển ra khỏi nơi quản lý của chủ tài sản. Nếu đã dịch chuyển tài sản ra khỏi nơi
quản lý của chủ tài sản mà bị quần chúng phát hiện, đuổi theo và bị bắt quả tang hay


7

được cơ quan điều tra thu hồi trong quá trình điều tra thì khơng thuộc trường hợp
chưa gây thiệt hại”.
- Theo Sổ tay thẩm phán TAND tối cao thì “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại” được hiểu như sau: “Chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện,
nhưng thiệt hại khơng xảy ra ngồi ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cần phân
biệt với phạm tội chưa đạt (phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng
khơng thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của
người phạm tội)” 1.
- Qua nghiên cứu một số sách chuyên khảo, kết quả nghiên cứu của các
chuyên gia, nhà khoa học khác thì “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” được hiểu
theo những khái niệm sau đây:
+ Theo Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung của Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh thì phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại được hiểu là trường

hợp “phạm tội nhưng thiệt hại trên thực tế chưa xảy ra do nguyên nhân khách quan
nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội”2.
+ Bình luận về tình tiết “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại”, GS.TS. Nguyễn
Ngọc Hòa cho rằng chưa gây thiệt hại là trường hợp thiệt hại của tội phạm khơng
xảy ra có ngun nhân nằm ngồi ý muốn của người phạm tội3.
+ Theo tác giả Đinh Văn Quế, ngun thành viên Hội đồng thẩm phán, ngun
Chánh tịa Hình sự TAND tối cao thì: “Chưa gây thiệt hại là hậu quả vật chất do
hành vi phạm tội chưa xảy ra”, khái niệm này được tác giả minh họa bằng trong các
trường hợp sau: Giết người mà người đó khơng chết, trộm cắp nhưng chưa lấy được
tài sản, hiếp dâm nhưng chưa giao cấu được với người bị hại... 4
+ Theo TS. Trần Minh Hưởng (Học viện Cảnh sát nhân dân) thì: chưa gây
thiệt hại là trường hợp hậu quả của tội phạm chưa xảy ra và khi áp dụng tình tiết
này thì cần chú ý đến nguy cơ xảy ra hậu quả, tác hại của tội phạm ở mức độ nào,
nguyên nhân dẫn đến việc hậu quả chưa xảy ra là nguyên nhân chủ quan hay
nguyên nhân khách quan. 5
1

Trang thơng tin điện tử Tịa án nhân dân tối cao, Sổ tay Thẩm phán, “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn”, />ang=vn&m_action=2&p_itemid=647, truy cập ngày 09/01/2018.
2
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Trần
Thị Quang Vinh (Chủ biên), Nhà xuất bản Hồng Đức, Hội luật gia Việt Nam, tr. 324.
3
Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2017), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm
2017 (Phần chung), Nhà xuất bản Tư pháp, tr. 257-258.
4
Đinh Văn Quế (2017), Bình luận BLHS năm 2015, Phần thứ nhất: Những quy định chung, Nhà xuất bản
Thông tin và truyền thông, Hà Nội, tr. 247.
5
Tập thể tác giả Học viện Cảnh sát nhân dân do TS. Trần Minh Hưởng chủ biên (2009), Hệ thống pháp luật

hình sự Việt Nam, Bình luận khoa học BLHS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Tập 1), Nhà xuất bản Lao
Động, Hà Nội, tr. 124.


8

Như vậy, theo hướng dẫn của của từng cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung
ương cũng như quan điểm khoa học của các tác giả như trên ta có thể thấy được
mặc dù vẫn cịn có sự chưa thống nhất hoàn toàn với nhau về khái niệm “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” nhưng có một điểm chung nhất đó là đều xác định việc
“chưa gây thiệt hại” ln nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội. Chúng tơi
hồn tồn đồng ý với nhận định này bởi lẽ mục đích của tội phạm bao giờ cũng
nhằm để xâm hại một khách thể nào đó được pháp luật hình sự bảo vệ, với động cơ
phạm tội có thể là vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác nhưng lúc nào người phạm
tội cũng mong muốn gây ra một thiệt hại nhất định cho đối tượng mà tội phạm
nhắm tới, vì vậy việc thiệt hại khơng xảy ra là điều mà người phạm tội không mong
muốn, tức là “chưa gây thiệt hại” lúc nào cũng nằm ngoài ý thức chủ quan của
người phạm tội. Trừ các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý do tuy rằng người
phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng đối với các tội phạm vơ ý thì
khơng có giai đoạn phạm tội chưa đạt và đều đi kèm với việc gây ra một thiệt hại ở
mức độ nghiêm trọng hơn đối với các tội phạm cố ý thì mới cấu thành tội phạm.
Trong các quan điểm khoa học về tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây
thiệt hại” như trên nhận thấy về vấn đề xác định khái niệm “thiệt hại” được nói đến
trong tình tiết giảm nhẹ này vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Theo Từ điển Luật
học thì thiệt hại là “Tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân hoặc tài sản, danh dự, uy tín của
pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ”6. Đồng thời, theo quy định tại
khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 về định nghĩa tội phạm thì các thiệt hại mà tội phạm
xâm hại đến bao gồm: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự,

an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Như vậy tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi nó có thể gây ra những thiệt
hại khơng chỉ về mặt vật chất như tài sản, tính mạng, sức khỏe mà nó cịn có thể gây
ra những thiệt hại mang tính phi vật chất như: danh dự, nhân phẩm, uy tín; chế độ
quản lý Nhà nước về trật tự công cộng, kinh tế, chính trị, văn hóa... Do đó, chúng tơi
cho rằng khái niệm “thiệt hại” được nêu trong tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại” cần hiểu là bao gồm tất cả các thiệt hại vật chất, phi vật chất mà
người phạm tội gây ra chứ không chỉ giới hạn thiệt hại về mặt vật chất như một số
6

Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tư pháp và Nhà xuất bản Từ
điển Bách khoa, tr. 713.


9

quan điểm hiện nay. Ngoài ra cần lưu ý rằng, “thiệt hại” được xem xét trong tình tiết
giảm nhẹ này không chỉ bao gồm loại thiệt hại mà mà tội phạm nhắm tới, hay nói
cách khác khơng chỉ xem xét thiệt hại của khách thể chính đại diện cho tội phạm (ví
dụ: các tội thuộc Chương tội xâm phạm sở hữu) mà là phải đảm bảo xem xét đầy đủ
thiệt hại ở các khách thể khác cũng bị hành vi phạm tội xâm hại.
Vấn đề thứ hai cần làm rõ khi xây dựng khái niệm về tình tiết “Phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại” đó là xác định khái niệm như thế nào là “phạm tội”. Theo khoa
học pháp lý thì khái niệm “phạm tội” là việc một người thực thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội, có lỗi và được quy định là tội phạm trong luật hình sự (chưa nói đến
việc người đó có đủ năng lực trách nhiệm hình sự hay chưa, khác với khái niệm “Tội
phạm”). Như vậy, chỉ được xem là một người đang phạm tội chỉ khi người đó bắt đầu
thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của một tội nhất

định nào đó trong BLHS, việc hành vi phạm tội đó của họ có thực hiện được đến
cùng hay khơng (đạt hay chưa đạt) thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà
mình đã thực hiện nên khái niệm “phạm tội” trong tình tiết giảm nhẹ này được hiểu
bao gồm cả trường hợp phạm tội chưa đạt. Còn ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì
người chuẩn bị phạm tội vẫn chưa thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách
quan của cấu thành tội phạm mà mình định phạm nên tình tiết giảm nhẹ “phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” không bao gồm trường hợp chuẩn bị phạm tội.
Dựa trên sự phân tích và kế thừa những kết quả nghiên cứu như trên, chúng tơi
xin đưa ra khái niệm của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại” như sau:
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại là trường hợp người phạm tội đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong mặt khách quan của cấu
thành tội phạm, nhưng chưa gây ra thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất do
nguyên nhân nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội”.
b) Về điều kiện áp dụng:
Vấn đề điều kiện áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể các trường hợp
nào thì được người phạm tội được áp dụng cịn trường hợp nào thì không được áp
dụng, căn cứ vào quy định cụ thể của BLHS và nhận thức về khái niệm của tình tiết
giảm nhẹ này như đã nêu trên có thể rút ra một số điều kiện áp dụng đối với tình tiết
này như sau:
- Thứ nhất, chỉ áp dụng “chưa gây thiệt hại” khi người phạm tội đã thực hiện
hành vi được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm nhưng thiệt hại
chưa xảy ra trên thực tế, bao gồm trường hợp phạm tội chưa đạt.


10

- Thứ hai, “thiệt hại” được xác định khi xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ này
bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại phi vật chất. Thiệt hại này không nhất thiết

phải là khách thể trực tiếp mà tội phạm nhắm tới (động cơ, mục đích phạm tội) mà là
bất kỳ thiệt hại nào được luật hình sự bảo vệ nhưng bị hành vi phạm tội xâm phạm.
- Thứ ba, hành vi phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại của người phạm tội đối
với tội phạm nào thì được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội nhưng chưa gây
thiệt hại” đối với tội phạm đó.
- Thứ tư, việc thiệt hại chưa xảy ra luôn nằm ngoài ý thức chủ quan của người
phạm tội. Nếu việc chưa gây thiệt hại là nằm trong ý thức chủ quan của người phạm
tội là thuộc phạm vi áp dụng của tình tiết giảm nhẹ khác (ví dụ: người phạm tội đã
ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm).
- Thứ năm, tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” khơng
đồng thời là tình tiết tội hoặc tình tiết định khung nên việc áp dụng tình tiết này
khơng bị giới hạn bởi quy định tại khoản 3 Điều 51 BLHS năm 2015 (tình tiết giảm
nhẹ nào đã được áp dụng làm tình tiết định tội hoặc định khung thì khơng được tiếp
tục áp dụng là tình tiết giảm nhẹ nữa).
1.1.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại”
1.1.2.1. Vướng mắc liên quan đến xác định thiệt hại dựa trên dấu hiệu khách
thể của tội phạm
Mỗi tội phạm được quy định trong BLHS đều có những khách thể trực tiếp mà
tội phạm đó xâm hại, được phân chia thành từng Chương riêng biệt dựa theo khách
thể loại của từng nhóm tội phạm trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS. Thực
tiễn cho thấy hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất với nhau về việc
tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” liên quan đến mặt khách thể
bị xâm hại đối với một số loại tội phạm nhất định, thể hiện ở những vấn đề sau:
- Vấn đề vướng mắc đầu tiên đó là đối với một số tội phạm thuộc Chương các
tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của cơng dân, có khách thể là các quyền tự do
thân thể, bất khả xâm phạm về chổ ở, tự do tín ngưỡng, tơn giáo… được Hiến pháp
và pháp luật bảo vệ bị hành vi phạm tội xâm hại. Do đó đối với các tội này, thiệt hại
xảy ra cho người bị hại khi các quyền tự do cơ bản của họ đã bị hành vi phạm tội
làm cản trở, xâm hại (ví dụ như đã bị bắt, giữ trái pháp luật, đã bị xâm phạm chổ ở,

bị cản trở tự do tín ngưỡng), việc sau đó hành vi xâm hại các quyền này bị chấm dứt
thì cũng khơng thể xem như chưa gây thiệt hại được. Tuy nhiên vẫn còn một số
trường hợp nhận thức chưa đúng về loại tội phạm này dẫn đến áp dụng tình tiết


11

giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” cho người phạm tội khi mà đã có
thiệt hại xảy ra, cụ thể như nội dung vụ án sau:
Vụ án số 1: Vào tháng 8 năm 2017, Đoàn Lê Thanh V (sinh năm 1990) hẹn
Nguyễn Ngọc Thanh T (sinh ngày 15/8/2003) gặp nhau tại 1 chòi lá trong quán cà
phê tại huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để nói chuyện tình cảm do T
muốn chia tay với V. V níu kéo tình cảm của T khơng được nên nảy sinh ý định
khống chế T lại rồi chụp hình khỏa thân của T và dùng hình này để buộc T khơng
được chia tay với mình. Để thực hiện ý định, V dùng một sợi dây điện trói hai tay T
ra sau rồi bế T nằm lên bàn, V dùng tay vén áo và kéo quần của T xuống rồi dùng
điện thoại chụp lại hình T đang khỏa thân, sau khi chụp xong thì V cởi trói cho T đi
về. Đến đầu tháng 11 năm 2017, V nhắn tin cho T yêu cầu phải đưa số tiền
3.000.000 đồng nếu không sẽ cơng khai hình ảnh của T lên mạng xã hội, do bị V đe
dọa nên T sợ và đồng ý. Cho đến ngày 20/11/2017 thì T đến cơ quan Cơng an trình
báo, đến 15 giờ ngày 21/11/2017 khi V vừa nhận số tiền 3.000.000 đồng từ T tại
quán cà phê và đã bỏ vào túi thì bị bắt quả tang. Tại bản án số 18/2018/HSST ngày
10/4/2018 của TAND thành phố Bà Rịa đã tuyên xử V về hai tội là “Bắt người trái
pháp luật” và “Cưỡng đoạt tài sản”, trong phần đánh giá về các tình tiết giảm nhẹ,
HĐXX nhận định bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe,
tính mạng cho người bị hại nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là
BLHS năm 1999) khi quyết định hình phạt trong cả hai tội mà bị cáo đã thực hiện.7
Theo chúng tôi, trước hết đối với tội Bắt người trái pháp luật thì khách thể
xâm phạm khơng phải là quyền sở hữu tài sản mà quyền tự do thân thể của người bị

hại, do đó khi người phạm tội đã có hành vi xâm phạm đến quyền này thì dù thời
gian bắt người lâu hay mau thì cũng là đã gây thiệt hại, đồng thời xét hành vi của bị
cáo không đơn thuần chỉ là bắt người trái pháp luật mà lợi dụng q trình phạm tội
đó bị cáo cịn tiếp tục có hành vi xâm hại đến danh dự, nhân phẩm và quyền bất khả
xâm phạm về thân thể khi thực hiện việc cởi đồ và chụp ảnh khỏa thân của bị hại,
do đó khơng thể xem đây là trường hợp “chưa gây thiệt hại” được. Tiếp theo xét
đến hành vi cưỡng đoạt tài sản, xuất phát từ việc đã bắt bị hại khống chế lại để chụp
ảnh khỏa thân, bị cáo tiếp tục uy hiếp đến tinh thần người bị hại nhằm mục đích
chiếm đoạt tài sản và hành vi này đã khiến bị hại lo sợ và phải đồng ý với u cầu
của bị cáo nhưng vì khơng muốn chịu sự uy hiếp nữa nên bị hại tố cáo và bị cáo bị
bắt quả tang sau khi đã nhận tiền của bị hại. Như vậy, bị cáo đã chiếm đoạt được số
7

Trang thông tin điện tử Công bố bản án Tòa án nhân dân tối cao, />9t1cvn/chi-tiet-ban-an, (phụ lục số 1).


12

tiền 3.000.000 đồng mà bị hại đã bị buộc phải đưa cho bị cáo, mặc dù sau đó bị bắt
quả tang nên số tiền này được thu hồi trả lại cho bị hại nhưng cũng không thể xem
là chưa gây thiệt hại. Đồng thời khách thể của tội Cưỡng đoạt tài sản là ngồi quyền
sở hữu tài sản thì cịn xâm phạm về nhân thân của người bị hại, cụ thể để cưỡng
đoạt được tài sản thì người phạm tội phải thực hiện hành vi đe dọa, uy hiếp về mặt
tinh thần khiến người bị hại lo sợ buộc phải đưa tài sản, xét trong vụ án này V đã có
hành vi đe dọa sẽ cơng khai các hình ảnh xúc phạm đến danh dự nhân phẩm (các
hình ảnh này V có được do dùng vũ lực khống chế bị hại có được) của bị hại T là
trẻ em nên khơng thể nói rằng việc V chưa điếm đoạt được tài sản là chưa gây thiệt
hại được vì dù V chưa cơng khai hình ảnh khỏa thân của T thì bị bắt nhưng rõ ràng
tinh thần và sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của T đã bị hành vi của V làm
ảnh hưởng một cách tiêu cực. Do đó việc HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm

tội nhưng chưa gây thiệt hại” cho cả hai tội phạm mà V đã thực hiện theo chúng tôi
là chưa đúng và không phù hợp.
- Vấn đề vướng mắc thứ hai liên quan đến khách thể tội phạm đó là đối với tội
Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (thuộc Chương các
tội xâm phạm trật tự cơng cộng) thì cịn có nhiều quan điểm khác nhau về việc có
được áp dụng hay khơng áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại” đối với tội này. Chúng tôi cho rằng, đối với loại tội phạm này mặc dù có liên
quan đến các tội phạm xâm phạm sở hữu (chứa chấp, tiêu thụ tài sản do tội phạm sở
hữu chiếm đoạt mà có) nhưng khách thể trực tiếp của nó khơng phải là quyền sở
hữu tài sản mà là trật tự an tồn cơng cộng, đồng thời gây khó khăn cho việc phát
hiện, điều tra, xử lý và góp phần tạo điều kiện, làm gia tăng tình hình tội phạm xâm
phạm quyền sở hữu tài sản. Thể hiện ở việc tài sản một khi đã được chứa chấp, tiêu
thụ thì sẽ gây khó khăn cho việc phát hiện tội phạm cũng như thu hồi lại được tài
sản phạm pháp, đồng thời nó cịn khuyến khích người phạm tội chiếm đoạt tài sản
thì n tâm khi có nguồn tiêu thụ tài sản do mình phạm tội mà có để tiếp tục thực
hiện hành vi phạm tội. Do đó quan điểm của chúng tôi là đối với tội Chứa chấp, tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì về bản chất khi người phạm tội thực
hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản thì đã gây ra thiệt hại cho khách thể của
tội phạm đó là làm cho trật tự công cộng tại địa phương bị xâm hại, góp phần gây
khó khăn cho việc phát hiện tội phạm khác nên không thể xem là “chưa gây thiệt
hại”, trừ một số trường hợp người phạm tội chưa chứa chấp, hoặc có chưa có hành
vi tiêu thụ số tài sản do phạm tội mà có (ví dụ như A trộm được xe rồi điện thoại
cho B biết và đề nghị B mua lại thì B đồng ý và đến nhà A để xem xe thì bị bắt quả
tang, B vẫn chưa trả tiền và chưa đem xe đi). Tuy nhiên thực tiễn vẫn có trường hợp


13

người phạm tội này ở giai đoạn hoàn thành vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” thể hiện ở nội dung vụ án sau:

Vụ án số 2: Vào khoảng 11 giờ ngày 23/03/2015, Danh Hoàng Em cùng với
Nguyễn Tuấn Kiệt cùng nhau đột nhập vào bên trong nhà của bà Lợi Tố Quyên ở
huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng và lấy trộm được số tài sản của bà Quyên gồm:
tiền Việt Nam là 25.000.000 đồng cùng một số trang sức như: nhẫn kim cương,
vòng đeo tay, nhẫn, dây chuyền bằng vàng trắng với tổng giá trị theo định giá là
71.958.400 đồng, trong đó Kiệt được chia 12.500.000 đồng cịn lại thì Hồng Em
cất giữ. Đến tối cùng ngày Hoàng Em đi uống cà phê thì gặp bạn là Liêu Cường,
Cường nhìn thấy Hồng Em có nhiều tiền nên hỏi thì Hồng Em nói là trộm cắp
được nên Cường nảy sinh ý định muốn lấy số tài sản này nên đến khoảng 00 giờ
ngày 24/03/2018 thì Cường đến tìm và nói với Hồng Em là Cơng an đang đi tìm
nên kêu Em đưa số tài sản trộm cắp để Cường cất giấu giùm thì Hồng Em đưa cho
Cường 3.000.000 đồng tiền cịn lại sau khi tiêu xài và toàn bộ số trang sức trộm cắp
được cho Cường đem về nhà cất giữ, sau đó Cường đưa tiền và vàng cho mẹ là bà
Sơn Thị Yến cất giữ, còn 01 vòng đeo tay bằng vàng trắng trọng lượng 4,2 chỉ thì
Cường đem cho bà Kim Thị Khiêm. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra xác định
được Em và Kiệt là người trộm cắp tài sản và Cường là người chứa chấp, tiêu thụ
tài sản nên đã tiến hành thu hồi lại số tài sản mà Cường đã nhận từ Hoàng Em, riêng
số tiền 18.300.000 đồng thì Kiệt và Em đã tiêu xài hết nên không thu hồi được. Tại
bản án số 02/2016/HSST ngày 26/01/2016 của TAND huyện Châu Thành đã tuyên
bố bị cáo Liêu Cường phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và
nhận định hành vi của bị cáo Cường là chưa gây thiệt hại nên áp dụng tình tiết giảm
nhẹ tại điểm g, khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 cho bị cáo, hình phạt mà bị cáo
phải chịu là 02 năm tù. Trong vụ án này chúng tơi cho rằng việc chỉ xem xét về mặt
tồn bộ tài sản mà bị cáo đã chứa chấp, tiêu thụ đã được thu hồi trả lại cho bị hại để
nhận định thuộc trường hợp chưa gây thiệt hại là chưa đúng. Bởi vì mặc dù tài sản
mà bị cáo Cường đã nhận từ Hoàng Em đã được thu hồi trả lại cho bị hại nhưng như
đã phân tích ở trên, do khách thể xâm phạm của tội này không phải là quyền sở hữu
tài sản nên khi bị cáo Cường đã đem số tài sản do phạm tội mà có về để chứa chấp
và tiêu thụ, tức là đã chuyển dịch tài sản phạm tội mà có từ người phạm tội sang cho
bị cáo cất giấu, tiêu thụ thì hậu quả thiệt hại mà bị cáo đã gây ra cho qui định quản

lý của Nhà nước về trật tự cộng cộng tại địa phương là đã xảy ra8.
- Vướng mắc thứ ba liên quan đến khách thể tội phạm đó là đối với một số tội
thuộc Chương các tội xâm phạm về trật tự quản lý kinh tế, có khách thể xâm phạm
8

Bản án số 02/2016/HSST ngày 26/01/2016 của TAND huyện Châu Thành, tr. 7 (phụ lục số 2).


14

là trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể, đồng thời trong
đó hành vi phạm tội cịn có thể xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức cá
nhân khác tương ứng với từng tội phạm cụ thể thì thực tiễn việc áp dụng tình tiết
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” cũng cịn chưa chính xác. Thể hiện ở việc các
cơ quan tiến hành tố tụng thường chỉ chú trọng đánh giá đến việc hành vi phạm tội
chưa gây ra thiệt hại cho những khách thể mà thiệt hại có thể dễ dàng nhận biết và
đo đếm được (ví dụ như giá trị tài sản, mức độ thiệt hại về kinh tế cho cá nhân,
doanh nghiệp...) còn các thiệt hại khó có thể đong đếm và thể hiện cụ thể như chính
sách quản lý của Nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, chính sách tiền tệ hoặc ảnh
hưởng của hành vi phạm tội đến sự ổn định của môi trường kinh doanh... thì lại
khơng xem xét đến, trong khi các khách thể này đóng vai trị vơ cùng quan trọng và
là sự thể hiện rõ nhất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Chúng tôi xin
đưa ra một số vụ án thực tiễn như sau:
Vụ án số 3: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 28/02/2017, Vũ Thị H đến khu vực
chân cầu Long Biên, thành phố Hà Nội thì gặp 01 người đàn ơng tự giới thiệu với H
là có bán tiền giả loại mệnh giá 500.000 đồng với giá bán mỗi tờ là 250.000 đồng
(tiền thật) thì H dùng 500.000 đồng tiền thật của mình để mua 02 tờ tiền mệnh giá
500.000 đồng giả. Sau đó đến khoảng 9 giờ ngày 01/03/2017 thì H điều khiển xe
mang theo 02 tờ tiền giả đến tiệm tạp hóa của bà Nguyễn Thị Chúc ở quận Long
Biên để mua 01 số đồ dùng cá nhân với số tiền là 90.000 đồng, lúc trả tiền thì H đưa

cho bà Chúc tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng giả đã mua trước đó, bà Chúc sau khi
nhận tiền kiểm tra thì phát hiện là tiền giả nên đã tri hơ cho mọi người xung quanh
giữ H lại và trình báo Công an. Tại bản án số 181/2017/HSST ngày 29/8/2017 của
TAND Quận Nam Từ Liêm, Hội đồng xét xử nhận định hành vi của Vũ Thị H do bị
bắt quả tang nên chưa gây thiệt hại nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm
g khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 cho bị cáo.9
Theo chúng tôi, đối với tội Lưu hành tiền giả thì có khách thể xâm phạm là
quy định của Nhà nước về phát hành và lưu hành tiền tệ, gây mất ổn định xã hội và
lợi ích của người dân do tác hại của tiền giả, do đó trong trường hợp này ta thấy
hành vi của H mua tiền giả của người khác với mục đích hưởng lợi từ việc sử dụng
là đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về lưu hành tiền tệ, đồng thời hành vi
mua tiền giả đã góp phần giúp cho tội phạm sản xuất, lưu hành tiền giả tiêu thụ và
đưa thêm được tiền giả ra thị trường đã gây thiệt hại đến sự ổn định xã hội, gây
hoang mang cho quần chúng nhân dân đối với việc đã có tiền giả xâm nhập thị
9

Trang thơng tin điện tử Cơng bố bản án Tịa án nhân dân tối cao, />t1cvn/chi-tiet-ban-an, (phụ lục số 3).


15

trường nên mặc dù H bị người dân phát hiện khi đang cố tiêu thụ tiền giả chưa gây
thiệt hại cho người bán hàng là bà Chúc nhưng không thể xem là trường hợp “chưa
gây thiệt hại” nếu xét toàn diện về khách thể mà tội phạm này xâm hại.
Vụ án số 4: Do biết Nguyễn Hữu A có máy móc và nhà xưởng nên từ tháng
03 năm 2016, Tơ Ngọc Hồng V thuê A tiến hành in nhãn hiệu nhựa Bình Minh giả
lên các ống nhựa do V cung cấp thì V sẽ trả tiền cơng cho A theo sản phẩm, mỗi khi
A in xong thì V thuê xe ô tô chở đến giao ở các cửa hàng bán lẻ ở nhiều nơi theo đặt
hàng của một người tên T (T biết rõ hàng là giả). Việc sản xuất ống nhựa giả thì
khơng có lập sổ sách lưu lại nhưng A khai nhận cho đến khi bị bắt vào ngày

06/7/2016 thì đã sản xuất được từ 10.000 đến 15.000 sản phẩm ống nhựa giả. Căn
cứ theo lời khai của V, Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra và thu giữ tại cơng ty
S ở Hóc mơn 1.193 sản phẩm, công ty H ở quận 12 200 sản phẩm, cơng ty H ở Hóc
Mơn 130 sản phẩm ống nhựa giả. Tổng cộng số lượng hàng giả thu giữ được là
1.876 sản phẩm, có giá trị tương đương với hàng thật theo kết quả định giá là
389.383.280 đồng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định mặc dù các bị cáo khai
nhận đã sản xuất khoảng 10.000 đến 15.000 sản phẩm ống nhựa giả và các công ty
S, H cũng xác nhận đã mua số sản phẩm ống nhựa của T do V giao đến và đã bán ra
thị trường một số sản phẩm nhưng Cơ quan điều tra không thu giữ được số hàng
này do các công ty đã bán cho các khách hàng vãng lai không xác định là ai mua và
số lượng bao nhiêu, vì vậy khơng có cơ sở quy buộc các bị cáo về hàng đã bán ra
này mà chỉ căn cứ trên giá trị số hàng ống nhựa giả đã thu giữ chưa bán ra thị
trường để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Do số sản phẩm ống
nhựa này chưa được bán ra thị trường, chưa gây thiệt hại cho người tiêu dùng nên
tại bản án sơ thẩm số 175/2017/HSST ngày 22/5/2017 của TAND thành phố Hồ Chí
Minh và bản án phúc thẩm số 628/2017/HS-PT ngày 29/11/2017 của TAND cấp
cao tại thành phố Hồ Chí Minh đều áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm g khoản 1
Điều 46 BLHS năm 1999 đối với các bị cáo10.
Theo chúng tôi, trong vụ án này các bị cáo đã phạm vào tội Sản xuất, bn
bán hàng giả có khách thể xâm phạm là quy định của Nhà nước về sản xuất kinh
doanh hàng hóa, gây mất ổn định thị trường và xâm hại lợi ích của nhà sản xuất và
người tiêu dùng. Do đó hành vi của các bị cáo trong vụ án này không thể chỉ căn cứ
vào việc số hàng giả này có gây thiệt hại cho người tiêu dùng khơng mà cịn phải
xem xét đến các khách thể khác bao gồm quy định Nhà nước hoạt động sản xuất
kinh doanh hàng hóa và sự ổn định của thị trường, thể hiện ở việc 1.523 sản phẩm
10

Trang thơng tin điện tử Cơng bố bản án Tịa án nhân dân tối cao, />6t1cvn/chi-tiet-ban-an, (phụ lục số 4).



16

ống nhựa mà các bị cáo làm giả đã được đưa đến các công ty bán lẻ, tức là đã đưa ra
thị trường, mặc dù chưa tiêu thụ nhưng việc các sản phẩm ống nhựa giả trà trộn
trong các sản phẩm ống nhựa thật được bày bán không chỉ gây thiệt hại về doanh
thu cho cơng ty nhựa Bình Minh do số lượng sản phẩm thật bị các sản phẩm giả
cạnh tranh mà còn tạo ra tâm lý hoang mang cho người tiêu dùng trong việc lựa
chọn các sản phẩm ống nhựa, gây mất ổn định thị trường và một lần nữa ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng tiêu thụ các sản phẩm ống nhựa thật. Mặt khác tuy nói
rằng các sản phẩm ống nhựa thu giữ chưa đưa ra thị trường tiêu thụ nhưng thực tế
theo lời khai của các bị cáo và phía các cơng ty bán lẻ thì việc những sản phẩm giả
này đã đến tay người tiêu dùng là có thật, tuy rằng khơng thể buộc tội các bị cáo với
số hàng này do không chứng minh được số lượng cụ thể nhưng việc xem đây là
trường hợp “chưa gây thiệt hại” rõ ràng là chưa thỏa đáng.
1.1.2.2. Vướng mắc khi áp dụng đối với các tội phạm có cấu thành hình thức
và tội phạm thực hiện ở giai đoạn phạm tội chưa đạt
- Theo khoa học pháp lý hình sự, căn cứ vào mặt khách quan thì cấu thành tội
phạm được chia thành hai loại đó là tội phạm có cấu thành vật chất và tội phạm có
cấu thành hình thức. Trong đó tội phạm tội phạm có cấu thành hình thức là loại tội
phạm mà trong dấu hiệu về mặt khách quan của nó chỉ cần người phạm tội thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì tội phạm đã hồn thành khơng nhất thiết phải
có hậu quả xảy ra (ví dụ như tội Hiếp dâm, tội Cướp tài sản...), việc có hậu quả hay
chưa chỉ là căn cứ để xem xét việc áp dụng tình tiết định khung tăng nặng hoặc làm
căn cứ quyết định hình phạt nặng hay nhẹ hơn cho người phạm tội. Điều này có
nghĩa là ngay cả đối với những tội phạm có cấu thành hình thức thì việc hành vi
phạm tội của họ chưa gây ra thiệt hại thì vẫn có ý nghĩa làm giảm tính nguy hiểm
của hành vi phạm tội nên cần phải xem xét để áp dụng tình tiết giảm nhẹ tương ứng
chứ khơng thể vì cấu thành tội phạm khơng địi hỏi phải có hậu quả nên việc họ
chưa gây thiệt hại khơng được xem là trường hợp được giảm nhẹ. Tuy nhiên thực
tiễn cho thấy vẫn cịn có một số vụ án mà việc nhận định áp dụng hay khơng áp

dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” cịn dựa trên quan
điểm cho rằng tội phạm có cấu thành hình thức thì đương nhiên khơng được áp
dụng tình tiết giảm nhẹ này, đơn cử như vụ án sau:
Vụ án số 5: Khoảng 20 giờ ngày 23/12/2016, sau khi ăn cơm và uống rượu
xong thì Trần Văn T sinh năm 1967 điều khiển xe mô tô biển số 18S4-5712 đi từ
nhà đi ra đầm tôm để cho mèo ăn. Khi đi đến đầu ngõ thì T nhìn thấy có 4 cháu nhỏ
là con của các nhà hàng xóm đang chơi ở đây thì T rủ cháu Đặng Thị N, sinh ngày
03/06/2010 cùng đi. Sau khi đến đầm tôm và cho mèo ăn xong thì T nảy sinh ý định


17

giao cấu với N nên T kêu N vào trong nhà dùng để coi đầm ngồi thì N đi vào và
ngồi lên chiếu trải sẵn trong nhà, lúc này T dùng 2 tay cởi quần của N ra để xuống
chiếu sau đó tự cởi quần của mình và dùng tay ôm hông kéo N ngồi vào lòng T rồi
dùng tay mở 2 chân của N ra 2 bên, dùng dương vật đang cương cứng của mình ấn
vào âm hộ của N 2-3 lần, mỗi lần đưa vào khoảng 1,5 đến 2cm thì N kêu đau và
cùng lúc này có điện thoại của chị vợ của T gọi điện đến hỏi T chở N đi đâu thì chở
về do mẹ N đang đi tìm thì T dừng lại và chở N về nhà, sau đó hành vi của T bị phát
hiện. Theo Giấy chứng nhận thương tích số 229/CN ngày 25/12/2016 của Bệnh viện
phụ sản tỉnh Nam Định kết luận: âm hộ tầng sinh môn không xây xước, không chảy
máu, không bầm tím; lỗ màng trinh trịn đều, khơng rách, khơng xây xước, không
chảy máu. Tại Bản án số 52/2017/HSST ngày 19/6/2017 của TAND tỉnh Nam Định
đã tuyên bố T phạm tội Hiếp dâm trẻ em theo quy định tại khoản 4 Điều 112 BLHS.
Trong phần nhận định của bản án có nêu đối với đề nghị của Luật sư bào chữa là áp
dụng thêm tình tiết giảm nhẹ: “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại
không lớn” cho bị cáo thì Hội đồng xét xử khơng chấp nhận do: “tội Hiếp dâm trẻ
em là tội có cấu thành hình thức, chỉ cần bị cáo thực hiện hành vi giao cấu đối với
người bị hại là tội phạm đã hồn thành mà khơng địi hỏi hậu quả thiệt hại phải xảy
ra” 11. Theo chúng tơi thì trong trường hợp này Hội đồng xét xử khơng áp dụng tình

tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” là hồn tồn chính xác và phù
hợp bởi lẽ thực tế T đã thực hiện hành vi xâm hại tình dục đối với N (đưa dương vật
vào âm hộ từ 2-3 lần, mỗi lần vào từ 1,5 cm đến 2cm), không nhất thiết T có được
thỏa mãn về sinh lý hay chưa thì cũng đã gây tổn thương về thể chất (dù là nhẹ) đến
bộ phận sinh dục của bị hại và gây tổn tại về tinh thần ảnh hưởng đến sự phát triển
tâm sinh lý bình thường của em N khi em mới 6 tuổi 6 tháng 20 ngày. Tuy nhiên về
căn cứ để khơng áp dụng tình tiết giảm nhẹ thì Hội đồng xét xử khơng đánh giá dựa
trên mức độ thiệt hại mà hành vi phạm tội đã gây ra mà căn cứ vào loại cấu thành
tội phạm của tội hiếp dâm trẻ em là tội phạm hình thức nên không áp dụng là chưa
thuyết phục bởi lẽ đối với tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” có
phạm vi áp dụng khơng chỉ đối với các tội phạm có cấu thành vật chất mà cịn ở cả
các tội phạm có cấu thành hình thức như đã phân tích ở trên.
- Một vấn đề vướng mắc khác là đối với các trường hợp phạm tội ở giai đoạn
chưa đạt (đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng khơng thực hiện được đến cùng vì
những ngun nhân nằm ngoài mong muốn chủ quan của người phạm tội), có quan
điểm cho rằng vì mục đích phạm tội của người phạm tội chưa đạt được, hậu quả
11

Trang thông tin điện tử Cơng bố bản án Tịa án nhân dân tối cao, />05t1cvn/chi-tiet-ban-an, (phụ lục số 5).


18

thiệt hại chưa xảy ra nên có thể xem là trường hợp “chưa gây thiệt hại” khi người
phạm tội chỉ thực hiện được tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên
chúng tơi chưa đồng ý hồn tồn đối với quan điểm này bởi lẽ đúng là trong nhiều
trường hợp phạm tội chưa đạt không gây ra bất kỳ thiệt hại nào cho người bị hại (ví
dụ như trộm cắp nhưng chưa dịch chuyển tài sản ra khỏi nơi quản lý của chủ tài sản;
cướp tài sản chưa được tài sản và cũng không gây thiệt hại nào khác về tính mạng,
sức khỏe, tinh thần người bị hại). Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp tuy phạm tội

chưa đạt nhưng lại gây ra thiệt hại không nhỏ đến các khách thể định xâm phạm
hoặc khách thể khác mà nhận thấy nếu như áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” theo quan điểm trên là không phù hợp. Chúng tôi xin nêu
lên một số vụ án như sau:
Vụ án số 6: Vào khoảng 23 giờ ngày 02/10/2017, Lò Văn P (sinh năm 1996)
sau khi đi ra thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu chơi, trên đường về
thì gặp Lị Thị S (sinh năm 2002, qua giám định tại thời điểm xảy ra sự việc có độ
tuổi từ 15 năm đến 15 năm 6 tháng) là người quen và trú cùng Bản với P nên ghé lại
nói chuyện, một lúc sau thì S nhờ P chở về nhà dùm thì P đồng ý. Trên đường về P
nảy sinh ý định giao cấu với S nên P không chở S về mà đi lên đồi chè vắng người ở
gần đó. Thấy P khơng chịu chở mình về nên S xuống xe đi bộ trở về phía đường
Quốc lộ thì P chạy lại ơm S và dùng vũ lực đè S xuống nền đường và nằm đè lên S
rồi bắt đầu hôn vào má của S thì bị S cắn vào vai. Do bị S cắn nên P cũng cắn 02 cái
vào má của S để S đau không cắn P nữa, lúc này S la lên “Cứu tơi với” thì P dùng
tay bịt miệng của S lại. Nghe tiếng kêu cứu nên có các anh Đoàn Hồng C, Nguyễn
Văn H và Nguyễn Văn Q chạy đến thấy sự việc nên đã giữ P lại và báo Công an.
Tại bản án sơ thẩm số 06/2017/HSST ngày 27/11/2017 của Toà án nhân dân huyện
Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội thành
khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại được bị hại xin giảm nhẹ
hình phạt nên đã áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999 tuyên phạt bị cáo P 03 năm tù
về tội Hiếp dâm trẻ em. 12
Trong vụ án này, chúng ta thấy rằng P đã có hành vi sử dụng vũ lực để nhằm
buộc bị hại S giao cấu trái với ý muốn của mình nhưng mục đích giao cấu của P
chưa đạt được và bị hại S cũng chưa bị xâm hại về tình dục thì như vậy có thể xem
là trường hợp “chưa gây thiệt hại” trong loại tội phạm này được không? Theo chúng
tôi, để làm rõ vấn đề này thì cần xem xét đến yếu tố khách thể của tội phạm, tội
Hiếp dâm trẻ em có khách thể bị xâm phạm là quyền được bảo vệ thân thể (tính
12

Trang thơng tin điện tử Cơng bố bản án Tòa án nhân dân tối cao, />2t1cvn/chi-tiet-ban-an, (phụ lục số 6).



19

mạng, sức khoẻ, tình dục), nhân phẩm, danh dự của trẻ em, gây ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của trẻ em, đồng thời nó cịn làm ảnh
hưởng xấu đến trật tự an tồn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục.
Đối chiếu lại với trường hợp vụ án trên, chúng tơi cho rằng khơng thể nói vì bị hại
chưa bị xâm hại tình dục nên hành vi phạm tội của bị cáo là “chưa gây thiệt hại”
được vì đối với loại tội phạm này, một loại thiệt hại khác không kém phần quan
trọng đó là sự ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý người bị hại, nhất là bị hại lại là trẻ
em, từ sự hoảng sợ do bị tấn cơng tình dục một cách quyết liệt như hành vi của bị
cáo và chỉ dừng lại khi bị người khác phát hiện như trên tất yếu sẽ khiến cho bị hại
là trẻ em bị chấn thương tâm lý khó chữa lành, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển tâm sinh lý sau này, nên việc khơng áp dụng tình tiết “Phạm tội nhưng chưa
gây thiệt hại” của HĐXX trong vụ án này là chính xác và phù hợp.
Vụ án số 7: Lù Văn N là người khơng có nghề nghiệp ổn định, do muốn có
tiền tiêu xài nên N nảy sinh ý định cướp tài sản của người khác, do đó vào khoảng 0
giờ ngày 09/4/2018 N đi bộ từ nhà ra các tuyến đường của thành phố Sơn La để tìm
người cướp tài sản. Khi N nhìn thấy anh Vì Văn B đang đứng nói chuyện điện thoại
ngồi đường thì N nhặt một viên gạch loại gạch lát vỉa hè (kích thước 20x5cm) đi
đến gần chỗ anh B và la lớn “mày đưa điện thoại đây không tao ném”. Anh B quay
lại thì thấy N cầm viên gạch trên tay nên anh B nhét điện thoại hiệu Nokia 1280
(theo kết quả định giá là 120.000 đồng) vào túi quần rồi tri hơ lên “Cướp cướp” thì
N ném viên gạch về hướng anh B nhưng không trúng rồi bỏ chạy, anh B đuổi theo
bắt được N cùng với Công an thành phố Sơn La tiến hành lập biên bản phạm tội quả
tang với N. Tại bản án số 111/2017/HSST ngày 07/8/2017 của TAND thành phố
Sơn La đã tuyên phạt bị cáo N 07 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản, tuy nhiên khi
nhận định về các tình tiết giảm nhẹ thì HĐXX chỉ áp dụng cho bị cáo được hưởng
01 tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo”13.

Theo chúng tơi, trong trường hợp này N đã có hành vi đe dọa sử dụng vũ lực
với anh B nhưng khơng làm cho anh B lâm vào tình trạng khơng thể chống cự mà
trái lại anh B cịn là người bắt quả tang bị cáo khiến bị cáo không chiếm đoạt được
tài sản nên hành vi của N là phạm tội chưa đạt (nhưng đã hoàn thành về mặt hành
vi). Xét các thiệt hại khác về nhân thân của bị hại thì rõ ràng là anh B khơng bị N
gây thương tích, anh B cũng khơng hoảng sợ vì hành vi đe dọa của bị cáo mà còn
truy đuổi bắt bị cáo sau đó cho thấy hành vi phạm tội của B cũng chưa gây ra các
thiệt hại về sức khỏe, tinh thần cho người bị hại, do đó quan điểm của chúng tôi là
13

Trang thông tin điện tử Cơng bố bản án Tịa án nhân dân tối cao, />1t1cvn/chi-tiet-ban-an, (phụ lục số 7).


20

cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” cho bị cáo
để giảm nhẹ hình phạt tương xứng hơn là cần thiết và phù hợp.
1.1.2.3. Vướng mắc trong việc áp dụng đối với các trường hợp thiệt hại về tài
sản được khắc phục, thu hồi trả lại cho bị hại
Theo hướng dẫn tại Công văn 994/VKSTC-V3 ngày 09/4/2012 của Vụ 3
VKSND tối cao thì “chưa gây thiệt hại” là trường hợp hậu quả chưa xảy ra trên thực
tế, trong đó đối với các tội xâm phạm sở hữu, ví dụ như tội Trộm cắp tài sản thì
chưa gây thiệt hại là trường hợp tài sản chưa dịch chuyển ra khỏi nơi quản lý của
chủ tài sản, nếu đã dịch chuyển tài sản ra khỏi nơi quản lý của chủ tài sản mà bị
quần chúng phát hiện, đuổi theo và bị bắt quả tang hay được Cơ quan điều tra thu
hồi trong quá trình điều tra thì khơng thuộc trường hợp chưa gây thiệt hại. Chúng
tôi đồng ý với quan điểm của Vụ 3 Viện kiểm sát tối cao là các trường hợp trên
không thể xem là chưa gây thiệt hại được, bởi lẽ khi người phạm tội đã chiếm đoạt
được tài sản, tức là đã đưa tài sản ra khỏi sự quản lý của chủ tài sản (ví dụ: lấy ví
tiền ra khỏi túi quần, giật được điện thoại khỏi tay của người chủ sở hữu) thì cho dù

sau đó tài sản này được trả lại cho chủ sở hữu bởi các nguyên nhân khác nhau,
khơng phân biệt là ngay sau đó hoặc một thời gian thì tài sản mới được thu hồi trả
lại (truy đuổi bắt quả tang hoặc thu hồi trong quá trình điều tra) thì quyền sở hữu về
tài sản của họ đối với tài sản đó cũng đã bị xâm hại, việc tài sản được thu hồi trả lại
chỉ phản ánh sự khôi phục lại đối với thiệt hại về quyền sở hữu tài sản xâm hại chứ
không thể xem như là chưa từng xảy ra thiệt hại được. Tuy nhiên hiện nay ở nhiều
địa phương vẫn cịn có quan điểm chưa thống nhất với nhau đối với trường hợp này,
chúng tôi xin đưa ra một số vụ án thực tế như sau:
Vụ án số 8: Đặng H là người nghiện ma túy và đang chấp hành việc cai
nghiện ma túy bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.
Ngày 22/9/2017 H được các cán bộ Trung tâm đưa đi khám bệnh và sau đó đưa về
thăm gia đình ở thành phố Vĩnh Long. Sau khi thăm nhà thì H có ý định bỏ trốn nên
cất giấu 01 cây kéo trong người rồi nhân lúc các cán bộ Trung tâm khơng để ý thì H
bỏ chạy ra đường. Được một đoạn thì H nhìn thấy ơng Nguyễn Đ là người chạy xe
ôm đang đậu xe trên vỉa hè thì H đến dùng kéo đe dọa đâm ông H làm ông H sợ nên
bước xuống xe lùi về sau, H leo lên xe mô tô biển số 64B-282.08 (trị giá 9.000.000
đồng) của ông Đ nổ máy và chạy về hướng huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long tìm bạn
để xin tiền, sau đó H bỏ xe lại tại một quán cà phê và đi bộ quay về thành phố Vĩnh
Long thì bị lực lượng Cơng an phát hiện bắt giữ. Tại bản án số 05/2018/HS-ST ngày
12/01/2018 của TAND thành phố Vĩnh Long, Hội đồng xét xử nhận định do tài sản
đã được thu hồi trả lại cho bị hại xong nên không gây thiệt hại về tài sản do đó cho


×