Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nâng cao tính tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ KIM THOA

NÂNG CAO TÍNH TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA
HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2007-2011

GVHD: TS. NGUYỄN DUY HƢNG

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2011


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian làm khóa luận vừa qua em gặp rất
nhiều khó khăn trong các vấn đề tình kiếm và xử lý tài liệu.
Tuy nhiên, được sự hổ trợ tận tình của thầy cơ, bạn bè và
người thân em đã hồn thành tốt được bài khóa luận tốt
nghiệp của mình. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến tất
cả các thầy cơ giảng viên khoa Luật hình sự Trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho em hồn
thành tốt khóa luận của mình và đặt biệt cảm ơn TS.
Nguyễn Duy Hưng tuy không cịn cơng tác giảng dạy ở
trường và rất bận trong cơng việc nhưng vẫn nhiệt tình hổ
trợ và giúp đở để em có thể hồn thành tốt khóa luận của
mình. Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả
bạn bè và người thân đã động viên, giúp đở em trong thời
gian vừa qua.




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTHS

: Tố tụng hình sự

PTHS

: Phiên tịa hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

VKS

: Viện kiểm sát

KSV

: Kiểm sát viên



MỤC LỤC
Trang
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ ...................................................................... 01
1.1

Khái qt về phiên tịa hình sự ................................................................ 01

1.1.1

Khái niệm phiên tịa hình sự ...................................................................... 01

1.1.1.1 Phiên tịa hình sự sơ thẩm .......................................................................... 03
1.1.1.2 Phiên tịa hình sự phúc thẩm ..................................................................... 05
1.1.2

Đặc điểm, nhiệm vụ và ý nghĩa của phiên tịa hình sự ............................. 06

1.2

Khái quát về tranh tụng ............................................................................ 09

1.2.1

Khái niệm ................................................................................................... 09

1.2.2


Cơ sở của tranh tụng ................................................................................ 16

1.2.3

Chủ thể của quá trình tranh tụng .............................................................. 18

1.2.4

Những đảm bảo cho sự tranh tụng ............................................................ 27

1.3

Nội dung của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa ................................... 31

1.3.1

Nội dung của hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ......... 32

1.3.2

Nội dung của hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự phúc
thẩm ............................................................................................................. 33

1.4

Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các mơ hình tố tụng tiêu
biểu trên thế giới ........................................................................................ 34

1.4.1


Tranh tụng trong tố tụng hình sự theo mơ hình Tố tụng tranh
tụng .............................................................................................................. 35

1.4.2

Tranh tụng trong tố tụng hình sự theo mơ hình Tố tụng hỗn hợp .......... 38

CHƢƠNG II. CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRANH TỤNG CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, THỰC TIỄN TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN
TỊA HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP ............................ 42
2.1

Các quy định về Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực
tiễn tranh tụng tại phiên tịa hình sự ........................................................ 42


2.1.1

Tranh tụng trong Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam ........................... 42

2.1.1.1 Các quy định về tranh tụng trong các giai đoạn tiền xét xử .................... 42
2.1.1.2 Các quy định về tranh tụng trong giai đoạn xét xử ................................... 48
2.1.2

Thực tiễn hoạt động tranh tụng ở phiên tịa hình sự ................................ 54

2.2


Cải cách tƣ pháp ở Việt Nam và kiến nghị giải pháp nâng cao
tính tranh tụng tại phiên tịa hình sự ....................................................... 62

2.2.1

Cải cách tư pháp ở Việt Nam ..................................................................... 62

2.2.1.1 Công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam .................................................... 62
2.2.1.2 Nội dung cải cách về tranh tụng ................................................................ 65
2.2.2

Một số kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao tính tranh tụng tại
phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp ................................... 67

2.2.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ................................................................. 68
2.2.2.2 Giải pháp về tổ chức ................................................................................... 72
2.2.2.3 Giải pháp về nhân lực ................................................................................. 73


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới và phát triển. Q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế
giới đang diễn ra rất mạnh mẽ và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thì tình hình tội phạm ngày càng trở nên phức tạp, thủ
đoạn ngày càng tinh vi, cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều loại tội phạm mới và
nguy hiểm như tội phạm trong các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, cơng nghệ thơng
tin... Trước tình hình tội phạm ngày càng trở nên phức tạp, cùng với sự nỗ lực của toàn
xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong cơng tác tư pháp nên đã
góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh - chính trị, trật tự, an tồn xã hội. Tuy

nhiên, chất lượng cơng tác tư pháp nói chung và cơng tác xét xử nói riêng cịn chưa ngang
tầm với u cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, cịn bộc lộ nhiều yếu kém,
bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của xã hội và cơng dân. Những yếu kém đó đã gây ra những thiệt hại rất
nặng nề cho những người bị kết án oan và cho tồn xã hội, làm mất lịng tin của người
dân vào hệ thống các cơ quan tư pháp của nước ta.
Trước tình hình tội phạm và cơ chế hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
đặc ra nhu cầu phải cải cách tư pháp cho phù hợp với tình hình phát triển của xã hội và
đối phó với tình hình tội phạm ngày càng phức tạp. Nhận thức được tình hình đất nước,
nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc
cải cách tư pháp. Sự ra đời của Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời vào
ngày 02/01/2002 được xem như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta.
Nghị quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ tư pháp, trong đó nội dung tăng
cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự được coi là điểm nhấn của
cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết. Để thực hiện được mục tiêu đó
Bộ chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW về “chiến lược cải cách tư pháp
1


đến năm 2020” trong đó nội dung tiếp tục thể hiện quan điểm về cải cách tố tụng theo
hướng nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa và nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa
trở thành điểm nhấn của cải cách tư pháp. Như vậy, nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tịa hình sự nói riêng cũng như trong tồn bộ q trình tố tụng hình sự nói chung
là trung tâm của quá trình cải cách tư pháp hiện nay. Theo đó, việc phán quyết của Tịa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả của tranh tụng tại phiên tòa, phải đảm bảo bản án
của Tòa án là hiện thân của công lý, công bằng xã hội. Vấn đề đặt ra trong giai đoạn
hiện nay là làm thế nào để thực hiện được yêu cầu đó. Đây là một vấn đề rất cần được
nghiên cứu để đưa ra được một kết quả chung về phương hướng và nhiệm vụ của các
cơ quan tư pháp để thực hiện yêu cầu về nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa.

Theo tác giả để thực hiện được điều đó thì việc nghiên cứu và làm rõ về mặt lý luận,
thực tiễn của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa và đề ra những biện pháp để nâng cao
chất lượng tranh tụng là điều cần trong thực tiễn cải cách tư pháp hiện nay. Chính vì
những lý do đó mà tác giả chọn đề tài “nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp” làm đề khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có rất nhiều bài viết và sách chuyên khảo của nhiều tác giả nghiên cứu về
đề tài tranh tụng và tranh tụng tại phiên tòa hình sự như: "Tranh tụng trong tố tụng
hình sự" của tác giả Nguyễn Đức Mai trong cuốn kỷ yếu: "Những vấn đề lý luận và
thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam" - Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm
1995; bài "Về tranh tụng tại phiên tịa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp
chí Tịa án nhân dân số 5/2003; bài "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự"
đăng trong Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại Thắng; bài viết của
nhiều tác giả trong Đặc san nghề luật số 5/2003 về chuyên đề mở rộng tranh tụng; cuốn
chuyên khảo "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền" do TSKH Lê Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều bài viết
của các tác giả (Nxb Đại học quốc gia, 2004)... Và cũng đã có rất nhiều tác giả lựa
chọn đề tài liên quan đến vấn đề này để làm luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận
2


cử nhân luật như: luận văn thạc sĩ luật học về đề tài “nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Trần Duy Bình, khóa
luận tốt nghiệp về đề tài “vị trí, vai trị của người bào chữa trong việc nâng cao chất
lượng của hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự” của tác giả Lê Thị Hồng
Nhung,.... Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định liên quan
tranh tụng và còn khá nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh ý tưởng đổi mới hoạt
động xét xử của ngành Tòa án Việt Nam theo hướng tranh tụng. Chính vì vậy việc
nghiên cứu về tính tranh tụng nói chung và tranh tụng tại phiên tịa hình sự nói riêng
vẫn đang là vấn đề cần thiết.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của khóa luận
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và
thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những bất cập còn tồn
tại của việc tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta hiện nay, thơng qua đó đề xuất những
giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hướng tới xây
dựng một phiên tịa hình sự thực sự cơng bằng, dân chủ góp phần thực hiện q trình
cải cách tư pháp. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được
đặt ra là:
Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa như: khái
niệm, đặc điểm, điều kiện, cơ sở của tranh tụng; chủ thể của quá trình tranh tụng; Cơ sở
của tranh tụng; nội dung của tranh tụng tại phiên tịa; tranh tụng trong các mơ hình tố
tụng hình sự tiêu biểu trên thế giới...
Phân tích sơ lược về các quy định về tranh tụng của pháp luật tố tụng hình sự ở
Việt Nam hiện hành
Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam những năm
gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa.

3


Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh tụng tại
phiên tịa, khóa luận nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại
phiên tịa xét xử vụ án hình sự ở nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở
các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án nên trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ
không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ dừng lại nghiên cứu một số vấn
đề về tranh tụng tại phiên tòa.
Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tịa dưới

góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật về tranh tụng và tranh tụng tại
phiên tòa, và chỉ ra vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của những chế định này và trên
cơ sở đó mạnh dạng nêu ra một số kiến nghị nhằm nâng cao tính tranh tụng tại phiên
tịa.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hồn thành khóa luận, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách
tư pháp.
Đồng thời, tác giả cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử;
phương pháp khảo sát thực tiễn tranh tụng tại những phiên tịa hình sự.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
bao gồm hai chương với kết cấu như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về tranh tụng và phiên tịa hình sự.

4


Chương II: Các quy định về tranh tụng của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam,
thực tiễn tranh tụng tại phiên tịa hình sự ở Việt Nam và kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp.

5


CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH TỤNG VÀ
PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
1.1 Khái qt về Phiên tịa hình sự

1.1.1 Khái niệm Phiên tịa hình sự
Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm được chính xác, xử lý nghiêm
minh, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, đồng thời bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, Luật Tố tụng hình sự (TTHS) quy định trình
tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Khi phát hiện hành
vi có dấu hiệu tội phạm hoặc khi nhận được tin tức về tội phạm cơ quan có thẩm quyền
sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quá trình từ khi
khởi tố hình sự đến khi xét xử là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động
khác nhau, trong đó xét xử là hoạt động mang tính chất quyết định, là giai đoạn quyết
định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cơng dân. Trong TTHS xét xử đóng vai trị
trung tâm, thể hiện rõ nhất bản chất của hệ thống tư pháp của nhà nước. Giai đoạn xét
xử là giai đoạn chính thức giải quyết vụ án và đây là giai đoạn thể hiện kết quả của
tồn bộ q trình giải quyết vụ án. Để thực hiện việc xét xử của mình Tịa án tiến hành
mở các PTHS.
Tại PTHS, Tòa án bằng thủ tục cơng khai, tồn diện thực hiện cuộc điều tra chính
thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Cuối phiên tòa, Tòa án ra bản án, quyết
định giải quyết vụ án trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm tra cơng khai tại
phiên tịa. Như vậy chúng ta có thể thấy trong tồn bộ q trình tố tụng thì xét xử đóng
vai trị trung tâm, Tịa án thực hiện hoạt động xét xử thơng qua PTHS. Hoạt động xét
xử còn thể hiện bản chất của hệ thống tư pháp của nhà nước.
Vấn đề cần nghiên cứu ở đây là, thế nào là “PTHS”. Khái niệm “PTHS” ngày nay
được các nhà nghiên cứu đề cập đến rất nhiều đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ chính trị về “nhiệm vụ của cơng tác tư
pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 về
6


“chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một định
nghĩa đầy đủ về phiên tòa hay PTHS. Trong nội dung của đề tài nghiên cứu về “nâng
cao tính tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp” thì việc nghiên cứu và làm rõ khái

niệm phiên tòa và PTHS là một vấn đề cần thiết.
Dưới góc độ ngơn ngữ của tiếng Việt thì “phiên” nghĩa là “phen, lần, lược” [15tr565] giống như trong từ phiên họp hay phiên chợ và phiên tòa cũng được hiểu như

vậy. Trong khoa học pháp lý thì “phiên tịa là hình thức hoạt động xét xử của tòa án”
[20-tr620]. Khái niệm này chưa làm rõ được bản chất của phiên tịa bởi lẽ nó chưa thể
hiện tầm quan trọng cũng như nội dung của một phiên tòa. Dưới góc độ pháp lý thì,
phiên tịa chỉ diễn ra trong q trình tố tụng. Phiên tịa là nơi Tịa án tiến hành hoạt
động xét xử vụ án một cách cơng khai và tại phiên tịa có sự hiện diện của tất cả các
bên tham gia vào vụ án.
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về phiên tịa thì tác giả nhận thấy có thể đưa
ra khái niệm như sau: Phiên tịa là hình thức thực hiện chức năng xét xử của Tịa án,
được Tịa án có thẩm quyền tiến hành theo một trình tự thủ tục nhất định do pháp luật
quy định, khi đưa các vụ án hình sự, dân sự, hành chính ra xét xử cơng khai, trực tiếp.
Tùy theo tính chất và thủ tục mà có nhiều loại phiên tòa như: PTHS, phiên tòa
dân sự, phiên tịa hành chính hay cịn có phiên tịa sơ thẩm, phiên tịa phúc thẩm,...
Trong q trình TTHS thì hoạt động giải quyết vụ án được tiến hành qua các giai
đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án. Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn của
TTHS bao gồm nhiều hoạt động tố tụng khác nhau tạo tiền đề cho việc giải quyết vụ án
hình sự được đúng người, đúng tội. Giai đoạn xét xử vụ án hình sự bắt đầu từ khi VKS
ra quyết định truy tố và gửi cáo trạng và toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tịa án có thẩm
quyền. Trong q trình xét xử vụ án thì Tịa án có thể tổ chức các PTHS (PTHS sơ
thẩm và PTHS phúc thẩm) để thực hiện xét xử vụ án một cách cơng khai có sự tham
gia của tất cả các chủ thể (bao gồm các chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội và tịa án).
Như vậy ta có thể định nghĩa PTHS như sau: PTHS là hình thức thực hiện chức
năng xét xử của Tòa án với việc diễn ra tồn bộ q trình xem xét đánh giá chứng cứ
7


và giải quyết vụ án hình sự thơng qua các thủ tục bắt đầu, xét hỏi, tranh luận, nghị án
tuyên án dưới sự chủ trì của chủ tọa phiên tịa.

Thủ tục tố tụng của mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau tùy thuộc vào hệ thống
pháp luật và các điều kiện về xã hội, chính trị của mỗi quốc gia. Tuy nhiên trong xã hội
dân chủ, tiến bộ hiện nay, nguyên tắc hai cấp xét xử được thực hiện ở tuyệt đại đa số
các quốc gia trên thế giới. Theo nguyên tắc hai cấp xét xử thì, bản án, quyết định sơ
thẩm có thể bị các bên tham gia tố tụng có quyền và lợi ích liên quan kháng cáo, hoặc
bị VKS kháng nghị theo đúng quy định pháp luật và trong thời hạn luật định thì phải
được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Chính vì lý do đó mà khi nói tới phiên tịa
trong tố tụng là nói tới phiên tịa sơ thẩm và phiên tịa phúc thẩm. Ngoài ra, tùy theo
cách thức tổ chức của hệ thống tư pháp của mỗi quốc gia nên một số quốc gia cịn có
thêm các phiên tịa khác như: phiên tòa giám đốc thẩm, phiên tòa tái thẩm, phiên tòa
phá án. Tuy nhiên đây là những thủ tục đặc biệt chỉ mang tính chất xét lại nên những
phiên tịa này không mang đầy đủ những yếu tố đặt trưng của một phiên tịa chính vì
vậy đề tài khơng nghiên cứu về các phiên tòa đặc biệt này.
Như vậy cũng như những phiên tịa hành chính, dân sự thì phiên tòa trong TTHS
bao gồm: PTHS sơ thẩm và PTHS phúc thẩm. Trong nội dung luận văn tác giả sẽ đi
vào nghiên cứu nội dung của hai phiên tòa này.
1.1.1.1 Phiên tịa hình sự sơ thẩm
Trong q trình TTHS sau các giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố thì vụ án sẽ
được chuyển qua cho Tòa án để tiếp tục tiến hành giai đoạn xét xử vụ án hình sự. “Xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhà nước do Tòa án thực hiện nhằm xem xét,
đánh giá toàn diện các chứng cứ, tài liệu của vụ án hình sự trên cơ sở đó ra bản án,
quyết định xác định có hành vi phạm tội hay khơng? Người thực hiện hành vi phạm tội,
hình phạt được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn
đề khác có liên quan trong vụ án hình sự”[13-tr291]. Như vậy giai đoạn xét xử vụ án
hình sự là giai đoạn trung tâm của tồn bộ q trình giải quyết vụ án. Vụ án hình sự sẽ
được xét xử theo nguyên tắc hai cấp xét xử trong đó xét sử sơ thẩm là cấp xét xử thứ
8


nhất trong giai đoạn này tòa án sẽ tiến hành giải quyết tất cả các vấn đề thuộc nội dung

của vụ án và trên cơ sở đó sẽ ra bản án, quyết định để giải quyết vụ án. Bản án, quyết
định của tịa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị.
Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn luật định, Tòa án phải
mở phiên tòa sơ thẩm để xét xử sơ thẩm vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm tòa án sẽ tiến
hành xem xét đánh giá chứng cứ và ra bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ án, các
chủ thể trong vụ án bao gồm bên buộc tội (VKS, người bị hại...) và bên gỡ tội (người
bào chữa, bị cáo...) đều được trực tiếp tham gia vào phiên tòa và họ và họ có quyền đưa
ra các chứng cứ và các luận điểm của mình để chứng minh cho ý kiến, quan điểm của
mình và để phản bác lại ý kiến, quan điểm của bên kia, tòa án lúc này được xem như là
một trọng tài có nhiệm vụ tìm hiểu tình tiết của vụ án, lắng nghe ý kiến của các bên và
xem xét, đánh giá những chứng cứ được đưa ra trước tịa trên cơ sở đó tịa án sẽ tiến
hành giải quyết vụ án và cho ra bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ án một cách
công minh đúng pháp luật.
PTHS sơ thẩm được tiến hành theo trình tự thủ tục luật định bao gồm các giai
đoạn: thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án
và tuyên án. Một PTHS sơ thẩm có thể có một hay nhiều bị cáo bị truy tố về tội ít
nghiêm trong hay nghiêm trọng, có thể được xét xử trong một ngày hay nhiều ngày
nhưng thủ tục tiến hành phiên tòa thì phải tuân thủ một cách tuyệt đối và pháp luật quy
định thủ tục này rất chặt chẽ để đảm bảo việc xét xử của tòa án được tiến hành cơng
minh, bảo đảm được các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Sau khi kết thúc một PTHS sơ thẩm thì Hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ ra bản án,
quyết định của tòa án để giải quyết toàn bộ vụ án, cụ thể sau khi kết thúc việc xét hỏi
và tranh luận tại phiên tòa thì HĐXX sẽ vào phịng nghị án để tiến hành thảo luận và
quyết định bản án, sau khi quyết định xong bản án thì HĐXX sẽ trở lại phịng xử án,
chủ tọa phiên tòa hoặc một trong các thành viên của HĐXX sẽ đọc bản án (tuyên án).
Sau khi HĐXX tuyên án thì cũng là thời điểm kết thúc PTHS sơ thẩm.

9



Dựa vào những phân tích trên ta có thể đưa ra định nghĩa về PTHS sơ thẩm như
sau: PTHS sơ thẩm là hình thức thực hiện chức năng xét xử của tịa án với việc diễn ra
tồn bộ q trình xem xét, đánh giá chứng cứ và giải quyết toàn bộ những vấn đề của
vụ án hình sự thơng qua các thủ tục bắt đầu, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án
dưới sự chủ trì của chủ tọa phiên tòa. Tại đây Tòa án giải quyết tất cả những vấn đề
như: Bị cáo có tội hay khơng? nếu có thì tội gì? điều khoản nào trong bộ luật hình sự?
hình phạt được áp dụng đối với bị cáo? vấn đề bồi thường thiệt hại... Bản án, quyết
định của tịa án tại phiên tịa sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay và có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
1.1.1.2 Phiên tịa hình sự phúc thẩm
Nhiệm vụ của TTHS là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm cũng như không làm oan người vô
tội. Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động TTHS cũng chính xác và cơng minh mà
có thể vì nhiều lý do chủ quan hay khách quan dẫn tới trong thực tiễn vẫn tồn tại những
sai lầm trong việc giải quyết các vấn đề về định tội danh, quyết định hình phạt cũng
như sai lầm trong việc giải quyết những vấn đề về bồi thường dân sự trong vụ án hình
sự, hoặc những sai lầm trong đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác về vụ án. Chính vì
lý do đó nên để có thể khắc phục được những sai lầm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, đồng thời đảm bảo được mục đính xét xử đúng người đúng tội và đúng
pháp luật thì pháp luật TTHS có quy định tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự nhằm xét
xử lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị. “Xét xử phúc thẩm là việc tòa án cấp trên xét xử lại hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị” [4-Đ230].
Như vậy bản án hình sự sơ thẩm nếu bị kháng cáo kháng nghị sẽ làm phát sinh
thủ tục phúc thẩm. Thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự không phải là thủ tục đương
nhiên, mà chỉ phát sinh khi bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng
nghị.
10



Sau khi nhận được kháng cáo kháng nghị hợp pháp thì Tịa án có thẩm quyền tiến
hành giải quyết xét xử phúc thẩm vụ án theo đúng thủ tục của Pháp luật TTHS và tòa
án phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn mà pháp luật quy định. Về cơ bản thì
phiên tịa phúc thẩm được tiến hành giống như ở phiên tòa sơ thẩm tuy nhiên phạm vi
xét xử chỉ là: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. nếu xét
thấy cấn thiết thì Tịa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng
cáo, kháng nghị của bản án”[4-Đ241]. Kết thúc PTHS phúc thẩm tòa án sẽ ra bản án,
quyết định phúc thẩm để giải quyết những vấn đề thuộc nội dung xem xét giải quyết
của tòa án cấp phúc thẩm và quyết định, bản án phúc thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật
ngay khi tịa án tun. Đối với những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị thì Tịa án cấp phúc thẩm khơng phải mở phiên tịa, nhưng nếu xét thấy cần
thiết thì có thể triệu tập những người tham gia tố tụng để nghe ý kiến của họ trước khi
tòa án ra quyết định.
Như vậy qua những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm PTHS phúc thẩm
như sau: PTHS phúc thẩm là hình thức xét xử của Tịa án có thẩm quyền xét xử phúc
thẩm tiến hành nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội dung kháng cáo, kháng nghị
của người có quyền kháng cáo, kháng nghị và khi xét thấy cần thiết có thể cả những
vấn đề khác không bị kháng cáo, kháng nghị trong bản án của Tòa án cấp sơ thẩm.
Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày tun án.
1.1.2

Đặc điểm, nhiệm vụ của Phiên tịa hình sự
Trong tồn bộ q trình TTHS thì xét xử là giai đoạn quan trọng nhất đóng vai trị

là giai đoạn trung tâm của tồn bộ q trình tố tụng, là giai đoạn quyết định tính đúng
đắn, khách quan của tồn bộ q trình tố tụng mà trong đó PTHS là trung tâm của hoạt
động xét xử. Sở dĩ PTHS có vai trò quan trọng như vậy là do các đặc điểm, nhiệm vụ
và ý nghĩa của PTHS là rất đặc biệt:
Đặc điểm của PTHS


11


Phiên tịa là giai đoạn có vai trị đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định cho
tồn bộ q trình giải quyết vụ án hình sự, phiên tịa là giai đoạn trung tâm thể hiện bàn
chất của quá trình tố tụng:
PTHS là nơi tòa án giải quyết vụ án với sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng với những địa vị pháp lý
xác định, tại các phiên tịa thì quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng được quy
định rất cụ thể và được đảm bảo thực hiện. Khi Tịa án có thẩm quyền tiến hành mở
phiên tòa xét xử vụ án thì Tịa án phải có nghĩa vụ thơng báo cho những chủ thể tham
gia tố tụng biết cụ thể về thời gian, địa điểm tiến hành phiên tòa để các chủ thể có thể
tham gia phiên tịa và thực hiện các quyền và nghĩa vị của mình một cách tuyệt đối;
Tại phiên tòa Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vụ án bằng các thủ tục trực tiếp, công
khai một cách tồn diện, tại đây Tịa án sẽ thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác
định sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa sự hiện diện của Tòa án là sự hiện
diện của HĐXX, HĐXX bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm cùng tham gia vào giải
quyết vụ án. Tòa án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập công
khai tại phiên tòa. việc chứng minh (bao gồm cả việc thu thập, kiểm tra và đánh giá
chứng cứ) được các chủ thể có quyền và lợi ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào chữa)
thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như khi tranh
luận. Việc xác định sự thật của vụ án được Tòa án thực hiện trên cơ sở chứng cứ thu
thập và kiểm tra tại phiên tòa và cân nhắc ý kiến của các bên tham gia tố tụng;
Phiên tòa là nơi các bên tham gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tại phiên tịa sau khi thực hiện các thủ tục bắt
đầu phiên tòa HĐXX tiến hành xét hỏi và xem xét các vật chứng tại chỗ, có thể trình
bày hoặc cơng bố các tài liệu, hồ sơ vụ án, các lời khai của những người có liên quan
khơng có mặt tại phiên tịa... Sau phần xét hỏi sẽ tiến hành phần tranh luận tại phiên
tòa, đây là một phần quan trọng của PTHS. Khi tranh luận tại phiên tịa thì các bên

buộc tội, bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên

12


quan đến vụ án phát biểu ý kiến, phân tích đánh giá chứng cứ, đề nghị áp dụng luật và
giải quyết các vấn đề của vụ án.
Tại PTHS Tòa án giải quyết vụ án trên cơ sở những ý kiến phát biểu của các bên
tham gia tố tụng và xem xét các chứng cứ của các bên đưa ra để bảo vệ ý kiến của
mình, HĐXX sẽ xem xét, quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án một cách khách
quan, đúng đắn. Kết thúc phiên tòa HĐXX sẽ tiến hành nghị án và tiến hành thảo luận
bản án, quyết định. Bản án thể hiện kết quả của xét xử của tịa án đó cũng là kết quả
của tồn bộ quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy PTHS là nơi đánh giá kết quả của tồn bộ q trình giải quyết vụ án.
Các thủ tục được tiến hành tại phiên tịa tạo điều kiện cho việc tìm kiếm sự thật khách
quan của vụ án tạo cơ sở để tiến hành giải quyết vụ án. Tại phiên tòa diễn ra cuộc điều
tra cơng khai của Tịa án, những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được
nghe trực tiếp ý kiến của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều mà ở những giai
đoạn khác của quá trình giải quyết vụ án họ khơng có điều kiện để thực hiện.
Tại PTHS sơ thẩm thì tịa án sẽ xem xét và giải quyết tất cả các vấn đề thuộc nội
dung của vụ án hình sự. Khác với phiên tịa xét xử sơ thẩm, phiên tòa xét xử phúc thẩm
chỉ xem xét lại phần nội dung bị kháng cáo, kháng nghị trong bản án sơ thẩm.
Ta có thể thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của PTHS trong quá trình giải
quyết vụ án, với các đặc điểm quan trọng của PTHS thể hiện vai trò trung tâm thể hiện
đầy đủ bản chất của tồn bộ q trình tố tụng, thể hiện bản chất của nền tư pháp của
mỗi quốc gia.
Nhiệm vụ của PTHS là tìm ra sự thật khách quan của vụ án và giải quyết vụ án
một cách công minh. PTHS sơ thẩm là thủ tục bắt buộc đối với bất kì vụ án hình sự
nào, PTHS sơ thẩm có nhiệm vụ: thực hiện việc kiểm tra của Tịa án đối với tồn bộ
chứng cứ để xác minh bị cáo có phạm tội hay khơng? Nếu phạm tội thì quyết định tội

danh và hình phạt cho tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, đồng
thời áp dụng các biện pháp tư pháp khác. Tùy từng trường hợp sau PTHS sơ thẩm theo
quy định của pháp luật Hội dồng xét xử có thể ra bản án hoặc quyết định để giải quyết
13


tịa bộ vụ án hình sự. Khác với tại phiên tịa sơ thẩm, tại phiên tịa phúc thẩm vụ án
hình sự thì Tịa án cấp phúc thẩm thực hiện xem xét đánh giá lại sự thật của vụ án trên
cơ sở xem xét lại tất cả những chứng cứ được thu thập ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và
chứng cứ mới được thu thập bổ sung trong giai đoạn xét xử phúc thẩm đối với một
phần hoặc toàn bộ nội dung của vụ án bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Tòa án thực hiện
việc giám đốc việc xét xử của tòa án cấp dưới, xem xét việc giải quyết vụ án ở cấp sơ
thẩm đúng thủ tục luật định hay khơng? Tịa án cấp phúc thẩm có thể sữa chữa những
sai lầm trong những bản án hoặc quyết định sơ thẩm, đảm bảo cho Tòa án xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng.
1.2 Khái quát về tranh tụng
1.2.1 Khái niệm tranh tụng
Tư tưởng về tranh tụng đã xuất hiện từ thời cổ đại được áp dụng đầu tiên ở nhà
nước Hi Lạp cổ đại, tiếp đến là nhà nước La Mã cổ đại và sau đó lan rộng ra các quốc
gia châu âu. Cho tới ngày nay khái niệm “Tranh tụng” khơng cịn mới mẻ trong khoa
học pháp lý và trong thực tiễn tư pháp của nhiều nước trên thế giới. Hiện nay nhiều
quốc gia trên thế giới, coi tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của tư pháp hình sự. Ở
Việt Nam thuật ngữ tranh tụng cũng được sử dụng khá nhiều đặc biệt là từ khi có Nghị
quyết số 08-NQ/TW của bộ chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, Tuy nhiên, “tranh tụng” ở nước ta vẫn còn là một khái niệm khá
mới mẻ và hiện nay vẫn chưa có một nhận thức đầy đủ về “tranh tụng” và nhận thức về
“tranh tụng” vẫn còn khá mơ hồ. Hiện nay đã và đang có rất nhiều hoạt động nghiên
cứu về tranh tụng và tranh tụng tại PTHS. Tuy nhiên, hiện nay đang tồn tại rất nhiều
quan điểm khác nhau về vấn đề này và vẫn chưa có một khái niệm đầy đủ và thống

nhất về tranh tụng. Chính vì vậy để có thể nghiên cứu về vấn đề “tranh tụng tại PTHS”
việc nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất của tranh tụng trong khoa học pháp lý là điều
cần thiết.

14


Về mặt ngôn ngữ theo nghĩa hán việt “tranh tụng” là sự kết hợp giữa hai yếu tố
“tranh luận” và “tố tụng” như vậy ta có thể hiểu “tranh tụng” là “tranh luận trong tố
tụng”. “Tranh luận” là sự tranh cải để tìm ra lẽ phải, theo đó tranh luận ở đây có thể là
tranh luận theo nghĩa hẹp là một giai đoạn trong thủ tục tố tụng tại phiên tòa , tiếp theo
sau thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hoặc là tranh luận theo nghĩa rộng nhĩa là hoạt động tố
tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có
quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, bảo vệ chứng cứ, bảo vệ các quan điểm
và lợi ích hợp pháp của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập
[61-tr2]. Về nội hàm của thuật ngữ, ta có thể thấy: “Tranh tụng” trong tiếng Pháp là
“procédure acensatoir” [17-tr1016] nghĩa là các bên kiện cáo hay cáo buộc lẫn nhau.
trong tiếng Anh thì “tranh tụng” là “institute prossedings against someone” [16tr1142] nghĩa là thủ tục tiến hành chống lại một ai đó. Trong tiếng việt thì “tranh
tụng” là “thưa kiện nhau để giành lẽ phải” [14-tr1142] như vậy “tranh tụng” về ngôn
ngữ là sự kiện tụng hay cáo buộc lẫn nhau giữa các bên có lợi ích đối lập. Được bắt đầu
từ khi bên này khởi kiện hay khởi tố bên kia và kết thúc khi các bên khơng cịn kiện
tụng hay cáo buộc nhau nữa, hoặc khi có bản án hay quyết định giải quyết vụ án của cơ
quan có thẩm quyền. Như vậy tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán
của Tịa án. Trong dân sự thì tranh tụng gắn liền với hoạt động phân xử của Tòa án đối
với vụ việc dân sự khi các bên có quyền và lợi ích khác nhau tại phiên tịa. Tịa án tiến
hành một cuộc điều tra chính thức, cơng khai tại phiên tòa. Tại đây, HĐXX sẽ điều
khiển và theo dõi các bên tranh tụng và giải quyết vụ án dựa trên kết quả của hoạt động
tranh tụng tại phiên tịa. Trong hình sự thì tranh tụng là hoạt động đấu tranh giữa bên
buộc tội đại diện cho quyền lực nhà nước thực hiện buộc tội đối với hành vi bị coi là
tội phạm mà bên bị buộc tội đã thực hiện, cịn bên bị buộc tội thì thực hiện gỡ tội đối

trọng với hành vi buộc tội của bên buộc tội cả hai hoạt động này mục đích cuối cùng là
chứng minh sự thật khách quan trước Tòa án và Tòa án sẽ là chủ thể ra phán quyết cho
tồn bộ q trình tranh tụng.

15


Dưới góc độ pháp lý tranh tụng là hoạt động chỉ diễn ra trong q trình tố tụng có
thể là tố tụng dân sự, tố tụng hành chính hay là TTHS. Hoạt động tố tụng ln mang
tính tranh tụng và chỉ trong hoạt động mới có tranh tụng vì trong hoạt động tố tụng
ln có sự xung đột về lợi ích của các bên trong quan hệ pháp lý nhất định mà các bên
không thể tự giải quyết được mà họ phải cần đến người thứ ba làm trọng tài phân xử và
đó là tịa án. Tùy theo tính chất của vụ án mà các bên tham gia hoạt động tranh tụng có
địa vị pháp lý khác nhau: Trong tố tụng dân sự hoạt động tranh tụng diễn ra giữa
nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự; Trong TTHS hoạt động tranh tụng diễn ra giữa
bên buộc tội và bên bào chữa (bên buộc tội ở đây thường là cơ quan cơng tố cịn bên bị
buộc tội là bị can, bị cáo và người bào chữa của họ). Để các chủ thể trên có thể tham
gia vào hoạt động tranh tụng, pháp luật đã quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ tố
tụng nhất định. Trong nội dung nghiên cứu của đề tài chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề
tranh tụng trong TTHS.
Trong những năm gần đây trong lĩnh vực khoa học pháp lý có rất nhiều nghiên
cứu về vấn đề tranh tụng trong TTHS và có rất nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về
khái niệm “tranh tụng” trong TTHS, tuy nhiên các quan điểm này không đồng nhất với
nhau mà tùy theo từng cách tiếp cận khác nhau mà mỗi tác giả xây dựng cho mình một
khái niệm khác nhau. Ta có thể xem xét một số quan điểm cụ thể nổi trội sau:
Quan điểm thứ nhất “tranh tụng ở đây có nghĩa là tranh luận trong q trình tố
tụng tại phiên tịa” [21-tr2]. Cách hiểu này khơng chính xác bởi lẽ nếu hiểu theo cách
hiểu này thì vơ hình chung đã đồng nhất hai khái niệm “tranh tụng” và “tranh luận” và
quan điểm này đã khẳng định rằng tranh tụng chỉ diễn ra tại phiên tịa trong khi hoạt
động tranh tụng tại phiên tịa có thể diễn ra ở giai đoạn tiền xét xử, ngay từ khi xuất

hiện chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội (chức năng bào chữa).
Quan điểm thứ hai “tranh tụng trong TTHS là quá trình cọ sát giữa các quan
điểm, lập luận về vụ án giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tham gia
vào quá trình tố tụng hinh sự nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án...” và “...
quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ của bên
16


buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tịa án” [28-tr41]. Theo quan
điểm này thì tranh tụng chỉ phát sinh khi có sự hiện diện đầy đủ của bên buộc tội, bên
bào chữa và Tòa án như vậy cũng tương tự quan điểm thứ nhất, quan điểm này cho
rằng tranh tụng chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử và như vậy đã phủ nhận quá trình
tranh tụng trong giai đoạn tiền xét xử. Tranh tụng tại tòa án chỉ là đỉnh điểm của tranh
tụng mà thôi, lúc này là lúc tranh tụng đã tới đỉnh điểm và cần được giải quyết, chính
vì vậy tịa án xuất hiện với vai trò làm một trọng tài để quyết định ai đúng, ai sai mà
thôi. Chúng tôi cho rằng trang tụng bắt đầu từ khi xuất hiện chức năng buộc tội.
Quan điểm thứ ba “tranh tụng là một quá trình xác định sự thật khách quan của
vụ án, đồng thời cũng chính là phương tiện để đạt được mục đích, các nhiệm vụ đặt ra
của Luật TTHS và đảm bảo cho các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS có thể thực
hiện một cách có hiệu quả nhất chức năng của mình ở tất cả các giai đoạn của quá
trình TTHS” [49]. Quan điểm này đã đồng nhất tranh tụng và xác định sự thật khách
quan của vụ án trong khi mối quan hệ giữa tranh tụng và xác định sự thật của vụ án là
quan hệ giữa nội dung và hình thức, chúng ta có thể xem tranh tụng như là một điều
kiện, hình thức cần thiết cho các chủ thể tham gia hoạt động chứng minh làm sáng tỏ
sự thật của vụ án nhưng không thể đồng nhất tranh tụng và vấn đề xác định sự thật
khách quan của vụ án được.
Quan điểm thứ tư “tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên
tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc
thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm, lợi ích của mình, phản bát lại các
quan điểm, lợi ích của bên đối lập” [18-tr807]. Khái niệm này chưa lột tả được hết bản

chất của tranh tụng là quá trình đối trọng giữa hai chức năng buộc tội và chức năng bào
chữa mà chỉ dừng lại ở hoạt động tranh tụng của hai bên buộc tội và bị buộc tội.
Quan điểm thứ năm “tranh tụng trong TTHS là hoạt động của các bên tham gia
tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) nhằm thu thập, đưa ra chứng cứ liên quan đến việc
giải quyết vụ án để bảo vệ quan điểm của mình và phản bác quan điểm của phía bên
kia. Hoạt động tranh tụng khơng chỉ diễn ra tại phiên tịa mà có thể được thực hiện
17


trong các giai đoạn trước đó” [62-tr22]. Đây là quan điểm được tác giả hồn tồn
đồng tình, bởi lẽ theo tác giả thì quá trình tranh tụng là quá trình đối trọng giữa hai
chức năng buộc tội và gỡ tội, hoạt động tranh tụng bắt đầu từ khi xuất hiện chức năng
buộc tội vì khi xuất hiện chức năng buộc tội cũng là lúc thực hiện chức năng gỡ tội “ở
đâu có buộc tội thì ở đó có gỡ tội”. Như vậy tranh tụng có thể bắt đầu từ bất cứ giai
đoạn nào của q trình TTHS chỉ cần có sự xuất hiện của chức năng buộc tội và đỉnh
điểm của tranh tụng là tranh tụng tại phiên tòa, khi đó sẽ có sự xuất hiện của Tịa án
với vai trò là “người trọng tài” để giải quyết vụ án dựa trên kết quả của quá trình tranh
tụng và kết thúc tranh tụng.
* Phạm vi của hoạt động tranh tụng tại PTHS
Khi tiến hành nghiên cứu khái niệm tranh tụng thì một vấn đề liên quan cũng cần
được nghiên cứu là vấn đề phạm vi của tranh tụng. Hiện nay cũng như khái niệm tranh
tụng vấn đề phạm vi của hoạt động tranh tụng cũng là một vấn đề được rất nhiều nhà
nghiên cứu và người thực thi pháp luật quan tâm. Điểm gây ra rất nhiều tranh cãi khi
nói đến phạm vi của tranh tụng là thời điểm bắt đầu và kết thúc của quá trình tranh
tụng. Qua quá trình nghiên cứu tác giả đồng tình với quan điểm “tranh tụng được thực
hiện trong các giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, nhưng tại phiên tòa là quan trong
nhất” [33-tr22]. Theo quan điểm này tranh tụng thường được bắt đầu khi có quyết định
khởi tố bị can và kết thúc khi bản án về vụ án đã có hiệu lực pháp luật. Quan điểm này
đủ sức thuyết phục cả về góc độ lý luận và thực tiễn bởi lẽ tác giả luận văn cho rằng
hoạt động tranh tụng sẽ được bắt đầu từ khi xuất hiện chức năng buộc tội cũng đồng

nghĩa với việc chức năng bào chữa xuất hiện. Khi chức năng buộc tội xuất hiện là khi
cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành khởi tố bị can trong một số trường hợp có thể xuất
hiện sớm hơn như trường hợp cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ người bị
tình nghi (buộc tội khơng chính thức) sau khi bắt quả tang, bắt khẩn cấp hoặc bắt người
đang bị truy nã. Lúc này thì cơ quan tố tụng đã chính thức thực hiện sự buộc tội với
những đối tượng cụ thể nào và cơ quan tiến hành tố tụng cũng thông báo cho người bị
buộc tội biết họ đang bị buộc tội về tội gì và những chứng cứ gì đã chống lại họ. Cùng
18


lúc với hoạt động buộc tội thì hoạt động gỡ tội cũng được bắt đầu bởi lẽ khi cơ quan
tiến hành tố tụng tiến hành buộc tội thì quyền phát sinh đầu tiên cho người bị buộc tội
đó là quyền được biết lý do và quyền đưa ra những chứng cứ, luận điểm chứng minh
việc họ bị buộc tội là vơ căn cứ. Như vậy lúc này ta có thể thấy hai chức năng buộc tội
và gỡ tội đã xuất hiện và đương nhiên là hai chức năng này muốn được thực hiện tốt thì
chúng phải thể hiện qua những hoạt động để phủ định nhau. Như vậy tranh tụng sẽ bắt
đầu khi chức năng buộc tội xuất hiện làm tiền đề cho sự xuất hiện của chức năng bào
chữa sau đó. Khi bản án có hiệu lực pháp luật là khi vụ án chính thức được giải quyết
và kết thúc bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án có thẩm quyền,
lúc này khơng cịn buộc tội, bào chữa nữa nên tranh tụng lúc này đương nhiên phải kết
thúc.
* Đặc điểm của hoạt động tranh tụng
Thơng qua khái niệm trên ta có thể nhận thấy tranh tụng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh tụng là một quá trình tố tụng, quá trình này bắt đầu từ khi xất hiện
các chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội (chức năng bào chữa). Chức năng buộc tội
xuất hiện khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can hoặc trong một số
trường hợp chức năng buộc tội có thể xuất hiện sớm hơn như khi cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định tạm giữ người bị tình nghi (thuộc trường hợp bắt khẩn cấp, bắt quả
tang hoặc bắt người đang bị truy nã). Khi chức năng buộc tội xuất hiện thì kéo theo sự
xuất hiện của chức năng bào chữa đó chính là thời điểm bắt đầu của quá trình tranh

tụng.
Thứ hai, tranh tụng là một quá trình đấu chứng, đấu lý trên cơ sở các quy định
của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án cụ thể, với mục đích tìm ra sự thật khách
quan của vụ án. Chức năng buộc tội và chức năng bào chữa là hai chức năng luôn tồn
tại song song trong hoạt động TTHS, tương ứng với mỗi chức năng là những chủ thể
có địa vị pháp lý và tư cách tố tụng khác nhau, các chủ thể này thực hiện bảo vệ các
quan điểm, lập luận của mình và phản bác lại các quan điểm và lập luận của bên kia
bằng những phương thức phù hợp với địa vị pháp lý và tư cách tố tụng của mình.
19


Tranh tụng là sự cọ sát giữa hai chức năng buộc tội và chức năng bào chữa và sự cọ sát
giữa hai chức năng đối trọng này là cơ sở quan trọng để đánh giá chứng cứ một cách
chính xác, khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Thứ ba, tranh tụng là quá trình được tiến hành bởi các chủ thể có chức năng và
nhiệm vụ khác nhau trong các thời điểm tham gia khác nhau. Chức năng buộc tội là
chức năng xuất hiện trước tiên, chức năng buộc tội là chức năng của hoạt động TTHS
nhằm phát hiện kịp thời, nhanh chóng tội phạm và người phạm tội. Chức năng gỡ tội là
chức năng xuất hiện sau và trên cơ sở của chức năng buộc tội, khi chức năng buộc tội
xuất hiện thì chức năng gỡ tội cũng xuất hiện và sự xuất hiện của chức năng này giúp
tạo ra sự cân bằng và đối trọng với chức năng buộc tội. Sự cọ sát của hai chức năng
này tạo điều kiện cho việc nhận thức đúng đắn sự thật khách quan của vụ án.
*Tranh tụng tại PTHS
Như đã phân tích ở mục 1.1 của đề tài thì PTHS là hình thức thực hiện chức năng
xét xử của Tòa án với việc diễn ta tồn bộ q trình xem xét, đánh giá chứng cứcông
khai và giải quyết những vấn đề của vụ án hình sự thơng qua các thủ tục bắt đầu, xét
hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.
Tranh tụng tại PTHS là q trình chủ thể có chức năng buộc tội thực hiện việc
buộc tội và chủ thể bào chữa thực hiện việc bào chữa bình đẳng với nhau dưới sự chủ
trì của Tịa án qua các thủ tục bắt đầu, xét hỏi và tranh luận. Tại đây những hoạt động

tố tụng của bên buộc tội và bên bào chữa được diễn ra công khai nhằm bảo vệ ý kiến,
lập luận, quan điểm, lợi ích của mỗi bên và phủ nhận, phản bác ý kiến, lập luận, quan
điểm, lợi ích của phía bên kia dưới sự điều khiển của Tịa án với vai trị là người quyết
định mang tính chất trọng tài.
Nếu như tranh tụng trong TTHS là quá trình đối trọng bình đẳng nhằm phủ định
lẫn nhau giữa hai chức năng buộc tội và bào chữa thì tại PTHS tranh tụng cũng là quá
trình đối trọng bình đẳng nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng buộc tội và bào
chữa nhưng sự khác biệt ở đây là q trình đối trọng này có sự xuất hiện của Tòa án
thực hiện chức năng xét xử với vai trò làm trọng tài và tranh tụng này là tranh tụng tại
20


×