Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỒNG THỊ NGỌC DIỆP

THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS.Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Hoàng Thị Ngọc Diệp
Lớp: Cao học Luật Khánh Hịa – Khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học thực sự
của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Võ Thị
Kim Oanh. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tơi xin chịu
trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả

Hồng Thị Ngọc Diệp


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV


Kiểm sát viên

TAND

Tịa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ..............................5
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự ................................................................................................... 5

1.1.1. Khái niệm quyền cơng tố và thực hành quyền công tố ........................ 5
1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ..................................................................................................... 14
1.3. Thực hành quyền cơng tố theo quy định pháp luật của một số nƣớc trên
thế giới ..................................................................................................... 16
1.3.1. Khái quát việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước theo
truyền thống luật lục địa .............................................................................. 16
1.3.2. Khái quát việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước theo
truyền thống luật án lệ................................................................................. 18
1.3.3. Khái quát việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước Châu Á

................................................................................................................ 19
Kết luận Chƣơng 1 ......................................................................................................... 22
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................................... 23
2.1. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ giai đoạn 1945 đến trƣớc năm 1988

................................................................................................................ 23
2.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền cơng tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 1988 đến trƣớc năm 2003 ..... 26
2.3. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

................................................................................................................ 28
2.4. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

................................................................................................................ 32

Kết luận Chƣơng 2 ......................................................................................................... 34


CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................................................... 35
3.1. Thực tiễn thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ..................................................................................................... 35
3.1.1. Việc thực hiện các quy định của luật tố tụng hình sự về thực hành quyền
cơng tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự....................................... 35
3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân trong q trình thực hành
quyền cơng tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.............................. 42
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..................................................................... 54
3.2.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................................. 54
3.2.2. Giải pháp về pháp luật ................................................................ 58
3.2.3. Các giải pháp khác ..................................................................... 60
Kết luận Chƣơng 3 ......................................................................................................... 65
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là yêu cầu cấp thiết của Đảng, Nhà nước ta hiện nay, nhằm
mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Một trong những nhiệm

vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp là nâng cao chất lượng hoạt động của
các cơ quan tư pháp, trong đó việc nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân các cấp được Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới xác định: “Viện
kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt q trình tố tụng nhằm bảo đảm khơng bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội… Nâng cao chất lượng
công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư,
người bào chữa và người tham gia tố tụng khác”.
Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng
hình sự, Viện kiểm sát vừa được giao trách nhiệm thực hành quyền công tố, vừa
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra vụ
án hình sự, nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra có căn cứ và hợp pháp, không làm
oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, góp phần bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Đến Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp
luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và
tố tụng tư pháp… Đổi việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại
các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
Thể chế đường lối của Đảng, Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định:
“Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc
khởi tố. điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Với quy định

có tính ngun tắc như vậy đã xác định Viện kiểm sát có vai trị xun suốt và rất


2
quan trọng trong các giai đoạn tố tụng hình sự và góp phần vào hoạt động đấu tranh
phịng chống tội phạm một cách có hiệu quả của các cơ quan tư pháp.
Đến nay, qua hơn 12 năm thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cho thấy
chất lượng cơng tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhìn chung được nâng lên từng bước, đã
khắc phục được tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, cũng như việc không
làm oan người vô tội.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong tố tụng hình sự cịn có những hạn chế nhất định trong tất cả các
giai đoạn tố tụng trong đó có hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự - hoạt động trung tâm có tính chất quyết định của Viện
kiểm sát vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Một số Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn còn chưa nhận thức đúng đắn về vai trị, nhiệm
vụ quyền hạn của mình trong q trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự, do đó cịn có tâm lý chủ quan chưa chủ động, tích cực
tham gia vào việc xét hỏi, tranh luận làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Bên cạnh đó, một số các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 chưa thực
sự tạo cho Kiểm sát viên vai trò chủ động, ý thức, trách nhiệm trong việc chứng minh
tội phạm và người phạm tội đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoan xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát, hàng năm
vẫn còn xảy ra các vụ án Viện kiểm sát truy tố, tịa tun khơng phạm tội, án trả điều
tra bổ sung, án hủy do bỏ lọt tội phạm, vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng…
Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa hoạt động thực
hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong giai đoạn xét xử, từ đó đưa ra kiến nghị,
giải pháp nhằm cao hiệu quả hoạt động này khơng những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn
và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Từ những lý do trên, học

viên chọn đề tài “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề thực hành quyền
công tố trong giải quyết các vụ án hình sự theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Có
thể nêu ra một số sách, báo, cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài như:
- "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra" của TS. Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005; ''Quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp'', của Lê Hữu Thể chủ biên, năm 2008;
Luận án tiến sĩ luật học: “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết Hoa năm


3
2002; Luận văn thạc sỹ Luật học năm 2005 “Thực hành quyền cơng tố theo Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003” của tác giả Phan Vũ Trang; Luận văn thạc sỹ “Áp dụng
pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hà Nội”, của Nguyễn Duy Hùng, năm 2010; Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (2002), "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở
Việt Nam từ năm 1945 đến nay", Thông tin khoa học pháp lý, Số chuyên đề; ''Kỹ
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự'', Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2006; Bài viết của Nguyễn Đức Lương
năm 2002 "Bàn về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002", Tạp chí Kiểm sát; Bài viết của Đỗ Văn Đương
năm 2006 "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
Bên cạnh đó, cịn có nhiều cơng trình, bài viết khoa học của các tác giả về
vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi
sâu nghiên cứu một cách tồn diện về thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Mặc dù vậy, các
cơng trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để

nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở làm sáng tỏ một cách toàn diện về mặt lý luận những
nội dung cơ bản hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; xác
định những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn để đề xuất những giải pháp tiếp tục
hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý và vai
trò, trách nhiệm, thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Khảo sát, đánh giá hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự và chỉ ra những bất cập
vướng mắc trong thực tiễn.
Đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm


4
sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật về vấn đề này.
- Phạm vi nghiên cứu: Là các quy định của pháp luật về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên cơ sở các quy định của
pháp luật, luận văn nghiên cứu quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016 trên phạm vi toàn quốc.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng
và chủ nghĩa Mác – Lênin, các phương pháp được sử dụng là các phương pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể.
6. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài
- Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn, đề tài góp phần
làm sáng tỏ thêm quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu cho việc
nghiên cứu nhằm hoàn thiện thêm các quy định của pháp luật về chức năng thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo
cho đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật liên quan đến lĩnh vực này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chƣơng 1. Nhận thức chung về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chƣơng 2. Quy định của luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chƣơng 3. Thực tiễn thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự


5

CHƢƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNGVỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền cơng tố và thực hành quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Quyền công tố là một hoạt động tố tụng vì lợi ích cơng cộng đối với người
phạm tội đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người.
Cùng với thời gian, đến nay, quyền công tố đã trở thành một chế định pháp lý độc
lập được thừa nhận chung trong luật tố tụng hình sự (TTHS) ở đa số các nước văn
minh trên thế giới.
Theo quy định của Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Viện kiểm sát (VKS) vừa được giao trách
nhiệm thực hành quyền công tố, vừa thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tư pháp, nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra, xét xử có
căn cứ và hợp pháp, khơng làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ lợi ích của Nhà
nước; quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị
và trật tự xã hội.
Việc xác định khái niệm quyền cơng tố và theo đó là thực hành quyền cơng
tố có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan trọng. Giải quyết tốt vấn đề đó giúp cho
việc xác định chính xác vai trị, vị trí của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước nói
chung và trong các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng; xác định rõ chức năng của
VKS, đặc biệt là trong TTHS; từ đó có những quyết định đúng đắn về tổ chức VKS
các cấp. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đang
triển khai thực hiện các nghị quyết lần thứ 8 khoá VII, lần thứ 3 và thứ 7 khóa VIII
của Ban chấp hành trung ương Đảng về cải cách bộ máy nhà nước.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì "cơng tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc
tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án" 1. Như vậy, theo từ điển tiếng

Việt thì cơng tố được hiểu với các nội dung khác nhau bao gồm: Điều tra, truy tố,
buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án.
Ở nước ta, thuật ngữ “quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến
pháp năm 1980 khi đề cập đến chức năng của VKSND (Điều 138). Từ đó đến nay,

1

Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 45.


6
có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm và thể hiện quan điểm về
quyền công tố với các mức độ khác nhau. Có tác giả đề cập khi giải quyết các vấn
đề chung của TTHS, một số bài viết có tính chất chun khảo phân tích có hệ thống
về quyền công tố và gần đây một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sỹ cũng đề cập
quyền cơng tố trong từng phạm vi khác nhau. Nhìn chung, có thể thấy mỗi quan
điểm tuy được lí giải trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn nước ta, dù
ít hay nhiều đều có những hạt nhân hợp lí và có những bất cập. Có thể kể đến một
số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất, là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát
tuân theo pháp luật của VKS đều là thực hành quyền cơng tố. Với quan điểm này thì
cơng tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng,
một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật 2. Đây là quan
điểm phổ biến trong ngành kiểm sát từ khi thành lập năm 1960 cho đến khi Luật tổ
chức VKSND 2002 được ban hành. Cơ sở cho những lập luận này chính là quy định
của các Điều 137 và 138 Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức VKSND các năm 1981 và
1992. Thể hiện rõ nhất quan điểm này tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND 1992 3 . Quan
điểm này có trước khi Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001, đã đồng
nhất khái niệm quyền công tố với khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
VKS. Quan điểm này cho rằng các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật cũng

là thực hành quyền công tố: khi VKS ban hành kiến nghị yêu cầu các Cơ quan nhà
nước, các tổ chức kinh tế, xã hội bị kiểm sát sửa chữa, khắc phục vi phạm pháp luật
của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế cũng là thực hành quyền cơng tố.
Theo Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 thì VKS có hai chức
năng: “Thực hành quyền cơng tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp” 4. Điều này
tiếp tục được khẳng định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013: “VKSND thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” 5. Việc quy định cụ thể, rành mạch
hai chức năng của VKSND đã bác bỏ quan điểm nêu trên. Cho dù trong quá trình
thực hiện hai chức năng này, chúng tơi thấy rằng có một số nội dung đã đan xen,
liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau, nhưng khơng vì thế mà phủ nhận tính
độc lập của chúng cả về nội dung, hình thức và phạm vi áp dụng.
Quan điểm thứ hai, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa
các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà
2

Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình cơng tác kiểm sát (tập 1), Nxb Cơng an nhân dân,
Hà nội, tr. 87.
3
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Điều 3.
4
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001, Điều 137
5
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.


7
nước, bảo vệ trật tự pháp luật 6 . Quan điểm này được đưa vào chương trình giảng
dạy chính thức của Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc
đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, tổng kết các chuyên đề trước đây của
VKSND. Quan điểm này cho rằng, quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và

pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, TTHS, cùng với sự phát
triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực
dân sự, tố tụng dân sự và ngày nay tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng tư
pháp khác7. Theo quan điểm này, khái niệm quyền công tố được xác định là quyền
của Nhà nước giao cho VKS thực hiện theo luật định. Nội dung quyền công tố là
tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc trưng theo luật định mà VKS có trách nhiệm
thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp. Quyền công tố là một nội dung của hoạt
động thực hiện chức năng của VKSND trong lĩnh vực tố tụng dân sự, TTHS và các
lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm
tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất 8.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và so sánh với quy định của pháp luật hiện
hành, chúng tôi cho rằng, quan điểm này đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và
phạm vi của quyền công tố dẫn đến sự xố nhịa ranh giới và tính đặc thù giữa TTHS
và các lĩnh vực tố tụng khác. Đặc trưng của TTHS là phát sinh, tồn tại và chấm dứt
không phụ thuộc vào ý chí của những người tham gia tố tụng; còn tố tụng dân sự
được tiến hành với nguyên tắc đặc trưng là: quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự nên hoạt động tố tụng này phát sinh, tồn tại và chấm dứt phụ thuộc vào ý
chí của đương sự. Ý chí, lợi ích của bản thân đương sự là động lực chủ yếu của hoạt
động tố tụng dân sự, nó quyết định sự vận động của hoạt động tố tụng. Đồng thời,
quan điểm nêu trên đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng của VKS
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
Quan điểm thứ ba, quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho các cơ quan
tiến hành tố tụng sử dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài
hình sự đối với người phạm tội. Hay nói cách khác, quyền công tố do các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
hình sự và thi hành án hình sự. Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát
viên (KSV) và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định

6


Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), tlđd, tr.87.
Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
Nxb tư pháp, Hà Nội, tr.25.
8
Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), tlđd, tr.88.
7


8
người phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với
người phạm tội9.
Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc của
TTHS: tội phạm khi được thực hiện đều xâm phạm đến lợi ích chung, vì vậy người
phạm tội phải bị truy cứu TNHS và bị trừng trị bằng các chế tài hình sự. Việc truy
cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội được
Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS, Tòa án nhân dân (TAND) và cơ quan thi hành án
tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định. Hiểu khái niệm
quyền công tố như quan điểm nêu trên, theo chúng tôi là quá rộng đã dẫn đến sự
nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi
một chức năng cơ bản nêu trên được thực hiện bởi một hoặc nhiều chủ thể, tuỳ
thuộc vào từng giai đoạn của quá trình TTHS. Như trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự, cả CQĐT và VKS đều là cơ quan tiến hành tố tụng và cùng thực hiện chức
năng buộc tội đối với một cá nhân cụ thể. Nhưng những hoạt động buộc tội của
CQĐT không phải là thực hiện quyền cơng tố mà đó chỉ là những hoạt động nhằm
hỗ trợ cho cơ quan được Nhà nước giao thực hiện quyền công tố là VKS thực hiện
sự buộc tội đối với cá nhân bị khởi tố. Ngồi ra, theo quan điểm nêu trên thì khơng
chỉ CQĐT và cơ quan công tố mà cả cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án đều là
chủ thể thực hành quyền công tố, tức là các chủ thể này cũng thực hiện sự buộc tội
đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.

Quan điểm thứ tư, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan VKS) để phát hiện tội
phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có
chức năng thực hành quyền cơng tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy
đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết
định truy tố bị can ra trước Tồ án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tồ10 . Theo
quan điểm này thì quyền cơng tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu TNHS đối
với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm. Quyền cơng tố
chỉ có trong lĩnh vực TTHS, quyền này ở nước ta được Nhà nước giao cho VKSND
thực hiện mà đến nay không có cơ quan nào có thể thay thế được.
Bên cạnh đó cịn nhiều quan điểm khác về quyền cơng tố. Tuy nhiên, xuất
phát từ căn cứ khoa học, các quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt động của các cơ
quan bảo vệ pháp luật cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công tố ở các
9

Lê Hữu Thể (2008), tlđd, tr.26
Lê Hữu Thể (2008), tlđd, tr.40.

10


9
nước trên thế giới, chúng tôi cho rằng, để làm rõ khái niệm quyền công tố, cần
khẳng định một số vấn đề sau:
- Quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, quyền nhân danh Nhà nước
thực hiện nhiệm vụ, chức năng riêng biệt; ở Việt Nam, Nhà nước giao cho VKS
thực hiện chức năng này.
- Quyền công tố thực chất là quyền truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Để làm được điều này, cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền

cơng tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác
định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước
Tịa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa.
- Quyền cơng tố mang tính cụ thể, tức là chỉ xuất hiện khi có một hành vi cụ
thể nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm xảy ra và đối với người phạm tội cụ thể,
không tồn tại quyền công tố chung chung.
Trên cơ sở những khẳng định trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ tư
bởi quyền cơng tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật
mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền không thể tách rời với việc nhân danh
Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại những hành vi vi phạm pháp luật
nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực TTHS.
Xuất phát từ lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới nói chung cũng như lịch
sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam nói riêng, quyền cơng tố ln luôn gắn liền với
bản chất Nhà nước, là một bộ phận cấu thành của quyền lực Nhà nước, đúng như
C.Mác nhận định: Quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với người
phạm tội và mối quan hệ ấy do chính hành vi phạm tội làm phát sinh ra. Sự trừng phạt
là quyền của Nhà nước không thể chuyển giao cho tư nhân. Mọi quyền của Nhà
nước đối với người phạm tội, đồng thời cũng là nghĩa vụ của người đó đối với Nhà
nước bởi vì bản chất phạm tội của hành vi không phải là việc xâm phạm đến rừng
cây với tính cách là thứ vật chất mà là việc xâm phạm đến hệ thần kinh của Nhà
nước, đến quyền sở hữu11 .
Quan điểm thứ tư này phù hợp với quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà
nước ta qua các thời kỳ khác nhau khẳng định: THQCT là một chức năng của
VKSND và chỉ trong lĩnh vực hình sự. Quan điểm của Đảng được thể chế hoá qua
các quy định của pháp luật tại: Điều 138 Hiến pháp năm 1980 12, Điều 1, 3 Luật tổ
chức VKSND năm 1981 13.

11

Mác, C (1978), Những cuộc tranh luận về luật cấm trộm củi rừng, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 218-219.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Điều 138.
13
Luật tổ chức VKSND năm 1981, Điều 1, Điều 3.
12


10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
ngày 4/2/1991 chỉ đạo việc xây dựng Hiến pháp năm 1992 đã kết luận VKSND thực
hiện hai chức năng, đó là: THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật14 . Kết luận
này đã được thể chế hóa tại Điều 137 Hiến pháp 1992 15 và Điều 1 Luật tổ chức
VKSND năm 1992 16 . Từ đó hai chức năng của VKSND đã được phân định và khác
biệt. Đặc biệt là chức năng THQCT đã trở nên rõ ràng hơn cả trong nghiên cứu lý
luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tại Báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật – Quốc hội khóa X về dự án Luật tổ
chức VKSND sửa đổi xác định: “...hoạt động công tố chỉ trong lĩnh vực hình sự, bắt
đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án đến truy tố bị can và tranh tụng tại phiên tịa...”17.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Quyền công tố là quyền
của Nhà nước truy cứu TNHS đối với hành vi phạm tội và người phạm tội. Nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện quyền công tố (ở Việt Nam, Nhà nước giao
cho VKSND thực hiện). Cơ quan được giao nhiệm vụ có trách nhiệm bảo đảm việc
thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ
sở đó truy tố bị can ra trước Tồ án và thực hiện sự buộc tội đó tại phiên tịa.
- Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền cơng tố
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý về quyền công tố, để chứng minh cho
luận điểm của mình, mỗi nhà khoa học đều có những lý luận riêng để đưa ra những
luận điểm về đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố. Đối tượng, nội
dung và phạm vi của quyền cơng tố có thể hiểu như sau:
+ Đối tượng của quyền công tố được hiểu là cái mà quyền công tố tác động
vào nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó, ví dụ như để nhằm buộc được tội của

người phạm tội để trừng phạt; để nhằm khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm hại….
Với quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện sự
buộc tội (thực hiện việc truy cứu TNHS) đối với người phạm tội, chúng tôi quan
niệm đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội 18 .
+ Nội dung của quyền cơng tố: Có thể nói, có bao nhiêu quan điểm về quyền
cơng tố thì cũng có bấy nhiêu quan niệm về nội dung của quyền công tố. Tuy nhiên,
trên cơ sở quan điểm của mình về quyền cơng tố đã được nêu ở trên, chúng tôi đồng

14

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII ngày 4/2/1991 chỉ đạo việc xây
dựng Hiến pháp năm 1992.
15
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Điều 137.
16
Luật tổ chức VKSND năm 1992, Điều 1
17
Ủy ban Pháp luật Quốc hội khóa X (2002), Báo cáo thẩm tra của ủy ban Pháp luật về dự án Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), Hà Nội.
18
Lê Hữu Thể (2008), tlđd, tr.44.


11
ý với quan điểm cho rằng, nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người
đã thực hiện hành vi tội phạm19.
Ngoài ra, khi bàn về vấn đề nội dung quyền cơng tố, có những ý kiến cho
rằng, nội dung của quyền công tố được hiểu là tổng hợp tất cả các quyền năng pháp
lý do luật định nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử
lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người

vô tội. Chúng tôi cho rằng, quan niệm này đã nhầm lẫn nội dung quyền công tố sang
nội dung hoạt động thực hành quyền công tố.
+ Phạm vi của quyền công tố: Xuất phát từ quan điểm coi quyền công tố là
quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người đã thực hiện hành
vi phạm tội, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, quyền cơng tố chỉ có trong
lĩnh vực TTHS 20. Theo đó, quyền cơng tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và
kết thúc khi bản án kết tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội đó có hiệu lực
pháp luật, khơng bị kháng nghị. Khi có hành vi phạm tội xảy ra, bổn phận của cơ
quan công tố là phải tiến hành ngay các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật
nhằm phát hiện tội phạm và người phạm tội, xác định các căn cứ để kết tội họ.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý
thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện”21 . Để thực hiện
quyền cơng tố thì VKS phải sử dụng các quyền năng thuộc nội dung của quyền
công tố trong suốt quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Việc xác định rõ quyền công tố và thực hành quyền cơng tố có ý nghĩa khơng
chỉ giúp phân định rõ ràng, đúng đắn chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của VKSND
trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, trong mối quan hệ với các cơ quan bảo
vệ pháp luật nói riêng mà cịn giúp cho q trình nhận thức được thống nhất và hoạt
động thực tiễn có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cải cách tư pháp.
Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người có hành vi phạm tội; quyền cơng tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS; phạm
vi của quyền cơng tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra, tiếp diễn suốt từ khởi tố, điều tra
đến truy tố bị can ra Tòa, tranh tụng tại phiên tòa và kết thúc bằng một bản án có hiệu
lực pháp luật (hoặc khi có quyết định đình chỉ trong trường hợp vụ án bị đình chỉ). Để
thực hiện được quyền cơng tố đó, Nhà nước ban hành pháp luật quy định các quyền
năng pháp lý khác nhau để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong từng
19


Lê Hữu Thể (2008), tlđd, tr. 44.
Lê Hữu Thể (2008), tlđd, tr. 46.
21
Trung tâm từ điển học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 973.
20


12
giai đoạn khác nhau của TTHS, đó là thực hành quyền công tố. Ở Việt Nam, căn cứ
vào các quy định của Hiến pháp, luật và hoạt động thực tiễn thì từ trước đến nay
quyền này được giao cho duy nhất VKS. Vậy, chủ thể thực hành quyền công tố ở
Việt Nam là VKSND.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố là
việc Nhà nước tổ chức và giao cho cơ quan chuyên trách (ở Việt Nam là VKSND) các
quyền năng pháp lý để thực hiện trong tất cả giai đoạn của TTHS từ tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến quá trình điều tra, truy tố,
xét xử nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội và áp
dụng đối với họ các chế tài hình sự cần thiết.
- Phạm vi thực hành quyền công tố:
Từ khái niệm trên có thể thấy VKS có trách nhiệm thực hành quyền công tố
trong tất cả các giai đoạn của TTHS. Quyền công tố là cơ sở của thực hành quyền
công tố, quyền cơng tố có tồn tại thì mới có thực hành quyền công tố cho nên để
xem xét phạm vi của thực hành quyền cơng tố thì trước hết phải xem xét đến phạm
vi của quyền công tố. Như đã phân tích ở trên, phạm vi quyền cơng tố bắt đầu từ khi
tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án kết tội đối với người phạm tội đó có
hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị. Thực hành quyền công tố cũng phát sinh
kể từ thời điểm phát hiện hành vi phạm tội hoặc có thơng tin về hành vi có dấu hiệu
tội phạm thơng qua việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến
nghị khởi tố; tiếp đó đến các giai đoạn TTHS. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều
trường hợp mặc dù có hành vi phạm tội xảy ra nhưng vụ án không được khởi tố;

điều này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau cho nên cơ quan
tố tụng không áp dụng được bất cứ một biện pháp thực hành quyền công tố nào.
Khi CQĐT kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố, VKS
xét thấy có đủ căn cứ thì phải truy tố bị can ra trước Tịa bằng bản Cáo trạng, có
nghĩa là đã kết thúc hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự và chuyển sang một giai đoạn khác là giai đoạn thực hành quyền công
tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Như vậy có thể xác định được thực hành
quyền cơng tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự bắt đầu từ khi Tịa án có thẩm
quyền nhận và thụ lý hồ sơ vụ án kèm theo quyết định truy tố của VKS chuyển đến.
Giai đoạn này sẽ kết thúc khi bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật.
Xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng thực hiện chức năng xét xử của tòa án
dưới hình thức phiên tịa xem xét và giải quyết vụ án hình sự, có nghĩa là tịa án trên
cơ sở các chứng cứ được kiểm tra tại phiên tòa đưa ra phán quyết về bị cáo có tội
hay khơng có tội. Đây là điểm mấu chốt phân biệt xét xử sơ thẩm với xét xử phúc


13
thẩm. Phiên tịa sơ thẩm chỉ có thể tiến hành khi có quyết định truy tố của VKS và
có đủ điều kiện để tiến hành phiên tòa.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm được chia thành hai giai đoạn nhỏ là giai đoạn
chuẩn bị xét xử và phiên tòa sơ thẩm. Hoạt động TTHS là một tiến trình với nhiều
giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn tố tụng có tính độc lập riêng như tính đặc trưng
về chủ thể, đặc trưng về hành vi tố tụng, hình thức tố tụng, thời hạn tố tụng, văn bản
kết thúc giai đoạn tố tụng, nguyên tắc tố tụng… nhưng các giai đoạn tố tụng đều có
mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau, giai đoạn trước làm tiền đề cho giai đoạn
sau, giai đoạn sau bổ sung, kiểm tra giai đoạn trước tạo thành tiến trình tố tụng
thống nhất.
Điều 3, Quy chế Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự quy định: Cơng tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
bắt đầu từ khi VKS chuyển bản Cáo trạng hoặc quyết định truy tố (đối với vụ án rút

gọn) cùng hồ sơ vụ án đến Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án hoặc quyết định
của Tịa án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng cáo kháng nghị22 .
Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: Khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, VKSND có nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
Đọc cáo trạng, quyết định của VKSND liên quan đến việc giải quyết vụ án
tại phiên tòa.
Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm.
Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án của VKSND tại phiên tòa giám
đốc thẩm, tái thẩm23.
Trên cơ sở những phân tích, nhận định và đánh giá nêu trên có thể đưa ra
khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố
để buộc tội người phạm tội tại phiên Tòa ở cấp xét xử sơ thẩm, được thực hiện từ
khi VKS chuyển bản cáo trạng cùng hồ sơ vụ án hình sự sang tịa và kết thúc khi
Tịa án ra quyết định,bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị.

22

Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (ban hành kèm theo quyết định
số 960/qđ-vkstc ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
23
. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.


14
1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự

Nhà nước giao cho VKS thay mặt nhà nước thực hành quyền công tố, theo
đó VKS được sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công
tố để thực hiện việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Đây là đặc
điểm cơ bản nhất của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là một hoạt động áp dụng pháp
luật vào thực tế nhằm truy cứu TNHS đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Hoạt động này chỉ do VKS tiến hành bởi VKS là cơ quan duy nhất đại diện Nhà nước
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. Để thực hiện chức năng công tố, Bộ
luật LTTHS và Luật tổ chức VKSND quy định cho VKS một hệ thống khá đầy đủ
các quyền năng pháp lý, trong đó có những quyền chỉ VKS mới được thực hiện (như
quyền quyết định truy tố bị can ra Tòa án để xét xử). Khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, VKS phải bảo đảm rằng mọi hành vi
phạm tội đều phải được đánh giá, xem xét, cân nhắc và đưa ra các biện pháp xử lý
kịp thời, đúng đắn, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Khi thực quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, VKS phải
bảo đảm rằng sự buộc tội là có căn cứ, các chứng cứ được thu thập ở các giai đoạn
trước đó phải được kiểm chứng, chứng minh tại tịa có đúng với nội dung bản cáo
trạng, các hành vi pham tội phải được phát hiện xử lý, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội. KSV kiểm chứng, chứng minh sự buộc tội của mình bằng việc
xét hỏi bị cáo, nhân chứng, bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người giám
định, xem xét, đối chiếu tài liệu của các cơ quan chuyên môn, xem xét vật chứng…
Sau khi xét hỏi nếu xét thấy việc buộc tội bị cáo là khơng có căn cứ, thì KSV
có quyền rút truy tố. Nếu việc buộc tội có căn cứ KSV bảo vệ cáo trạng bằng luận tội.
Luận tội phân tích đánh giá chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn
diện, đầy đủ, viện dẫn các chứng cứ đã được kiểm tại tòa đảm bảo sự buộc tội của
VKS (bản cáo trạng) là có căn cứ.
Luận tội của VKS làm phát sinh tranh luận giữa KSV và bị cáo, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
Đây được coi là giai đoạn “đấu lý” quan trọng nhất, giai đoạn làm việc vất vả nhất
của VKS tại phiên tòa. Bản luận tội không những là căn cứ để bị cáo, người bào

chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác
đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về tồn bộ nội dung vụ án mà VKS đã truy tố
trước Tòa án, là cơ sở để Tòa án xem xét, quyết định trong việc đưa ra phán quyết
của mình đối với người phạm tội và toàn bộ vụ án.


15
Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm của VKS bao gồm các
hành vi và các quyết định tố tụng mang tính cơng khai theo một trình tự, thủ tục,
thẩm quyền được pháp luật TTHS quy định. Mục đích của hoạt động thực hành
quyền cơng tố của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là nhằm truy cứu TNHS đối
với người đã thực hiện hành vi phạm tội, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất
lợi do các chế tài pháp luật hình sự đặt ra.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là hoạt động nhân
danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với người phạm tội, những hoạt động này
chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cùng cấp và chịu sự lãnh đạo của Viện
trưởng VKS cấp trên trực tiếp, đồng thời chịu sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của
Viện trưởng VKSNDTC. VKS cấp trên có quyền rút, hủy bỏ các quyết định cơng tố
khơng có căn cứ và trái pháp luật của VKS cấp dưới và yêu cầu ra quyết định đúng
pháp luật.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là VKS kiểm tra,
xem xét một cách toàn diện việc thu thập, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác có
liên quan đến vụ án đã được thu thập trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Quá
trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của VKS là sự đánh
giá tổng hợp các chứng cứ chứng minh tội phạm của CQĐT, VKS trong giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố và chứng cứ do VKS thu thập trong giai đoạn truy tố bao
gồm chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, nhân
thân người phạm tội… để quyết định truy cứu TNHS đối với người phạm tội dựa
trên chứng cứ có thật, liên quan đến vụ án chứ không dựa trên suy luận chủ quan.
Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm chính là việc VKS

thực hiện các hoạt động công tố nhằm thực thi quyền truy cứu TNHS, quyết định
việc buộc tội, việc gỡ tội trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự; đề xuất mức hình phạt đối với hành vi phạm tội, các biện pháp tư
pháp, các vấn đề khác trong vụ án hình sự.
Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm có đặc điểm khác
với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm. Tuy cùng một
chủ thể là VKS tiến hành nhưng thực hành quyền công tố nhằm vào việc buộc tội,
gỡ tội, đề xuất mức hình phạt đối với hành vi phạm tội, các biện pháp tư pháp, các
vấn đề khác đối với người phạm tội. Còn hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hướng đến sự tuân thủ pháp luật của Tòa án và
những người tham gia tố tụng. Nếu phát hiện có hành vi phạm pháp luật, VKS có
quyền kiến nghị, yêu cầu các chủ thể chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp
luật đã bị vi phạm.


16
1.3. Thực hành quyền công tố theo quy định pháp luật của một số nƣớc
trên thế giới
1.3.1. Khái quát việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước theo
truyền thống luật lục địa
Các nước theo truyền thống luật lục địa nhấn mạnh vai trị của Cơng tố viên.
Công tố viên là những người đại diện cho Nhà nước, khơng chỉ bảo vệ lợi ích của
Nhà nước mà còn bảo vệ quyền lợi cho người bị hại trong vụ án. Điều đó có nghĩa
Cơng tố viên khơng chỉ thực hiện chức năng buộc tội mà cịn có chức năng duy trì
sự cơng bằng và quyền lợi của xã hội.
Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Liên bang Đức là ví dụ điển hình theo truyền
thống pháp luật Châu âu lục địa. Giai đoạn xét xử sơ thẩm bắt đầu khi cơ quan công
tố chuyển hồ sơ và bản cáo trạng sang tịa. Tịa án có thời gian chuẩn bị xét xử để
nghiên cứu trước hồ sơ, nếu không đủ chứng cứ thì trả hồ sơ điều tra bổ sung, đủ
căn cứ thì quyết định đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa thực chất là sự tiếp nối của một

q trình điều tra liên tục, chứ khơng phải sự cạnh tranh giữa các bên đối trọng nhau
trong vụ án và thời điểm mấu chốt là quá trình xét hỏi. Thẩm phán chủ động xét hỏi
nhằm kiểm tra xác minh lại các chứng cứ đã thu thập được trong các giai đoạn tố
tụng trước đó, làm căn cứ cho việc ra phán quyết bản án do đó hội đồng xét xử
(HĐXX) là người hỏi chính. Cơng tố viên tham gia phiên tịa có quyền cơng bố cáo
trạng, tham gia thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng khác sau khi
HĐXX đã thẩm vấn xong. Công tố viên đề nghị giám định, yêu cầu những vấn đề
mang tính thủ tục. Sau khi chứng cứ đã được thẩm tra, kết thúc phần xét hỏi, cơng
tố viên trình bày bản luận tội, trong đó nêu tóm tắt kết quả thẩm vấn, các lập luận
qua quá trình xét xử cùng với đề nghị mức hình phạt cụ thể và các biện pháp bổ
sung. Sau cùng, cơng tố viên có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tịa
án có vi phạm pháp luật.
Ở Pháp, hệ thống cơ quan công tố chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng Tư pháp.
Nhưng theo quy định của pháp luật, Viện công tố là cơ quan truy tố tội phạm và là
cơ quan đại diện cho xã hội bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, bảo đảm việc áp
dụng đúng pháp luật, các Công tố viên được bảo đảm hoạt động độc lập, có quyền
tự do luận tội và quyền tự quyết định có truy tố hay không. Khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố Cơng tố viên có quyền tự điều tra; quyết định việc
truy tố; quyết định mở cuộc điều tra theo chế độ dự thẩm. Ngồi ra, Cơng tố viên có
quyền tự mình quyết định số phận vụ án khơng cần chuyển sang Tồ. Đây là những


17
vụ án mà hành vi phạm tội không ảnh hưởng lớn đến những giá trị nền tảng của xã
hội và nạn nhân muốn được bồi thường hơn là đòi truy tố bị cáo ra trước Tòa24 .
Ở Đức, cơ quan cảnh sát khơng có quyền kết thúc hoạt động tố tụng, khơng
có quyền ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra. Tất cả những vụ án mà
cơ quan cảnh sát đã thụ lý điều tra, sau khi kết thúc việc điều tra phải chuyển hồ sơ
vụ án sang cho Viện công tố để xem xét quyết định việc truy tố hay đình chỉ vụ án.
Khi có hồ sơ của Cảnh sát chuyển đến, Viện công tố xem xét có truy tố hay khơng

để đưa ra quyết định xử lý. Viện cơng tố có quyền tự quyết định xử lý vụ án ngay ở
trong giai đoạn truy tố mà không cần phải đưa vụ án ra truy tố trước Tồ án nếu xét
thấy hành vi phạm tội khơng cịn ý nghĩa đối với lợi ích cơng nữa thì có thể kết thúc
q trình tố tụng bằng một quyết định đình chỉ vụ án. Đối với các tội ít nghiêm
trọng, Viện cơng tố có quyền xem xét miễn truy tố nếu thấy tính chất của hành vi
phạm tội là ít nghiêm trọng và lợi ích của xã hội không đòi hỏi phải truy tố. Về việc
miễn truy tố phải đáp ứng các điều kiện: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng, nếu
được sự đồng ý của Tịa án có thẩm quyền xét xử và của bị can, Viện công tố có thể
quyết định miễn truy tố đối với bị can gắn với một trong các điều kiện: Bị can có
đóng góp nhất định cho việc khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra; bị can nộp một
khoản tiền cho một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cho Bộ Tài chính; bị can thực hiện
các hoạt động phi lợi nhuận khác... Trong trường hợp truy tố thì quyết định truy tố
của Viện công tố xác định ranh giới xét xử của Toà án. Toà án chỉ xét xử những
hành vi và bị cáo khi được Viện công tố truy tố. Tồ án khơng được xét xử những
hành vi, những người mà Viện công tố không truy tố25.
Ở Liên bang Nga: VKS nước Cộng hoà Liên bang Nga là một cơ quan có vị
trí độc lập với cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, được xây dựng theo nguyên
tắc tập trung, thống nhất. VKS chỉ phục tùng một người lãnh đạo duy nhất là Tổng
kiểm sát trưởng Liên bang; Tổng kiểm sát trưởng do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm,
bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng thống Liên bang Nga. Dưới quyền Tổng kiểm sát
trưởng Liên bang Nga có các KSV các nước cộng hồ, các vùng, khu vực, thành
phố trực thuộc Liên bang, các vùng tự trị, các khu vực tự trị, các thành phố quận,
huyện và cấp tương đương do Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga bổ nhiệm và bãi
nhiệm. Mỗi KSV đều có một hệ thống những người giúp việc
Như vậy, truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa đã cho thấy trong giai đoạn
xét xử vai trị của Cơng tố viên và luật sư không nổi bật như ở các nước Anh, Mỹ.
24

Lê Thị Tuyết Hoa (2002), “Vài nét về việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước trên thế giới”,
Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, tr. 64-68.

25
Nguyễn Thị Thu Quỳ (2013), “Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự cộng hịa liên bang Đức”, Thơng tin
khoa học Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tập 5+6, tr. 81-82.


18
Cơng tố viên gần như thụ động tại phiên tịa. Thẩm phán đóng vai trị tích cực,
khơng chỉ thực hiện chức năng xét xử mà còn thực hiện cả chức năng điều tra, chức
năng buộc tội thẩm vấn và chứng minh tội phạm và một phần nào đó chức năng bào
chữa. Việc giao trách nhiệm chứng minh cho cả ba CQĐT, công tố, xét xử tuy tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng, bảo đảm khả năng
kiểm soát tội phạm nhưng mặt khác rất dễ làm tổn thương đến lợi ích cá nhân, nhất
là bị can, bị cáo, người bị hại và những người thân thích của họ; ảnh hưởng đến tính
khách quan, cơng bằng, công khai của tố tụng.
1.3.2. Khái quát việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước theo
truyền thống luật án lệ
Quốc gia điển hình theo hệ thống luật án lệ là Anh và Hoa Kỳ. Giai đoạn xét
xử sơ thẩm bắt đầu khi cơ quan công tố chuyển bản cáo trạng và bản bào chữa của
luật sư chuyển đến tịa. Thẩm phán và bồi thẩm đồn khơng biết trước về chứng cứ.
Tại phiên tịa, Cơng tố viên trình bày cáo trạng, đưa ra lời buộc tội đối với bị cáo;
đối đáp, tranh luận với luật sư và những người tham gia tố tụng về chứng cứ buộc
tội, gỡ tội cũng như việc áp dụng pháp luật. Quá trình tranh tụng giữa các đại diện
thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa là điều kiện tiên quyết bảo
đảm sự bình đẳng giữa bị cáo, người bào chữa với công tố viên. Thẩm phán và bồi
thẩm đồn khơng xét hỏi mà chỉ nghe các bên tranh tụng và đóng vai trị như trọng
tài điều khiển sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, ra phán quyết về bị cáo
có tội hay vơ tội, nếu có tội thì tội gì và áp dụng hình phạt như thế nào. Một khi bồi
thẩm đồn tun bị cáo vơ tội thì cơ quan cơng tố khơng bao giờ được truy tố26 .
Do tính chất khắc nghiệt của tranh tụng, cơ quan cơng tố rất khó khăn, thậm
chí khơng thể tìm ra đủ chứng cứ để có thể “thắng” tại phiên tòa khi họ muốn truy

tố một bị cáo. Do đó, pháp luật khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép họ thỏa
thuận để bị cáo nhận tội. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một
số tội hay được giảm hình phạt. Cơ chế này tác động tới trình tự tố tụng vì khi bị
cáo nhận tội, dù ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, toàn bộ thủ tục tố tụng đối với bị
cáo sẽ được thay đổi theo hướng khơng cịn “tranh tụng” nữa và lúc đó thẩm phán
sẽ chỉ phải thẩm tra lại hồ sơ vụ án để quyết định hình phạt.
Ở Anh tồn tại song song hai hệ thống pháp luật: Hệ thống pháp luật theo án
lệ là Anh – xứ Wales và hệ thống pháp luật gần giống pháp luật của Pháp và Đức là
xứ Scotland. Hệ thống công tố theo truyền thống luật án lệ, đó là hệ thống Cơng tố
Hồng gia Anh. Nhiệm vụ chủ yếu của Cơng tố Hồng gia là truy tố tội phạm trên

26

Viện Khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (1999), “Chuyên đề Tư pháp hình sự so sánh”, Thông tin khoa pháp lý , tr123


19
cơ sở sử dụng các tài liệu cung cấp bởi Cảnh sát, ngồi ra cơ quan này cịn có quyền
khởi tố đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp.
Ở Hoa Kỳ, hệ thống cơ quan công tố được chia làm hai cấp, cấp bang và liên
bang. Đứng đầu Viện công tố liên bang là Tổng công tố do Tổng thống Hoa Kỳ bổ
nhiệm và có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ Tổng thống. Dưới Viện công tố liên bang là
các Viện công tố bang. Công tố viên ở Hoa kỳ có thẩm quyền rất rộng trong việc
truy tố hay không truy tố và quyết định của Công tố viên không bị xét lại bởi thẩm
phán hay viên chức tư pháp hình sự nào khác.
Ở các nước theo hệ thống luật án lệ, trong giai đoạn xét xử Công tố viên
đóng vai trị là chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, chức năng bào chữa thuộc về
người bị buộc tội và người bào chữa của họ, Tòa án giữ vai trị trung lập khơng có
trách nhiệm chứng minh sự thật vụ án. Quá trình buộc tội và gỡ tội có đối kháng cao
nên trở thành cơng cụ chống oan sai hiệu quả.

1.3.3. Khái quát việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước Châu Á
Xem xét việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ở một
số quốc gia Châu Á có một số điểm tương đồng với Việt Nam về văn hóa, lịch sử,
thậm chí cả một số điểm về hệ thống chính trị, chế độ Nhà nước, cơ cấu bộ máy…
đó là Trung Quốc: Cơ quan thực hành quyền công tố ở Trung Quốc hiện nay là
VKSND được tổ chức từ Trung ương xuống địa phương.
Giai đoạn xét xử được bắt đầu khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án cùng bản
cáo trạng do VKS chuyển đến Tòa. Sau đó, một Thẩm phán sẽ được chỉ định để
thẩm tra các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào kết quả thẩm tra,
Tòa án ra một trong các quyết định: Quyết định thụ lý vụ án; Quyết định không thụ
lý vụ án; Quyết định trả lại vụ án cho VKS; Yêu cầu VKS bổ sung tài liệu.
Theo quy định của luật TTHS Trung Quốc trước năm 1996 thì KSV phải
chuyển tất cả chứng cứ thu thập được đến Tòa án và người bào chữa có thể được
xem xét các chứng cứ trước khi xét xử. Tuy nhiên, quy định này đã dẫn đến tình
trạng các Thẩm phán xem xét chứng cứ trước khi xét xử và quyết định hậu quả pháp
lý trước khi mở phiên tịa xét xử. Chính vì vậy để đảm bảo sự tập trung của Thẩm
phán vào giai đoạn xét xử và để hạn chế hiện tượng “quyết định trước, xét xử sau”,
Luật TTHS Trung Quốc năm 1997 không quy định thủ tục tố tụng trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử và khơng cho phép KSV chuyển tồn bộ hồ sơ vụ án cùng các
chứng cứ đến phiên tòa trước khi xét xử mà KSV phải nộp danh sách chứng cứ,
danh sách các nhân chứng và bản sao hoặc ảnh của các chứng cứ quan trọng đến


×