BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
HỒ NGỌC QUÂN
HỎI CUNG BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
HỎI CUNG BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Mã số : 60380104
Người Hướng Dẫn Khoa Học: TS. VÕ THỊ KIM OANH
Học viên: HỒ NGỌC QUÂN– Cao học Luật - K19
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi, các số
liệu, trích dẫn và các ví dụ trình bày trong Luận văn là trung thực. Kết quả nêu
trong Luận văn chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu khoa
học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hồ Ngọc Quân
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CA TPHCM
: Cơng an Thành Phố Hồ Chí Minh
CQCSĐT
: Cơ quan Cảnh sát điều tra
CQĐT
: Cơ quan điều tra
ĐTV
: Điều tra viên
NCTN
: Người chưa thành niên
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND TC
: Viện kiểm sát Nhân dân tối cao
VKSND
: Viện kiểm sát Nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỎI CUNG BỊ CAN LÀ
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN ........................................................................................ 6
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về hỏi cung bị can là ngƣời chƣa thành niên ... 6
1.1.1. Khái niệm về hỏi cung bị can là người chưa thành niên ...................................... 6
1.1.2. Đặc điểm hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên.......................... 11
1.1.3.Ý nghĩa hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên .............................. 14
1.2. Cơ sở quy định thủ tục hỏi cung bị can là ngƣời chƣa thành niên ................... 16
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự đối với người chưa
thành niên............................................................................................................................... 16
1.2.2. Một số công ước liên quan mà Việt Nam là thành viên ........................................ 19
1.2.3. Quyền công dân, quyền con người được Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam quy định ...................................................................................................... 20
1.2.4. Nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam ......................................... 22
1.2.5. Xuất phát từ đặc điểm của người chưa thành niên ................................................ 25
1.3 Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về hỏi cung bi
can là ngƣời chƣa thành niên............................................................................................ 26
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi Bộ luật
tố tụng hình sự 1988 ra đời ................................................................................................. 26
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự 2003 ban hành. 28
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003 VÀ BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ HỎI CUNG BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................................................................ 30
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015
về triệu tập bị can và thực tiễn áp dụng ......................................................................... 30
2.1.1. Về triệu tập bị can ...................................................................................................... 30
2.1.2. Thực tiễn áp dụng triệu tập bị can ........................................................................... 35
2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015
về áp giải bị can và thực tiễn áp dụng ............................................................................. 38
2.2.1. Quy định Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về áp
giải bị can .............................................................................................................................. 38
2.2.2. Thực tiễn áp dụng áp giải bị can ............................................................................. 41
2.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015
về thủ tục hỏi cung bị can là ngƣời chƣa thành niên và thực tiễn áp dụng ............ 43
2.3.1. Quy định Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về thủ
tục hỏi cung bị can là người chưa thành niên ................................................................... 43
2.3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục hỏi cung bị can là người chưa
thành niên............................................................................................................................... 56
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỎI CUNG BỊ CAN LÀ
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN ........................................................................................ 70
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can là ngƣời chƣa thành niên ........... 70
3.2 Các giải pháp cụ thể ..................................................................................................... 73
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................................... 73
3.2.2. Giải pháp khác............................................................................................................ 81
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm qua cho thấy, kể từ khi thực
hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm
2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị ban hành “về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nghị quyết số 08-NQ TW ngày
02 01 2002 của ộ Ch nh trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ch hợp pháp của bị can, bị cáo trong
TTHS nói chung và bị can, bị cáo là người chưa thành niên được mở rộng hơn và
được coi trọng rất nhiều so với trước đây và ngày một đảm bảo hơn. Ch nh sách của
Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm
pháp luật, nhất là những trường hợp người chưa thành niên phạm tội. Điều này càng
thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với trẻ em và
được cụ thể hóa bằng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để có thể kết
luận người chưa thành niên là người phạm tội thì cần phải có bản án kết tội đã có
hiệu lực pháp luật của cơ quan Tòa án.
ản án là kết quả của một quá trình TTHS
của các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử người
chưa thành niên. Tất cả những hoạt động này ảnh hưởng, liên quan trực tiếp đến các
quyền và lợi ch hợp pháp của người chưa thành niên khi họ tham gia tố tụng với tư
cách là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và đến t nh khách quan, t nh pháp lý của
bản án. ởi lẽ đó, ch nh sách hình sự cịn có nội dung thứ hai là những nguyên tắc,
tư tưởng chỉ đạo, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị can, bị cáo là người chưa
thành niên. Vấn đề này được quy định ở Chương XXXII
LTTHS năm 2003 quy
định về thủ tục TTHS là người chưa thành niên và LTTHS 2015 sửa đổi, bổ sung
quy định tại Chương XXVIII.
Xuất phát từ cở sở lý luận của ch nh sách hình sự được ghi nhận trong Cơng
ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em “Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ
em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý
trước cũng như sau khi ra đời”1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm
2013 ghi nhận tại Điều 20 “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
1
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, 1989.
2
được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Ch nh vì vậy hoạt động điều tra đối với người chưa thành niên phạm tội nói
chung và hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên nói riêng cần phải
tuân thủ theo các quy định của pháp luật TTHS. Hỏi cung bị can là một trong những
hoạt động điều tra do cơ quan điều tra thực hiện, được tiến hành theo trình tự, thủ
tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, nhằm để thu thập đầy đủ, ch nh xác,
khách quan lời khai của bị can về toàn bộ sự thật của vụ án, hành vi phạm tội của bị
can cũng như các tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa là cơng tác điều tra
và phịng ngừa tội phạm. Tuy nhiên quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật còn nhiều
hạn chế, vấn đề bảo đảm quyền con người nhất là quyền bào chữa của bị can, bị cáo
là người chưa thành niên, chưa bảo đảm các quyền và lợi ch hợp pháp của họ dẫn
đến việc giải quyết những vụ án này không đạt hiệu quả. ên cạnh đó, khơng t cơ
quan và người tiến hành tố tụng đã không tuân thủ theo những quy định của pháp
luật liên quan hỏi cung bị can là người chưa thành niên, dẫn đến quyền và lợi ch
hợp pháp của người chưa thành niên bị xâm hại, một số quy định của pháp luật tố
tụng còn vướng mắc, bất cập. Vẫn cịn tình trạng bức cung, mớm cung, dùng nhục
hình đối với bị can là người chưa thành niên dẫn đến oan, sai, vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng, xâm hại đến quyền và lợi ch hợp pháp của bị can là người chưa
thành niên, gây bức xúc trong dư luận nhân dân, chưa đáp ứng đòi hỏi của tiến trình
cải cách tư pháp ở Việt Nam. Hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên,
ngoài việc sử dụng chiến thuật, nghiệp vụ hỏi cung, người có thẩm quyền hỏi cung
cần phải có thái độ, hành vi cũng như sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới
t nh, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành của họ, vừa bảo đảm thủ tục tố tụng
vừa bảo đảm quyền của người chưa thành niên không bị vi phạm, đây là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn nên việc nghiên cứu là cần thiết, vì vậy tác giả chọn vấn
đề “Hỏi cung bị can là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam”
làm đề tài luận văn.
2 Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về vấn đề người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự
trong thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu như:
3
- Luận văn thạc sỹ Luật “ ảo đảm quyền bảo chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của Nguyễn
Hữu Thế Trạch, Trường Đại học Luật TP.HCM (năm 2009)
- Luận văn thạc sỹ Luật “ ảo đảm quyền con người của người chưa thành
niên phạm tội bằng các quy định về hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của Lê
Vũ Huy, Trường Đại học Luật TP.HCM (năm 2011)
-
ắt, tạm giữ, tạm giam là người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng
hình sự Việt Nam” của Võ Thị Thanh Thúy, Trường ĐH Luật TP.HCM (năm 2011)
- Luận văn thạc sỹ Luật “Mở rộng và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo chưa
thành niên trong ộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 trên cơ sở Việt Nam
gia nhập công ước về quyền trẻ em” của Phan Thị Than Tâm, Trường Đại học Luật
TP.HCM (năm 2009)
- Khóa luận cử nhân luật “Hỏi cung trong tố tụng hình sự Việt Nam” của
Nguyễn Minh Tuấn, trường ĐH Luật TP.HCM (năm 2012)
Ngồi ra cịn một số bài viết của một số tác giả trên các báo, tạp ch chuyên
ngành liên quan người chưa thành niên phạm tội, tuy nhiên các cơng trình nghiên
cứu trên chỉ đi sâu nghiên cứu các kh a cạnh khác nhau về người chưa thành niên
phạm tội như bảo đảm quyền con người; bắt, tạm giữ, tạm giam là người chưa thành
niên phạm tội…hoặc nghiên cứu về chế định Hỏi cung trong tố tụng hình sự nhưng
với mức độ rộng hơn bao gồm nhiều đối tượng bị hỏi cung, mà chưa có một cơng
trình nghiên cứu khoa học độc lập nào nghiên cứu chuyên sâu và đầy đủ về Hỏi
cung bị can là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam.
3 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu và phân t ch cả về mặt lý luận và thực tiễn về hoạt
động hỏi cung bị can là người chưa thành niên, nhằm đánh giá về hoạt động này, chỉ
ra những bất cập, vướng mắc cũng như các nguyên nhân chủ quan, khách quan từ
đó đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng và đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành
niên trước yêu cầu cải cách tư pháp.
Với mục đ ch trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân t ch và làm rõ về mặt lý luận về hỏi cung bị can là người chưa thành
niên như: Hỏi cung bị can, vai trò, ý nghĩa, đặc điểm hỏi cung bị can là người chưa
thành niên, nguyên tắc hỏi cung bị can là người chưa thành niên, lược sử hình thành
về các quy định của pháp luật TTHS về hỏi cung bị can là người chưa thành niên,
4
phân biệt hỏi cung với bức cung, mớm cung, dùng nhục hình…quyền của người
chưa thành niên trong pháp luật Việt Nam và Quốc tế.
- Phân tích các quy định của pháp luật TTHS về hỏi cung bị can là người
chưa thành niên để phát hiện những điều hợp lý và hạn chế của pháp luật TTHS,
trong đó có sự so sánh giữa quy định về hỏi cung bị can là người chưa thành niên
trong
LTTHS 2003 và
LTTHS 2015, từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về hỏi cung bị can là người chưa thành niên.
- Thu thập một số tài liệu liên quan quan quyền trẻ em, một số quy định của
pháp luật quốc tế, công ước quốc tế liên quan quyền của người chưa thành niên, qua
đó so sánh đánh giá việc pháp điển hóa vào luật tố tụng hình sự nước ta về bảo đảm
quyền của người chưa thành niên thông qua các thủ tục tố tụng, trong đó có hoạt
động hỏi cung bị can là người chưa thành niên.
- Nghiên cứu, đánh giá về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự
liên quan hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
Việt Nam, chỉ ra những vướng mắc, bất cập từ đó đề xuất, kiến nghị nhằm hồn
thiện quy định của pháp luật và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động hỏi cung bị can là người chưa thành niên trước yêu cầu cải cách tư pháp.
4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Hỏi cung bị can là người chưa thành niên
trong Tố tụng Hình sự Việt Nam. Theo quy định của pháp luật, ngoài Điều tra viên,
chủ thể ch nh tiến hành hoạt động hỏi cung bị can thì một số chủ thể khác được
pháp luật TTHS quy định được tiến hành hỏi cung bị can trong những trường hợp
cần thiết. Tuy nhiên đây là một hoạt động khá nhạy cảm và phức tạp, ch nh vì vậy
trong phạm vi nghiên cứu đề tài, luận văn chủ yếu đề cập tới những số liệu, vụ án
thực tiễn trong lực lượng công an làm luận cứ nhằm chứng minh cho các luận điểm
mà tác giả đưa ra. Mặt khác, do yêu cầu đảm bảo b mật về công tác nghiệp vụ cũng
như một số tài liệu nằm trong danh mục tài liệu mật nên một số vụ án, số liệu tác
giả không tr ch dẫn nguồn và cơ quan cung cấp.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy
vật của triết học Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Ch Minh, các quan điểm, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về thủ tục tố tụng là người chưa thành niên
trong đó có hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên nhằm tiếp cận, lý
giải và đánh giá vấn đề nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện.
5
+ Phương pháp cụ thể:
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân t ch, tổng hợp, phương pháp thống kê, so
sánh, kinh nghiệm thực tiễn…
5 Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Trên cơ sở phân t ch các khái niệm về hỏi cung bị can, khái niệm về bị can là
người chưa thành niên, tác giả đưa ra khái niệm về hỏi cung bị can là người chưa
thành niên, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành
niên. Phân t ch các quy định của pháp luật về triệu tập bị can, áp giải bị can cũng
như thủ tục hỏi cung bị can (trong đó có so sánh giữa quy định LTTHS 2003 và
BLTTHS 2015); phân t ch một số công ước liên quan người chưa thành niên mà
Việt Nam là thành viên cũng như các quy định trong Hiến Pháp 2013 về các quyền
của công dân cũng như quy định về thủ tục tố tụng có liên quan; chỉ ra những tồn
tại, vướng mắc về thực trạng quy định pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật
liên quan hỏi cung bị can là người chưa thành niên, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến
nghị có t nh khoa học và khả thi nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng
như nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên trong
pháp luật TTHS Việt Nam.
6 Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bố cục
luận văn chia thành 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về hỏi cung bị can là người chưa thành niên.
Chương 2. Quy định của ộ luật tố tụng hình sự 2003 và ộ luật tố tụng hình
sự 2015 về hỏi cung bị can là người chưa thành niên và thực tiễn áp dụng.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can là người chưa
thành niên.
6
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ HỎI CUNG BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về hỏi cung bị can là ngƣời chƣa
thành niên
1.1.1 Khái niệm về hỏi cung bị can là người chưa thành niên
Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự bao gồm các
hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan nhà
nước và các tổ chức khác. Trong đó giai đoạn điều tra là giai đoạn quan trọng trong
hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành bởi cơ quan điều tra có thẩm quyền theo
nguyên tắc luật định nhằm phát hiện, thu thập, đánh giá và củng cố chứng cứ góp
phần khám phá ra sự thật vụ án. Hoạt động xét xử của Tòa án có được bảo đảm hay
khơng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng điều tra và việc tuân thủ pháp luật trong
hoạt động điều tra.
Để tiến hành thu thập chứng cứ, trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra có
quyền tiến hành các hoạt động điều tra khác nhau theo quy định của luật tố tụng
hình sự hiện hành trong đó có hoạt động hỏi cung bị can được coi là hoạt động điều
tra thiết yếu, phổ biến và đóng vai trị quan trọng nhất định trong tiến trình điều tra
vụ án hình sự.
-
Khái niệm về hỏi cung bị can
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về thuật ngữ Hỏi cung bị can. Theo từ điển
Luật học, hỏi cung được định nghĩa như sau: “Một hoạt động tố tụng hình sự do
điều tra viên tiến hành để lấy lời khai của bị can về các tình tiết của các hành vi
phạm tội để thu nhập thơng tin chính xác, khách quan, làm sáng tỏ những vấn đề
cần chứng minh đối với vụ án và bị can”.2 Theo khoản 1,Điều 183 BLTTHS 2015
thì “Việc hỏi cung bị can do ĐTV tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị
can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó”
nhưng đây khơng hồn tồn được coi là khái niệm về hỏi cung bị can bởi định nghĩa
này không phản ánh đặc điểm, bản chất của hoạt động này mà chỉ làm rõ chủ thể có
thẩm quyền, thời điểm, địa điểm tiến hành hỏi cung.
Dưới góc độ khoa học điều tra, sách chun khảo chiến thuật điều tra hình sự
của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Huy Thuật đưa ra định nghĩa hỏi cung như sau:
“hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra hình sự do những người theo luật định
2
Bộ tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb tư pháp, tr.213.
7
tiến hành nhằm mục đích thu thập theo trình tự TTHS lời khai của bị can về vụ án,
hành vi và mức độ phạm tội của bị can và đồng phạm và những tin tức, tài liệu khác
mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm”.3
Trong định nghĩa này, tác giả nêu rõ mục đ ch của hoạt động hỏi cung, nội dung chi
tiết đối tượng của hoạt động hỏi cung hướng tới.
Cịn dưới cái nhìn của tâm lý học, tác giả Đặng Thanh Nga lại quan niệm:
“Hoạt động hỏi cung bị can là một dạng hoạt động điều tra sử dụng các phương
pháp tác động tâm lí đến tư duy, tình cảm, ý chí của bị can trong khn khổ pháp
luật thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và các phương pháp biểu cảm khác như
ánh mắt, cử chỉ, nét mặt giữa Điều tra viên với bị can nhằm thu thập chứng cứ do
họ đưa ra góp phần giải quyết vụ án hình sự”4. Nhìn dưới khía cạnh này, hỏi cung
bị can được hiểu là quá trình nhận thức gián tiếp của cơ quan điều tra, Điều tra viên
về vụ án thông qua tài liệu, thông tin mà bị can cung cấp. Nói cách khác, hoạt động
hỏi cung là một dạng hoạt động phức tạp gồm hai quá trình độc lập tương đối: Q
trình khai thác thơng tin và q trình nhận thức đánh giá thơng tin của Điều tra viên.
Theo giáo trình của Trường ĐH Luật TP.HCM thì hỏi cung bị can được định
nghĩa như sau: Hỏi cung bị can là hoạt động điều tra được tiến hành theo trình tự
do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác
động trực tiếp đến tâm lý bị can bằng việc đưa ra những câu hỏi nhằm thu được lời
khai đúng và đầy đủ của bị can về sự thật của vụ án và những thông tin cần thiết
khác phục vụ công tác điều tra và xử lý đối với vụ án”5 . Như vậy, theo định nghĩa
này, ngoài việc tiến hành hoạt động hỏi cung bị can phải thực hiện theo trình tự thủ
tục do luật tố tụng hình sự quy định cịn có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ
nhằm phục vụ cho hoạt động hỏi cung bị can, ngoài ra một lần nữa trong định nghĩa
này đề cập đến vấn đề “tác động tâm lý đến bị can” trong q trình hỏi cung bị can,
đó là sự tác động tâm lý của ĐTV đến bị can nhằm khai thông về mặt tư tưởng, tâm
lý của bị can để thu được lời khai đầy đủ, khách quan. Như vậy hỏi cung bị can là
một quá trình điều tra, sử dụng tổng hợp các hoạt động khác nhau như: được tiến
hành theo trình tự thủ tục do luật TTHS quy định, kết hợp sử dụng biện pháp nghiệp
3
Nguyễn Huy Thuật (2010), Chiến thuật điều tra hình sự, NXB Công an nhân dân, tr.12.
Đặng Thanh Nga (2003), “Kỹ năng giao tiếp của điều tra viên trong hoạt động hỏi cung bị can ” , Tạp chí
Luật học, số 2, tr.5.
5
Võ Thị Kim Oanh (2012), Giáo trình Luật tố tụng hình sự VN, Trường ĐH Luật TP.HCM, NXB Hồng
Đức, tr.402.
4
8
vụ và sự tác động tâm lý của người tiến hành tố tụng đến bị can nhằm thu thập lời
khai đúng và đầy đủ, phục vụ giải quyết vụ án đúng đắn
Như vậy, hỏi cung bị can được xem xét, nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Dẫu vậy, trong các quan điểm đó cho thấy vị trí của hỏi cung bị can là một
trong những biện pháp điều tra cơ bản của giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Mục đ ch
của hỏi cung bị can là thu thập chứng cứ và mô tả sự thật khách quan của vụ án một
cách đầy đủ, chính xác dựa trên lời khai của bị can về vụ án hình sự, hành vi phạm tội
của bị can cùng đồng bọn và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối
với hoạt động điều tra và phịng ngừa tội phạm. Đặc biệt, trong quá trình hỏi cung cần
kiểm tra những tài liệu là cơ sở để khởi tố bị can, làm rõ động cơ và mục đ ch phạm
tội, những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm. Trên thực tế, hỏi cung bị
can là một biện pháp khá phức tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả,
thu được chứng cứ có giá trị chứng minh cao thì ngồi việc hoạt động này phải được
tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải có sự
kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá
trình hỏi cung.
Vì vậy, từ việc nghiên cứu những quy định của Bộ luật TTHS, tác giả đưa ra
khái niệm về hỏi cung bị can như sau: “Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do Điều tra viên và những người có thẩm
quyền khác tiến hành theo trình tự do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định có sự kết
hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can bằng việc đưa
ra những câu hỏi nhằm mục đích thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi
phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ
án hình sự”.
-
Khái niệm về bị can là người chưa thành niên
Vấn đề người chưa thành niên trên thế giới đang được cộng đồng nhân loại
quan tâm ngày càng nhiều trong vài thập kỷ qua. Đã có những cam kết quốc tế và
những cố gắng bước đầu được thực hiện để đem lại cho người chưa thành niên một
tương lai tốt đẹp. Tuy nhiên, để đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về người chưa
thành niên lại điều khơng đơn giản, bởi hệ thống chính trị, điều kiện phát triển kinh
tế, nền văn hóa và hoàn cảnh sống của mỗi quốc gia khác nhau nên khái niệm về
người chưa thành niên ở mỗi quốc gia cũng được hiểu khơng giống nhau. Dưới góc
9
độ khoa học, khái niệm người chưa thành niên theo nhiều cách tiếp cận cũng như
đặc thù của mỗi chuyên ngành được hiểu và giải thích theo những cách thức riêng:
+ Theo quan điểm ngành tâm lý học là ngành thường dựa trên sự phát triển về
cảm xúc, tư duy để phân biệt các giai đoạn phát triển khác nhau của con người, người
chưa thành niên được coi là những người trong nhóm từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.Các
nhà tâm lý học cho rằng, giai đoạn này, người chưa thành niên đã nắm được các thao
tác trí tuệ phức tạp, có vốn kiến thức khá phong phú làm cho hoạt động trí tuệ của họ
trở nên bền vững và có hiệu quả. Xuất phát từ địi hỏi của nội dung chương trình, t nh
chất hoạt động học tập, học sinh cần nắm các kỹ năng suy nghĩ độc lập, nắm được
các phương pháp và kỹ thuật hoạt động trí tuệ độc lập từ đó thúc đẩy sự phát triển tư
duy ở người chưa thành niên. Họ đã hoàn toàn có khả năng tư duy lý luận và tư duy
trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo về đối tượng quen biết đã được học ở trường
hoặc chưa được học. Năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp có t nh logic hơn. Năng
lực trí tuệ tiếp tục phát triển và hoàn thiện tối đa 100% và muốn sáng tạo theo sự
tưởng tượng của mình. Đây là những đặc điểm trí tuệ nổi bật của người chưa thành
niên và được xem là những khả năng ban đầu có thể đáp ứng được những yêu cầu
trong các linh vực hoạt động của người lớn. Do đó có thể nói, bước qua tuổi 18,
người chưa thành niên có đủ năng lực trí tuệ để đảm đương trách nhiệm của một
người trưởng thành6.
+ Theo quan điểm của ngành sinh học, tương tự quan niệm của ngành tâm lý
học, người chưa thành niên là những người trong lứa tuổi từ 15 tuổi đến dưới 18
tuổi. Theo họ, đây là giai đoạn con người đang ở thời kỳ hồn thiện và chín muồi về
mặt thể chất. Đa số nữ và nam bước vào thời kỳ này đã sau dậy thì, nhưng vẫn phải
“hồn thành nốt” nhiệm vụ và khắc phục tình trạng mất cân đối do sự chín muồi
khơng đồng đều. Đến cuối thời kỳ này, trong đa số trường hợp các q trình chín
muồi sinh học cơ bản đã được hoàn thiện đến mức có thể coi sự phát triển về sau là
thuộc tính về chu kỳ người lớn.
Ở Việt Nam, từ 15 tuổi đến 18 tuổi thường tương ứng với lứa tuổi học sinh
lớn, học sinh trung học phổ thông. Ở cuối lứa tuổi này, cơ thể của nam, nữ đã
trưởng thành và sự phát triển thể chất của họ ít khác với sự phát triển của người lớn.
Thời kỳ trưởng thành và phát triển cơ thể mạnh mẽ và không đồng đều đặc trưng
6
Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (2012), “Cơ sở khoa học và thực tiễn về quy định độ tuổi trẻ
em trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
10
cho lứa tuổi chưa thành niên đã kết thúc và bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm
ả về mặt thể chất. Ở cuối tuổi này, những yếu tố thể lực như chiều cao, trọng lượng
đã tương đối ổn định. Nhịp độ phát triển chiều cao chậm lại một cách rõ rệt. Sức
mạnh cơ bắp và khả năng làm việc tăng tiến rõ rệt, thể tích lồng ngực tăng lên, hệ
xương và các xương ống đã hoàn toàn được cốt hố, sự hình thành và phát triển về
mặt chức năng của các mô và các cơ quan đã kết thúc. Do vậy, vào cuối tuổi 18, về
mặt thể chất, con người đã đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ đòi hỏi về sức khoẻ
như sinh sản, lao động7.
+ Theo các nhà luật học sử dụng thuật ngữ người chưa thành niên để nhấn
mạnh tới những giới hạn về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý đối với đối
tượng đặc thù này, thơng qua đó để có những quy định cụ thể, phù hợp nhằm phân
biệt với những nhóm đối tượng khác. Với tính chất như vậy, người chưa thành niên
có thể gồm tất cả những người dưới 18 tuổi (hoặc trên dưới một độ tuổi nhất định),
nhóm tuổi về cơ bản chưa phải chịu hoặc chịu một phần trách nhiệm pháp lý đối với
hành vi của mình hoặc bị giới hạn về một số quyền và nghĩa vụ8.
Điều này có thể thấy rõ trong các văn bản pháp luật quốc tế như: ản quy tắc
của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990, tại Mục II, điểm 11 (a) quy
định “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này
cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người chưa
thành niên”. Hay Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 chỉ đưa ra ngưỡng
độ tuổi cao nhất là 18 tuổi để xác định tuổi của trẻ em: “Trẻ em là những người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi trưởng
thành niên sớm hơn”9. Như vậy, khi đưa khái niệm người chưa thành niên, pháp
luật quốc tế không dựa hoàn toàn, trực tiếp vào đặc điểm tâm, sinh lý hay sự phát
triển thể chất, tinh thần… mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ
tuổi. Đồng thời pháp luật quốc tế cũng đưa ra khả năng “mở” cho các quốc gia tùy
điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống riêng có thể quy định độ tuổi thành
niên sớm hoặc muộn hơn.
7
Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (2012), tlđd (6), tr.10.
Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (2012), tlđd (6), tr.10.
9
Điều 1, Công ước quốc tế về quyền trẻ em,1989.
8
11
Tóm lại, từ việc lựa chọn phương pháp t nh tuổi thời gian làm cơ sở cho việc
xác định người chưa thành niên đến việc xác định giới hạn độ tuổi tối đa hay tối thiểu
của người chưa thành niên của mỗi chuyên ngành trong điều kiện khác nhau ta thấy
được một điểm chung của người chưa thành niên là người chưa trưởng thành, chưa
phát triển đầy đủ về mặt thể chất, tinh thần và đa số các quan điểm lấy giới hạn độ
tuổi tối đa là 18 tuổi. Như vậy theo cách hiểu thơng dụng có thể đưa ra khái niệm:
người chưa thành niên là những người dưới 18 tuổi.
Và theo LTTHS năm 2003 thì “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” 10.
Như vậy có thể hiểu khái niệm bị can là người chưa thành niên là: là người dưới 18
tuổi đã bị khởi tố về hình sự.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về hỏi cung bị can là người
chưa thành niên như sau: Hỏi cung bị can người chưa thành niên là hoạt động điều
tra được tiến hành bởi Điều tra viên và những người có thẩm quyền khác theo luật
định, có kinh nghiệm trong điều tra, hiểu biết về tâm lý, khoa học giáo dục đối với
người dưới 18 tuổi, nhằm lấy lời khai của người dưới 18 tuổi đã bị khởi tố về hình sự
với mục đích thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và
các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1.1.2 Đặc điểm hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên
Hỏi cung bị can nói chung và hỏi cung bị can là NCTN là hoạt động tố tụng
nằm trong giai đoạn điều tra – một trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Mọi hoạt
động tố tụng đều mang những đặc trưng cơ bản về chủ thể, khách thể và trình tự
tiến hành:
- Hỏi cung bị can là NCTN là hoạt động tố tụng do chủ thể có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thực hiện đó là Điều tra viên. Họ là chủ thể thay mặt cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Những
người tiến hành tố tụng được chủ động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
độc lập với các chủ thể khác và chỉ tuân theo pháp luật.
Điều tra viên là một chức danh nhà nước để chỉ người làm trong cơ quan
điều tra, có nhiệm vụ tiến hành các biện pháp điều tra do Bộ luật tố tụng hình sự qui
định và phải chịu trách nhiệm về những hoạt động điều tra của mình. Ở Việt Nam,
ĐTV hoạt động trong các cơ quan điều tra của Lực lượng An Ninh Nhân dân, Lực
lượng Cảnh Sát Nhân dân, trong Quân Đội Nhân dân và Viện Kiểm Sát Nhân dân.
10
Khoản 1, Điều 49, BLTTHS 2003.
12
Vai trò chủ đạo của ĐTV trong hoạt động hỏi cung bị can là: chủ động xác định các
mục đ ch và vạch ra kế hoạch hỏi cung; chủ động tạo ra các điều kiện cần thiết cho
giao tiếp, chủ động thiết lập tiếp xúc tâm lý với bị can; lựa chọn các phương pháp
tác động tâm lý bị can khi hỏi cung. Điều đó cho thấy Điều tra viên hồn tồn đóng
vai trị chủ động và định hướng cho hoạt động hỏi cung sao cho đạt được mục đ ch
điều tra của Điều tra viên. Tuy nhiên khác với ĐTV hỏi cung bị can là người đã
thành niên, thì hoạt động hỏi cung bị can là NCTN đòi hỏi ĐTV ngồi đáp ứng tiêu
chuẩn chung do
LTTHS quy định thì cần phải là người “đã được đào tạo hoặc có
kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu
biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”.11
- Đối tượng tác động của hoạt động hỏi cung bị can đó là bị can là NCTN. Bị
can là NCTN đã bị khởi tố về hình sự. Bị can là NCTN là người mà Cơ quan điều
tra có đủ căn cứ xác định rằng đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
LHS quy định là tội phạm nên đã ra quyết định khởi tố bị can. Kể từ thời điểm
quyết định khởi tố bị can, tức Nhà nước thể hiện sự buộc tội đối với con người cụ
thể, bị can là NCTN chính thức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Đây là
điểm khác biệt rất lớn giữa bị can và người bị tạm giữ liên quan đến việc bảo đảm
quyền con người của họ trong tố tụng hình sự.
Từ góc độ xác định địa vị tố tụng, do khả năng có thể bị áp dụng nhiều biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, do chính thức đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự
và hậu quả pháp lý nặng nề phát sinh từ việc truy cứu đó, do khả năng bị xâm phạm
quyền cao hơn…, bị can là NCTN được quy định có nhiều quyền tố tụng hơn, trách
nhiệm tố tụng được nới rộng hơn để làm cơ sở pháp lý cho bị can là NCTN bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bác bỏ việc buộc tội hoặc bảo vệ mình trước
khả năng bị xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp trong q trình tố tụng hình sự
giải quyết vụ án hình sự. Như trong hoạt động hỏi cung bị can, bị can có quyền sử
dụng các biện pháp mà pháp luật không cấm để bảo vệ mình khỏi sự buộc tội như
giữ im lặng khơng khai báo, khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội từ chối
khai báo hoặc cố ý khai báo sai sự thật; có quyền khiếu nại tố cáo hành vi vi phạm
trong hoạt động hỏi cung của Điều tra viên. Khác với bị can là người đã thành niên,
bị can là NCTN có điểm khác biệt sau:
11
Điều 415, BLTTHS, 2015.
13
+ Bị can là NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất. Sự phát triển
này biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ thể, sự hoàn thiện các
giác quan… Điểm khác biệt này là do nhân tố sinh học.
+ Bị can là người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về trí tuệ và
tâm sinh lý. Cũng là q trình sinh học, bộ não của nhóm đối tượng này phát triển
cùng với sự phát triển về thể chất.
+ Xuất phát từ hai đặc điểm nên trên, bị can là người chưa thành niên chưa có
đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Độ tuổi của người chưa thành niên là ranh giới
để phân biệt họ với người thành niên và chỉ người thành niên mới có năng lực pháp
luật để hưởng đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Điều này được thể hiện qua chế
định đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên. Khi tham gia mọi giai đoạn
tố tụng hình sự bị can là người chưa thành niên đều cần có sự tham gia, có mặt của
người đại diện theo pháp luật hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Mục đ ch của hoạt động hỏi cung bị can là NCTN nhằm thu thập chứng cứ,
chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý
nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Quá trình chứng minh trong TTHS là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá
và sử dụng chứng cứ. Trong đó thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng và khơng thể thiếu của q trình chứng minh. Nếu khơng có thu
thập chứng cứ, thì cũng khơng có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Điều đó
lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và vấn đề thu thập chứng cứ nói riêng
ln là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp mỗi nước khi
xây dựng Bộ luật TTHS.
Thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm tìm
ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn chứng cứ theo đúng
trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện chứng minh. Xét trên
góc độ thơng tin, thì phát hiện, thu thập chứng cứ là q trình thu thập thơng tin để
làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Phát hiện, thu thập chứng cứ vừa là hoạt
động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý nên quá trình phát hiện, thu thập
chứng cứ vừa phải quán triệt những nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải
bảo đảm tính pháp lý, hay nói cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ đúng
quy định về trình tự, thủ tục của Bộ luật TTHS.
Để thu thập chứng cứ trong giai đoạn, cơ quan có thẩm quyền được phép tiến
hành nhiều biện pháp điều tra khác nhau, trong đó có biện pháp hỏi cung bị can là
14
NCTN. Pháp luật tố tụng hình sự quy định chủ thể, trình tự, thủ tục hỏi cung…
nhằm đạt được mục đ ch là thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực
hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắng
vụ án hình sự. Là chủ thể của tội phạm, bị can là NCTN là chủ sở hữu một lượng
thông tin tương đối lớn về vụ án. Hơn ai hết bị can là NCTN là người biết rõ về
toàn bộ quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu hành vi phạm tội, những mục đ ch,
động cơ đã thúc đẩy bị can phạm tội; những công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm
tội, phương pháp đã được bị can sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội, những tài
sản đã chiếm đoat được…Vì vậy, khi hỏi cung bị can là NCTN, Điều tra viên cần
áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép để có thể thu thập được tất cả những
thông tin mà bị can là NCTN biết, có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ nội dung vụ
án, hành vi phạm tội của bị can, lập hồ sơ đề nghị xử lý đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
- Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can là NCTN. Như đã nói, mục
đ ch cơ bản của hỏi cung bị can là thu thập chứng cứ của vụ án. Mục đ ch này chỉ có
thể đạt được trong q trình trao đổi thơng tin giữa điều tra viên và các đương sự. Vì
vậy, trong q trình cung cấp thơng tin của điều tra viên không được phép xa rời mục
đ ch cơ bản này. Việc cung cấp thông tin của điều tra viên chủ yếu là nhằm: kích
thích sự chú ý và mong muốn cung cấp thông tin của bị can là NCTN; Xác định
nhiệm vụ tư duy cụ thể cho bị can là NCTN; Giúp bị can là NCTN nhớ lại sự kiện
một cách nhanh chóng, thuận lợi và duy trì trạng thái tâm lý tích cực trong khai báo
của họ.
Hỏi cung bị can là NCTN là hoạt động giao tiếp tâm lý hai chiều. Đó là giao
tiếp giữa điều tra viên với bị can là NCTN. Quá trình giao tiếp là q trình có tổ
chức, có kế hoạch, có dự đốn trước và được thực hiện bằng những phương pháp
nhất định. Điều tra viên luôn chủ động định hướng và điều khiển giao tiếp để đạt
được các mục đ ch đã đề ra. Bị can là NCTN ln đóng vai trị bị động trong giao
tiếp, họ không thể xác định được mục đ ch của giao tiếp và cũng không biết được
chính xác những thơng tin mà điều tra viên sẽ trao đổi với mình trong giao tiếp. Quá
trình tư duy ở bị can là NCTN luôn diễn ra rất căng thẳng và phức tạp.
1.1.3 Ý nghĩa hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên
Điều tra là hoạt động trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Giai đoạn điều tra được
tiến hành bởi nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau, mỗi biện pháp nghiệp vụ đều
15
đóng vai trị, ý nghĩa nhất định góp phần đạt được mục đ ch điều tra. Hỏi cung bị
can là NCTN là một trong những hoạt động tố tụng của giai đoạn điều tra. Ý nghĩa
của hoạt đọng hỏi cung bị can được thể hiện trên các phương diện như sau:
- Cung cấp lời khai của bị can là người chưa thành niên - một trong các
nguồn chứng cứ quan trọng phục vụ cho hoạt động điều tra. Trong quá trình chứng
minh, muốn giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, muốn xác định sự thật khách quan,
có cơ sở để kết luận đúng về hành vi phạm tội đã xảy ra thì cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng phải có tài liệu, chứng cứ để chứng minh bản chất của
người phạm tội. Chứng cứ là phương tiện của việc chứng minh, của việc xác định
các sự kiện có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án hình sự. Thơng qua các tài liệu,
chứng cứ các sự kiện thực tế được xác định, khẳng định và đồng thời cũng phủ
định, loại trừ các sự kiện không xảy ra trong thực tế. Rõ ràng vai trò, giá trị của
chứng cứ là rất quan trọng, là cơ sở duy nhất, là phương tiện duy nhất để chứng
minh trong vụ án hình sự.
Lời khai của bị can là NCTN là sự trình bày của người đã bị khởi tố hình sự
với nội dung về những tình tiết của vụ án. Lời khai của những người này cũng là
nguồn chứng cứ quan trọng vì họ có thể nhận tội, khai ra những người đồng phạm
khác, hoặc đưa ra những chứng cứ chứng minh họ khơng phạm tội... từ đó kết hợp
với nguồn chứng cứ khác để Cơ quan điều tra xác định hướng điều tra làm sáng tỏ
vụ án.
Sự hình thành lời khai bị can là NCTN là một quá trình phức tạp, bị chi phối
bởi nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng lời khai của bị can
là NCTN không những là nguồn chứng cứ đối với những hành vi mà họ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự mà cịn là nguồn chứng cứ làm sáng tỏ tất cả những tình tiết
của vụ án. Loại nguồn chứng cứ này có ý nghĩa quan trọng vì mọi hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng đều xoay quanh nhiệm vụ là chứng minh bị can là
NCTN có tội hay khơng có tội và các vấn đề khác có ý nghĩa giải quyết vụ án.
- Hỏi cung bị can là NCTN góp phần làm chuyển biến và thay đổi thái độ
hợp tác, thành khẩn khai báo của bị can là NCTN trong quá trình giải quyết vụ án.
Trong hoạt động hỏi cung bị can là NCTN, việc huy động các nhân tố cần thiết sẽ
tác động tới bị can là NCTN, giúp bị can là NCTN vượt qua mọi trở ngại về tâm lý,
khai báo đầy đủ, trung thực hành vi phạm tội của mình. Đây được coi là một q
trình mà ở đó các điều tra viên lên kế hoạch, sử dụng đồng bộ các phương pháp,
chiến thuật tác động tới bị can nhằm đạt được mục đ ch điều tra đã đề ra.
16
- Hỏi cung bị can là NCTN là tiền đề để cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến
hành các hoạt động điều tra tiếp theo căn cứ vào lời khai thu thập được. Bởi lời khai
của bị can là NCTN có khả năng tiết lộ mọi tình tiết khách quan của vụ án, tùy vào
khả năng suy luận logic về tính liên hệ giữa những chứng cứ hiện có với lời khai
của bị can là NCTN mà điều tra viên tiến hành kiểm tra, xác minh tính chính xác
của lời khai, khoanh vùng, giới hạn hay loại bỏ các chứng cứ có giá trị chứng minh
hay khơng.
- Hỏi cung bị can là NCTN cịn góp phần bảo vệ quyền con người, đặc biệt là
quyền của người bị buộc tội. Nghĩa là, hỏi cung bị can phải được nhìn nhận ở hai
khía cạnh, khơng chỉ bảo vệ người bị tội phạm xâm hại mà cả bảo vệ người bị buộc
tội nhằm tránh oan sai. Đây cũng là vấn đề nhằm qn triệt ngun tắc suy đốn vơ
tội. Việc hỏi cung bị can là NCTN phải đảm bảo tính khách quan, khơng áp đặt ý
chí chủ quan của ĐTV cho rằng, bị can ln là người có tội. Thơng qua hỏi cung bị
can là NCTN cần có sự đối chiếu, so sánh với các chứng cứ khác, những mâu thuẫn
trong lời khai của bị can là NCTN so với thực tế khách quan để đánh giá hành vi
của bị can đúng đắn nhất, tránh oan sai.
- Hỏi cung bị can là NCTN góp phần phịng ngừa tội phạm. Có rất nhiều vụ
án khi cơ quan điều tra hỏi cung bị can là NCTN đã khai ra đồng phạm đang lẫn
trốn bên ngoài, hoặc khai ra những âm mưu sẽ thực hiện trong thời gian tới. Thông
qua hỏi cung bị can là NCTN, CQĐT có thể ngăn chặn các âm mưu đó, góp phần
phịng ngừa tội phạm.
1.2 Cơ sở quy định hỏi cung bị can là ngƣời chƣa thành niên
1.2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự đối với người
chưa thành niên
Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Nhà nước Việt Nam tham
gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 và đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối
tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trường hợp NCTN phạm tội. Điều
này càng thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với
trẻ em
Sau nhiều năm thực hiện NQ 08 NQ-TW của ộ ch nh trị, Đảng ta đã khẳng
định đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng về công tác tư pháp. Chủ trương đó
được triển khai thực hiện với nhiều cách làm sáng tạo và đã tạo được bước tiến
đáng ghi nhận trong phát huy dân chủ, bảo đảm công lý, xây dựng nhà nước pháp
17
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Công tác tư pháp nói chung và cải cách
tư pháp nói riêng đã và đang được triển khai thực hiện theo đúng định hướng, chủ
trương của Đảng; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân và thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước. Đã tạo sự chuyển biến t ch cực trong nhận thức các cấp, các ngành,
của nhân dân và của tồn xã hội về vị tr , vai trị, và tầm quan trọng của công tác tư
pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, trong sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ quyết tâm ch nh trị của
Đảng và Nhà nước ta khi ban hành NQ 08/NQ-TW đã dẫn tới sự chuyển biến đồng
bộ và sự đề cao trách nhiệm của cả hệ thống ch nh trị, của các ngành, các cấp ủy
đảng, ch nh quyền đối với công tác tư pháp. Những chủ trương, định hướng đúng
đắn về CCTP đã tác động trực tiếp kết quả giải quyết từng vụ việc cụ thể. Đã tạo cơ
sở cho việc CCTP đồng bộ và toàn diện ở những giai đoạn tiếp theo. Việc ban hành
NQ 08/NQ-TW tập trung giải quyết những cơng việc bức xúc, trước mắt nhưng
cũng đồng thời có nhiệm vụ tạo đà, đặt nền tảng cho chủ trương cải cách sâu rộng,
đồng bộ trong tầm nhìn dài hạn. Qua thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận
thấy nhu cầu cần phải CCTP sâu rộng, phải làm lâu dài và làm một cách cơ bản.
Do vậy, ngày 02-06-2005,
ộ ch nh trị đã ban hành NQ 49 NQ-TW về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết 49 NQ-TW của ộ ch nh
trị là sự kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới NQ 08 NQ-TW, rút ra những bài
học kinh nghiệm, trao đổi, góp ý kiến về những công việc cụ thể và những công
việc ch nh trong năm năm tiếp theo. Nghị quyết 49 NQ-TW đã đề cập cải cách toàn
diện nền tư pháp nước nhà và khẳng định mục tiêu CCTP là xây dựng nền tư pháp
phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam XHCN, trong sạch, vững mạnh,
công lý, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; trong đó hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành thơng suốt, có hiệu lực, hiệu quả.
Nghị quyết 49 NQ-TW đưa ra định hướng về hoàn thiện ch nh sách, pháp luật hình
sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp, xây dựng các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện các chế định bổ trợ tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bỗ trợ tư pháp,
hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp, bảo
đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp…
18
Kể từ khi NQ 08/NQ-TW được ban hành ngày 02 01 2002 có thể nói rằng
các quy định của LTTHS 2003 và BLTTHS 2015 về bảo đảm quyền bào chữa của
bị can, bị cáo nói chung (trong đó có bị can, bị cáo là người chưa thành niên) quyền
bào chữa của bị can, bị cáo dần dần được tôn trọng hơn, quy định chặt chẽ hơn.
Thực tiễn TTHS Việt Nam những năm qua cho thấy, kể từ khi Nghị quyết của
ộ
ch nh trị số 08 và Nghị quyết của ộ ch nh trị số 49 được ban hành, vấn đề bảo đảm
quyền và lợi ch hợp pháp của bị can, bị cáo trong TTHS, cụ thể quyền bào chữa
được mở rộng hơn và được coi trọng rất nhiều so với trước đây và ngày một đảm
bảo hơn. Trình tự, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên được quy định chặt
chẽ hơn nhằm đảm bảo quyền con người, hạn chế đến mức thấp nhất oan sai, đặc
biệt là hướng tới xây dựng thủ tục tố tụng thân thiện thân thiện đối với người chưa
thành niên. Những quan điểm của Đảng và nhà nước về ch nh sách hình sự đối với
người chưa thành niên được cụ thể hóa trong quá trình cải cách tư pháp, thể hiện
qua luật nội dung ( LHS), luật hình thức ( LTTHS) và các văn bản hướng dẫn
dưới luật.
Tại Điều 69, BLHS 1999 quy định về nguyên tắc xử lý đối với người chưa
thành niên phạm tội như sau: “Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng
dân có ích cho xã hội. Trong mọi điều kiện điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội
của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả
năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”12 . Đây là nguyên tắc bao trùm mang tính
chất chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam lấy giáo
dục làm nền tảng, trọng tâm trong quá trình xử lý vụ án mà bị can là người chưa
thành niên. Trong quá trình xử lý và áp dụng biện pháp hình sự đối với bị can là
NCTN, những người tiến hành tố tụng phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo được
mục đ ch giáo dục, uốn nắn, răn đe các hành vi lệch lạc, làm cho họ thấy những sai
phạm của mình. Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta
trong việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, đó là làm họ nhận ra
những sai lầm của bản thân để sữa chữa và trở thành người có ch cho xã hội.
12
Khoản 1, Điều 69, BLHS 1999 (sữa đổi, bổ sung 2009).
19
1.2.2 Một số công ước liên quan mà Việt Nam là thành viên
Việt Nam là Quốc gia đầu tiên ở Châu Á và Quốc gia thứ hai trên thế giới
phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990. Công
ước xác định lý do để bảo vệ các quyền trẻ em là vì “do cịn non nớt về thể chất và
trí tuệ, trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về
mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”13. Việt Nam cũng là quốc gia cam kết và
tích cực hành động thực hiện Tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh thế giới “Về sự
sống còn, bảo vệ và phát triển trẻ em” (năm 1990) và Tuyên bố của Đại hội đồng
Liên hợp quốc về “Một thế giới phù hợp với trẻ em” (năm 2002).
Ngày 7/11/2013 Việt Nam đã ký Công ước của LHQ về chống tra tấn và các
hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác (tiếng
Anh United Nations Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or
Degrading Treatment or Punishment – gọi tắt Công ước chống tra tấn – CAT). Ngày
28/11/2014 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số
83/2014/QH13, phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình
thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vơ nhân đạo hoặc hạ nhục con người Đồng thời,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 364 QĐ-TTg ngày 17/3/2015 về việc phê
duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử
hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Việc ký kết, phê chuẩn
Cơng ước có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của
Nhà nước ta cũng như thể hiện sự quyết tâm duy trì nền tảng đạo đức, pháp lý và văn
hoá quyền con người đang được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng và
Hiến pháp năm 2013; cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con
người, tạo cơ sở pháp lý quan trọng góp phần hiệu quả trong đấu tranh chống các
luận điệu vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá Nhà nước Việt
Nam. Việc phê chuẩn Cơng ước này cũng tạo điều kiện để rà sốt, sửa đổi, bổ sung
các quy định pháp luật có liên quan, cụ thể là quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người cho phù hợp hơn với Công
ước và các quy chuẩn chung của pháp luật quốc tế về quyền con người.
13
Lời mở đầu, Công ước quốc tế về quyền trẻ em,1989.