TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------------------
NGƠ HẠNH ĐÀI LƢU
MSSV: 0955040046
BIỆN PHÁP PHÁP LÝ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN CƠNG DÂN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2009 - 2013
Ngƣời hƣớng dẫn:
THẠC SỸ ĐẶNG THỊ THU TRANG
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
MỤC LỤC:
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁP PHÁP LÝ ĐẢM BẢO
QUYỀN CÔNG DÂN ....................................................................................1
1.1.
Khái quát về quyền con ngƣời, quyền công dân .........................................1
1.1.1.
Quyền con người ..............................................................................................1
1.1.2.
Quyền công dân ...............................................................................................8
1.1.3.
Mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân ....................................10
1.2.
Khái quát về biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân .....12
1.2.1.
Hệ thống biện pháp đảm bảo thực hiện quyền công dân ..............................12
1.2.2.
Khái niệm và đặc điểm biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện
quyền cơng dân ...............................................................................................13
1.2.3.
Vai trị biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân ......................15
1.3.
Quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp pháp lý đảm bảo thực
hiện quyền công dân ....................................................................................17
1.3.1.
Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân trong Hiến pháp......17
1.3.2.
Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân trong luật và các văn bản
quy phạm pháp luật dưới luật ........................................................................24
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN BIỆN PHÁP PHÁP
LÝ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN CÔNG DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY .31
2.1.
Thực trạng áp dụng các biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công
dân ở nƣớc ta hiện nay ................................................................................31
2.1.1.
Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua hoạt động của cơ
quan quyền lực Nhà nước ............................................................................31
2.1.2.
Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua hoạt động của cơ
quan hành chính Nhà nước ............................................................................39
2.1.3.
Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua hoạt động của cơ
quan tư pháp ..................................................................................................47
2.1.4.
Trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trong việc áp dụng các biện pháp
pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân .................................................49
2.1.5.
Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua hoạt động của
các chủ thể khác trong xã hội ........................................................................52
2.2.
Kiến nghị hoàn thiện biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân ở
nƣớc ta hiện nay ...........................................................................................55
2.2.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện những biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền
cơng dân .........................................................................................................55
2.2.2.
Hồn thiện Hiến pháp với vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước và ghi nhận quyền
con người, quyền công dân ............................................................................57
2.2.3.
Nâng cao vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện
quyền công dân ..............................................................................................61
2.2.4.
Tăng cường vai trị của cơ quan hành chính nhà nước trong việc đảm bảo thực
hiện quyền công dân ......................................................................................66
2.2.5.
Hệ thống cơ quan tư pháp trong việc tăng hiệu quả biện pháp pháp lý đảm bảo
thực hiện quyền công dân ..............................................................................70
2.2.6.
Tăng trách nhiệm đối với cán bộ, công chức trong thi hành pháp luật nhằm đảm
bảo thực hiện quyền công dân .......................................................................73
2.2.7.
Ghi nhận và tạo hành lang pháp lý cần thiết cho việc đảm bảo thực hiện quyền
công dân thông qua các tổ chức khác............................................................74
2.2.8.
Giáo dục, tuyên truyền pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật của
công dân .........................................................................................................75
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Phát triển lâu dài cùng với lịch sử nhân loại, quyền con người, quyền công dân
luôn được xem là trọng tâm của mọi cuộc cách mạng1, là thước đo của tiến bộ xã hội.
Ngày nay, trên bình diện quốc tế, nhiều điều ước quốc tế về quyền con người đã
được cộng đồng quốc tế ký kết và hợp tác thành công. Trong đó, đã xác định được quyền
cũng như nghĩa vụ của mỗi chủ thể trong việc đảm bảo và thúc đẩy quyền con người.
Tuy nhiên, muốn đạt được hiệu quả trong vấn đề này thì cần phải có cơ chế đảm bảo cho
việc thực thi các quyền, nghĩa vụ nói trên; mà trước hết, là sự đảm bảo của nhà nước (với
cơ chế độc lập hoặc thông qua hợp tác đa phương). Do vậy, nâng cao năng lực của mỗi
quốc gia trong việc đảm bảo quyền con người luôn là vấn đề hết sức quan trọng.
Mặt khác, trong một nhà nước dân chủ hiện đại thì quyền lực nhà nước phải được
khẳng định là quyền lực nhân dân. Nhân dân trao quyền lực của mình cho nhà nước, tuân
theo quyền lực đó khi đã xác lập được một chủ thể nhất định, thực hiện nghĩa vụ của
mình đối với nhà nước, ni sống bộ máy nhà nước đó. Đổi lại, nhà nước có trách nhiệm
đảm bảo cho cơng dân của mình có một cuộc sống trật tự, bảo vệ quốc gia trước sự xâm
lược và phát triển đất nước giàu mạnh. Vì vậy, việc đảm bảo thực hiện quyền cơng dân
xét trong mối tương quan giữa quyền lực nhà nước và cơng dân là khơng đơn giản. Trong
khi nhà nước có quyền lực to lớn để buộc công dân thực hiện các nghĩa vụ mà họ đã cam
kết, có khả năng trừng phạt cơng dân khi vi phạm; thì cơng dân, những người chủ quyền
lực lại trở nên quá nhỏ bé trước nhà nước, rất khó để yêu cầu nhà nước thực hiện nghĩa
vụ và càng khó hơn để cơng dân bảo vệ quyền lợi của mình khi nhà nước xâm phạm đến
quyền lợi của họ.
Ở Việt Nam, từ khi giành được độc lập năm 1945 tới nay, trong hiến pháp - đạo
luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của mỗi quốc gia dân chủ - luôn dành một phần quan
trọng để quy định về quyền công dân như một sự cam kết của nhà nước đối với công dân
của mình, một ranh giới của sự can thiệp từ nhà nước trong q trình thực thi cơng vụ vì
lợi ích, mục tiêu chung. Từ đó cũng cho thấy rằng, trong các phương thức đảm bảo quyền
con người, quyền công dân thì biện pháp pháp lý có một vị trí, vai trị hết sức quan trọng.
Do đó, song song với việc xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế,
văn hóa, giáo dục... thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với vấn đề
"Cuộc cách mạng (chính trị, xã hội)" là một sự thay đổi cơ bản trong quyền lực, cơ cấu tổ chức, diễn ra
trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Trên thực tế, trong lịch sử loài người, những cuộc cách mạng
được tạo ra nhằm xóa bỏ cái cũ và thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn, phục vụ cho con người và giải
quyết những nhu cầu của xã hội (lồi người), những nhu cầu đó là nhu cầu về sự tồn tại và khẳng định
(quyền
của)
mình
của
chính
con
người,
/>1
đảm bảo thực hiện quyền công dân là một nhiệm vụ hàng đầu của nhà nước ta.
Mặc dù vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến đảm bảo quyền con người,
quyền cơng dân hiện nay cịn chứa đựng một số bất cập. Các nghiên cứu về biện pháp
pháp lý đảm bảo thực hiện quyền cơng dân khơng ít, nhưng nhận thức một cách có hệ
thống về bản chất, vai trò của các biện pháp pháp lý này vẫn còn chưa đầy đủ, chưa kịp
thời đáp ứng được sự chuyển biến về kinh tế - xã hội ở nước ta. Từ trong cách ghi nhận,
xác định cơ chế đảm bảo bằng các hoạt động của cơ quan nhà nước trong xây dựng pháp
luật, tổ chức thực hiện, bảo vệ pháp luật trong quá trình đảm bảo thực hiện quyền cơng
dân cịn khiếm khuyết, thiếu sót.
Bên cạnh đó, áp lực từ những đòi hỏi của người dân cũng như của cộng đồng quốc
tế trong thời kỳ hội nhập, cũng yêu cầu một cách nhìn nhận đúng đắn, tiến bộ hơn trong
vấn đề đảm bảo thực hiện quyền công dân ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, việc xây dựng
các biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân lại càng cấp thiết khi cả nước
ta đang tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1992 một lần nữa để đáp ứng tình hình mới.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu biện pháp
pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân ở nước ta hiện nay luôn là một đề tài có
tính hấp dẫn và cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Việc nghiên cứu về những biện pháp pháp lý đảm bảo quyền công dân ở nước ta
hiện nay đã được đề cập đến trong một số cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học,
có thể kể đến như: sách tham khảo "Quyền lực nhà nước và quyền công dân" (NXB Tư
pháp (2003), của PGS. TS Đinh Văn Mậu); sách chuyên khảo "Quyền con người, quyền
công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (NXB Chính trị Quốc
gia (2011), của GS. TS Trần Ngọc Đường), "Những biện pháp pháp lý đảm bảo quyền
con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam" (Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân luật của Lê
Thị Mơ, thành phố Hồ Chí Minh, 2008), "Bảo đảm quyền con người trong lịch sử lập
hiến Việt Nam" (Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân luật của Võ Thị Lan Anh, thành phố Hồ
Chí Minh, 2008), "Các quyền hiến định của công dân Việt Nam trong xu thế đảm bảo
quyền con người" (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của TS. Vũ Văn Nhiêm, thành
phố Hồ Chí Minh, 2012)...
3. Mục đích của đề tài:
Đề tài nghiên cứu với mục đích xác định những biện pháp pháp lý đảm bảo thực
hiện quyền công dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, có sự
phân tích, so sánh các biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua
những hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước và công dân trong hiến pháp, luật, các văn
bản quy phạm pháp luật dưới luật. Từ đó, đề tài đánh giá mức độ tác động của các biện
pháp pháp lý cụ thể này trong việc đảm bảo thực hiện quyền cơng dân.
Bên cạnh đó, khóa luận cịn nhằm mục đích quan trọng là tìm hiểu thực trạng các
biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân ở nước ta hiện nay, qua đó, phát
hiện những mặt cịn hạn chế trong cả lý luận cũng như tổ chức thực hiện các quy định
pháp luật trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, nêu ra những kiến nghị nhằm hồn thiện các
biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân được quy định trong hệ
thống pháp luật Việt Nam là rất phức tạp và đa dạng, song trong phạm vi khóa luận này,
tác giả tập trung nghiên cứu những biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân
được cho là cơ bản nhất được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân bằng việc ghi nhận
các quyền công dân trong hiến pháp và luật;
Thứ hai, biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua việc quy
định về tổ chức bộ máy nhà nước, hoạt động của các cơ quan nhà nước trong xây dựng,
tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền công dân;
Thứ ba, biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua các chủ
thể khác như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cá nhân cơng dân.
Trong đó, tác giả tập trung nghiên cứu biện pháp thứ hai, là việc pháp luật Việt
Nam quy định về tổ chức bộ máy nhà nước ra sao và các hoạt động cụ thể của các cơ
quan nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện quyền cơng dân như thế nào. Vì vậy, biện pháp
pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua hoạt động của các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp là Quốc hội, Chính phủ, Tịa án và Viện kiểm sát là trọng tâm
nghiên cứu của khóa luận này. Mà theo đó, thơng qua cơ sở lý luận về biện pháp pháp lý
đảm bảo thực hiện quyền công dân cùng với hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội,
tác giả cũng đi vào tìm hiểu sâu biện pháp thứ nhất là việc ghi nhận các quyền công dân
trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành. Còn biện pháp thứ ba, với tư cách là biện
pháp bổ trợ cũng như tác động từ chính cá nhân công dân, tác giả nghiên cứu một cách
khái quát, để thấy rõ hơn vai trị, tính chất của biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện
quyền công dân trong thực tế đời sống.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận, tác giả sử dụng chủ đạo các
phương pháp so sánh, phân tích, thống kê, giải thích, tổng hợp dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Bằng những phương pháp nêu trên đã giúp tác giả có được nhìn nhận tồn diện,
sâu sắc về biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân ở nước ta hiện nay,
thông qua đó, có những nhận xét chân thực, chắc chắn trong bài luận của mình.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Ý nghĩa khoa học: việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp hệ thống hóa biện pháp pháp lý
đảm bảo thực hiện quyền cơng dân, góp phần hồn thiện hơn nữa các quy định này trong
hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, nâng cao vai trò, tầm quan trọng của biện pháp
pháp lý trong việc đảm bảo thực hiện quyền con người.
Ý nghĩa thực tiễn: từ việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về đảm bảo thực
hiện quyền cơng dân, những chủ thể có trách nhiệm sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả các
hoạt động của mình, tạo điều kiện cho người dân ý thức được quyền lợi của mình, từ đó
thực hiện, phát triển và bảo vệ quyền cơng dân hiệu quả hơn.
7. Cơ cấu của khóa luận:
Ngồi phần mục lục, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm có hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân.
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện biện pháp pháp lý đảm bảo thực
hiện quyền công dân ở nước ta hiện nay.
Tháng 7 năm 2012
BIỆN PHÁP PHÁP LÝ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN CÔNG DÂN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁP LÝ ĐẢM BẢO THỰC
HIỆN QUYỀN CÔNG DÂN
1.1. Khái quát về quyền con ngƣời, quyền công dân
1.1.1 Quyền con người
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là sản phẩm của bản thân nó, tức
là chính nó là chủ thể làm ra lịch sử2. Nhưng bản chất con người là luôn luôn dành sự quan
tâm đặc biết nhất đối với quyền lợi của chính mình, nên vấn đề quyền con người ngày càng
chứng tỏ tầm quan trọng của mình trong lịch sử phát triển nhân loại. Xuất phát từ việc ý
thức được sức mạnh của một nhà nước là dựa trên nền tảng con người, các quốc gia trên thế
giới ngày càng hướng tới việc đáp ứng và phát triển quyền con người lên mức cao hơn. Và
cũng vì vậy, cho dù về chế độ chính trị, sức mạnh kinh tế hay nền tảng văn hóa có khác
nhau đến đâu thì quyền con người vẫn luôn là trung tâm chú ý ở bất cứ quốc gia nào.
Thuật ngữ quyền con người đã được ra đời và sử dụng từ rất lâu trong lịch sử chính
trị tư tưởng của nhân loại, nhưng đến nay vẫn chưa có quan niệm thống nhất về nó. Từ thời
cổ đại, cả ở phương Đơng và phương Tây đã có nhiều nhà tư tưởng mà học thuyết của họ
đều ít hoặc nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp, thể hiện sự coi trọng với quyền và tự do cá nhân.
Có thể nhắc đến Đêcrômit (khoảng 460 – 370 TCN) – nhà tư tưởng duy vật nổi tiếng Hy
Lạp – đề cao vai trị của luật pháp, bình đẳng, tự do gắn với chính thể dân chủ đã nói: “Sự
nghèo đói trong một quốc gia dân chủ phải được đánh giá cao hơn cuộc sống hạnh phúc
trong chế độ quân chủ, cũng như tự do hơn nô lệ vậy”3, theo ông, các đạo luật là phương
tiện đảm bảo cho đời sống thuận tiện của con người trong mối quan hệ giữa nhà nước và xã
hội, Đêcrômit được coi là người đặt viên gạch đầu tiên cho quan niệm pháp chế ở những
thời đại sau nếu nói theo ngơn ngữ ngày nay4; hay Aristole (khoảng 384 – 322 TCN) – triết
gia Hy Lạp cổ đại uyên bác với những quan điểm về sở hữu tài sản cá nhân: “Khi mọi người
đều có quyền lợi riêng thì người ta sẽ chẳng phàn nàn kẻ khác, và mọi người đều làm ăn
Trần Đức Thảo (2000), Vấn đề con người và chủ nghĩa "lý luận không có con người", NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 244.
3
Trung tâm nghiên cứu quyền con người Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Các văn kiện
quốc tế về quyền con người, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 100.
4
Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái (1997), Lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 32-33.
2
1
tấn tới vì ai cũng lo cho quyền lợi của họ”5; hoặc Mạnh Tử (khoảng 372 - 289 TCN) quan
niệm "nhân chi sơ bản tính thiện" (con người sinh ra đã thiện rồi) với chủ trương "dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân chủ trương" (dân là quan trọng, sau đó là xã tắc, cuối cùng mới
đến vua)6... Tất cả họ đều đề cao quyền lợi của cá nhân và hướng tới việc bảo vệ quyền lợi
cá nhân.
Nhưng phải đến thế kỷ XVII, XVIII quyền con người mới được bàn đến như một học
thuyết với hai quan niệm phổ biến sau đây:
Thứ nhất, cho rằng quyền con người là đặc quyền tự nhiên. Quan điểm này gắn với
tên tuổi của các nhà tư tưởng trường phái pháp luật tự nhiên như Spinoda (1632 – 1677),
Locker (1632 – 1704)… Họ đã nêu ra các quyền cơ bản, tự nhiên của con người bao gồm
quyền sống, quyền được tự do và quyền có tài sản nhằm đối lập, phủ nhận quan niệm
quyền con người do vương quyền và thần quyền ban phát cho. Theo đó, quyền con người
có trước nhà nước, và trong một khía cạnh nhất định, nó có trước xã hội, đó là quyền của
những con người sống trong tự nhiên. Sự phát triển của học thuyết pháp luật tự nhiên cũng
đã xây dựng nên nguyên tắc bảo vệ quyền con người trước quyền lực nhà nước và các giá
trị nhân đạo này cũng được thể hiện rõ ràng trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776),
Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789) và Tuyên ngôn quốc tế và nhân
quyền (1948).
Thứ hai, xem quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Đại diện cho
quan nhiệm này là học thuyết Mác – Lênin về quyền con người, cho rằng quyền con người
xuất hiện cùng với xã hội chính trị, khi xuất hiện giai cấp và nhà nước. Quyền con người
không chỉ là quyền cá nhân con người mang tính tự nhiên, bẩm sinh mà ln gắn liền với
cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống bất công trong xã hội, chịu sự giới hạn của chế
độ kinh tế, đặc biệt là chế độ chính trị - nhà nước7. Các Mác cho rằng “con người là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội”8, do đó, quyền con người thể hiện sâu sắc các giá trị của các
quan hệ xã hội và hiển nhiên mang bản chất đó.
Tuy thoạt nhìn thấy những quan niệm này trái ngược nhau, nhưng thật ra, chúng bổ
sung và giúp hoàn thiện nhau. Bởi lẽ, quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa
“quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội”
(sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội)9; không có
Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền cơng dân, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011),
Tư tưởng về quyền con người (Tuyển tập tư liệu thế gới và Việt Nam), NXB Lao động xã hội, tr. 70.
6
Tư tưởng về quyền con người (Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam), tlđd, tr. 103.
7
Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 14.
8
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1995), tr. 11.
9
Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
5
2
quyền con người tự nhiên nào sẽ là thực quyền nếu không được pháp luật – công cụ quyền
lực của nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Lý luận Mác – Lênin đi từ bản chất của con người
cùng với sự vận động của xã hội, đã cho thấy tính nhân văn sâu sắc trong tư tưởng về quyền
con người, kế thừa tinh hoa của nhân loại về con người, quyền con người trong một chính
thể thống nhất và có mối liên hệ biện chứng với nhau.
Hiện nay trên toàn thế giới, quyền con người được nhìn nhận như một khái niệm và
chế định pháp luật của cả quốc gia và quốc tế. Nó khơng hẳn là những quyền tự nhiên của
một con người sinh học, mà nó cịn chứa đựng rất nhiều quyền xã hội của nhân loại nói
chung. Những quyền ấy của con người được tôn trọng, ghi nhận và tuyên bố long trọng
trong những văn kiên pháp luật quốc gia và quốc tế, được xem là thiêng liêng và không thể
bị tước đoạt. Nhưng xét cho cùng, muốn thấy được sự ghi nhận và tôn trọng ấy như thế nào
thì khơng thể xem xét chúng tách rời với quyền lực nhà nước. Bởi lẽ, nhà nước nắm trong
tay quyền lực công cộng đặc biệt, là chủ thể ghi nhận, đảm bảo thực hiện quyền con người,
nhưng cũng chính nhà nước là chủ thể có khả năng xâm phạm và tước đoạt chúng nhất.
Đây chính là nghịch lý phản ánh sự phức tạp trong mối quan hệ giữa con người với quyền
lực, cá nhân với nhà nước mà các nhà tư tưởng trong cả hai học thuyết trên đều cố gắng lý
giải.
Về tự do cá nhân gắn liền với quyền lực nhà nước, J.J. Rousseau trong Bàn về khế
ước xã hội cho rằng: “Con người mất đi cái tự do thiên nhiên và cái quyền hạn chế được
làm điều muốn làm mà làm được, nhưng mặt khác con người thu lại quyền tự do thật sự và
quyền sở hữu những cái mà anh ta có. Cần phân biệt tự do thiên nhiên chỉ hạn chế chật hẹp
trong khả năng sức lực một cá nhân với quyền tự do dân sự mà giới hạn rộng rãi là ý chí
chung của nhiều người...”10. Còn Các Mác chỉ ra rằng, với bản chất của Nhà nước là đấu
tranh giai cấp và giai cấp thống trị có khả năng cưỡng chế giai cấp bị trị thì tự do của con
người gắn liền với quyền lợi giai cấp, tự do của mỗi giai cấp là sự mất tự do của giai cấp
đối lập. Trong xã hội có giai cấp đối kháng khơng thể có sự bình đẳng, bình đẳng chỉ tồn
tại trong nội bộ của giai cấp cùng quyền lợi. Và như vậy, đại bộ phận những con người
trong xã hội không hề được đảm bảo những quyền cơ bản. Đó là sự vi phạm trên thực tế,
măc dù trên giấy tờ có những bản tuyên ngôn và những văn bản pháp luật đầy sức hấp dẫn
và tốt đẹp11.
nghĩa Việt Nam, tlđd, tr. 16.
10
Hoàng Thanh Đạm dịch (1992), Jean Jacques Rousseau - Bàn về khế ước xã hội, NXB Thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 53.
11
Trần Ngọc Đường (2002), Bàn về quyền con người, quyền cơng dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr. 16.
3
Như vậy, trải qua lịch sử lâu đời của xã hội lồi người, tư tưởng về quyền con người
đã hình thành và phát triển trong tất cả các nền văn hóa phương Đơng và phương Tây, là
kết tinh của văn minh nhân loại chứ không phải của riêng một quốc gia, dân tộc hay giai
cấp nào. Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hóa mạnh mẽ của thế giới, quyền con người lại
càng trở thành một vấn đề trung tâm và thu hút sự chú ý của tất cả các quốc gia. Trong đó,
có những quốc gia tiên phong trong công cuộc đấu tranh về nhân quyền như Hoa Kỳ,
Pháp,… Việt Nam cũng không thể tách rời xu thế ấy. Tuy nhiên, khác với một số quốc gia
có bề dày lịch sử nghiên cứu về quyền con người, ở Việt Nam từ trước năm 1990, thuật ngữ
“quyền con người” còn khá xa lạ và thậm chí bị xem là thuật ngữ “tư sản”, khơng được
chấp nhận.12
Nếu nhìn nhận lại q trình hình thành và phát triển của quyền con người từ trước
đến nay, có thể thấy rằng cụm từ “tư sản” khi nói về quyền con người cũng có cơ sở của nó.
Bởi dù đã được nhắc đến từ rất sớm trong xã hội cổ đại, cho đến các học thuyết của những
tên tuổi vĩ đại trong thời kỳ khai sáng, nhưng để quyền con người trở thành những công cụ
chính trị, những chế định pháp lý quan trọng mà đến nay người ta vẫn hết sức coi trọng thì
phải đến chiến thắng của Cách mạng Tư sản với những bản tun ngơn bất hủ của mình
mới thật sự làm được.
Được cho là bước ngoặt quan trọng trong công cuộc đấu tranh về nhân quyền phải kể
đến những văn kiện sau đây. Đầu tiên là Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ (1776) với “Mọi
người sinh ra đều bình đẳng và đấng tạo hóa dành cho họ những quyền khơng thể bị tước
đoạt, trong các quyền đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Rồi
đến Lời nói đầu của Tun ngơn Nhân quyền và dân quyền của Đại Cách mạng Pháp (1791)
ghi nhận “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải ln được tự do và bình
đẳng về quyền lợi”, “đó là những lý lẽ khơng ai chối cãi được”. Như vậy, hai bản tuyên
ngôn này đã khẳng định quyền con người là quyền tự nhiên khi sinh ra và không thể bị tước
đoạt. Nhưng đồng thời, các văn kiện quốc tế về quyền con người cũng nêu rõ rằng, việc
pháp luât quốc gia ghi nhận chúng là nhằm mục đích đảm bảo bình đẳng và thực hiện
quyền trên thực tế. Cụ thể như tại Điều 2 Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp quy
định “mục đích của các tổ chức chính trị là giữ gìn các quyền tự nhiên và không thể tước
đoạt của con người”. Hoặc trong Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966
(ICCPR) cũng khẳng định rằng: “những quyền này bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con
Xem thêm: Nguyễn Cửu Việt (2012), "Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền và quyền con người,
quyền công dân: Một số vấn đề lý luận", và Phan Nhật Thanh (2012), "Quan niệm của Quốc tế và Việt
Nam về quyền con người và ý thức pháp luật về quyền con người", Kỷ yếu Tọa đàm khoa học Đổi mới
quyền, nghĩa vụ cơ bản của cơng dân về chính trị trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 14, 39.
12
4
người”, “theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc thì các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tơn
trọng và đảm bảo mọi mặt các quyền và tự do của con người. Nhận thấy rằng, mỗi cá nhân,
trong khi có nghĩa vụ đối với người khác và đối với cộng đồng của mình, thì phải có trách
nhiệm phấn đấu cho việc thúc đẩy và tôn trọng các quyền đã được thừa nhận trong Cơng
ước này”.13
Những văn kiện đó cũng cho thấy rằng, quyền tự nhiên của con người khơng hồn
tồn đồng nhất với quyền con người sống trong xã hội, cái tự do thiên nhiên vốn có của con
người tự nhiên khác với cái tự do của con người xã hội14. Các Mác viết về quan hệ giữa tự
do và pháp luật rằng: “Tự do được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong Nhà nước dưới
hình thức pháp luật. Các đạo luật không phải là các biện pháp đàn áp chống tự do. Ngược
lại, các đạo luật đó là các quy phạm chung, chính xác, rõ ràng mà trong đó tồn tại tự do –
độc lập với sự lộng quyền của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là “kinh thánh tự do của nhân
dân”!”15. Cũng từ đó, thấy rằng quyền tự nhiên về mặt bản chất là cơ sở của quyền con
người, nhưng quyền được giới hạn bởi ý chí chung của xã hội, mới là thực quyền của con
người.
Bàn về thế nào mới là thực quyền, trước hết, ta cần hiểu khái niệm “quyền”. Theo Từ
điển tiếng Việt phổ thơng, “quyền” có hai cách hiểu: “1. Điều mà pháp luật cơng nhận cho
được hưởng, được làm, được địi hỏi; 2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm.”16.
Như vậy, dù hiểu theo cách nào thì chỉ khi được ghi nhận bởi pháp luật thì những giá trị của
con người tự nhiên và xã hội mới được đảm bảo thực hiện và có ý nghĩa thực tiễn, mới thực
sự là quyền. Trong cuốn "Quyền con người", Jacqueus Mourgon đã có quan niệm về quyền
con người khá hợp lý, ông cho rằng quyền con người được hiểu trước hết là những đặc
quyền tự nhiên mà con người có. Đó là khả năng hành động một cách có ý thức, trách
nhiệm, nhất là tự bảo vệ. Nhưng tự bản thân chúng, đặc quyền (quyền tự nhiên) chưa phải
đã là quyền của con người17. Như vậy, nếu nói quyền con người như là những nhu cầu, khả
năng tự nhiên thơi thì chưa đủ mà phải có yếu tố pháp luật ghi nhận mới đạt được cái gọi là
quyền.
Về khái niệm quyền con người, theo Liên Hợp Quốc định nghĩa một cách đơn giản
thì “Quyền con người là những quyền tự nhiên và cố hữu của con người, mà nếu khơng có
Hồng Văn Thảo, Chu Hồng Thanh (1995), Các văn kiện quốc tế và quốc gia về quyền con người (tập
2), Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Học viện chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 46.
14
Nguyễn Cửu Việt, "Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền và quyền con người, quyền công dân: Một
số vấn đề lý luận", tlđd, tr. 20.
15
Trần Ngọc Đường (2002), Bàn về quyền con người, quyền công dân, tlđd, tr. 20.
16
Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Viêt phổ thông, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 743.
17
Jacques Mourgon (1995), Quyền con người, NXB Đại học Pháp, Hà Nội, tr. 10.
13
5
những quyền đó chúng ta khơng thể sống như một con người”18 và được hồn thiện, chính
xác hơn tại Đoạn 1 Nghị quyết 32/130 ngày 16/12/1977 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc:
“Quyền con người là những đảm bảo pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép và tự do cơ bản của con người”. Với cách hiểu như trên thì quyền con người
chính là những lợi ích cá nhân mà pháp luật phải bảo vệ, cũng theo đó, các đặc tính cơ bản
của con người được phần lớn các quốc gia hiện nay chấp nhận bao gồm: tính khơng thể
tước đoạt, tính phụ thuộc và khơng thể chia cắt, tính phổ biến và đặc thù19.
Cịn ở Việt Nam, nhiều học giả cũng có cách tiếp cận về quyền con người khá đa
dạng như: “quyền con người là một giá trị xã hội cơ bản, vốn có của con người dựa trên
quan niệm về nhân phẩm nhằm phân định giữa con người và phần còn lại của thế giới”20.
Với quan niệm như trên thì quyền con người là một thuộc tính cơ bản và vốn có của mỗi cá
nhân, và đặc trưng bởi nhân phẩm. Như vậy, quan niệm này chỉ nhằm phân định giữa “con
người và phần còn lại của thế giới”, tất cả thuộc tính vốn có đều là quyền, mà khơng chỉ ra
được quyền con người phải đi đơi với việc nó được công nhận và thực hiện như thế nào.
Hay quan điểm “Quyền con người là tổng hợp những quyền tự nhiên vốn có của con người
nói chung cần được nhà nước và xã hội thừa nhận và bảo vệ”21. Theo đó, các đặc quyền tự
nhiên chính là bản chất vốn có của quyền con người, nhưng phải được nhà nước và xã hội
thừa nhận mới thực sự là quyền con người. Bên cạnh đó, cũng có những định nghĩa tương
đồng với quốc tế, như “Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý mang tính
phổ quát nhằm bảo vệ những cá nhân và chống lại những hành động và sự thiếu trách
nhiệm làm xâm hại đến quyền lợi, quyền tự do cơ bản và nhân phẩm của con người”22. Như
vậy, định nghĩa này đã nêu bật được yếu tố bảo đảm pháp lý chính là cơ sở để thực hiện
quyền con người.
Như vậy, trong xu thế toàn cầu hiện nay, việc đưa ra các khái niệm về quyền con
người phải giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa lợi ích của mỗi cá nhân với lợi ích
chung của cộng đồng, giữa quyền lợi mỗi cá thể với quyền lực nhà nước… Từ đó, có thể
nêu ra một số thuộc tính cơ bản về khái niệm quyền con người như sau:
Dẫn theo: Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, NXB Công an
nhân dân, tr. 19.
19
Hỏi đáp về quyền con người, tlđd, tr. 20.
20
Chu Mạnh Hùng (2008), "Các giải pháp đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt
Nam", Nhà nước và pháp luật, (06), tr. 8.
21
Nguyễn Cửu Việt (2012), "Mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và quyền con người, quyền công
dân: Một số vấn đề lý luận", tlđd, tr. 22.
22
Đỗ Minh Khơi (2012), "Quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp", Kỷ yếu Tọa đàm khoa học
Đổi mới quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 60.
18
6
Một là, đó là những giá trị gắn liền với mỗi con người, vừa với tư cách là cá nhân,
vừa với tư cách là một thành viên trong xã hội;
Hai là, đó là những giá trị được xã hội hóa bằng cách thể chế hóa thành những quyền
năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết và bình đẳng;
Ba là, nó vừa mang thuộc tính tự nhiên, vừa là những giá trị nảy sinh trong đời sống
cộng đồng, gắn liền với một nhà nước cụ thể, với một chế độ chính trị, pháp luật cụ thể. Chỉ
có thơng qua pháp luật thì quyền con người mới trở thành hiện thực trong thực tiễn.
Với sự đa dạng và phức tạp trong những cách hiểu về quyền con người kể trên nên
trong chính bản thân khái niệm quyền con người trong Hiến pháp hiện hành của nước ta
cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Điều 50 Hiến pháp 1992 quy định: “Ở nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân, được quy định trong Hiến pháp và luật”. Phải
nhìn nhận một cách khách quan rằng, đây là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta nhắc đến
thuật ngữ “quyền con người”. Tuy nhiên, cách quy định như vậy cũng nhận được nhiều ý
kiến đánh giá là chưa thật chính xác, đánh đồng giữa quyền con người và quyền công dân.
1.1.2. Quyền công dân
Khái niệm công dân, quyền công dân đã ra đời trong nhà nước tư sản và được sử
dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý hiện nay. Trước đó, cư dân trong xã hội phong kiến
và xã hội chiếm hữu nô lệ không được gọi là công dân mà là thần dân. “Thần dân” nghĩa là
“dân” của các “thần” - tức vua chúa, thiên tử... Cịn “cơng dân” là dân của “con người cơng
cộng được hình thành bằng sự liên kết với tất cả mọi người khác”, của “nước cộng hịa”
hoặc “cơ thể chính trị”23. Theo đó, thần dân chỉ sự phục tùng một vị nguyên thủ, nên khái
niệm này gắn với nghĩa vụ, cịn cơng dân ln gắn với quyền, thể hiện sự bình đẳng với nhà
nước. Do đó, trong xã hội tư sản có dân chủ thực sự hoặc xã hội xã hội chủ nghĩa, những cư
dân mới đích thực là cơng dân. Như vậy, khái niệm công dân được xem xét trong một xã
hội riêng biệt, từ cơ sở phân biệt các hình thái xã hội khác nhau, các nhà nước độc lập khác
nhau. Nên nhìn chung, khái niệm quyền cơng dân khơng phức tạp như quyền con người,
bởi riêng từ “công dân” thôi cũng đã cho thấy phần nào đặc tính và mối liên hệ pháp lý giữa
một cá nhân với một nhà nước cụ thể.
Công dân là một đối tượng cụ thể gắn với một nhà nước, một cộng đồng thông qua
quốc tịch – sợi dây ràng buộc về mặt pháp lý, nó xác định tư cách thành viên của một cá
nhân trong cộng đồng chính trị. Do vậy, dựa vào quốc tịch sẽ giúp phân biệt công dân với
những người khác không phải là thành viên cộng đồng này như người không quốc tịch,
Nguyễn Cửu Việt (2012), "Mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và quyền con người, quyền công
dân: Một số vấn đề lý luận", tlđd, tr. 14.
23
7
người nước ngồi… Khi nói đến quyền cơng dân ta nghĩ ngay đến quyền con người (vì
trước hết, một cơng dân phải là một con người) nhưng những giá trị cá nhân này luôn gắn
liền với một nhà nước cụ thể và được nhà nước đó bảo hộ bằng pháp luật đối với người
mang quốc tịch của quốc gia mình, thể hiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân
cơng dân với một cộng đồng chính trị nhất định.
Hiện nay, ở các quốc gia trên thế giới, trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là Hiến
pháp đều có những chế định riêng về quyền cơng dân. Với mỗi nhà nước cụ thể, tùy thuộc
vào điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, tùy thuộc từng giai đoạn lịch sử mà chế định quyền
cơng dân có những thay đổi cho phù hợp. Nhưng dù thế nào, quyền công dân vẫn được hiểu
chung nhất là khả năng của công dân được thực hiện những hành vi nhất định một cách tự
nguyện, theo ý chí và sự lựa chọn của mình mà pháp luật khơng cấm24.
Ở Việt Nam, như đã nói ở trên, từ trước năm 1990, thuật ngữ “quyền con người” vẫn
còn khá xa lạ và chưa được sử dụng trong Hiến pháp, nhưng quyền công dân lại luôn là một
chế định rất được coi trọng ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Mặc dù khơng nói
đến cụm từ “nhân quyền” nhưng ở Việt Nam tư tưởng về quyền con người đã được đặt nền
móng lý luận và thực tiễn từ trước đó, thậm chí là xuất hiện khá sớm trong tư tưởng của các
nhà Cách mạng dân tộc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh25… cho đến Chủ tịch Hồ Chí
Minh với việc khẳng định tự do của con người phải gắn liền với độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn sâu xa
từ lịch sử dân tộc, là sự kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của phương
Đông và phương Tây, đặc biệt là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về giải phóng
con người và xã hội, tất cả chúng được nêu rõ trong Tuyên ngôn độc lập 1945 bất hủ của
Người. Và dù rằng Hiến pháp 1946 và hai bản Hiến pháp tiếp theo của nước ta chưa đề cập
trực tiếp về quyền con người nhưng những quy định về quyền công dân đã thể hiện rõ quan
điểm của Việt Nam về nhân quyền qua các thời kỳ.
Qua đó, sự thay đổi chế định quyền công dân từ năm 1946 đến năm 1992 cũng cho
thấy được những đặc điểm khái quát nhất của khái niệm quyền công dân ở Việt Nam như
sau: một là, quyền công dân xuất phát từ quyền con người, gắn liền với xác lập chủ quyền
dân tộc, chủ quyền quốc gia; hai là, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp, là cơ
sở để quy định các quyền khác; ba là, các quyền công dân rất rộng và có tính tiên tiến, ngày
càng mở rộng, khơng hạn chế tự do con người.
Chu Thị Vân (2010), Hiến pháp Việt nam với yêu cầu đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực kinh tế,
Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 7.
25
Xêm thêm: Tư tưởng về quyền con người (Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam), tlđd, tr. 601 -602.
24
8
1.1.3. Mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân
Quyền con người rộng hơn, phong phú hơn quyền công dân.
Về nội dung: quyền con người bao quát tất cả quyền cơng dân, cịn quyền cơng dân
khơng chứa đựng hết quyền con người. Vì quyền con người có nội dung thống nhất cho
tồn nhân loại, trong khi đó, quyền cơng dân chỉ gắn với một quốc gia nhất định. Như đã
phân tích, những quyền tự nhiên vốn có của con người chưa thực là quyền mà chỉ khi được
nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện mới là quyền đúng nghĩa. Do vậy, vì những nhân
tố chủ quan và khách quan khác nhau mà nội dung quyền công dân của mỗi quốc gia là
khác nhau, nghĩa là mỗi quốc gia chỉ ghi nhận những quyền nào phù hợp với điều kiện
quốc gia mình. Cũng từ đó, quyền cơng dân luôn được xác định rõ ràng chứ không bao hàm
hết tất cả các quyền con người.
Về chủ thể: quyền công dân được xác lập giữa công dân của một quốc gia với Nhà
nước đó thơng qua chế định quốc tịch, cịn chủ thể quyền con người rộng hơn, nó khơng chỉ
bao gồm cơng dân mà cịn có người nước ngồi (người mang quốc tịch quốc gia khác),
người không quốc tịch…
Về phạm vi áp dụng: trong khi quyền công dân bị giới hạn bởi quốc tịch, nằm trong
biên giới của một quốc gia thì quyền con người mang phạm vi tồn cầu, vượt qua khỏi biên
giới về không gian mà áp dụng cho tất cả mọi người.
Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm không đồng nhất nhưng cũng
khơng mâu thuẫn nhau.
Trước hết, cần khẳng định khơng có quyền cơng dân nào ngồi quyền con người, mà
nó đều phải xuất phát từ quyền con người. Vì vậy, bản chất của quyền con người và quyền
công dân là không mâu thuẫn mà ngược lại, chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Hơn thế nữa, khái niệm quyền con người tuy rộng hơn, bao hàm quyền công dân
nhưng bản thân nó khơng thể thay thế quyền cơng dân. Bởi lẽ, về bản chất, quyền cơng dân
chính là quyền con người được Nhà nước thừa nhận và áp dụng cho cơng dân của mình,
nhưng có nhiều quyền con người khơng được ghi nhận ở một quốc gia như là một quyền cơ
bản của cơng dân. Vì vậy, khơng phải hệ thống quyền công dân nào cũng đều giống hệt
nhau, cũng như đều hồn tồn tương thích với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về quyền
con người26.
Tóm lược lại, khi nhắc đến quyền con người, ta nghĩ ngay đến sự tồn cầu hóa và sự
bình đẳng của người với người ở cấp độ quốc tế. Ngược lại, khái niệm quyền công dân chỉ
là một phần của quyền con người, khi đó, ta nghĩ ngay đến một quốc gia cụ thể và sự bình
Phan Nhật Thanh (2012), "Quan niệm của Quốc tế và Việt Nam về quyền con người và ý thức pháp
luật về quyền con người", tlđd, tr. 39.
26
9
đẳng của công dân với công dân trong quốc gia đó. Như vậy, quyền con người – quyền
cơng dân là hai khái niệm vừa nằm trong một chỉnh thể thống nhất, vừa có mối liên hệ biện
chứng với nhau. Cả hai đều phản ánh sự tiến bộ, dân chủ và nhân đạo của một xã hội, một
nhà nước đối với giá trị của một cá nhân.
Về cách ghi nhận quyền con người tại Điều 50 Hiến pháp 1992, các nhà lập hiến
Việt Nam đã nhìn nhận quyền con người như là một nội dung, mà hình thức pháp lý của nó
là quyền cơng dân. Ở một khía cạnh nào đó, hiểu quyền cơng dân là một hình thức pháp lý
của quyền con người cũng không hẳn là sai. Tuy nhiên, quyền con người và quyền công
dân là hai khái niệm khác nhau về bản chất và về nội hàm thì quyền cơng dân chỉ có thể
tiệm cận dần với quyền con người chứ không thể trùng khớp, dù xã hội nước ta phát triển
rất cao chăng nữa27. Trong tình hình thế giới hiện nay, nhân quyền luôn là một đề tài nhạy
cảm khi ngày càng có nhiều nước sử dụng vấn đề này để cơng kích nền dân chủ của một
quốc gia, sử dụng nó như một lý do nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
Thiết nghĩ, việc một quốc gia dân chủ và tôn trọng nhân quyền hay không phải luôn được
xem xét, đánh giá gắn liền với việc quốc gia đó đã đảm bảo thực hiện quyền công dân như
thế nào, chứ không chỉ xem xét pháp luật quốc gia đó có hay không quy định trực tiếp thuật
ngữ quyền con người.
Từ khi Liên hợp quốc ra đời cùng với hàng loạt những công ước quốc tế về việc đảm
bảo thực hiện quyền con người, những giá trị của chúng dường như đã trở thành cơ sở, là
chuẩn mực chung để các quốc gia thể chế hóa thành quyền cơng dân phù hợp với điều kiện
nước mình. Trong xu thế ấy, sự phát triển và đảm bảo tốt việc thực hiện quyền công dân
của mỗi quốc gia là đã tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của quyền
con người. Vì vậy, nghiên cứu biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân ở Việt
Nam hiện nay không chỉ phản ánh thực tiễn bảo đảm quyền cơng dân ở Việt Nam mà cịn
thể hiện sự phát triển của quyền con người trong thực tiễn Việt Nam, đồng thời là cơ sở để
tìm hiểu mơi trường pháp lý về bình đẳng của cơng dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
1.2.
Khái quát về biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân
1.2.1. Hệ thống biện pháp đảm bảo thực hiện quyền công dân
Đảm bảo thực hiện quyền cơng dân có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng
đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhất là trong điều kiện của các quốc gia có
nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Cửu Việt (2012), "Các Hiến pháp Việt Nam với vấn đề ghi nhận, bảo vệ quyền con người", Kỷ
yếu Tọa đàm khoa học Đổi mới quyền, nghĩa vụ cơ bản của cơng dân về chính trị, dân sự trong điều kiện
hiện nay ở Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 52.
27
10
Việc ghi nhận quyền công dân trong hệ thống pháp luật của một quốc gia cho phù
hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đã là một vấn đề không đơn giản,
mà từ quy định pháp luật đến thực hiện trong thực tế lại càng khó khăn hơn. Vì vậy, cho dù
có ghi nhận ở đâu, tuyên bố long trọng đến mức nào mà không được đảm bảo thực hiện thì
cũng vơ nghĩa, nên đồng thời với việc ghi nhận các quyền công dân, nhất thiết phải tính đến
các đảm bảo thực hiện các quyền đó.
Khoa học pháp lý chia các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của công
dân làm hai loại cơ bản:
Một là, các biện pháp đảm bảo chung, bao gồm đảm bảo về chính trị (chế độ chính trị,
hệ thống chính sách của Nhà nước…), đảm bảo về kinh tế (tính chất của các quan hệ kinh
tế, khả năng kinh tế…), đảm bảo xã hội (đặc điểm, tính chất của các quan hệ trong các
giai cấp tầng lớp, vai trò của xã hội dân sự…), đảm bảo về tư tưởng (quan điểm, quan niệm
về chính trị - pháp lý về quyền con người, quyền công dân)… Các đảm bảo này tạo ra nền
tảng chung, là môi trường cho việc thực hiện quyền công dân. Tuy nhiên, các đảm bảo này
không trực tiếp gắn liền với việc thực hiện quyền cơng dân, nó thể hiện mối quan hệ có tính
trừu tượng đến khả năng thực hiện tổng thể các quyền công dân trên thực tế.
Hai là, các biện pháp đảm bảo riêng còn gọi là các đảm bảo pháp lý, chế tài pháp
lý… các biện pháp đảm bảo này mang bản chất pháp lý, trực tiếp gắn liền với việc thực
hiện quyền công dân cụ thể28. Tuy nhiên, các bảo đảm pháp lý chỉ là một khía cạnh trong
đời sống xã hội, gắn liền quyền công dân với quyền lực nhà nước, vì vậy, chỉ riêng các đảm
bảo pháp lý thì chưa có khả năng chu tồn và thể hiện sự thống nhất các mặt của quyền
công dân trong đời sống xã hội.
Cần xem xét hai loại biện pháp đảm bảo này trong một chỉnh thể thống nhất và trong
mối tương quan hỗ trợ lẫn nhau. Vì nếu hệ thống pháp luật quốc gia với các biện pháp pháp
lý đảm bảo quyền cơng dân tiến bộ và khá hồn thiện nhưng đặt trong một môi trường xã
hội với các điều kiện về tư tưởng – chính trị chưa nhất qn, hay điều kiện kinh tế - xã hơi
cịn lạc hậu, chưa đủ mạnh để đáp ứng đồng bộ cho việc thực hiện quyền cơng dân thì các
đảm bảo về pháp lý có chăng cũng là chưa phù hợp, bất khả thi. Ngược lại, khi các đảm bảo
chung chứa đựng các giá trị tiến bộ, văn minh của nhân loại, thì sẽ đi đến yêu cầu thay đổi
hệ thống pháp luật quốc gia với việc quy định những biện pháp pháp lý cụ thể cho việc thực
hiện quyền công dân trên thực tế dân chủ, khoa học hơn. Nên chỉ với một trong hai loại
biện pháp đảm bảo trên thì cũng chưa đủ, vì sự tác động của chúng có chăng cũng chưa
toàn diện và mang lại hiệu quả cao bằng sự phối hợp tất cả các biện pháp đảm bảo. Tuy
Vũ Kiều Oanh (2012), "Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp",
Nghiên cứu Lập pháp, (16), tr. 7.
28
11
nhiên, để đảm bảo thực hiện quyền công dân một cách hiệu lực, hiệu quả nhất thì phải xem
xét trong lĩnh vực pháp lý vì những lý do sau đây.
Thứ nhất, vì hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng chính là phản ánh rõ ràng nhất
cho sự phát triển các đảm bảo chung của quốc gia đó về tư tưởng – chính trị - kinh tế - văn
hóa – xã hội.
Thứ hai, vì đảm bảo thực hiện quyền công dân là trách nhiệm của nhà nước và gắn
với nhà nước. Nhà nước quản lý xã hội, quản lý công dân trên nhiều phương diện nhưng
mà pháp luật luôn là cơng cụ quan trọng nhất, xác lập vị trí và mối quan hệ giữa nhà nước
và công dân.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân
Đảm bảo pháp lý là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật được cụ thể hóa
và cơ chế đảm bảo thực hiện các quy định đó trong thực tiễn 29. Có thể hiểu rằng đó là các
quy định pháp luật trực tiếp liên quan đến việc thực hiện quyền công dân. Muốn các quyền
cơng dân được đảm bảo trên thực tế thì phải có những cách làm cụ thể phù hợp với quy
định pháp luật, hay nói chính xác hơn là những biện pháp pháp lý phù hợp.
Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt thì biện pháp nghĩa là “cách làm, cách giải
quyết một vấn đề hay một chủ trương cụ thể”30. Cịn pháp lý là “mang tính lý luận, ngun
lý của pháp luật”31. Do đó, có thể hiểu biện pháp pháp lý là những cách làm mang tính chất
lý luận, nguyên lý của pháp luật nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể. Vấn đề cụ thể cần giải
quyết ở đây chính là làm sao để có thể đảm bảo thực hiện quyền cơng dân trên thực tế. Như
vậy, có thể định nghĩa biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền cơng dân là “tồn bộ các
cách làm mang tính nguyên lý của pháp luật nhằm đảm bảo cho việc thực hiện quyền
công dân trên thực tế”.
Cũng từ định nghĩa trên, có thể thấy được biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện
quyền cơng dân có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, với bản chất là pháp lý, nên các biện pháp này mang tính chất lý luận và
gắn liền với pháp luật. Đây là cơ sở để phân biệt các biện pháp pháp lý với các biện pháp
đảm bảo khác. Từ đặc điểm này, có thể nhận thấy các biện pháp pháp lý phải được quy
định trong pháp luật, vì vậy, khi nghiên cứu chúng ln gắn liền với việc tìm hiểu các quy
định của pháp luật về quyền công dân.
Thứ hai, các biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân được thực hiện bởi
rất nhiều chủ thể khác nhau. Pháp luật trao quyền cho chủ thể nào thì chủ thể đó có thể thực
Lê Thị Mơ (2008), Những biện pháp pháp lý đảm bảo quyền con người trong lịch sử lập hiến Việt
Nam, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật học Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 7.
30
Từ điển Tiếng Việt phổ thông, tlđd, tr. 58.
31
Từ điển Tiếng Việt phổ thông, tlđd, tr. 700.
29
12
hiện các cách thức khác nhau nhằm thực hiện quyền công dân trong thực tế. Chẳng hạn như
Hiến pháp trao quyền cho Tòa án thực hiện việc xét xử để bảo vệ quyền lợi của công dân
khi bị xâm hại, như vậy, Tịa án nói riêng hay hệ thống cơ quan nhà nước nói chung đều có
thể trở thành chủ thể của các biện pháp pháp lý này. Không những vậy, một cá nhân hay
một tổ chức xã hội cũng có quyền tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và đóng góp
vào việc đưa các quyền cơng dân vào thực tế thì cũng có thể trở thành chủ thể của các biện
pháp pháp lý này. Ví dụ như quy định về cơ chế giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc trong
quá trình bầu cử và xem xét các khiếu nại, tố cáo của người dân thì lúc này Mặt trận Tổ
quốc chính là chủ thể của biện pháp pháp lý này.
Thứ ba, hệ thống các biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân là rất đa
dạng. Riêng sự đa dạng về chủ thể thực hiện đã phân tích ở trên thì các biện pháp này cịn
đa dạng về hình thức và nội dung bởi nó được thực hiện thơng qua nhiều cơng cụ, phương
tiện khác nhau. Ví dụ như: ban hành luật; ban hành các văn bản áp dụng pháp luật xử lý vi
phạm quyền công dân; các hoạt động tố tụng hay giải quyết khiếu nại tố cáo; cho đến các
hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan hay hoạt động giám sát của nhân dân đối với
cơ quan nhà nước…
1.2.3. Vai trò biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân
Việc đảm bảo thực hiện quyền công dân là trách nhiệm của nhà nước và gắn với nhà
nước, các biện pháp pháp lý là minh chứng rõ ràng nhất cho việc nhà nước thực hiện trách
nhiệm đó như thế nào.
Trong Tinh thần pháp luật, Montesquieu cho rằng: “Tự do chính trị của cơng dân là
sự n tâm vì mỗi người nghĩ rằng mình được an ninh. Muốn đảm bảo cho tự do chính trị
như vậy thì Chính phủ phải làm thế nào để mỗi công dân không phải sợ một công dân
khác”32. Như vậy ngay từ thời kỳ này, các nhà tư tưởng đã ràng buộc trách nhiệm đảm bảo
thực hiện quyền công dân là của nhà nước. Cho đến khi thế giới công nhận và mở rộng sự
phát triển của quyền con người, nhằm xác định vai trò cũng như trách nhiệm của các quốc
gia khi tham gia đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền cơng dân thì Cơng ước về
quyền dân sự - chính trị 1966 cũng lại khẳng định: “Tăng cường những khả năng bảo hộ
pháp lý và đảm bảo rằng các cơ quan tư pháp, hành chính hay cơ quan lập pháp có thẩm
quyền hoặc các nhà chức trách có thẩm quyền do hệ thống pháp luật của quốc gia quy định
sẽ phán quyết về hành vi của bất cứ người nào yêu cầu bảo hộ về mặt pháp lý” (Khoản 3,
Điều 2, Phần II, ICCPR).
Như vậy, pháp luật vừa điều chỉnh hành vi của con người, của công dân, song pháp
luật cũng là phương tiện, công cụ để tạo cơ sở cho cơng dân thực hiện quyền và u cầu
32
Hồng Thanh Đạm dịch (2010), Montesquie - Tinh thần pháp luật, NXB Đà Nẵng, tr. 102-103.
13
bảo vệ quyền lợi khi bị xâm hại. Vì vậy, biện pháp pháp lý đóng vai trị quan trọng trong hệ
thống các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền công dân.
Mặt khác, nhà nước vừa là chủ thể đảm bảo quyền công dân được thực hiện một cách
tốt nhất, vừa là chủ thể có khả năng xâm phạm cao nhất đối với quyền con người, quyền
công dân. Điểm cốt yếu trong vấn đề này là bởi vì nhà nước là chủ thể có quyền lực cơng
cộng đặc biệt, tuy nhiên, sức mạnh quyền lực ấy phải luôn được thực hiện trên cở sở luật
pháp – công cụ thống trị của nhà nước – nhà nước tạo ra pháp luật nhưng khơng đứng trên
và đứng ngồi pháp luật. Và pháp luật cũng chính là phương tiện để kiểm sốt và giới hạn
quyền lực nhà nước, nhằm ngăn những hành động vi phạm của nhà nước đối với cơng dân.
Vì vậy, để đảm bảo thực hiện quyền cơng dân thì dù cho nhà nước có sử dụng những biện
pháp nào thì biện pháp pháp lý cũng là những biện pháp được chú trọng hàng đầu và mang
lại hiệu quả cao nhất.
Hơn nữa, chủ thể của biện pháp pháp lý là rất đa dạng nên các biện pháp pháp lý cũng
được sử dụng khá linh hoạt. Sự linh hoạt thể hiện ở chỗ, với mỗi chủ thể lại có sự tiếp cận
và liên quan đến vấn đề đảm bảo quyền công dân khác nhau, từ đó, các biện pháp pháp lý
nhằm thực hiện quyền cơng dân cũng khác nhau và tồn diện hơn.
Ngày nay, khi quyền con người, quyền công dân trở thành một trong những tiêu
chuẩn chung của hệ thống pháp luật quốc tế, là thước đo của sự dân chủ và tiến bộ của một
quốc gia, thì vai trị của biện pháp pháp lý trong việc đảm bảo thực hiện quyền công dân là
lại càng to lớn và tiên phong cho mọi hoạt động.
1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp pháp lý đảm bảo thực
hiện quyền công dân
Hiện nay trên thế giới khi quy định về quyền con người, quyền cơng dân có ba dạng
chủ yếu sau đây: một là, quy định trong một bản Tuyên ngơn riêng, điển hình là Tun
ngơn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789, Tuyên ngôn Nhân quyền của Anh
năm 1689…; hai là, quy định thành một chương trong Hiến pháp, ví dụ như: Hiến pháp Ý
1947 (Phần I), Hiến pháp Đức 1949 (Chương I), Hiến pháp Nga 1993…; ba là, quy định
như một bản phụ trương của Hiến pháp, tiêu biểu là Mười tu chính án của Hoa Kỳ 1789
(Bill of Rights).
Cách thức của sự ghi nhận này tùy thuộc vào quan điểm lập hiến, lập pháp của mỗi
quốc gia, phụ thuộc vào các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Nhưng dù có khác nhau về hình thức thì quan trọng hơn vẫn chính
là nội dung của nó, có quy định quyền cơng dân một cách đầy đủ hay không, thể hiện sự tôn
trọng và trách nhiệm của nhà nước với quyền con người, quyền công dân như thế nào.
14
Ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được quy định thành một chương
riêng trong Hiến pháp. Đây được xem là nguồn quan trọng nhất khi nghiên cứu các biện
pháp pháp lý đảm bảo quyền cơng dân, vì Hiến pháp là văn bản pháp luật quan trọng và có
hiệu lực pháp lý cao nhất ở Việt Nam. Đặc biệt, trong chủ trương xây dựng nhà nước Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân thì việc quy định
về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp lại càng mang ý nghĩa to lớn. Và
chính việc quy định này đã là một biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân
đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất.
1.3.1. Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân trong Hiến pháp
1.3.1.1. Vai trò của việc ghi nhận các biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền
công dân trong Hiến pháp
Ghi nhận quyền công dân trong Hiến pháp là việc đưa quyền công dân trở thành một
nội dung tất yếu trong Hiến pháp, bên cạnh các nội dung khác như chế độ chính trị và tổ
chức bộ máy nhà nước… Nhưng xét cho cùng, việc quy định những nội dung đó cũng
nhằm mục đích là xác định vai trò của nhà nước trong xã hội, giới hạn quyền lực nhà nước
và thiết lập cơ cấu chính quyền phục vụ nhân dân, đảm bảo cho nhà nước không vi phạm
đến quyền con người, quyền công dân. Nên mục đích cuối cùng và cốt yếu nhất của Hiến
pháp chính là đảm bảo thực hiện quyền công dân trên thực tế.
Do đó, sự ghi nhận quyền cơng dân trong Hiến pháp ảnh hưởng rất lớn đến việc nhìn
nhận giá trị quyền con người trong pháp luật quốc tế nói chung và giá trị quyền cơng dân
trong từng quốc gia nói riêng. Nếu như Hiến pháp quy định không đầy đủ, đồng bộ, thống
nhất, thể hiện trình độ lập hiến thấp, lạc hậu thì chắc chắn rằng sẽ khơng phản ánh được giá
trị nhân văn của Hiến pháp, từ đó, việc đảm bảo thực hiện quyền công dân trên thực tế sẽ
rất khó thực hiện. Ngược lại, sự quy định một cách bao qt, tồn diện, khoa học, tiến bộ
thì lộ trình đưa quyền cơng dân trong Hiến pháp thành quyền thực tế sẽ khả thi hơn.
1.3.1.2. Biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân được quy định trong
Hiến pháp Việt Nam hiện hành
Việt Nam trải qua các giai đoạn phát triển với bốn bản Hiến pháp mang đậm tính lịch
sử của từng thời kỳ nên có nhiều điểm khác nhau giữa chúng, nhưng nhìn chung, thấm
nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, các nhà lập hiến Việt Nam luôn thể hiện
thái độ tôn trọng và mưu cầu sự đảm bảo thực hiện đối với các quyền công dân.
Ba bản Hiến pháp Việt Nam trước đây (năm 1946, 1959, 1980) đã phần nào nêu lên
được những nguyên tắc cơ bản trong việc quy định về quyền công dân và các biện pháp
pháp lý đảm bảo thực hiện nó. Một mặt, sự ghi nhận các quyền trong Hiến pháp thể hiện
quyền công dân là xuất phát từ quyền con người với việc xác lập chủ quyền quốc gia, nó rất
15
rộng, ngày càng chi tiết và tăng lên đáng kể về số lượng đã góp phần tạo điều kiện cho việc
quyền công dân phát triển; một mặt, với những hạn chế nhất định trong từng thời kỳ và với
lối tư duy duy ý chí trong một giai đoạn cụ thể, đã khiến cho nhiều quyền công dân trở nên
bất khả thi trong sự “hứa hẹn” của nhà nước, tạo nên khoảng cách xa vời trong việc quy
định và việc thực hiện trong thực tiễn. Các biện pháp pháp lý đảm bảo quyền công dân qua
cả ba bản Hiến pháp Việt Nam trước đây đều được xác lập thông qua tổ chức và hoạt động
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhìn chung là đã xác định được trách nhiệm của
nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện quyền cơng dân. Tuy nhiên, do nhiều lý do như
hồn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế của đất nước hay nguyên nhân chủ quan từ các nhà lập
pháp mà các biện pháp này chưa được phát huy một cách hiệu quả, chứa đựng một số bất
cập nhất định.
Hiến pháp 1992 ra đời như một nhu cầu thiết yếu của đất nước trong công cuộc Đổi
mới của Đảng và nhà nước ta, trong điều kiện nền kinh tế có những bước chuyển mình
mạnh mẽ. So với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đánh dấu bước phát triển mới về nội
dung và hình thức quy định quyền cơng dân trên cơ sở đổi mới tư duy, nhận thức về Chủ
nghĩa xã hội đúng đắn, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước.
Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, thuật ngữ quyền con người
được ghi nhận trong Hiến pháp (Điều 50), thể hiện dưới quyền cơ bản của công dân và
không tách rời nghĩa vụ của công dân trong mối liên hệ với nhà nước. Theo đó, Hiến pháp
cũng nêu lên nguyên tắc “các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân do Hiến pháp và Luật
quy định” (Điều 51). Quy định này một mặt thể hiện thái độ trân trọng quyền công dân chỉ
do Hiến pháp và Luật, những đảm bảo pháp lý ổn định và hiệu lực cao mới đủ điều kiện và
khả năng đảm bảo các quyền đó; mặt khác, quy định này cũng nhằm ngăn ngừa các cơ
quan nhà nước, nhân viên nhà nước vi phạm quyền công dân bằng việc quy định một cách
tùy tiện trong các văn bản pháp luật dưới luật.
Hiến pháp 1992 có 147 điều, trong đó có 34 điều của Chương V về quyền và nghĩa
vụ của công dân (từ Điều 49 đến Điều 82) và một số điều ghi nhận nguyên tắc cũng như
những đảm bảo của nhà nước đối với quyền công dân (các Điều 3, 6, 7, 8, 11, 12). Cụ thể
như “Nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân…” (Điều 3); “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hay Quốc hội bãi nhiệm, đại biểu Hội đồng
nhân dân bị cử tri hay Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó khơng cịn xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân” (Điều 7); “mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo quy định của pháp
luật”(Điều 12)…
16
Trong Chương V, ngoài việc chỉ giữ lại 4 điều của Hiến pháp 1980 (các điều 49, 52,
76, 80 Hiến pháp 1992) và có thêm 4 điều hồn tồn mới về: quyền con người – Điều 50;
quyền tự do kinh doanh theo quy định pháp luật – Điều 57; quyền của cá nhân được suy
đốn vơ tội – Điều 72; người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và
pháp luật Việt Nam, được nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng
khác theo pháp luật Việt Nam, cịn lại 26 điều của Hiến pháp 1980 được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp. Những quyền này chính là sự thể chế hóa các nhóm quyền về dân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội của con người phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đồng thời, xác
lập trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền công dân thông qua hệ thống các cơ quan nhà
nước33. Điều 2 Hiến pháp 1992 xác định “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp”. Như vậy, biện pháp pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân
thông qua hệ thống cơ quan nhà nước theo Hiến pháp 1992 gồm các chủ thể sau đây:
-
Thơng qua cơ quan lập pháp:
Với vai trị là cơ quan đại diện của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra và là cơ
quan quyền lực nhà nước, Hiến pháp 1992 quy định Quốc hội đảm bảo thực hiện quyền
công dân thông qua những biện pháp như:
Bằng hoạt động lập hiến và lập pháp (Điều 83
quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp”), Quốc hội thể chế hóa các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân nhằm xác lập những
mối quan hệ cơ bản giữa nhà nước và công dân, tạo
cơ sở pháp lý cao nhất làm cơ sở cho các mối quan hệ
pháp lý cụ thể;
Bằng hoạt động giám sát tối cao đối với Hiến
pháp, Luật và nghị quyết do mình ban hành (đoạn 4
Điều 83 và khoản 2 Điều 84), Quốc hội đảm bảo thực
hiện quyền công dân bằng các việc kiểm tra, giám sát
nhằm đảm bảo thực thi thống nhất trong cả nước các
quyền công dân;
Bằng hoạt động quyết định những vấn đề cơ
bản quan trọng nhất của đất nước trên mọi lĩnh vực
Nguyễn Thị Báo (2005), "Bảo đảm thực hiện quyền công dân thông qua hoạt động của cơ quan nhà
nước", Nghiên cứu Lập pháp, (7), tr.10.
33
17
của đời sống xã hội (đoạn 3 Điều 83 và khoản 3, 4, 5,
12, 13, 14 Điều 84), Quốc hội là đại diện ủy quyền
hợp pháp của công dân thực hiện quyền lực nhà nước
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi
công dân, chính những quyết định đó là cơ sở để điều
chỉnh các chính sách pháp luật, các hoạt động của cơ
quan nhà nước phục vụ dân;
Bằng các hoạt động gặp gỡ, trả lời những kiến
nghị của cử tri, xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, hướng dẫn,
giúp đỡ cơng dân thực hiện những quyền đó, Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đại biểu
Quốc hội đã xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với nhân
dân và góp phần đảm quyền cơng dân được thực hiện
hiệu quả.
Hiến pháp 1992 cũng xem Hội đồng nhân dân các cấp là một thiết chế quan
trọng trong cơ chế pháp lý đảm bảo thực hiện quyền công dân trên phạm vi của từng địa
phương. Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân “căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp
đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn
định và nâng cao đời sống của nhân dân” (Điều 120).
Như vậy, về nguyên tắc, Hiến pháp 1992 xác định quyền công dân được đảm bảo
thực hiện trước hết và cao nhất là thông qua hoạt động của các cơ quan đại diện ở trung
ương và địa phương.
-
Thơng qua cơ quan hành pháp:
Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp tạo thành hệ thống cơ quan chấp hành và
hành chính trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thực hiện hóa các quyền công
dân trong đời sống xã hội. Khoản 5, Điều 112 Hiến pháp 1992 quy định Chính phủ có
nhiệm vụ: “thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
tạo điều kiện cho cơng dân sử dụng quyền và làm trịn nghĩa vụ của mình…”, cịn Ủy ban
nhân dân các cấp là “cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm chấp
hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân” (Điều 123). Như vậy, các cơ quan này trong hoạt động của mình thường
18