BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
NGUYỄN THỊ LÊ NA
TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ LÊ NA
KHĨA: 37
MSSV: 1253801010200
GVHD: GIẢNG VIÊN NGƠ THỊ ANH VÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GV. Ngô Thị Anh Vân – Giảng viên Khoa
Luật dân sự, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, đảm bảo tính trung thực và tuân
thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách
nhiệm về lời cam đoan này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 7 năm 2016
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Lê Na
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, đến nay tơi đã hồn thành khóa luận tốt nghiệp. Để có được kết quả đó, trước hết
tơi xin gửi lời cám ơn sâu sắc tới cô Ngô Thị Anh Vân, người đã tận tình giúp đỡ tơi
trong việc định hướng nghiên cứu đề tài và hồn thiện khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo của trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ tơi trong suốt thời gian học tập và rèn
luyện tại trường. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các cơ, chú ở Tịa án nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh, anh Trần Minh Tuấn – nhân viên Cơng ty Luật Frasers, gia đình và bạn
bè đã giúp đỡ tơi trong q trình hồn thành khóa luận này.
Khóa luận tốt nghiệp là cơng trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của bản thân
tôi, nhưng do khả năng có hạn nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tơi
rất mong nhận được sự đóng góp nhiệt tình của q thầy cơ, đọc giả có quan tâm đến
vấn đề này để khóa luận của tơi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật dân sự
BTTH
Bồi thường thiệt hại
NLHVDS
Năng lực hành vi dân sự
BLDS năm 2005
Bộ luật dân sự năm 2005
BLDS năm 2015
Bộ luật dân sự năm 2015
LHNGĐ năm 1959
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959
LHNGĐ năm 1986
Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986
LHNGĐ năm 2000
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000
LHNGĐ năm 2014
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014
Nghị định 126/2014/NĐ – CP của Chính phủ
Nghị định 126/2014/NĐ – CP
ngày 31 tháng 12 năm 2014 về quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Hơn nhân và gia đình
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG
TRONG PHÁP LUẬT LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH .........................................5
1.1. Khái niệm ......................................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm tài sản ..............................................................................................5
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm liên đới của vợ chồng..................................................7
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia
đình .....................................................................................................................................10
1.3. Ý nghĩa của quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong pháp luật hơn
nhân và gia đình .................................................................................................................12
1.4. Sự phát triển của quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam..........................................................................................14
1.4.1. Trước khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực..........................14
1.4.2. Giai đoạn Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực ..........................16
1.4.3. Giai đoạn Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực ..........................17
1.4.4. Giai đoạn Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực ..........................18
1.5. Pháp luật về trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ hơn nhân và gia đình
của một số quốc gia trên thế giới .......................................................................................20
1.5.1. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia đình
Pháp ....................................................................................................................................20
1.5.2. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia đình
Đức .....................................................................................................................................21
1.5.3. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình
Nhật Bản .............................................................................................................................22
1.5.4. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia đình
Thái Lan .............................................................................................................................23
1.5.5. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia đình
Campuchia ..........................................................................................................................24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................................26
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP
LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC TRẠNG
ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................................27
2.1. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam
hiện hành ............................................................................................................................27
2.1.1. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện
nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình ....................................................................27
2.1.2. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch được xác lập trên cơ
sở đại diện ..........................................................................................................................32
2.1.3. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch do vợ chồng cùng
thỏa thuận xác lập...............................................................................................................37
2.1.4. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung ...............................................................................38
2.1.5. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng về tài sản đối với nghĩa vụ phát sinh từ
việc sử dụng tài sản riêng vì lợi ích chung .........................................................................40
2.1.6. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng về tài sản đối với nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng .....................................................................................................42
2.2. Thực trạng áp dụng và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về trách nhiệm liên
đới của vợ chồng trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam ...................................46
2.2.1. Thực trạng áp dụng các quy định trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong
pháp Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam .......................................................................46
2.2.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định trách nhiệm liên đới của vợ chồng
trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam ................................................................52
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................................56
KẾT LUẬN .......................................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa tới nay, hơn nhân và gia đình ln là một đối tượng được các nhà triết học,
xã hội học, tâm lý học, luật học tìm hiểu và nghiên cứu. Hơn nhân là nền tảng, là cơ sở
chủ yếu để hình thành nên gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng
con người mà trong đó kết hợp hài hịa lợi ích của mỗi cơng dân, Nhà nước và xã hội.
Quan hệ hôn nhân và gia đình là tổng thể gắn bó của nhiều mối quan hệ. Sự gắn bó đó
khơng chỉ thể hiện ở các quan hệ nhân thân mà còn được thể hiện thông qua các quan
hệ về tài sản. Nếu sự yêu thương, quan tâm chăm sóc giữa các thành viên trong gia
đình là điều kiện cần thì tài sản chính là điều kiện đủ để duy trì sự tồn tại và bảo vệ
hạnh phúc gia đình. Đó cũng chính là lý do pháp luật xây dựng những quy định để điều
chỉnh về tài sản của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là chế độ tài sản của vợ
chồng. Trong chế độ tài sản của vợ chồng, trách nhiệm liên đới của vợ chồng là một
nội dung đáng lưu ý và phản ánh được tính đặc thù của mối quan hệ này.
LHNGĐ năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, ngoài việc kế thừa LHNGĐ
năm 2000 đã quy định những căn cứ mới để xác định trách nhiệm liên đới của vợ
chồng. Về cơ bản, quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo LHNGĐ năm
2014 đã mở rộng và hồn thiện hơn so với LHNGĐ trước đó. Tuy nhiên, một số quy
định của LHNGĐ năm 2014 chưa rõ ràng, gây nhiều khó khăn trong q trình áp dụng.
Mặt khác, kể từ khi LHNGĐ năm 2014 có hiệu lực, chưa có nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu về trách nhiệm liên đới của vợ chồng. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu trách
nhiệm liên đới của vợ chồng theo LHNGĐ năm 2014 sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm về
góc độ lý luận và thực tiễn. Ngồi ra, trong một chừng mực nhất định, việc nghiên cứu
đề tài này cũng góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm liên đới
của vợ chồng.
Từ những lý do nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài “trách nhiệm liên đới của
vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu khóa
luận tốt nghiệp của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề “trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam” từng được đề cập trong một số cơng trình nghiên cứu như: Trần Thị Huệ (2000),
Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng theo Điều 25 LHNGĐ năm 2000, Tạp chí Luật học
(số 6); Bùi Thủy Nguyên (2002), Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch
dân sự do một bên thực hiện, Tạp chí Tịa án nhân dân (số 2); Nguyễn Hải An (2006),
Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với hợp đồng dân sự do một bên thực
hiện, Tạp chí Tịa án nhân dân (số 12); Nguyễn Thị Thùy Linh (2012), Trách nhiệm
liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự do một bên thực hiện, Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân, trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh. Các cơng trình này chủ
yếu tìm hiểu về trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự do một bên
thực hiện theo quy định của LHNGĐ năm 2000.
Liên quan đến nội dung trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo quy định của
LHNGĐ năm 2014 có cơng trình nghiên cứu của: Đỗ Văn Đại, Nguyễn Nhật Thanh
(2015), Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng theo LHNGĐ năm 2014, Tạp chí Tịa án
nhân dân (số 5); Lê Thị Kim Anh (2015) về “Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối
với bên thứ ba”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, trường Đại học luật thành phố Hồ Chí
Minh.
Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, trách nhiệm liên đới của vợ chồng chưa được
được nhiều tác giả đầu tư nghiên cứu chuyên sâu. Đặc biệt, trong hoàn cảnh LHNGĐ
năm 2014 vừa được ban hành và có hiệu lực trong một thời gian ngắn, các quy định về
trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo đó sẽ có những thay đổi nhất định để phù hợp
hơn với thực tiễn đời sống xã hội. Chính vì vậy, tác giả đã quyết định chọn đề tài
“trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam” để
nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Với mong muốn góp phần đi đến hồn thiện pháp luật hơn nhân và gia đình hiện
hành, tác giả hướng đến việc đi sâu phân tích lý luận và đánh giá thực trạng áp dụng
2
các quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng. Qua đó, đề ra một số kiến nghị
nhằm khắc phục được phần nào những hạn chế còn tồn tại của luật thực định.
Để đạt được mục đích này, khóa luận đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, phân tích những nội dung mang tính khát quát chung liên
quan đến trách nhiệm liên đới của vợ chồng.
Thứ hai, phân tích các quy định của LHNGĐ Việt Nam hiện hành về trách nhiệm
liên đới của vợ chồng.
Thứ ba, mô tả thực trạng áp dụng pháp luật trong các vụ việc liên quan đến trách
nhiệm liên đới của vợ chồng thông qua các Quyết định, Bản án của Tịa án nhân dân
các cấp. Từ đó, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong việc áp dụng các quy định của
pháp luật hơn nhân và gia đình cũng như các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan.
Thứ tư, đề xuất các kiến nghị nhằm khắc phục những điểm hạn chế, góp phần hồn
thiện pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đề tài, đối tượng nghiên cứu của đề tài là trách
nhiệm liên đới của vợ chồng về tài sản trong chế độ tài sản theo luật định.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về
trách nhiệm liên đới của vợ chồng. Tuy nhiên, do thời gian hạn hẹp và trong khn khổ
của khóa luận tốt nghiệp, tác giả chỉ tập trung làm sáng tỏ vấn đề trách nhiệm liên đới
của vợ chồng trong nước theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chủ thể với tư
cách vợ chồng trong khóa luận được tiếp cận ở góc độ là công dân Việt Nam. Vấn đề
trách nhiệm liên đới của vợ chồng có yếu tố nước ngồi khơng đề cập trong khóa luận
này.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Để làm rõ mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau. Cụ thể:
Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu trong chương khái quát trách nhiệm
liên đới của vợ chồng trong pháp luật hơn nhân và gia đình, đặc biệt tại phần trách
3
nhiệm liên đới của vợ chồng qua quá trình lịch sử.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi tìm hiểu về trách nhiệm liên đới của vợ
chồng trong một số giai đoạn lịch sử và pháp luật một số quốc gia trên thế giới liên
quan đến nội dung này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng hầu như xuyên
suốt cả đề tài. Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến trách nhiệm liên đới của vợ chồng, khái quát nội dung cơ bản của
từng vấn đề được tìm hiểu.
Phương pháp bình luận: phương pháp này sử dụng để đưa ra ý kiến, đánh giá, bình
luận của tác giả về các quy định trách nhiệm liên đới của vợ chồng.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mục lục, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
khóa luận được chia thành 2 chương:
Chương 1. Khái quát trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong pháp luật hơn nhân
và gia đình
Chương 2. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam hiện hành, thực trạng áp dụng và kiến nghị
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, do năng lực của tác giả còn hạn chế nên không
thể tránh khỏi được những khiếm khuyết, thiếu sót nhất định. Do đó, tác giả hy vọng
nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy, cơ và những bạn đọc quan tâm để khóa
luận được hồn thiện hơn.
4
CHƢƠNG 1.
KHÁI QUÁT TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP
LUẬT LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm
1.1.1.
Khái niệm tài sản
Tài sản là một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội. Tài sản tồn tại để đáp
ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Theo cách hiểu thông thường,
“tài sản là của cải, vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”1. Có thể thấy
rằng, tài sản chính là của cải, vật chất được con người tạo ra trong quá trình lao động,
sản xuất hoặc được sử dụng trong q trình tồn tại của con người.
Dưới góc độ pháp lý, “tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của
quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm: vật có thực, vật đang tồn
tại và sẽ có như hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu như đã thỏa thuận giữa
các bên, tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản”2.
Khái niệm tài sản còn được đề cập tại Điều 105 BLDS năm 2015, theo đó “tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. So với Điều 1633 BLDS 2005, quy định
về tài sản “có thay đổi về thuật ngữ là từ “bao gồm” được thay bằng từ “là”. Việc thay
đổi này chỉ mang tính kỹ thuật: đây là quy định về khái niệm tài sản và từ “bao gồm”
không phù hợp với quy định về khái niệm bằng từ “là”. Do đó, từ “là” thay thế vào từ
“bao gồm” chỉ để tương thích với điều luật về khái niệm tài sản”4. Nội hàm của quan
niệm về tài sản khơng có sự thay đổi.
Vật: ngồi các yếu tố là một bộ phận của thế giới vật chất, là vật hữu hình, cảm
nhận được bởi năm giác quan của con người, chiếm giữ một phần trong không gian, thì
vật phải được đưa vào giao lưu dân sự mới được xem là một tài sản được pháp luật
điều chỉnh. BLDS năm 2015 khơng chỉ hạn chế vật có thực mới được coi là tài sản, là
1
Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr. 811.
Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học của Bộ tư pháp, NXB Từ điển bách khoa, NXB Tư pháp, Hà
Nội, tr. 685.
3
Điều 163 Bộ luật dân sự 2005 quy định “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
4
Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của bộ luật dân sự 2015, NXB Hồng Đức –
Hội luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 123.
2
5
đối tượng của quyền sở hữu, mà còn mở rộng đối với vật được hình thành trong tương
lai.
Tiền: theo quy định của pháp luật Việt Nam, tiền là một loại tài sản đặc biệt, chỉ do
Nhà nước độc quyền phát hành. Chúng ta không thể khai thác công dụng hữu ích từ
chính đồng tiền giấy hay đồng tiền xu. “Tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá
chung được sử dụng làm thước đo giá trị các loại tài sản khác. Tiền được coi là tài sản
khi nó đang có giá trị lưu hành”5. “Tiền thực hiện ba chức năng chính là: cơng cụ thanh
tốn đa năng, cơng cụ tích lũy tài sản và cơng cụ định giá các loại tài sản khác. Khái
niệm quyền sử dụng chỉ áp dụng cho vật, chứ không áp dụng cho tiền. Việc sử dụng
tiền vào hoạt động kinh doanh hay tiêu dùng được hiểu là hành vi định đoạt tiền”6.
Giấy tờ có giá: được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được
trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như cổ phiếu,
trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu… “Căn cứ vào khả năng chuyển nhượng, giấy tờ có giá
được phân thành: giấy tờ có giá có khả năng chuyển nhượng và giấy tờ khơng có khả
năng chuyển nhượng như cổ phiếu ưu đãi, biểu quyết…”7.
Quyền tài sản: theo Điều 115 BLDS năm 2015 thì “quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Quy định này đã bỏ yếu tố “và có thể chuyển
giao trong giao dịch dân sự” trong quy định của Điều 181 BLDS năm 2005. Theo đó,
đối tượng quyền là tài sản đã được mở rộng phạm vi. Quyền tài sản là những quyền
gắn liền với tài sản mà khi thực hiện những quyền đó chủ sở hữu sẽ có được một tài
sản. Khác với vật là tài sản hữu hình, quyền tài sản là tài sản vơ hình.
5
Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và
quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 14.
6
Hồng Thế Liên (chủ biên) (2008), Bình luận khoa học BLDS năm 2005, Tập 1, NXB chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 358.
7
Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, Tlđd (5), tr. 17.
6
1.1.2.
Khái niệm trách nhiệm liên đới của vợ chồng
Trên thực tế, tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể mà “trách nhiệm” được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau. Theo cách hiểu thông thường, “trách nhiệm” được hiểu là phần
việc được giao cho phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt phải gánh chịu phần
hậu quả; hoặc sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu
sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả8.
Trong đời sống xã hội, “trách nhiệm” được hiểu là sự tồn tâm tồn ý thực hiện
một cơng việc, một nhiệm vụ, chẳng hạn như trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái,
trách nhiệm của công dân đối với đất nước,… Trong trường hợp này, trách nhiệm sẽ
được đánh giá bởi các chuẩn mực đạo đức của xã hội. Khi bản thân mỗi người thực
hiện đúng trách nhiệm của mình sẽ được xã hội tơn trọng, mọi người yêu mến. Lúc
này, chuẩn mực đạo đức sẽ là thước đo, quy chuẩn để đánh giá ý thức trách nhiệm của
mỗi người, ràng buộc họ thực hiện tốt công việc, nhiệm vụ của mình.
Trong khoa học pháp lý, “trách nhiệm” được hiểu là những nghĩa vụ phải thực
hiện. Chủ thể có trách nhiệm phải có thái độ tích cực thực hiện nghĩa vụ đó. Nói cách
khác, đây là “trách nhiệm pháp lý tích cực”9, là sự thực hiện tự giác, chủ động các
nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở nhận thức về bổn phận của mình trước xã hội, nhà nước
hay người khác (nghĩa vụ này gắn bó với bộ phận quy định của quy phạm pháp luật).
Bên cạnh đó, trách nhiệm cũng có thể được hiểu là hậu quả bất lợi mà cá nhân hoặc cơ
quan, tổ chức phải gánh chịu nếu không thực hiện, thực hiện không đúng, thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ đã được pháp luật quy định.
Pháp luật luôn quy định đồng thời một người có các quyền và nghĩa vụ tương ứng.
Do đó, khi các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện không đúng
đều phải chịu trách nhiệm trước bên cịn lại. Điều này khơng có nghĩa trách nhiệm là
một sự trừng phạt, đó có thể là một hình thức cưỡng chế mà nhà nước đặt ra. Theo đó,
người có hành vi vi phạm phải thực hiện một nghĩa vụ hoặc buộc phải khắc phục, sửa
8
Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển tiếng Việt, NXB Trung tâm từ điển ngôn
ngữ, Hà Nội, tr. 1001.
9
Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Tập bài giảng lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Hồng
Đức – Hội luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 188.
7
chữa một thiệt hại hoặc bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi của mình gây ra.
Chính vì vậy, trách nhiệm luôn mang tới hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm
pháp luật.
Theo quy định của pháp luật dân sự, “nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người
cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có
trách nhiệm phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ”10.
Tương tự như vậy, trách nhiệm liên đới được hiểu là trách nhiệm do nhiều người
cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ chủ thể có trách nhiệm nào
thực hiện tồn bộ nghĩa vụ cho mình.
Trong trách nhiệm liên đới, những người có trách nhiệm ln liên quan với nhau
trong cả q trình thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, cũng như quyền yêu cầu của những
người có quyền là một thể thống nhất. Có hai căn cứ để trách nhiệm liên đới phát sinh,
bao gồm: do thỏa thuận giữa các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ hoặc do pháp luật quy
định. Trong trách nhiệm liên đới, người có quyền hoặc yêu cầu tất cả những người có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách đồng thời hoặc yêu cầu bất cứ ai trong số
những người có trách nhiệm phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ. Nếu một trong số những
người có trách nhiệm đã thực hiện tồn bộ nghĩa vụ thì quan hệ đối với bên có quyền
chấm dứt. Đồng thời, giữa những người có trách nhiệm sẽ phát sinh nghĩa vụ hồn lại.
Trách nhiệm liên đới sẽ khơng chấm dứt nếu bên có quyền đã yêu cầu một trong số
những người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ mà người đó không thể thực hiện được
hoặc chỉ thực hiện được một phần. Trong trường hợp đó, người có quyền có thể tiếp
tục yêu cầu một người có trách nhiệm khác thực hiện nghĩa vụ. Khi bên có quyền chỉ
định bất kì ai trong số những người có trách nhiệm liên đới thực hiện tồn bộ nghĩa vụ,
mà sau đó miễn cho người này thì tồn bộ nghĩa vụ xem như hồn thành. Những người
có trách nhiệm khác cũng khơng phải thực hiện nghĩa vụ đó nữa. Quan hệ giữa những
người cùng chịu trách nhiệm liên đới với bên có quyền sẽ chấm dứt. Nếu người có
quyền miễn thực hiện phần nghĩa vụ cho một người thì chỉ người này khơng phải thực
10
Khoản 1 Điều 288, Bộ luật Dân sự năm 2015.
8
hiện, những người khác vẫn phải liên đới với nhau thực hiện nghĩa vụ đối với người có
quyền.
Từ định nghĩa về “trách nhiệm liên đới” trên, có thể hiểu: trách nhiệm liên đới của
vợ chồng là một loại trách nhiệm dân sự, trong đó vợ, chồng phải cùng nhau thực hiện
nghĩa vụ đối với bên có quyền trong giao dịch dân sự do một bên hoặc cả hai bên đã
xác lập.
Bên cạnh nghĩa vụ liên đới, trong pháp luật dân sự còn đề cập đến nghĩa vụ riêng
rẽ. BLDS năm 2015 tại Điều 287 quy định “khi nhiều người cùng thực hiện một nghĩa
vụ, nhưng mỗi người có một phần nghĩa vụ nhất định và riêng rẽ thì mỗi người chỉ
phải thực hiện một phần nghĩa vụ của mình”. Có thể hiểu rằng, “nghĩa vụ riêng rẽ là
nghĩa vụ nhiều người mà trong đó mỗi người trong số những người có nghĩa vụ chỉ
phải thực hiện phần nghĩa vụ của riêng mình”11.
Về bản chất, trách nhiệm riêng rẽ chính là một dạng nghĩa vụ riêng rẽ. Chính vì
vậy, trên cơ sở định nghĩa “nghĩa vụ riêng rẽ”, trách nhiệm riêng rẽ được hiểu là trách
nhiệm nhiều người mà trong đó mỗi người trong số những người có trách nhiệm chỉ
phải thực hiện phần nghĩa vụ của riêng mình.
Trong trách nhiệm riêng rẽ, nghĩa vụ của từng người sẽ được xác định riêng thành
từng phần và họ chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình. Sau khi thực hiện xong,
trách nhiệm coi như đã hoàn thành, quan hệ giữa người có trách nhiệm này với bên có
quyền sẽ chấm dứt. Đối với phần nghĩa vụ chưa thực hiện, hoặc thực hiện một phần thì
những người có trách nhiệm cịn lại phải tiếp tục thực hiện cho đến khi hoàn tất.
Trong trách nhiệm riêng rẽ, tuy mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của
mình, nhưng vẫn nằm trong một nghĩa vụ đối với người có quyền, khơng phải là nghĩa
vụ độc lập. Vì vậy, cách thức thực hiện trách nhiệm riêng rẽ giữa những người có trách
nhiệm sẽ có sự phụ thuộc lẫn nhau. Sự phụ thuộc đó do các bên thỏa thuận hoặc do
11
Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và BTTH ngoài hợp
đồng, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 47.
9
pháp luật quy định12.
Việc xác định trách nhiệm phát sinh là trách nhiệm riêng rẽ hay liên đới có ý nghĩa
trong việc xác định cách thức thực hiện nghĩa vụ, căn cứ phát sinh, chấm dứt nghĩa vụ
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên: trong trách nhiệm riêng rẽ, bên có
quyền chỉ có thể yêu cầu bên có trách nhiệm thực hiện từng phần nghĩa vụ được xác
định. Đối với trách nhiệm liên đới, người có quyền có thể yêu cầu tất cả những người
có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách đồng thời hoặc yêu cầu bất cứ ai trong số
những người có trách nhiệm phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ mặc dù trách nhiệm của
từng người được xác định rõ ràng.
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân
và gia đình
Thứ nhất, chủ thể thực hiện trách nhiệm liên đới là vợ, chồng – giữa họ có mối
quan hệ ràng buộc về tình cảm, tài sản. Trách nhiệm liên đới được hình thành trên cơ
sở mối quan hệ nhân thân – quan hệ vợ chồng. Đối với cuộc sống của mỗi người, từ lúc
sinh ra, trưởng thành cho tới khi chết, tình thương yêu ln chiếm một vị trí hết sức
quan trọng. Tình cảm là một trong những nền tảng chủ yếu để nam, nữ tiến tới hơn
nhân. Chính vì vậy, quan hệ vợ chồng có sự ràng buộc về tình cảm. Sự ràng buộc này
khiến cho mỗi bên sống có trách nhiệm với vợ, chồng của mình và gia đình hơn.
Bên cạnh đó, giữa vợ, chồng cịn có ràng buộc về tài sản. Điều này xuất phát từ
việc tạo lập, sử dụng tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản chung của
vợ chồng được tạo thành từ công sức, sự đóng góp của cả hai. Tài sản chung thuộc sở
hữu chung hợp nhất và vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với khối tài sản
này. Về nguyên tắc, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa
thuận của vợ chồng. Trong một số trường hợp, việc định đoạt tài sản riêng cũng phải
có sự thống nhất ý chí của cả hai bên. Khi một bên sử dụng tài sản riêng để phục vụ đời
sống gia đình mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia
đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của bên còn lại. Những quy định
12
Xem thêm Hồng Thế Liên (chủ biên) (2008), Bình luận khoa học BLDS năm 2005, Tập 2, NXB chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 42.
10
này đã tạo nên mối quan hệ ràng buộc về tài sản giữa vợ và chồng. Đây chính là cơ sở
để đảm bảo lợi ích chung của gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ,
chồng.
Thứ hai, về mặt pháp lý, trách nhiệm liên đới của vợ, chồng là một dạng nghĩa vụ
dân sự liên đới. Chính vì vậy, trách nhiệm liên đới của vợ, chồng cịn có thể gọi là
nghĩa vụ liên đới của vợ chồng. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng cùng chịu sự điều
chỉnh của pháp luật dân sự và pháp luật hơn nhân và gia đình. Cụ thể, trách nhiệm phát
sinh từ các giao dịch dân sự được xác lập và các thiệt hại ngoài hợp đồng trước hết sẽ
được điều chỉnh bởi các quy định liên quan của BLDS. Tuy nhiên, chủ thể thực hiện
trách nhiệm liên đới là vợ, chồng – có mối quan hệ ràng buộc về tình cảm, tài sản. Do
đó, pháp luật hơn nhân và gia đình cũng điều chỉnh những trường hợp phát sinh trách
nhiệm liên đới của vợ chồng.
Thứ ba, trách nhiệm liên đới của vợ chồng được phát sinh trên cơ sở thỏa thuận
giữa vợ, chồng hoặc pháp luật quy định. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng phát sinh
trên cơ sở thỏa thuận giữa vợ, chồng trong các trường hợp: một bên vợ, chồng xác lập
và thực hiện giao dịch dân sự khơng nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình nhưng được
bên còn lại đồng ý cùng chịu trách nhiệm; giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác
lập đồng thời thỏa thuận cùng chịu trách nhiệm liên đới đối với nghĩa vụ. Trách nhiệm
liên đới của vợ chồng ở các trường hợp này được phát sinh theo sự đồng thuận, thống
nhất về ý chí trong khn khổ cho phép của pháp luật.
Bên cạnh đó, trách nhiệm liên đới của vợ chồng còn phát sinh trên cơ sở do pháp
luật quy định. Theo pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành, vợ chồng phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của gia đình; giao dịch được xác lập trên cơ sở đại diện; giao dịch do vợ
chồng cùng thỏa thuận xác lập; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung; nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển
khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình và đối với nghĩa
vụ BTTH ngồi hợp đồng.
11
Thứ tư, trách nhiệm liên đới luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho vợ,
chồng. Bởi lẽ, khi trách nhiệm liên đới phát sinh, vợ chồng phải cùng nhau thanh toán
nghĩa vụ với bên thứ ba. Việc thanh toán này được thực hiện chủ yếu bằng tài sản
chung của vợ chồng. Đối với giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình,
trong trường hợp vợ chồng khơng có tài sản chung hoặc tài sản chung khơng đủ thì
việc thanh tốn nghĩa vụ cịn được thực hiện bằng tài sản riêng của mỗi bên.
1.3. Ý nghĩa của quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong pháp
luật hơn nhân và gia đình
Thứ nhất, quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng giúp bảo đảm lợi ích của
vợ, chồng và đời sống chung gia đình. Pháp luật hơn nhân và gia đình đã đạt được
những bước tiến đáng kể khi cụ thể hóa vấn đề trách nhiệm liên đới của vợ chồng bằng
những quy định trong LHNGĐ cũng như những văn bản pháp luật có liên quan. Những
quy định này đã tạo nên sự ràng buộc giữa vợ và chồng, tăng tinh thần trách nhiệm của
vợ, chồng trong việc xây dựng và phát triển đời đống gia đình. Từ đó, góp phần khắc
phục tình trạng thờ ơ, vơ trách nhiệm của vợ, chồng đối với cơng việc gia đình. Trong
một số trường hợp, vợ hoặc chồng tự mình thực hiện các giao dịch dân sự vì nhu cầu
thiết yếu của gia đình hoặc những giao dịch khác đã có sự thỏa thuận của hai vợ chồng,
nhưng khi xảy ra thiệt hại, trách nhiệm phát sinh thì bên cịn lại khơng muốn chia sẻ,
gánh vác trách nhiệm, khơng có sự hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau trong cuộc sống
gia đình. Vì vậy, việc quy định trách nhiệm liên đới của vợ chồng là vô cùng cần thiết.
Hơn nữa, quy định trách nhiệm liên đới của vợ chồng sẽ là cơ sở đảm bảo cho các
nhu cầu của gia đình được đáp ứng kịp thời và trọn vẹn. Đồng thời, khi vợ chồng cùng
chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ phát sinh, quyền lợi của mỗi bên sẽ được bảo đảm
hơn so với trường hợp chịu trách nhiệm cá nhân.
Thứ hai, quy định trách nhiệm liên đới góp phần thể hiện sự bình đẳng của vợ,
chồng trong quan hệ hơn nhân và gia đình. Các quy định về trách nhiệm liên đới của vợ
chồng đã góp phần khắc phục được sự gia trưởng của người chồng dưới chế độ cũ,
đảm bảo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống gia đình. Đối
12
với trách nhiệm liên đới, vợ, chồng phải cùng nhau thực hiện các nghĩa vụ phát sinh
bằng tài sản chung. Điều này đã thể hiện được sự bình đẳng trong trách nhiệm giữa vợ
và chồng. Đồng thời, trách nhiệm liên đới của vợ chồng phát sinh trên cơ sở thỏa thuận
đã khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng ý chí của mỗi bên vợ, chồng. Các quy định
về trách nhiệm liên đới cũng đã gián tiếp thể hiện được sự bình đẳng trong việc xác lập
các giao dịch dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình và các giao dịch
khác trên cơ sở thỏa thuận, thống nhất của hai bên. Tóm lại, trách nhiệm liên đới đã thể
hiện được sự bình đẳng của vợ, chồng trên ba phương diện: bình đẳng về quyền tham
gia xác lập các giao dịch, bình đẳng trong trách nhiệm đối với gia đình và bình đẳng về
ý chí. Điều này có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội, đặc
biệt là đối với người phụ nữ.
Thứ ba, trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đảm bảo quyền lợi của người thứ ba.
Trách nhiệm liên đới là phương án tối ưu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
bên có quyền, vì khả năng nghĩa vụ được thực hiện sẽ cao hơn. Với phương thức thực
hiện trách nhiệm liên đới sẽ giúp cho lợi ích hợp pháp của người thứ ba được thực hiện
một cách thuận lợi và trọn vẹn. Các quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba được
bảo vệ kịp thời. Trách nhiệm liên đới cũng tạo điều kiện cho bên có quyền được chủ
động trong việc yêu cầu vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ, nâng cao trách nhiệm của
vợ, chồng trong việc thực hiện trách nhiệm dân sự liên đới13.
Thứ tư, quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng là cơ sở pháp lý để giải
quyết tranh chấp nhanh chóng và chính xác. Khi có tranh chấp giữa vợ chồng và người
thứ ba phát sinh, Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của LHNGĐ và các văn bản pháp
luật có liên quan để giải quyết đúng đắn vấn đề đang tranh chấp; đảm bảo cuộc sống ổn
định cho vợ và chồng; bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên và đảm bảo
công bằng xã hội.
13
Xem thêm Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Sđd (11), tr. 51, 52.
13
1.4. Sự phát triển của quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo
pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
1.4.1.
Trước khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực
- Bộ luật Hồng Đức: Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật đã
đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong hoạt động lập pháp của nhà nước phong kiến
Việt Nam. Bộ luật Hồng Đức ra đời vào năm 1483 và được áp dụng phổ biến trong thời
kỳ Lê sơ và các triều đại tiếp theo cho đến tận thế kỷ XVIII, được đánh giá là một bộ
luật điển hình, hồn thiện nhất trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam. Một trong
những nội dung thể hiện tính hồn thiện của Bộ luật là quy định về chế độ hôn nhân.
Chế độ tài sản được áp dụng trong Bộ luật Hồng Đức là chế độ cộng đồng toàn sản, tức
là tồn bộ tài sản vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc do vợ, chồng tạo dựng
trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Khối tài dản chung
bao gồm phù vật (động sản) và điền sản (bất động sản), trong đó điền sản là tài sản chủ
yếu, có vị trí chính yếu trong gia đình. Thành phần khối tài sản chung của vợ chồng
gồm ba loại: phu tông điền sản (tài sản của chồng xuất phát từ gia đình chồng); thê gia
điền sản (tài sản của vợ xuất phát từ gia đình vợ); tần tảo điền sản (tài sản được làm ra
trong thời kỳ hôn nhân)14. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết lí Nho giáo và quan
niệm “trong nam khinh nữ” nên quyền quản lý tài sản chung nằm trong tay người
chồng. Tuy nhiên, Bộ luật Hồng Đức cũng quy định cho người phụ nữ một số quyền
đối với tài sản của vợ, chồng, thể hiện sự bình đẳng nhất định giữa vợ và chồng. Sự
bình đẳng đó thể hiện ở quyền định đoạt tài sản chung: “trong các mẫu văn khế bán
đứt, cầm cố, chuyển đổi ruộng đất, đều phải có vợ, chồng cùng điểm chỉ”15. Quy định
này chứng tỏ giai đoạn này bước đầu đã có những quy định về quyền và nghĩa vụ về tài
sản của vợ, chồng. Tuy nhiên, quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng chưa
được xây dựng do việc người vợ đứng tên cùng với chồng trong các giao dịch dân sự
14
Lê Thị Sơn (2004), Quốc triều hình luật – Lịch sử hình thành và giá trị, NXB Khoa học xã hội, TP. Hồ Chí
Minh, tr. 189, 190.
15
Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hịa (2001), Pháp luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, NXB trẻ,
TP. Hồ Chí Minh, tr. 96.
14
chỉ mang tính hình thức, người chồng mới là người thay mặt cho gia đình chịu tồn bộ
trách nhiệm phát sinh từ giao dịch đó.
- Bộ luật Gia Long: Bộ luật Gia Long được nhà Nguyễn ban hành vào năm 1815,
là sự sao chép gần như nguyên văn luật nhà Thanh với tư tưởng xuyên suốt là xem
người vợ trong gia đình hồn tồn vơ năng lực, phụ thuộc vào người chồng một cách
tuyệt đối. Nhìn chung, pháp luật thời kỳ này khơng có quy định nào về tải sản của vợ,
chồng nên phải theo đường lối lễ nghĩa chung, nghĩa là vợ và các con khơng có tài sản
riêng và khơng có quyền tham gia định đoạt đối với tài sản gia đình. Quyền tài sản
dành cho người vợ trong Bộ luật Hồng Đức bị phủ nhận hoàn toàn, người vợ khơng có
quyền định đoạt về tài sản chung của vợ chồng, do đó vấn đề về trách nhiệm liên đới
của vợ chồng không được đặt ra.
- Dân luật Giản Yếu: Dân luật Giản Yếu được thực dân Pháp ban hành vào năm
1883 và áp dụng riêng tại Nam Kỳ. Tuy nhiên, Dân luật Giản Yếu khơng có ghi nhận
về hôn ước cũng như về chế độ tài sản vợ, chồng. Chính vì vậy, liên quan đến chế độ
tài sản của vợ, chồng, giải quyết các tranh chấp giữa vợ, chồng với nhau và giữa vợ,
chồng với người thứ ba được giải quyết theo án lệ. Theo đó, án lệ thừa nhận người vợ
được quyền tiến hành tạo lập và thực hiện các giao ước phục vụ nhu cầu hàng ngày cần
thiết cho đời sống của gia đình nếu được sự ủy nhiệm của người chồng. Bên cạnh đó,
án lệ cũng quy định người chồng phải chịu trách nhiệm đối với những khoản nợ do
người vợ gây ra khi người chồng có một thái độ khơng rõ ràng lúc người vợ xác lập
giao dịch… Như vậy, vấn đề trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đã được đặt ra trong
Dân luật Giản Yếu song còn khá sơ sài.
- Dân luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ: Hai bộ Dân luật này có rất nhiều điều
khoản nói đến tài sản riêng của người vợ. Trong thời kỳ hôn nhân, nếu cả hai vợ chồng
khơng lập hơn ước thì tài sản riêng của vợ, tài sản riêng của chồng và tài sản chung của
hai vợ, chồng sẽ hợp thành một khối theo chế độ “cộng đồng toàn sản”. Quyền hạn của
vợ, chồng theo quy định của hai bộ Dân luật này được phân theo ba nhóm việc, bao
gồm: việc vợ hay chồng có thể đơn phương thực hiện (một người đơn phương thực
15
hiện); việc cả hai vợ, chồng phải làm chung; việc vợ có thể đơn phương thực hiện
nhưng cần sự cho phép của chồng. Nhìn chung, Dân luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ
chứa đựng nhiều quy định tiến bộ hơn so với các luật cũ khi thừa nhận vợ chồng ngang
hàng với nhau. Điều này khác với án lệ Nam kỳ thời Pháp thuộc khi coi người phụ nữ
là phụ thuộc vào người chồng. Hai bộ Dân luật đã trao cho người vợ quyền đơn
phương thực hiện mọi công việc cần thiết nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu và
cơ bản của gia đình; cùng với đó là những quy định đề cập đến việc người vợ hành
nghề riêng… Đáng chú ý hơn cả, văn bản pháp lý trên đã đề cập tới trách nhiệm dân sự
liên đới của vợ chồng đối với một số việc mà người vợ làm vì nhu cầu của gia đình,
“trong phạm vi nhu cầu của gia đình, khối tài sản chung của gia đình sẽ phải chịu trách
nhiệm về hành động đơn phương của vợ hay của chồng” (Điều 108 và Điều 111 Dân
luật Bắc Kỳ; Điều 98 và 109 Dân luật Trung Kỳ).
Có thể thấy rằng, vấn đề trách nhiệm liên đới của vợ chồng đã được đặt ra trong
giai đoạn này nhưng còn sơ sài. Điều này xuất phát từ tư tưởng “trọng nam khinh nữ”,
xã hội chỉ công nhận người chồng là người đại diện và là chủ sở hữu tài sản trong gia
đình. Do đó, người chồng dù làm việc gì cũng khơng cần phải có sự đồng ý của vợ
mình, bởi theo quy định của pháp luật thời kỳ này những việc làm của người chồng
luôn mặc nhiên được vợ đồng ý. Chính điều này đã dẫn đến quan niệm, việc quy định
trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong pháp luật là không cần thiết.
1.4.2.
Giai đoạn Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi, đất nước ta tạm bị chia cắt
thành hai miền: miền Bắc đã hồn tồn giải phóng, miền Nam rơi vào tay Đế quốc Mỹ.
Thực hiện chủ trương do Đảng đề ra, ở miền Bắc đã tiến hành cách mạng ruộng đất và
đạt được nhiều thành tựu nhất định: quan hệ sản xuất phong kiến bị xóa bỏ, bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất và xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong
thời kỳ này, chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc trong
đời sống, tư tưởng và nhận thức của người dân. Thực trạng đó địi đỏi Nhà nước ta phải
16
xóa bỏ triệt để tàn tích, thiết lập, xây dựng chế độ hơn nhân và gia đình xã hội chủ
nghĩa. Việc ban hành Đạo luật hơn nhân và gia đình mới là một tất yếu khách quan.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, ngày 29/12/1959, LHNGĐ đã được Quốc hội
nước ta thông qua và công bố rộng rãi. LHNGĐ năm 1959 là công cụ pháp lý hữu hiệu
của Nhà nước được xây dựng nhằm thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản: xây dựng chế độ
hơn nhân và gia đình tiến bộ xã hội chủ nghĩa và xóa bỏ những tàn dư của chế độ hơn
nhân và gia đình cũ, lạc hậu16. Để thực hiện được hai nhiệm vụ này, LHNGĐ năm
1959 đã có nhiều quy định tiến bộ, đáng kể đến là các chế định tại chương 3 điều chỉnh
về nghĩa vụ và quyền lợi của vợ chồng, trong đó Điều 15 quy định: “vợ và chồng đều
có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi
cưới”. Tuy nhiên, trong tất cả các Điều của LHNGĐ năm 1959 khơng có quy định nào
đề cập đến trách nhiệm liên đới của vợ chồng.
1.4.3.
Giai đoạn Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực
Trong phiên họp ngày 18/12/1980 của Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 7 đã chính
thức thơng qua bản Hiến pháp thứ ba của Nhà nước ta, làm nền tảng cho bước phát
triển mới của các Đạo luật nói chung và LHNGĐ Việt Nam nói riêng. Trong đó, các
Điều 38, 47, 63, 64 của Hiến pháp năm 1980 đã quy định về các nguyên tắc của chế độ
hơn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa.
LHNGĐ năm 1959 trong quá trình thực hiện đã đạt được những thành tựu to lớn,
góp phần xóa bỏ những tàn dư của chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng
chế độ hơn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tình hình nước ta đã có
những thay đổi căn bản do sự phát triển của các điều kiện kinh tế – xã hội, LHNGĐ
năm 1959 vì thế có một số quy định khơng cịn phù hợp, đòi hỏi phải ban hành một
Đạo luật mới để kịp thời điều chỉnh.
Ngày 25/10/1982, Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định thành lập Ban dự thảo
LHNGĐ. Dự luật đã được Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ 12 thơng qua ngày
29/12/1986 và được Hội đồng Nhà nước công bố ngày 03/01/1987. LHNGĐ năm 1986
16
Điều 1 và Điều 2, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
17