Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
--------------------

TRẦN THỊ HUYỀN TRANG
MSSV: 3240199

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG VIỆC
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT - K32

NIÊN KHĨA: 2007 – 2011

GVHD: TS. NGUYỄN DUY HƢNG

TP. HỒ CHÍ MINH_NĂM 2011


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy và cung cấp kiến
thức trong thời gian Tôi học tập tại trường. Những kiến thức về lí luận cũng như
thực tiễn đó đã làm nền tảng cho Tơi hồn thành khóa luận.
Và đặc biệt Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Duy Hưng, người đã
hết lịng hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong thời gian qua. Thầy đã dành thời gian để
định hướng và cung cấp những thông tin cơ bản liên quan và có giá trị, qua đó giúp
Tơi hoạch định và có cách nhìn đúng đắn để hồn thiện đề tài này một cách tốt nhất.
Tôi xin cảm ơn các cơ quan: Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh và Viện
kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa – Đồng Nai đã cung cấp những số liệu thực tiễn
giúp Tơi phân tích và làm rõ thực trạng về vấn đề bảo vệ quyền con người trong


việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN .................................................................................................... 1
1.1.

Những vấn đề lí luận cơ bản về quyền con ngƣời ............................................ 1

1.1.1.

Khái niệm quyền con người ............................................................................. 1

1.1.2.

Quyền công dân .............................................................................................. 10

1.1.3.

Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân............................... 11

1.2.

Nhận thức chung về biện pháp ngăn chặn...................................................... 12

1.2.1.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn .................................................................... 12


1.2.2.

Đặc điểm của biện pháp ngăn chặn .............................................................. 15

1.3.

Ảnh hƣởng của biện pháp ngăn chặn đến quyền con ngƣời ......................... 19

1.3.1.

Ảnh hưởng của biện pháp ngăn chặn đối với chủ thể bị áp dụng ............... 22

1.3.2.

Ảnh hưởng của biện pháp ngăn chặn đối với các chủ thể khác .................. 24

CHƢƠNG II:PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN Ở VIỆT NAM ...... 27
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền con
ngƣời trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn................................................. 27
2.1.1. Bảo vệ quyền con người của người bị bắt, bị can, bị cáo trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn ............................................................................................. 27
2.1.1.1. Bảo vệ quyền con người khi áp dụng các biện pháp giam giữ ........................ 27
2.1.2. Bảo vệ quyền con người của người tham gia tố tụng khác trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn .................................................................................... 54
2.1.2.1. Bảo vệ quyền con người của người bị hại trong việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn ...................................................................................................................... 55
2.1.2.2.


Bảo vệ quyền con người của người làm chứng trong việc áp dụng các

biện pháp ngăn chặn ..................................................................................................... 56


2.1.3. Bảo vệ quyền con người của chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp
ngăn chặn ..................................................................................................................... 58
2.2. Thực trạng bảo vệ quyền con ngƣời trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn ............................................................................................................................... 61
2.2.1. Những kết quả đã đạt được trong việc bảo vệ quyền con người khi áp dụng
các biện pháp ngăn chặn ............................................................................................. 62
2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong việc bảo vệ quyền con người khi áp dụng
các biện pháp ngăn chặn ............................................................................................. 65
2.2.2.1. Đối với nhóm biện pháp giam giữ .................................................................... 65
2.2.2.2.

Đối với nhóm biện pháp khơng giam giữ ..................................................... 72

2.3. Những kiến nghị nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con ngƣời trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn ................................................................................... 78

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng hình sự: .............................................................. BLTTHS
Biện pháp cưỡng chế: ................................................................. BPCC

Biện pháp ngăn chặn: ................................................................. BPNC
Cơ quan điều tra: ........................................................................ CQĐT
Quyền con người: ....................................................................... QCN
Quyền cơng dân: ........................................................................ QCD
Tố tụng hình sự: ......................................................................... TTHS
Tịa án: ........................................................................................ TA
Viện kiểm sát: ............................................................................ VKS


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn minh nhân loại đã chứng minh rằng, khi xã hội ngày càng phát triển thì
quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người càng được chú trọng, được xem
là trung tâm của mọi sự phát triển nhưng đồng thời cũng là đối tượng dễ bị xâm
phạm nhất, do đó, quyền con người cần phải được bảo vệ trên mọi phương diện.
Đây là vấn đề mang cấp thiết đối với mỗi quốc gia và đang được thế giới ngày một
quan tâm, đặt làm nhiệm vụ trọng tâm của quá trình phát triển. Vấn đề bảo vệ quyền
con người ngày càng mang tính tồn cầu, đã có nhiều Hội nghị quốc tế diễn ra,
nhiều Cơng ước, Hiệp định được kí kết giữa các quốc gia trên thế giới nhằm hướng
tới một mục tiêu quan trọng là bảo vệ quyền con người. Sự ra đời của bản “Tun
ngơn tồn thế giới về nhân quyền” đã đánh giấu bước biến chuyển lớn về nhiệm vụ
bảo vệ quyền con người và nâng vấn đề bảo vệ quyền con người lên tầm cao mới.
Đây không phải là trách nhiệm của mỗi quốc gia mà là nhiệm vụ của toàn thế giới.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người đã được
Đảng và Nhà nước hết sức chú trọng, quan tâm và xác định đây là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước. Nhà nước đã
bằng rất nhiều cách thức, biện pháp khác nhau để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ bảo
vệ quyền con người và một trong những cách thức đó là sử dụng pháp luật như một
cơng cụ để thực hiện quyền lực, tổ chức thực hiện, bảo vệ các quyền con người của
công dân. Các quy định về bảo vệ quyền con người đã được cụ thể hóa và dần hồn

thiện trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Trong công cuộc xây dựng,
đổi mới đất nước cũng như cải cách tư pháp hiện nay thì Nhà nước rất chú trọng
việc bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự, vì đây là lĩnh vực
mang tính quyền lực và cưỡng chế nhà nước cao nên quyền con người rất dễ bị xâm
phạm. Trong đó, các quy định về bảo vệ quyền con người trong quá trình áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đã thể hiện được sự tiến bộ cũng như đảm bảo thực hiện
tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên,


xuất phát từ một số nguyên nhân chủ quan và khách quan nên trong lí luận cũng
như thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn vẫn cịn khơng ít khó khăn, vướng
mắc, chồng chéo dẫn đến tình trạng xâm phạm trái pháp luật tới quyền con người
của các chủ thể trong tố tụng hình sự.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả khóa luận nhận thấy việc tìm hiểu, nghiên cứu
một cách có hệ thống và chuyên sâu qua đó để hồn thiện các quy định về bảo vệ
quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn và đề ra giải
pháp hoàn thiện để nâng cao hiệu quả cho hoạt động bảo vệ quyền con người trong
tố tụng hình sự là rất cấp thiết và mang giá trị thực tiễn. Với những lí do đó, tác giả
chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn”
để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, tác giả nhận thấy chưa có tên đề tài nào trùng với
tên đề tài này. Tuy nhiên, cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan đến
lĩnh vực bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung. Điển hình như: đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường (2007) “Bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Đức Huy, đề tài khoa học cấp Bộ
(2009) “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam” của PGS.TS
Nguyễn Thái Phúc, sách tham khảo (2009) “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần Quang Tiệp,
Luận văn cao học Luật, Trường Đại học luật TP. Hồ Chí Minh (2010) “Đảm bảo

quyền con người của người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự” của tác giả Đồn Văn Thuận…
Các cơng trình khoa học trên mặc dù đã có nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền
con người trong pháp luật tố tụng hình sự nhưng chưa có đề tài nào thật sự nghiên
cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu về vấn đề bảo vệ quyền con người trong
quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Do vậy, tác giả nhận thấy việc nghiên


cứu đề tài này là hồn tồn cần thiết, có cơ sở khoa học về mặt lí luận cũng như
thực tiễn, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
-

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá một cách khách quan, cơng bằng, tồn diện
về mặt lí luận cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Dựa trên cơ sở
đó tìm ra những mặt tích cực cũng như điểm hạn chế, nguyên nhân của những hạn
chế đó nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao nhiệm vụ bảo vệ quyền con người
trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Và kết quả nghiên cứu phải có giá
trị đóng góp khoa học về lí luận cũng như thực tiễn.
-

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người trong
quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Mặc dù đối tượng và phạm vi nghiên
cứu của đề tài là bảo vệ quyền con người cho tất cả các chủ thể có liên quan khi áp
dụng các biện pháp ngăn chặn, tuy nhiên do hạn chế về thông tin cũng như tính cấp
thiết bảo vệ quyền con người của một số chủ thể nên đề tài tập trung và đi sâu

nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con người của đối tượng bị áp dụng và có
nghiên cứu một cách khái lược về bảo vệ quyền con người của chủ thể có thẩm
quyền áp dụng, các chủ thể khác liên quan mà điển hình là người bị hại và người
làm chứng.
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm, chính sách của Đảng
và nhà nước về cải cách tư pháp. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể mà tác giả đã
sử dụng là phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh, đánh giá,
thống kê…


5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Sự nghiên cứu đề tài góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm về vấn đề bảo
vệ quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn, giúp cho các
cơ quan có thẩm quyền có cách nhìn khách quan, tồn diện về tính cấp thiết, tầm
quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ quyền con người đồng thời phát hiện ra những
vướng mắc, hạn chế của quy định pháp luật để áp dụng trong thực tiễn, qua đó kịp
thời khắc phục và đưa ra giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo
vệ quyền con người trong q trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói riêng và
trong pháp luật tố tụng hình sự nói chung.
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được kết
cấu theo hai chương, bao gồm:
Chương I: Những vấn đề chung về quyền con người và biện pháp ngăn chặn
Chương II: Quy định của pháp luật thực định, thực tiễn áp dụng và giải pháp
nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn
Do thời gian bị hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều cũng như những
hạn chế về kiến thức của tác giả khóa luận nên trong khóa luận khơng thể khơng có

những thiếu sót. Tác giả khóa luận chân thành cảm ơn và mong muốn nhận được sự
đóng góp ý kiến của các độc giả, thầy cô và bạn bè để khóa luận được hồn thiện
hơn.


1

CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN
1.1. Những vấn đề lí luận cơ bản về quyền con ngƣời
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người (QCN) là một vấn đề mang ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình xây dựng nền dân chủ của nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng và xây dựng
một nền dân chủ mang tính tồn cầu nói chung. Nó là tiền đề cho sự phát triển và sự
tiến bộ của xã hội, là vấn đề mang tính trọng tâm, chiến lược. Tuy nhiên có một
thực tế là “có hàng triệu người sinh ra rồi chết đi mà không hề biết rằng họ là chủ
nhân của các QCN…” và tình trạng xâm phạm QCN vẫn đang diễn ra phổ biến dưới
nhiều cách thức khác nhau. Khi mà xã hội ngày càng phát triển thì QCN càng được
chú trọng bảo vệ, là trung tâm của mọi sự phát triển nhưng đồng thời cũng là đối
tượng dễ bị xâm phạm nhất. Bị xâm phạm khơng phải chỉ đơn thuần từ phía những
cá nhân, tổ chức khác nhau mà còn bị xâm phạm bởi chính nhà nước, chính giai cấp
làm nhiệm vụ bảo vệ QCN. Sự xâm phạm này bắt nguồn từ hoạt động quản lí nhà
nước nói chung và nhất là hoạt động Tố tụng hình sự (TTHS) nói riêng, bởi TTHS
là hoạt động mang tính đặc thù, tính cưỡng chế nhà nước cao. Do đó vấn đề bảo vệ
QCN được đặt ra và mang tính tồn cầu, khơng phải chỉ là nhiệm vụ của một cá
nhân, tổ chức hay một nhà nước mà là nhiệm vụ chung của toàn thế giới. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ QCN thì chúng ta phải có cách hiểu đúng đắn và tồn diện
về QCN và bản chất của nó. Muốn làm được điều đó, trước hết chúng ta sẽ bắt đầu
từ việc đi tìm hiểu khái niệm và bản chất con người.

 Khái niệm con người
Từ xưa đến nay đã có nhiều quan điểm khác nhau về con người, khơng ít các học
giả của các trường phái đã hình thành những khái niệm khác nhau về “con người”.
Có khái niệm bị phê phán, chỉ trích cũng có khái niệm mặc dù chưa hồn hảo, chưa
hợp lí nhưng vẫn được nhiều người cơng nhận và tán thành bởi nó phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử của xã hội đương đại.


2

Trước đây con người được coi là sản phẩm tinh túy nhất trong sự sáng tạo của
Thượng Đế. Thượng Đế đã sáng tạo ra lồi người cùng với mn loại trên trái đất.
Sự sống và thế giới vật chất xung quanh hồn tồn do Thượng Đế hình thành, ban
phát nên con người thời xưa rất coi trọng và có niềm tin mãnh liệt, tuyệt đối vào
Thượng Đế. Bên cạnh đó có quan điểm cho rằng con người được cấu thành nên từ
các yếu tố vật chất. Tiêu biểu là quan điểm của Đêmơcrít về bản tính vật chất
ngun tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người. Ông quan điểm rằng
nguyên tử là hạt vật chất hoàn tồn nhỏ bé, khơng thể phân chia và cảm nhận được
bằng trực quan, chính các nguyên tử nhỏ bé này liên kết lại với nhau sẽ tạo ra thế
giới muôn lồi. Tính đa dạng của ngun tử tạo nên tính đa dạng của thế giới các sự
vật. Và không nằm ngồi khả năng đó “linh hồn con người cũng là một dạng vật
chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc biệt có hình cầu, linh động như những
ngọn lửa có vận tốc lớn, chúng ln ln động và sinh ra nhiệt làm cho cơ thể vận
động đồng thời linh hồn có chức năng trao đổi chất với mơi trường bên ngồi và
được thực hiện thơng qua hơi thở con người nên linh hồn không bất tử mà chết
cùng với thể xác” [18-tr.21]. Sau này trong triết học Tây Âu thời Phục hưng và Cận
đại lại xem con người là sản phẩm do yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh học quyết định
hình thành nên. Điển hình cho quan điểm này là triết học của Phơibách.L (18041872), theo Ơng thì bản chất chung của con người là tổng hòa mọi khát vọng chính
trị, mọi năng lực nhận thức và nhu cầu tự nhiên - sinh học đã trầm tích trong q
trình phát triển lịch sử lâu dài của nó [40]. Con người trong triết học của

Phơibách.L luôn là con người trừu tượng, khơng sống trong hiện thực.
Nhìn chung các quan điểm trên còn phiến diện trong phương pháp tiếp cận lí giải
các vấn đề triết học về con người, do đó trong một q trình lâu dài đã có quan điểm
trừu tượng về bản chất con người.
Với phương pháp duy vật biện chứng, triết học Mác nhận thức vấn đề con người
một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực của nó, theo đó con người là
một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội và “bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện


3

thực của nó, bản chất con người là tổng hịa của các mối quan hệ xã hội” [16]. Như
vậy quan hệ giữa mặt sinh học và xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã
hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của
con người, còn mặt xã hội là đặc trưng để phân biệt giữa con người và các loài
khác. Bởi mặt sinh học là nhu cầu thiết yếu của con người nhưng đó khơng phải là
yếu tố hình thành nên con người mà chỉ là nền tảng, điều cốt lõi chính là q trình
lao động, q trình xã hội hóa của lồi người, điều đó khơng chỉ giúp lồi người tiến
hóa mà cịn là q trình họ tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và
ngày càng phát triển cả thể lực và trí lực.
Tiếp thu tư tưởng và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với
truyền thống nhân đạo và tinh thần yêu nước của dân tộc và kế thừa tư tưởng nhân
quyền tiến bộ của phương Đông và phương Tây, nhất là tư tưởng cách mạng giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm con người. Người nhìn nhận con người
dưới góc độ là trung tâm của sự phát triển và trong mối quan hệ với nhà nước nhất
định. Hồ Chí Minh đã từng đưa ra quan điểm về chữ “người”, “chữ Người nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước, rộng
hơn nữa là loài người” [19-tr.644].

Và Người khẳng định rằng con người là chủ thể vừa mang tính xã hội, vừa mang
tính lịch sử. Sự phát triển của con người là cả một quá trình đấu tranh gắn liền với
lịch sử, đồng thời là sự chế ngự, chinh phục thiên nhiên để phát triển và tồn tại cho
đến ngày nay. Hồ Chí Minh đã xem đặc tính của con người là vừa mang tính xã hội,
vừa mang tính giai cấp lại vừa mang tính lịch sử. Đồng thời con người là trung tâm
của sự phát triển, tất cả mọi mục tiêu hướng tới nhằm phát triển con người trong xã
hội ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Tóm lại, con người là tổng hòa của các mối quan hệ tự nhiên và xã hội, được
hình thành và phát triển qua quá trình lâu dài đấu tranh và cải biến tự nhiên. Con
người vừa là thực thể sinh học đồng thời cũng là một thực thể xã hội.


4

 Khái niệm quyền con người
Cùng với sự phát triển của xã hội, các trường phái triết học, pháp luật đã nghiên
cứu, giải thích về tự nhiên, xã hội đã hình thành nhiều quan điểm về QCN. Có nhiều
khuynh hướng về QCN như khuynh hướng đạo đức, khuynh hướng kinh tế, khuynh
hướng quyền lực nhà nước…Nhưng nổi bật nhất, chiếm ưu thế nhiều nhất vẫn là
quan điểm theo khuynh hướng tự nhiên và khuynh hướng pháp luật.
Khuynh hướng coi QCN là quyền tự nhiên đã xuất hiện từ thời cổ đại. Người ta
cho rằng QCN là những đặc quyền mà trời phú cho bất kì ai kể từ lúc sinh ra cho
đến khi chết đi, không phân biệt quốc tịch, tơn giáo hay giới tính và quyền này là
tuyệt đối, khơng ai có thể xem thường hay xâm phạm. Các QCN, do đó khơng phụ
thuộc vào phong tục, tập qn, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân,
giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào và không một chủ thể nào,
kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các QCN bẩm sinh, vốn có của các
cá nhân.
Trong lịch sử phát triển đã có rất nhiều tác giả đi theo khuynh hướng này. Theo
Thomas Hobbes (1588-1679) QCN thể hiện ở chỗ “con người là một thể thống nhất

giữa tính tự nhiên và xã hội, trong đó bản tính tự nhiên của mỗi con người là giống
nhau, bản tính đó là sự ích kỉ vì ai cũng có nhu cầu và khát vọng riêng. Trong trạng
thái này tất cả mọi người đều có quyền như nhau - quyền tự nhiên. Điều đó thể hiện
ở chỗ mỗi người làm chủ thân thể và cuộc sống của mình, khơng một ai có quyền
xâm hại và theo Ơng thì họ được sử dụng quyền lực của chính mình để bảo đảm
cuộc sống của bản thân mình, và do đó, được làm bất cứ điều gì mà mình cho là
đúng đắn và hợp lý” [54].
Điều đó có nghĩa là QCN là những đặc quyền tự nhiên chứ khơng phụ thuộc vào
bất kì một nhà nước, một chủ thể nào ban phát hay mang lại. Họ có quyền làm chủ
bản thân mình và sử dụng quyền lực của mình để phục vụ cho bản thân, làm bất kì
điều gì miễn sao đối với họ là đúng đắn và hợp lí. Cịn chính phủ chẳng qua là một
khế ước xã hội, trong đó các cơng dân kí vào, kỳ vọng và mong muốn bầu ra chính
phủ là phương tiện bảo vệ các “quyền tự nhiên” của họ chứ không phải để ban phát


5

hay quy định các quyền cho họ. Nếu chính phủ làm khơng tốt nhiệm vụ của mình,
cơng dân có quyền hủy bỏ khế ước xã hội đó và kí kết một khế ước xã hội khác với
một chính phủ khác có thể đảm bảo lợi ích cho họ. Chúng ta có thể thấy rằng quan
điểm của Ơng cịn nhiều hạn chế, Ơng tuyệt đối hóa QCN của cá nhân này mà
không chú ý đến quyền của người khác, xem QCN là tự do làm những gì mà bản
thân mình xem là đúng đắn và hợp lí. Đây chính là nguồn gốc của chủ nghĩa cá
nhân.
Theo nhà triết học người Anh Looke (1632-1704) thì quyền cơ bản tự nhiên của
con người gồm có quyền sống, quyền tự do và quyền có tài sản. Không ai được
phép làm hại người khác ở phương diện sự sống, sức khỏe, tự do và tài sản, đồng
thời không cho phép ai chà đạp lên quyền của người khác. Sự chuyển tiếp từ trạng
thái tự nhiên sang trạng thái công dân không nhất thiết phải trả giá bằng sự hạn chế
quyền tự do của con người mà ngược lại trong q trình chuyển hóa này các quyền

tự nhiên đã được thể chế hóa, luật hóa, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Do vậy
quyền này có tính chất bền vững [22-tr.13]. Quan điểm trên đã khẳng định QCN là
quyền tự nhiên, khơng một ai có thể giẫm đạp hay coi nhẹ QCN của người khác, tuy
nhiên nó có nhược điểm là đã tuyệt đối hóa và coi việc bảo vệ quyền tự nhiên đó là
nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước mà khơng đặt nó trong mối quan hệ biện chứng
giữa nhà nước và nghĩa vụ của cá nhân. Do đó có thể nói đây là quan điểm cịn chưa
hồn thiện.
Tuy nhiên thuyết quyền tự nhiên của các nhà triết học nổi tiếng lúc bấy giờ cũng
đã ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến công cuộc xây dựng nhà nước. Bởi về mặt
xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản biện. Nó là tư tưởng của các lực
lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất cơng, bất bình đẳng (xã hội chiếm hữu nô
lệ và xã hội phong kiến sau này). Điểm tích cực của thuyết này là đề cao con người
với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhưng
nhược điểm của nó là ở chỗ, nó che lấp nguồn gốc xã hội của QCN và do đó, khơng
thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong những địi hỏi về QCN [37].
Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ thì đây được xem là ngọn cờ lí luận của cuộc


6

cách mạng tư sản. Quyền tự nhiên của con người đã được ghi nhận ngay trong văn
bản pháp lí cao nhất của các nước tư sản sau khi giành được thắng lợi và có ý nghĩa
tồn tại cho tới ngày nay. Đầu tiên phải kể đến là bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của
Mỹ. Bản tuyên ngôn đã ghi nhận “Chúng ta coi những chân lí sau đây là hiển
nhiên: Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền
bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh
phúc” (Hiến pháp Hoa kì). Việc nghi nhận QCN vào trong Hiến pháp có ý nghĩa vơ
cùng to lớn, điều đó đồng nghĩa với việc xem QCN là vốn có, tự nhiên và tồn tại
song song với sự tồn tại của con người. QCN là bất khả xâm phạm, tập hợp những
quyền cơ bản và cực kì quan trọng, là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu

hạnh phúc. Đánh giá về sự kiện và bản tuyên ngôn này, Mác cho rằng “nước Mỹ đó
là nước nơi lần đầu tiên xuất hiện một tư tưởng về nền cộng hịa vĩ đại, nơi tun bố
bản tun ngơn đầu tiên về QCN và đưa ra cú hích đầu tiên cho cuộc cách mạng ở
Châu Âu vào thế kỉ XVIII” [41].
Quyền tự nhiên của con người lúc này không đơn thuần chỉ là quan điểm cá nhân
của các nhà triết học nữa mà nó được nâng lên, ghi nhận là quyền Hiến định. Và
bước phát triển tiếp theo của sự phát triển quyền đó là sự ra đời của bản Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền 1789 của cách mạng Pháp. Điều 2 của bản Tun ngơn
ghi nhận “mục đích của bất kì liên minh chính trị nào là đảm bảo các quyền tự
nhiên và không tách rời của con người. Đó là quyền về tự do, sở hữu, an ninh và
phản kháng sự áp bức”. Quyền tự nhiên là hình thức thể hiện tự do của con người
cụ thể “tự do chính là khả năng làm tất cả những gì mà không gây phương hại cho
người khác và như vậy thực hiện quyền tự nhiên của mỗi người chỉ bị hạn chế ở
phạm vi bảo đảm cho những thành viên khác của xã hội cũng có thể sử dụng những
quyền này” (Tuyên ngôn nhân quyền Pháp). Như vậy tất cả mọi người đều có
quyền giống nhau, tuy nhiên quyền năng của người này lại đối trọng với người
khác, do đó khơng được vì lợi ích bản thân mà vi phạm đến quyền tự nhiên của
người khác.


7

Tóm lại, khuynh hướng quyền tự nhiên đã ra đời và tác động không nhỏ tới các
cuộc cách mạng ở Châu Âu. Và cho đến ngày nay thì nó vẫn cịn giữ ngun giá trị
của mình.
Trái với quan điểm theo khuynh hướng tự nhiên, coi QCN là cái vốn có, là đặc
quyền tự nhiên của con người từ khi sinh ra và tồn tại song song cùng với sự phát
triển của họ, quan điểm theo khuynh hướng pháp luật lại cho rằng QCN chỉ được
công nhận khi nhà nước quy định, ghi nhận nó trong hệ thống pháp luật của mỗi
quốc gia. Điều đó có nghĩa là các QCN khơng phải là những gì bẩm sinh, vốn có

một cách tự nhiên mà phải do nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy
phạm pháp luật, chỉ những quyền nào được nhà nước ghi nhận thơng qua pháp luật
thì mới là QCN. Chỉ những gì pháp luật cho phép tự do được làm hay khơng được
làm thì mới là QCN, và chỉ được coi là QCN khi một hành vi hay một yêu cầu của
cá nhân là hợp pháp. Như vậy xét theo khuynh hướng này thì tùy theo từng quốc
gia, từng hoàn cảnh, từng thời điểm khác nhau mà QCN được ghi nhận khác nhau,
nó phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán,
truyền thống văn hóa của từng xã hội. Điều đó có nghĩa là trong khi theo khuynh
hướng tự nhiên thì QCN có tính đồng nhất trong mọi hồn cảnh cịn theo khuynh
hướng pháp luật quyền này sẽ biến đổi tùy theo hoàn cảnh, thời điểm và quan điểm
chính trị của mỗi quốc gia. Khuynh hướng pháp luật có điểm hợp lý là đã gắn QCN
với pháp luật, với ý chí của nhà nước (mà điều này thì khơng thể bỏ qua được, vì
quyền con người tất nhiên phải tồn tại dưới hình thức pháp luật). Nhưng, nó cũng có
nhược điểm ở chỗ, chỉ coi ý chí nhà nước là nguồn gốc của QCN, coi trọng tính hợp
pháp của QCN, song lại khơng để ý đến tính tự nhiên của nó, cái mà nhờ đó, ngay
cả những đòi hỏi, những nhu cầu hợp lý cho cuộc sống (nhưng chưa được pháp luật
ghi nhận) cũng phải được coi là QCN. Do đó, khơng thể coi QCN chỉ là những gì
được phép làm, được hưởng theo pháp luật, mà còn bao gồm cả những thứ đáng
được làm, đáng được hưởng (những cái chưa được pháp luật khẳng định, nhưng sẽ
phải khẳng định).


8

Trước đây các nước XHCN đã từng quan điểm, chỉ với tư cách là công dân của
một quốc gia nhất định, được pháp luật của một nhà nước cụ thể quy định thì cá
nhân con người mới có quyền trong ý nghĩa pháp lý. Vì vậy thuật ngữ QCN ít được
nói đến, thường bị đồng nhất với quyền cơng dân (QCD). Trong các văn bản pháp
luật (Hiến pháp - luật) chỉ tồn tại thuật ngữ QCD. Ở Việt Nam thuật ngữ QCN lần
đầu tiên được nghi nhận tại Điều 50 Hiếp Pháp 1992 “ở nước cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, các QCN về chính trị, dân sự, kinh tế và xã hội được tôn trọng, thể
hiện ở các QCD và được quy định trong Hiến pháp và Luật”. Còn trong ba bản Hiến
pháp trước đây đã đồng nhất QCN với QCD. Tuy nhiên đó chỉ là sự ghi nhận về
mặt thuật ngữ cịn trên thực tế QCN ln được xem xét là một trong những nội
dung cơ bản xuyên suốt lịch sử pháp luật nước ta thông qua các quy định về quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Như vậy, QCN trong trường hợp này được xem là QCD của một quốc gia nhất
định, nó là những quyền cơ bản mà Hiến pháp của mỗi quốc gia quy định cho cơng
dân mang quốc tịch của nước mình. Ở những nước có chế độ kinh tế khác nhau, có
nền kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hóa khác nhau thì phạm vi và mức độ QCD cũng
rộng, hẹp khác nhau [29-tr.399].
Theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1992 thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc
xã hội cơng nhận cho được hưởng, được làm, được địi hỏi” hay “quyền là những
việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế” [30]. Như vậy
QCN là những đặc lợi vốn có mà pháp luật hoặc xã hội cho phép mỗi cá nhân sẽ
được hưởng từ khi sinh ra cho đến khi chết đi trong những điều kiện kinh tế, xã hội
nhất định. Nó vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội và thống nhất với
quyền của dân tộc.
Chúng ta có thể hiểu khái niệm bảo vệ là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho
luôn luôn được nguyên vẹn” hoặc “bênh vực bằng lý lẽ để giữ vững ý kiến, quan
điểm” [31]. Vậy bảo vệ QCN tức là hệ thống các phương thức chống lại mọi sự
xâm phạm trái pháp luật tới những đặc quyền vốn có của con người để giữ cho đặc
quyền đó ln được ngun vẹn, ln giữ ngun giá trị. Tuy nhiên để làm được


9

điều này Nhà nước không chỉ đơn thuần là ghi nhận nó, bởi nếu chỉ có vậy thì QCN
chưa có giá trị thực tiễn, nó chỉ mới tồn tại ở dạng tiềm năng. Vì vậy, chúng ta cịn
phải dùng mọi công cụ, biện pháp để đảm bảo cho quyền này được thực hiện trên

thực tế, đảm bảo giá trị thực tiễn của QCN.
Nhìn chung các quan điểm trên chưa đúng đắn, cịn có nhiều hạn chế, tuy nhiên
nó cũng có những giá trị nhất định và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Cùng với
phương pháp luận duy vật biện chứng và tiếp thu tinh hoa của các trào lưu trước đó
về QCN thì triết học Mác-Lênin đã đưa ra khái niệm về QCN dựa trên bản chất của
con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội và khẳng đinh rằng QCN có
nguồn gốc tự nhiên nhưng tính tự nhiên khơng phải là yếu tố cơ bản cấu thành nên
QCN, mà là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền
vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội”. Mác cho rằng “QCN không
phải là một khái niệm trừu tượng cũng không phải là và chỉ là quyền mang tính tự
nhiên mà ln gắn bó với cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, gắn với trình độ
phát triển và tiến bộ của xã hội trong từng thời kì” [17]. Điều này có nghĩa là QCN
phụ thuộc vào phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất thống trị quy định nên chế độ
xã hội - chính trị ấy, khơng có QCN cho mọi chế độ xã hội mà phụ thuộc vào từng
phương thức sản xuất nhất định cùng với chế độ chính trị - xã hội nhất định.
Tóm lại đã có nhiều cách nhìn khác nhau về QCN, ngày nay QCN lại được tiếp
tục nghiên cứu, tuy nhiên vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nào. Theo kết luận
của Văn phịng Cao ủy Liên Hiệp Quốc thì QCN là những bảo đảm pháp lý toàn cầu
(universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms)
của con người [54]. Khái niệm này khơng nói rõ quyền tự nhiên của con người mà
chỉ quy định các yếu tố pháp lí để đảm bảo thực hiện QCN. Theo từ điển luật học
thì QCN (nhân quyền hoặc quyền làm người) là những quyền mặc nhiên khi được
sinh ra cho đến trọn đời mà khơng ai có quyền tước bỏ. Đó là những quyền cơ bản
của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh


10


phúc v.v…QCN là thành quả của quá trình đấu tranh của nhân loại chống các lực
lượng áp bức xã hội và chế ngự thiên nhiên, không phải tự nhiên mà có hay do
Thượng Đế ban cho như quan điểm của một số học giả Phương Tây.
1.1.2. Quyền công dân
Khi QCN được cụ thể hóa trong pháp luật của một quốc gia thì nó trở thành QCD
và được đảm bảo thực hiện bởi chính nhà nước đó. “QCD là những đặc lợi mà
người có quốc tịch của một quốc gia nhất định được hưởng do pháp luật quốc gia
đó quy định” [24-tr.16]. QCD xác định mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và
một nhà nước cụ thể, đây là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, nhà nước là chủ
thể có nghĩa vụ phải ghi nhận và đảm bảo thực hiện QCD của mỗi cá nhân mang
quốc tịch nước mình, nhưng đồng thời trong những trường hợp nhất định thì chính
nhà nước cũng có quyền hạn chế hoặc tước bỏ những quyền năng này của họ.
Ngược lại, công dân được nhà nước ghi nhận, bảo vệ QCD của mình bằng mọi
phương tiện và cách thức thơng qua hệ thống quy phạm pháp luật thì bản thân họ
cũng phải có nghĩa vụ đối với nhà nước đó. Mỗi cơng dân đều phải có nghĩa vụ tơn
trọng và tn thủ pháp luật, cá nhân không thực hiện nghĩa vụ này thì phải chịu
trách nhiệm trước Nhà nước.
QCD khơng phải là đặc quyền tự nhiên vốn có, nó chỉ được tồn tại khi Nhà nước
ghi nhận những quyền năng này vào trong hệ thống pháp luật cụ thể. QCD mang
tính đặc thù của mỗi quốc gia khác nhau, không phải tất cả các QCD đều được các
nước ghi nhận một cách giống nhau mà cịn tùy thuộc vào đặc điểm, hồn cảnh của
mỗi quốc gia đó, thậm chí cịn phụ thuộc vào ý chí, đặc điểm của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, QCD không được trái với quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề bảo
vệ QCN, phải phù hợp với thông lệ chung nếu không sẽ là hiện tượng cực đoan và
QCN không được bảo vệ. Bởi xét cho cùng thì QCD chính là một phần của QCN,
nó chính là sự cụ thể hóa QCN vào pháp luật của mỗi quốc gia, đảm bảo cho QCN
được thực hiện tốt nhất trên thực tế. Tùy thuộc vào quy định của mỗi quốc gia thì
QCD của mỗi cá nhân có khác nhau nhưng chung quy lại thì chúng gồm các nhóm
quyền trong lĩnh vực chính trị và dân sự, nhóm quyền trong lĩnh vực kinh tế - văn



11

hóa - xã hội. Trong pháp luật của mỗi quốc gia thì QCD được ghi nhận, cụ thể hóa
trong các đạo luật của chính quốc gia đó. Các đạo luật này vừa thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị lại vừa thể hiện mức độ dân chủ của một quốc gia. Nhìn vào đó,
chúng ta có thể thấy QCD của con người ở quốc gia có được nhà nước coi trọng và
đảm bảo hay khơng.
Tóm lại, QCD là tổng hợp các quyền tự nhiên vốn có của cá nhân thuộc một
quốc gia cụ thể được nhà nước đó thừa nhận và bảo vệ trên cơ sở phù hợp với đặc
điểm, tình hình kinh tế xã hội của từng quốc gia sao cho phù hợp với thông lệ và
pháp luật quốc tế về bảo vệ QCN và được ghi nhận trong pháp luật của quốc gia đó.
1.1.3. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền cơng dân
Qua phân tích ở trên chúng ta có thể thấy được mối quan hệ biện chứng giữa
QCN và QCD, thể hiện qua nội dung của QCN trên bình diện quốc tế và QCD trong
phạm vi từng quốc gia. Chúng ta không thể quan niệm một cách trừu tượng rằng
một cá nhân con người vừa có QCN vừa có QCD một cách tách biệt hồn tồn, bởi
QCD là sự thể hiện, là q trình cụ thể hóa QCN trong pháp luật của một quốc gia
nhất định, do đó khơng thể quy định trái với QCN. Một mặt nhà nước nào, pháp luật
nào cũng không thể không thừa nhận “quyền tự nhiên”, “quyền bẩm sinh” như là
một tất yếu khách quan vốn có khơng tách rời của con người. Mặt khác nếu không
được pháp luật của nhà nước thừa nhận thì các quyền tự nhiên chưa trở thành quyền
mà vẫn tồn tại ở dạng là những khả năng, các xu hướng, các nhu cầu. QCN là khái
niệm rộng hơn, nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lí về quyền cá nhân ở phạm vi quốc
tế, quốc gia vừa là quyền tự nhiên của mỗi công dân trong phạm vi mỗi quốc gia.
QCN không loại trừ khái niệm QCD mà trái lại nó bao hàm QCD như một bộ phận,
nội dung cơ bản cấu thành nên QCN. Nhưng điều đó khơng có nghĩa là khái niệm
QCN có thể thay thế cho khái niệm QCD. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết là
mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng.
QCN được áp dụng ở khắp mọi nơi cho mọi đối tượng, nó được nghi nhận trên

phạm vi toàn cầu “mọi người đều được thừa nhận là con người trước pháp luật ở
mọi nơi”.


12

QCD cho phép con người ở mỗi quốc gia, mỗi lãnh thổ nhất định do trình độ
phát triển kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của dân tộc khác nhau mà có
những điểm riêng, có mức độ thỏa mãn riêng phù hợp với điều kiện quốc gia, lãnh
thổ đó. QCN là quyền năng gắn liền với bản thân mỗi cá nhân, cho dù họ là nam
hay nữ, dù họ sống ở đâu trên trái đất thì bản thân họ luôn được hưởng những quyền
do bản thân họ mang lại còn QCD chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế xã hội
khác nhau.
Để QCN cũng như QCD được tôn trọng và thực hiện trên thực tế thì chúng ta
phải nhìn nhận chúng trong mối quan hệ biện chứng, khơng được tuyệt đối hóa
QCN mà xem nhẹ QCD, bởi QCD là sự thể hiện của QCN một cách cụ thể, chúng
ta chỉ có thể tìm thấy giá trị của QCN trong QCD, tuy nhiên QCD phải nằm trong
khuôn khổ QCN, không được đi trái với QCN. Do đó chúng ta khơng được tuyệt
đối hóa QCN, nếu khơng QCN sẽ rơi vào tình trạng khơng tưởng, nhưng cũng
khơng được quá đề cao QCD nếu không sẽ gặp hiện tượng vi phạm QCN ở mỗi
quốc gia, bởi chế độ xã hội và điều kiện kinh tế ở mỗi nước khác nhau là khơng
giống nhau, do đó QCD phải được đảm bảo trên cơ sở phù hợp với QCN.
Tóm lại mối quan hệ giữa QCN và QCD là mối quan hệ biện chứng, tồn tại, tác
động lẫn nhau chứ không hề tách biệt hay độc lập. QCD là QCN, là những giá trị
gắn liền với một nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo hộ bằng pháp luật
của mình đối với những người mang quốc tịch nước mình, thể hiện mối quan hệ
pháp lí cơ bản giữa một cá nhân công dân với một nhà nước nhất định. Một cá nhân
cụ thể vừa tồn tại dưới tư cách là một thành viên trong xã hội, vừa mang tư cách của
một công dân trong một quốc gia xác định. Do đó QCN và QCD là sự biểu hiện của
quyền và lợi ích của cá nhân trong mối quan hệ giữa cái tổng thể, cái chung và cái

riêng, cái đặc biệt.
1.2. Nhận thức chung về biện pháp ngăn chặn
1.2.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Khi giải quyết vụ án hình sự có nhiều ngun nhân cản trở q trình tố tụng,
những ngun nhân đó xuất phát từ nhiều phía, có thể là từ bản thân người bị tình


13

nghi, bị can, bị cáo hoặc do chính người thân, gia đình của họ cố tình che giấu tội
phạm, tiêu hủy chứng cứ, cũng có những nguyên nhân xuất phát từ người bị hại
hoặc do chính cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Để đảm bảo cho quá trình tố tụng
diễn ra một cách chính xác, nhanh chóng, hiệu quả và công bằng, Bộ luật TTHS
2003 (BLTTHS 2003) đã quy định cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp ngăn chặn (BPNC) để nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, đồng thời qua đó
thể hiện sự dân chủ, tính nhân đạo, cơng bằng và tơn trọng QCN của pháp luật nói
chung và pháp luật TTHS nói riêng. Tuy nhiên những BPNC này chỉ được áp dụng
khi có căn cứ cụ thể cho rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần đảm bảo thi hành án và nó
phải thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ để tránh tình trạng lạm dụng của
cơ quan có thẩm quyền cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng
bị áp dụng và những người liên quan.
Mặc dù trên thực tế, BPNC đã được sử dụng phổ biến và mang lại hiệu quả cao,
tuy nhiên cho đến bây giờ trong BLTTHS nhà làm luật vẫn chưa một lần ghi nhận
khái niệm này mà chỉ ghi nhận từng biện pháp cụ thể. Cùng với sự cần thiết của
BPNC, chúng ta cần phải có một cái nhìn đúng đắn về khái niệm cũng như làm rõ
bản chất để áp dụng nó một cách hiệu quả nhất. Đã có rất nhiều tác giả đưa ra khái
niệm và làm rõ bản chất của BPNC.
Theo GS.VS người Nga Xtrơxgơvich thì “biện pháp cưỡng chế (bao gồm cả
BPNC) khơng phải là hình phạt: hình phạt được áp dụng đối với người có bản án

kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tịa án, còn biện pháp ngăn chặn (cũng như việc
truy cứu trách nhiệm hình sự) khơng quy định trước kết quả giải quyết của vụ án
hình sự cũng như hình phạt của tịa án” [17]. BPNC là một trong những nhóm các
biện pháp cưỡng chế tố tụng có tính chất nghiêm khắc cao chứ hồn tồn khơng
phải là hình phạt, khơng có tính răn đe, giáo dục mà chỉ nhằm mục đích ngăn chặn
tội phạm, đảm bảo cho q trình tố tụng diễn ra nhanh chóng, chính xác, khách
quan và cơng bằng. Khi muốn áp dụng các BPNC thì phải có căn cứ cụ thể, rõ ràng


14

khơng được áp dụng tràn lan tránh tình trạng xâm phạm QCN của đối tượng bị áp
dụng và đặc biệt là phải đặt nhiệm vụ bảo vệ QCN làm trọng tâm.
Trong từ điển Luật học, khái niệm BPNC được ghi nhận là biện pháp cưỡng chế
về mặt tố tụng do Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án (TA) áp
dụng đối với bị can, bị cáo nếu có đủ căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án [32-tr.49].
Cịn trong giáo trình luật TTHS trường đại học luật Hà Nội “BPNC được hiểu là
những biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc
người chưa bị khởi tố (trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang)
nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục
phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án” [27-tr.166]. Khái niệm này chưa đưa ra được căn cứ
áp dụng và chủ thể áp dụng BPNC. Bản chất của BPNC không phải là hình phạt, nó
chỉ mang tính cưỡng chế tố tụng, mục đích áp dụng là nhằm ngăn chặn tội phạm và
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình TTHS. Việc áp dụng BPNC là một hoạt động
mang tính đặc trưng bởi vì nó là sự cân nhắc giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân.
Việc bảo vệ trật tự xã hội gắn liền với bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân. Tuy nhiên, khơng phải bất cứ lúc nào quyền và lợi ích đó cũng được bảo vệ
tuyệt đối với bất kì giá nào. Trong phạm vi rộng lớn của hoạt động nhà nước thì lợi

ích cộng đồng, lợi ích xã hội nhìn chung là phù hợp với lợi ích cơng dân, thế nhưng
trong trường hợp áp dụng BPNC thì lợi ích đó lại mâu thuẫn, xung đột. Để bảo vệ
lợi ích của xã hội thì trong trường hợp này pháp luật cho phép cơ quan nhà nước có
quyền hạn chế các QCN của công dân trong một khoảng thời gian và phạm vi hợp
lí, điều này hồn tồn khơng trái với quy luật chung về bảo vệ QCN. Do đó, để áp
dụng BPNC thì phải trải qua quá trình cân nhắc kĩ càng để lựa chọn một biện pháp
phù hợp nhằm đạt được mục đích, hiệu quả nhưng cũng đồng thời bảo vệ tốt QCN
của đối tượng bị áp dụng và chủ thể liên quan.
Qua đó chúng ta có thể thấy rằng BPNC là những biện pháp cưỡng chế tố tụng có
ý nghĩa quan trọng, trên thực tế được áp dụng rất nhiều và cũng mang lại hiệu quả


15

đáng kể. Tuy nhiên vì chưa có khái niệm pháp lí ghi nhận nên có nhiều cách hiểu
khác nhau, mặc dù vậy, nhìn chung tất cả các quan điểm đều có điểm chung, ghi
nhận BPNC là nhóm biện pháp cưỡng chế (BPCC) tố tụng nghiêm khắc nhất, được
áp dụng đối với bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố hình sự (trong trường hợp
bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) khi có căn cứ cụ thể cho rằng họ sẽ tiếp tục
phạm tội hoặc sẽ cản trở cho quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy, qua phân tích ở trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm BPNC là những
biện pháp mang tính cưỡng chế tố tụng được các chủ thể có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người bị tình nghi là phạm
tội (trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) khi có căn cứ rõ ràng,
cụ thể chứng minh rằng họ sẽ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, gây khó khăn cho
q trình tố tụng hoặc tiêu hủy chứng cứ hay có ý định bỏ trốn, nhằm đảm bảo cho
hoạt động TTHS diễn ra nhanh chóng, chính xác và khách quan.
1.2.2. Đặc điểm của biện pháp ngăn chặn
Xuất phát từ bản chất của BPNC chúng ta có thể thấy những đặc điểm nổi bật
của nhóm biện pháp này. Chúng là những biện pháp mang tính đặc thù của TTHS,

góp phần phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lí công minh, kịp thời mọi hành
vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Qua
nghiên cứu về khái niệm và nội dung chúng ta có thể thấy các BPNC có những đặc
điểm chung sau:
 Là biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự
Cưỡng chế TTHS là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước trong trường
hợp cần thiết của hoạt động TTHS nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm. Cũng như các biện pháp cưỡng chế nhà nước khác, các
BPCC tố tụng hình sự tạm thời tước bỏ hoặc hạn chế các QCD của những đối tượng
bị áp dụng. Pháp luật đã quy định cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng nhiều BPCC
tố tụng khác nhau, tuy nhiên nhìn chung, chúng ta có thể phân loại chúng thành ba
nhóm cơ bản sau:


16

Nhóm 1 gồm các biện pháp có tính chất ngăn chặn như: bắt người, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo, bảo lĩnh
Nhóm 2 gồm các biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như: khám xét,
thu giữ, tạm giữ đồ vật…
Nhóm 3 gồm những biện pháp bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án như: áp giải bị can, bị cáo, dẫn giải người làm chứng…
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng các BPCC tố tụng là những biện pháp đụng
chạm nhiều đến QCN và lợi ích hợp pháp của cơng dân, cũng do tính chất đặc thù
đó mà nguy cơ gây ra sự xâm phạm tới QCN trong khi áp dụng các BPCC là rất
cao. Trong quá trình áp dụng các BPNC thì tính cưỡng chế tố tụng thể hiện rõ, đây
là những biện pháp mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng. Một khi cơ
quan có thẩm quyền đã ra quyết định áp dụng một trong số những biện pháp này thì
đối tượng bị áp dụng buộc phải chấp hành. Ở đây hồn tồn khơng có sự thương
lượng hay thỏa thuận giữa các chủ thể mà là ý chí của bên chủ thể nắm quyền lực

khi họ có đủ căn cứ để cho rằng cần thiết phải áp dụng BPNC. Nếu đối tượng bị áp
dụng khơng chấp hành thì buộc phải chịu sự cưỡng chế tố tụng từ phía chủ thể có
thẩm quyền. Thậm chí trong một số trường hợp cho dù quyết định áp dụng BPNC
đó khơng đúng theo quy định của pháp luật thì bị can, bị cáo cũng phải chấp hành
ngay tại thời điểm có quyết định (sau đó, họ sẽ thực hiện quyền khiếu nại của
mình). Mặt khác, do bản chất của các BPNC là tạm thời hạn chế hoặc tước bỏ QCN
của đối tượng bị áp dụng nên khơng ít trường hợp các chủ thể này khơng chấp hành
mà ngược lại còn phản kháng lại nên buộc chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải
cưỡng chế thi hành thì mới đảm bảo thực hiện được. Như vậy, các BPNC là nhóm
biện pháp đặc trưng, điển hình nhất cho tính cưỡng chế tố tụng.
 Là biện pháp cưỡng chế tố tụng có tính nghiêm khắc cao
Đặc trưng của các BPCC tố tụng là tác động đến QCN của đối tượng bị áp dụng
cũng như các chủ thể liên quan, nhưng do tính cấp thiết và để bảo vệ lợi ích xã hội,
đồng thời để điều hịa giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích công dân nên các biện pháp
này cần được áp dụng. Nhóm biện pháp cưỡng chế tố tụng nghiêm khắc nhất chính


×