Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Vai trò trọng tài của tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ ĐÌNH PHƯƠNG

VAI TRỊ TRỌNG TÀI CỦA TỊA ÁN
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ ĐÌNH PHƯƠNG

VAI TRỊ TRỌNG TÀI CỦA TỊA ÁN
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự. Mã số: 60.38.40

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THÀNH DƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN
Cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên và sự nổ lực không ngừng


của cá nhân tơi, qua q trình nghiên cứu, luận văn đã được hồn thành. Tơi xin
cam đoan cơng trình nghiên cứu và những kết luận khoa học của tôi nêu ra chưa
từng được bất cứ ai công bố. Các tài liệu và trích dẫn phục vụ cho cơng tác nghiên
cứu đảm bảo đáng tin cậy, chính xác và trung thực.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Võ Đình Phương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. TTHS

:

Tố tụng hình sự

2. BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

3. VKS

:

Viện kiểm sát

4. HĐXX


:

Hội đồng xét xử


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
1. Biểu đồ 1: Tỷ lệ án hình sự xét xử sơ thẩm bị hủy (từ 2006 – 2010).
2. Biểu đồ 2: Tỷ lệ án hình sự xét xử sơ thẩm bị sửa (từ 2006 – 2010).
3. Biểu đồ 3: Tình hình án hình sự sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị của cả nước.
4. Biểu đồ 4: Tình hình án hình sự sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị của tỉnh
Khánh Hòa.
5. Biểu đồ 5: Tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung của cả nước.
6. Biểu đồ 6: Tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung của ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hịa.
7. Biểu đồ 7: Tình hình bổ nhiệm Thẩm phán (từ 2006 – 2010).

8. Bảng thống kê số lượng án hình sự sơ thẩm giải quyết bị kháng cáo, kháng nghị.
9. Bảng thống kê số lượng án hình sự sơ thẩm giải quyết bị trả hồ sơ điều tra bổ sung.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ TRỌNG TÀI CỦA TÒA
ÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ..................6
1.1. Nhận thức chung về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .....................................6
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự....................................................6
1.1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.....................................................7
1.2. Lý luận chung về vai trị trọng tài của Tịa án trong tố tụng hình sự .......8

1.2.1. Khái niệm vai trò trọng tài của Tòa án trong tố tụng hình sự ................10
1.2.2. Vai trị, vị trí của Tịa án trong tố tụng hình sự Việt Nam.......................13
1.2.3. Phân biệt vai trò trọng tài trong lĩnh vực tố tụng hình sự với các
lĩnh vực khác ......................................................................................................18
1.3. Các điều kiện để đảm bảo vai trò trọng tài của Tòa án trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................22
1.3.1. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật ...........................................................................22
1.3.2. Đảm bảo các quy định của pháp luật về các chức năng trong tố
tụng hình sự .......................................................................................................26
1.3.3. Giám sát nhằm đảm bảo vai trò của Tòa án ...........................................28
1.3.4. Đảm bảo về cơ sở vật chất và con người.................................................30
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .........................33
2.1. Quy định pháp luật về vai trị của Tịa án trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự ở Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 .....33
2.1.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988...........33
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến
trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ......................................36


2.2. Quy định pháp luật về vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003 ....................................39
2.2.1. Vai trò của Tòa án trong khâu chuẩn bị xét xử vụ án hình sự ................39
2.2.2. Vai trị của Tịa án trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..........42
2.3. Đánh giá pháp luật thực định về vai trò của Tòa án theo Bộ luật tố
tụng năm 2003......................................................................................................56
2.3.1. Những ưu điểm của quy định pháp luât...................................................56
2.3.2. Những hạn chế của quy định pháp luật ...................................................57
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN VÀ NHỮNG

KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................64
3.1. Thực trạng.....................................................................................................64
3.1.1. Thực trạng về vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự...........................................................................................................64
3.1.2. Đánh giá thực trạng về vai trò của Tòa án .............................................68
3.2. Những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tịa án
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ...................................................................81
3.2.1. Những kiến nghị sửa đổi pháp luật..........................................................81
3.2.2. Những giải pháp nâng cao ......................................................................87

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vai trị trọng tài của Tịa án trong xét xử hình sự sơ thẩm là một trong những
nội dung cơ bản, có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động tố tụng hình sự. Do đó,
chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020 của Đảng và Nhà nước ta theo
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị đã xác định
phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp đó là “…Xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng
tâm là xây dựng, hồn thiện tổ chức và hoạt động của Tịa án nhân dân…Đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính cơng
khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…”. Thực tế đó đặt ra yêu cầu

phải nhanh chóng cải cách tư pháp, trong đó trọng tâm là cải cách tổ chức và hoạt
động của Tòa án; đồng thời việc nhận thức đúng đắn và đầy đủ vai trò trọng tài
trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó xác định vai trị, nhiệm vụ của
các chủ thể tham gia thực hiện chức năng này là một vấn đề cấp thiết trong công
cuộc cải cách tư pháp giai đoạn hiện nay. Mặt khác, nhận thức đúng đắn vai trò
trọng tài của Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần làm cơ sở hoàn
thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tịa. Qua đó, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phịng chống tội phạm, góp phần
đảm bảo quyền tự do, dân chủ của cơng dân và vì tiến bộ xã hội.
Tiến tới giai đoạn Đảng và Nhà nước ta phấn đấu xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quyền tự do dân chủ của công dân ngày càng
được mở rộng và đi vào thực chất, vai trò của Tòa án ngày càng được đề cao, mà ở
đó nhận thức xã hội đối với pháp luật được tơn trọng. Vì thế, hoạt động tư pháp
đóng vai trị hết sức quan trọng đối với bộ máy Nhà nước trong giai đoạn đổi mới
hiện nay. Trước địi hỏi đó ngành Tịa án cần nhanh chóng đổi mới và hồn thiện
vai trị, nhiệm vụ của mình trong hoạt động xét xử để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ
mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Mặc dù, trong thời gian qua các nhà khoa học pháp lý đã có nhiều cố gắn
nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của Tòa án để đáp ứng yêu cầu cải cách theo mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra. Nhưng thực tiễn nghiên cứu và áp dụng pháp luật
TTHS hiện nay nhìn chung còn nhiều hạn chế, bất cập, cần phải nghiên cứu một


2

cách tồn diện, sâu rộng để nâng cao vai trị của Tịa án. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho
các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này một số vấn đề cần được làm rõ, đó là: khái
niệm vai trị trọng tài của Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; vai trị, nhiệm
vụ của Tịa án và các chủ thể tham gia chức năng xét xử ra sao; các nguyên tắc và
các điều kiện đảm bảo vai trò trọng tài của Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự; các giải pháp để khắc phục những hạn chế và nâng cao vai trò trọng tài của Tòa
án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;.v.v…Những vấn đề trên hầu như
vẫn chưa được các nhà nhiên cứu đề cập một cách có hệ thống, toàn diện và đầy đủ
trên các đề tài cũng như trên các tạp chí khoa học ở nước ta.
Nhằm góp phần làm sáng tỏ các vấn đề nêu trên về mặt lý luận cũng như về
mặt thực tiễn áp dụng pháp luật, qua đó góp phần nâng cao vai trò trọng tài của Tòa
án, đặc biệt trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó đưa ra những kiến
nghị nhằm từng bước hồn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy
chúng tơi chọn đề tài: “Vai trị trọng tài của Tịa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhìn tổng quan hoạt động nghiên cứu trong và ngoài nước thời gian qua về vai
trị của Tịa án trong tố tụng hình sự đã thu hút được nhiều nhà khoa học pháp lý
quan tâm. Tuy nhiên mỗi tác giả chỉ chọn một khía cạnh cho phạm vi nghiên cứu
nhất định, có thể thấy như: Luận văn thạc sỹ của Lê Đức Thọ, năm 2008 về “Xét
hỏi, tranh luận và nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm”; thạc sỹ
Trần Thị Ánh, năm 2007 luận văn về “Chức năng xét xử của Tịa án trong tố tụng
hình sự”; Thạc sỹ Lê Tiến Châu, “Chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự”; Tiến sĩ
Nguyễn Đức Mai “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự”; Tiến sỹ Phạm Hồng
Hải “Đảm bảo quyền bào chữa và xét xử trong tố tụng hình sự”… và các bài viết
đăng trên các tạp chí khoa học: Pgs. Tiến sỹ Trần Văn Độ, Nguyễn Thái Phúc trong
kỷ yếu đề tài cấp bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động
công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”; Sir Guy Green, Chief Justice of
Tasmania 1973-1995, 'The Rationale and Some Aspects of Judicial Independence'
(1985) 59 Australian Law Journal 135; Sir Nicolas Browne-Wilkinson, 'The
Independence of the Judiciary in the 1980s'(1987) Public Law 44; Eric Colvin, 'The
Executive and the Independence of the Judiciary' (1986-87) 51 Saskatchewan Law
Review 229…;giáo trình của các trường đại học như: Đại học luật Hà Nội, Đại học
An ninh, Đại học cảnh sát; … Qua đó cho thấy các tác giả trên đều nghiên cứu theo
nhiều cách tiếp cận, lập trường khác nhau. Mặt khác, các tác giả cũng nhìn từ góc
độ chức năng xét xử và hoạt động tranh tụng của các chủ thể có liên quan và đề cập

về vai trò của Tòa án trong trong mối quan hệ với các chủ thể tố tụng này. Một số


3

tác giả ngoài nước Sir Guy Green, Sir Nicolas Browne-Wilkinson, Eric Colvin…đề
cập Tịa án và Thẩm phán có vị trí độc lập, có chức năng giám sát và bảo vệ pháp
luật. Các tác giả này cũng cho rằng “không thể tồn tại một nền dân chủ và đảm bảo
pháp luật được tôn trọng mà không thể tồn tại một ngành tư pháp độc lập”. Tuy vậy,
các tác giả trên cũng đề cập sơ lược qua vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự
nhưng khơng đưa ra một khái niệm nào cũng như chưa xác định vai trò trọng tài của
Tòa án trong hoạt động xét xử, đặc biệt trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự như
tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW nêu ra. Vì vậy, việc làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật hiện hành cùng với việc nhận thức đúng đắn vai trò trọng tài của Tòa án
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần phải có chun đề chun sâu
nghiên cứu đầy đủ vấn đề này để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo định hướng
của Đảng và Nhà nước đề ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
*Mục đích
Nghiên cứu đề tài về vai trò trọng tài của Tòa án đặt trong mối quan hệ với
chức năng của bên buộc tội và bên bào chữa, trên cơ sở lý luận chúng ta có những
đề xuất đưa chức năng tố tụng về đúng vị trí của từng chủ thể một cách cơ bản và hệ
thống. Bên cạnh đó liên hệ đến các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
để rút ra những hạn chế, vướng mắc nhằm làm cơ sở để đưa ra một số kiến nghị sửa
đổi pháp luật tố tụng hình sự. Từ đó đưa Tịa án về đúng với vai trị của một cơ
quan có chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam theo tinh thần cải cách
tư pháp tại Nghị Quyết 08 và Nghị Quyết 49 của Bộ chính trị.
*Nhiệm vụ
Từ mục đích nói trên, đã đặt ra những nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này là:
- Xây dựng khái niệm về vai trò trọng tài của Tòa án trong xét xử sơ thẩm hình

sự. Qua đó xác định rõ vai trò của Tòa án đặt trong mối quan hệ với các chức năng
tố tụng khác.
- Xác định vị trí, vai trị trọng tài của Tịa án trong hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự ở Việt Nam. Từ đó đưa ra các điều kiện đảm bảo thực hiện vai trò của
Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Từ nhận thức về lý luận và thực tiễn, tìm hiểu phân tích thực trạng thực hiện
vai trò của Tòa án trong những năm gần đây, chỉ ra một số ưu điểm, hạn chế, vướng
mắc trong quá trình thực hiện cần phải khắc phục.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự
về vai trị của Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp.


4

*Phạm vi
Nhìn nhận từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn và pháp luật thực định thì đây
là một đề tài khá rộng, trong phạm vi luận văn thạc sỹ luật học tác giả tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự,
những quy định của pháp luật về vai trò trọng tài của Tòa án trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và thực trạng về vai trò của
Tòa án cả nước, đồng thời đối chiếu với thực tiễn tại ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa trong những năm gần đây (từ năm 2006 đến năm 2010). Trên cơ sở đó
đánh giá và kiến nghị một số giải pháp nâng cao vai trò trọng tài của Tịa án trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, để hồn thành một cách có hiệu quả những
mục tiêu đề ra, tác giả đã sử dụng một số phương pháp như: so sánh, thống kê, phân
tích, tổng hợp, quy nạp…; đặc biệt là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó tiếp cận và

làm sáng tỏ nội dung của đề tài nghiên cứu. Mặt khác, tác giả cũng khảo sát thực
tiễn xét xử các vụ án hình sự của một số địa phương.
5. Ý nghĩa của đề tài
Từ cơ sở lý luận cùng với những vấn đề phát sinh từ thực tiễn áp dụng pháp
luật, vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam
cịn nhiều bất cập cần có những nghiên cứu thật sự hệ thống từ đó làm nền tảng
khoa học cho những kiến nghị sửa đổi pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Qua đó
chúng ta có thể đưa Tịa án về đúng chức năng vốn có, đồng thời các chủ thể buộc
tội và bào chữa tiến hành hoạt động tố tụng được năng động, cơng bằng hơn; từ đó
tạo nên bước đột phá trong hoạt động cải cách tư pháp mà Đảng và nhà nước ta đã
đề ra từ nay đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW và Nghị quyết
49/NQ-TW của Bộ chính trị đề ra.
6. Cơ cấu luận văn
Phần mở đầu.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò trọng tài của Tòa án trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự ở Việt Nam.
Chương 2: Pháp luật thực định về vai trò của Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.


5

Chương 3: Thực trạng về vai trò của Tòa án và những kiến nghị, giải pháp
nâng cao vai trò trọng tài trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.


6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ TRỌNG TÀI CỦA TỊA ÁN TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
1.1. Nhận thức chung về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm được xem là giai đoạn quan trọng và có ý nghĩa quyết định
nhất. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, tất cả những tài liệu, chứng cứ của vụ án do các
bên thu thập trong quá trình đều tra đều được xem xét, đánh giá cơng khai tại phiên
tịa, chủ thể thực hiện các chức năng buộc tội, bào chữa được tham gia xét hỏi, được
nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận những vấn đề có liên quan đến vụ
án mà ở giai đoạn truớc đó khơng có điều kiện thực hiện. Tại giai đoạn này quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng được thực hiện một cách
công khai, đầy đủ nhất.
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng của Tòa án, Tòa án là cơ quan duy
nhất của một quốc gia đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên
điều phải trải qua xét xử tại phiên tòa sơ thẩm – cấp xét xử thứ nhất, không một ai
bị xem là tội phạm mà không qua phán xét của Tịa án. Luật tố tụng hình sự (TTHS)
Việt Nam hiện nay chia quá trình tố tụng thành những giai đoạn khác nhau: khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm và tái
thẩm. Như ta thấy, quá trình từ khi khởi tố vụ án đến khi xét xử là một quá trình
phức tạp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó hoạt động xét xử là hoạt
động mang tính chất quyết định.
Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003 quy định: “khơng ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Điều này khẳng định không một ai bị coi là có tội mà khơng bị Tịa án xét xử,
Tịa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước tuyên bố một người có tội. Đồng
thời theo nguyên tắc hai cấp xét xử quy định tại Điều 20 BLTTHS 2003, có nghĩa là
một vụ án hình sự có thể trải qua hai giai đoạn xét xử đó là xét xử sơ thẩm và xét xử
phúc thẩm. Trong đó xét xử sơ thẩm được xem là giai đoạn thứ nhất có tính chất
quyết định, bởi vì đây là cấp xét xử thứ nhất, nếu làm tốt ở khâu này thì khơng xảy

ra tình trạng kháng cáo, kháng nghị để xét xử cấp phúc thẩm. Tại giai đoạn này có
sự xuất hiện cùng lúc ba chức năng tố tụng: chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử nên có sự đa dạng về phạm vi chủ thể cũng như làm tăng
cường sự đối trọng lẫn nhau mà trong đó Tịa án ngày càng phải độc lập và khách


7

quan để thể hiện vai trò của một người trọng tài công minh ở giữa và ghi nhận kết
quả tranh tụng của các bên.
Xét xử sơ thẩm được xem là mở đầu cho cho hoạt động xét xử của Tòa án nên
hiệu quả của giai đoạn này khơng chỉ có ý nghĩa trong việc phán xét một người có
tội hay khơng, mà cịn ảnh hưởng đến việc xuất hiện của các hoạt động xem xét lại
bản án đã tuyên của Tịa án, vậy ngồi ý nghĩa pháp lý nó cịn mang ý nghĩa về kinh tế.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan nhà nước do Tòa án thực
hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài
liệu của vu án hình sự trên cơ sở đó ra bản án, quyết định xác định có hành vi phạm
tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tịa án có thể
bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định. Quá trình này xem xét đã xác
định hành vi này hay hành vi khác có phải là tội phạm và có bị trừng trị hay khơng,
cần phải áp dụng hình phạt nào đối với chủ thể thực hiện hành vi đó chính là q
trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong hệ thống cơ quan tư pháp, Tòa án là cơ
quan duy nhất được phân công thực hiện chức năng xét xử, trong đó có xét xử về
hình sự. Bản án quyết định sơ thẩm của Tịa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn luật định. Như vậy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử ở cấp thứ
nhất do Tịa án có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật TTHS.
1.1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thủ tục sơ thẩm là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Các hoạt động tố tụng diễn ra trước đó đều nhằm mục đích đưa người phạm tội ra

trước Tòa để xét xử và phán quyết họ bằng một bản án nghiêm minh, mà phiên tòa
sơ thẩm chính là phiên tịa của cấp xét xử thứ nhất thực hiện nhiệm vụ đó, phiên tịa
hình sự sơ thẩm có vị trí như một giai đoạn kết thúc q trình giải quyết vụ án hình
sự và nó có thể bị xét xử lại ở cấp phúc thẩm nhưng không thể có việc xét xử của
cấp phúc thẩm khi chưa có quyết định hay bản án của cấp sơ thẩm.
Xét xử sơ thẩm hình sự do Tịa án thực hiện. Theo Điều 127 Hiến pháp 1992
thì chỉ có Tịa án mới có chức năng xét xử vì thế việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Có nghĩa là Tịa án là cơ quan duy nhất được nhà nước trao quyền xét xử. Ở nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo ngun
tắc tập trung quyền lực có sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền
tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng
của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Tòa án nhân dân. Do vậy, Tòa án nhân


8

dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước. Tồ án có vị trí trung tâm trong
các cơ quan tư pháp. Nghị Quyết 49 của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Tổ chức các
cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ
cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Tồ án có vị trí
trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Như vậy, chỉ có Tịa án mới là chủ thể
độc lập để đảm bảo xét xử khách quan đúng người, đúng tội. Bởi phán quyết sau
cùng của một vụ án hình sự có thể ảnh hưởng đến quyền cơng dân, quyền và lợi ích
hợp pháp khác, thậm chí có thể tước đi mạng sống và sinh mạng chính trị của một
con người.
Có thể nói xét xử sơ thẩm là giai đoạn mở đầu của hoạt động xét xử do Tòa án
thực hiện nhằm tuyên bố một người có tội hay khơng có tội bằng một bản án. Bản
án, quyết định của Tòa án ở cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực ngay có thể bị kháng cáo,
kháng nghị trong thời hạn luật định. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì

trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nếu bản án sơ thẩm khơng bị kháng
cáo, kháng nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo,
kháng nghị.
1.2. Lý luận chung về vai trò trọng tài của Tịa án trong tố tụng hình sự
Khoa học pháp lý chưa khẳng định được chính xác khái niệm trọng tài cũng
như vai trò trọng tài trong TTHS bắt đầu xuất hiện từ khi nào, nhưng có thể khẳng
định chúng tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của các mơ hình tố tụng trong
khoa học pháp lý trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội lồi người.
Trong TTHS khái niệm vai trị trọng tài chỉ xuất hiện, tồn tại và phát triển ở những
mô hình tố tụng nào mang bản chất tranh luận trong q trình tố tụng. Có thể thấy
mơ hình tố tụng tồn tại trong lịch sử, đó là mơ hình tố tụng tranh tụng. Đây là loại
hình tố tụng được hình thành và phát triển từ loại hình tố tụng tố cáo và phát triển
mạnh mẽ, rộng rãi ở các nước theo hệ thống án lệ, phổ biến nhất là khoảng từ thế kỷ
X đến thế kỷ XIII. Theo loại hình tố tụng này, sự thật sẽ được mở ra qua sự tranh
luận giữa những người có dữ liệu chính xác. Tố tụng tranh tụng dựa trên tư tưởng tố
tụng là cuộc tranh tụng tại tòa án giữa một bên là người buộc tội và một bên là
người bị buộc tội. Đã là cuộc tranh tụng thì hai bên đều được sử dụng các quyền và
nghĩa vụ pháp lý như nhau trong việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, phân
tích và đưa ra các kết luận đối với những sự việc cụ thể. Về nguyên tắc, hai bên
tranh tụng có khả năng và quyền như nhau trong tất cả các giai đoạn tố tụng chứ
không chỉ tại phiên tịa xét xử. Ở loại hình tố tụng tranh tụng, khi tham gia vào quá
trình tố tụng, bên buộc tội và bên bị buộc tội không bắt buộc phải khách quan trong
khi thực hiện quyền và nghĩa vụ. Công việc của họ là thu thập chứng cứ để buộc tội


9

hoặc bào chữa phục vụ cho cuộc tranh tụng ở Tịa án. Họ có trách nhiệm chứng
minh tính có lỗi, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc tính khơng có lỗi,
các tình tiết giảm nhẹ tránh nhiệm hình sự. Trong giai đoạn xét xử, Tịa án đóng vai

trò người phán quyết, quan sát sự tuân thủ quy tắc cuộc tranh tụng của hai bên. Việc
đánh giá chứng cứ phụ thuộc vào niềm tin nội tâm của Thẩm phán khi dựa vào các
tiêu chí hợp lệ của chứng cứ, khn mẫu chứng cứ. Để bảo đảm sự bình đẳng trong
tranh tụng, phải có hai điều kiện: “Một là, sử dụng việc kiểm tra chéo, đối chất để
xác định tính chính xác của chứng cứ. Bên buộc tội và bên bị buộc tội tập trung chỉ
ra cái mà người làm chứng biết, chứ không phải cái mà họ nghĩ rằng người làm
chứng biết. Hai là, quyền được chia đều cho các bên buộc tội và bên bị buộc tội,
Tòa án chỉ đóng vai trị là trọng tài để bảo đảm cho các bên có đầy đủ điều kiện, các
quyền như nhau khi tham gia tố tụng”1. Vì vậy, trong loại hình tố tụng này, chức
năng giám sát việc tuân theo pháp luật thuộc về Toà án. Với tư cách là trung tâm
của cơ quan tư pháp, của hoạt động tố tụng, Tồ án có quyền và trách nhiệm bảo
đảm cho các bên nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật. Mặc dù loại
hình này có nhiều ưu điểm nhưng vẫn bị phê phán là việc con người bị phán xét như
thế nào dường như quan trọng hơn việc xác định xem bị cáo đã làm gì trên thực tế.
Loại hình tố tụng này xuất hiện đầu tiên tại Anh, sau đó nó được phát triển ở các
nước thuộc địa của Anh và cho đến nay vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi ở Mỹ,
Canada và nhiều nước trên thế giới. Có thể thấy theo mơ hình tố tụng tranh tụng
Tịa án đóng vai trị như là vị trọng tài đứng giữa các bên buộc tội và gỡ tội, trên cơ
sở dựa vào các chứng cứ của các bên đưa ra trong quá trình tranh tụng, từ đó Tịa án
nhận định và đưa ra phán quyết sau cùng. “Trong mơ hình tố tụng này, chức năng
giám sát việc tuân theo pháp luật được giao cho Tòa án”2. Với vị trí trung tâm của
hệ thống tư pháp, của hoạt động tố tụng, Tịa án có quyền và có trách nhiệm bảo
đảm cho các bên nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật. Điều này
khác với những nước có tổ chức Viện kiểm sát (VKS) như Nga, Trung Quốc, Việt Nam.
Trên thế giới thuật ngữ “vai trò trọng tài của Tòa án” xuất hiện khá sớm, tuy
nhiên trong lĩnh vực TTHS thuật ngữ này còn khá mới mẽ đối với các nhà nghiên
cứu cũng như các nhà lập pháp Việt Nam. Đây là vấn đề còn nhiều tranh cãi và đòi
hỏi chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn để làm rõ khái niệm “Vai trò trọng tài” trong
TTHS ở nước ta để phục vụ cho tiến trình cải cách tư pháp theo định hướng của
Nghị quyết 08/NQ-TW và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ chính trị trong thời gian tới.

1 />truy cập 14/10/2011.
2 ngày truy cập 14/10/2011.

ngày


10

1.2.1. Khái niệm vai trò trọng tài của Tòa án trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển Luật học đưa ra khái niệm: “Tòa án là cơ quan thuộc bộ máy
nhà nước đảm nhiệm chức năng xét xử”3. Trong cơ cấu quyền lực nhà nước của các
chính thể nhà nước trên thế giới đều xác định Tòa án là cơ quan trung tâm của
quyền tư pháp có chức năng giải quyết các vi phạm pháp luật. Điều này khẳng định
rằng khơng cơ quan nào khác ngồi Tịa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh. Vai trò của Tòa án đã được khẳng định xuyên suốt từ khi nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay, chúng ta có thể thấy rõ trong cơ cấu bộ
máy quyền lực nhà nước thì Tịa án là cơ quan tư pháp - một trong những cơ quan
cấu thành nên bộ máy nhà nước, tư tưởng này đã được thể chế hóa bằng các văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất đó là Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và cho
đến nay vẫn được kế thừa liên tục trong quá trình lập pháp ở Việt Nam.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời và nay là nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thì chúng ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của mơ hình tố tụng
của Pháp và Liên Xơ, do đó các quy định của pháp luật TTHS và cơ cấu của Tịa án
đều thể hiện rõ mơ hình tố tụng thẩm vấn. Trong quá trình phát triển của lịch sử,
đặc biệt sau khi nước ta tiến hành đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế, tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội có những thay đổi nhanh chóng. Để đáp ứng trước sự phát
triển đó địi hỏi pháp luật chúng ta có những thay đổi để đáp ứng với tình hình.
Chính bối cảnh lịch sử như vậy, mơ hình tố tụng của nước ta chuyển sang một bước
phát triển mới, đó là từ mơ hình tố tụng mang đậm nét mơ hình thẩm vấn và tiếp thu
những hạt nhân hợp lý của mơ hình tố tụng tranh tụng, cho đến nay mơ hình tố tụng

của nước ta theo các nhà nghiên cứu cho rằng đây là mơ hình tố tụng hỗn hợp. Theo
mơ hình tố tụng này, ở Việt Nam hiện nay mơ hình tố tụng vừa mang tích chất của
mơ hình thẩm vấn nhưng cũng mang tính chất tranh tụng. Xuất phát từ sự tiếp thu
những hạt nhân hợp lý của mơ hình tố tụng tranh tụng nên xuất hiện khái niệm “vai
trò trọng tài” trong TTHS Việt Nam những năm gần đây và được các nhà nghiên
cứu quan tâm đề cập đến.
Khái niệm “trọng tài” theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam của giáo sư Nguyễn
Lân được nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1998, định nghĩa: “
trọng tài là người ở giữa có quyền quyết đốn”4. Theo từ điển tiếng Việt cũng giải
thích “trọng tài” là người được cử ra để phân xử, giải quyết những tranh chấp.
Cũng theo từ điển này định nghĩa từ “vai trò” là chức vụ, địa vị hay chức năng của
một cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức nào đó. Như vậy, “vai trị trọng tài” của Tòa án
3
4

Từ điển luật học, 1999. NXB từ điển Bách khoa Hà Nội.
Giáo sư Nguyễn Lân, 1998, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.


11

là địa vị hay chức năng của Tịa án đóng vai trị trung tâm - đứng giữa và có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp theo quy định pháp luật. Theo tiến sĩ Lê Tiến Châu
về chức năng xét xử cho rằng “vai trò trọng tài của tòa án trong tố tụng hình sự” 5
là chức năng của tịa án đứng giữa hai chức năng cịn lại có nhiệm vụ phân xử và
tiến hành đánh giá tổng thể, toàn diện, khách quan chính xác về sự kiện một cách
độc lập, nhân danh cơng lý và sự cơng bằng từ đó đánh giá cũng như kết luận sự
kiện đó về mặc pháp lý. Vậy có thể khẳng định “vai trị trọng tài” là địa vị hay
chức năng của cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức nào đó được chọn đứng giữa có thẩm
quyền để giải quyết những tranh chấp phát sinh.

Đến khi BLTTHS năm 2003 được ban hành các nhà nghiên cứu nhận thấy sự
cần thiết khách quan của nguyên tắc tranh tụng, đây thời điểm thích hợp nhất để
nghiên cứu và đi đến ghi nhận tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS nước
ta trong tương lai. Tại thời điểm này đã có đầy đủ những tiền đề cần thiết: tiền đề về
nhận thức, tiền đề về chính trị và tiền đề pháp lý. Trong gần 15 năm, kể từ khi ban
hành BLTTHS 1988, khoa học pháp lý TTHS ở nước ta đã có những bước phát
triển nhất định, trong đó có mảng lý luận về nguyên tắc tranh tụng. Chính sự nhận
thức về sự cần thiết về nguyên tắc tranh tụng cần được quy định trong pháp luật
TTHS, do đó các nhà nghiên cứu đã đặt ra cơ sở lý luận về mơ hình tố tụng tranh
tụng và vai trị vị trí của các chủ thể tiến hành tố tụng, trong đó xác định Tịa án
đóng vai trị trung tâm trong tiến trình cải cách tư pháp - tại phiên tồ, đặt biệt là
phiên tịa hình sự sơ thẩm Tồ án có vai trị như là vị trọng tài. Sự xuất hiện của Tồ
án với vai trị trọng tài tại thủ tục tranh luận của phiên toà sơ thẩm là sự xác nhận
q trình tranh tụng đã địi hỏi phải có một chủ thể đóng vai trị trọng tài xét xử giải
quyết. Hoạt động tố tụng có tính tranh tụng là hoạt động tố tụng diễn ra dưới hình
thức cùng tồn tại, cùng vận động và phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản là
chức năng buộc tội và bào chữa và khi sự đối trọng giữa hai chức năng cơ bản này
đã lên đến đỉnh điểm tại phiên tịa sơ thẩm thì có sự tham gia của Tồ án với vai trị
là trọng tài điều khiển và đưa ra phán quyết về kết quả đấu tranh pháp lý giữa bên
buộc tội và bên gỡ tội. Hoạt động chứng minh có thể diễn ra trong điều kiện sự
tham gia tích cực của bên bào chữa được xem như là đối trọng, như là sự phản biện
cần thiết cho hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong
trường hợp này, hoạt động chứng minh, cốt lõi của hoạt động TTHS đã diễn ra
trong hình thức tranh tụng. “Tranh tụng - chính là điều kiện cần thiết khách quan để
cho hoạt động TTHS đạt tới chân lý khách quan của vụ án”6. Hoạt động tố tụng
5

Lê Tiến Châu, (2009), Chức năng xét xử trong TTHS, Nhà xuất bản tư pháp.

6


Ngày truy cập 10/10/2011.


12

khơng có tính tranh tụng là hoạt động tố tụng mà trong đó chức năng buộc tội khơng
có đối trọng, có địa vị tố tụng lấn át chức năng bào chữa và trong điều kiện như vậy,
Tồ án khơng thể có vai trị là trọng tài vơ tư khách quan mà chỉ là chủ thể thụ động
ghi nhận một cách đơn giản những kết quả giải quyết vụ án có tính phiến diện của
bên buộc tội đưa ra. Hoạt động tố tụng khơng có tính tranh tụng là hoạt động tố tụng
có tính buộc tội một chiều và kết quả của nó là một số bản án chưa đúng với sự thật
khách quan, xét xử oan sai. Mặt khác, cách tiếp cận này cho thấy tranh tụng chính là
sự xác định mối quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa như là sự
thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan
trọng về mặt nhận thức và thực tiễn. Nhiệm vụ của TTHS đòi hỏi các cơ quan có
thẩm quyền buộc tội phải thực hiện việc buộc tội một cách khách quan, có căn cứ;
hành vi phạm tội đến đâu thì buộc tội đến đó; lỗi thế nào thì buộc tội thế đó, phải
làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, các chứng
cứ buộc tội, các chứng cứ gỡ tội, tránh trường hợp chủ quan, phiến diện không phải
buộc tội bằng mọi giá. Chức năng buộc tội không thể thực hiện được nhiệm vụ này
mà không cần đến chức năng đối trọng với nó là chức năng bào chữa. Và ngược lại,
chức năng bào chữa không thể tự thân tồn tại mà lại khơng có chức năng buộc tội.
Sự đấu tranh nhằm phủ định giữa hai chức năng này chính là động lực làm cho hoạt
động TTHS vận động và phát triển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và kết quả
của sự phủ định giữa hai chức năng đối trọng của hai mặt đối lập này, đương nhiên
là sự phát triển và thay đổi về chất của vụ án hình sự; từ chỗ chưa xác định được sự
thật khách quan của vụ án đến việc xác định sự thật đó đã được làm sáng tỏ. Từ giả
thiết ban đầu về hành vi có dấu hiệu tội phạm và bị cáo là người có lỗi khi thực hiện
hành vi đó và bản án đã khẳng định giả thiết đó là đúng, phù hợp với thực tế khách

quan hoặc giả thiết đó là khơng đúng, khơng phù hợp với thực tế khách quan. Cách
đặt vấn đề như vậy sẽ góp phần thay đổi nhận thức của điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán về sự tham gia của người bào chữa trong TTHS. Sự tham gia của người
bào chữa không chỉ cần thiết, có lợi cho bị can, bị cáo mà cịn cần thiết, có ý nghĩa
tích cực cho hoạt động tố tụng của chính các cơ quan tiến hành tố tụng. Sự đối
trọng, phản biện của người bào chữa đối với hoạt động của các cơ quan thực hiện
chức năng buộc tội (Cơ quan điều tra, VKS) chính là yếu tố hạn chế sai lầm, làm
oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này, đồng thời buộc những cơ
quan này phải khơng ngừng hồn thiện năng lực chun mơn nghiệp vụ của mình
nhằm đáp ứng u cầu ngày càng cao của xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm và bảo vệ quyền con người trong TTHS.


13

Tóm lại khái niệm vai trị trọng tài trong TTHS chỉ xuất hiện ở Việt Nam
trong những năm gần đây, khái niệm này còn rất mới mẻ đối với những nhà nghiên
cứu pháp lý Việt Nam. Khái niệm vai trò trọng tài của tịa án trong lĩnh vực hình sự
chỉ ra đời và phát triển khi và chỉ khi mô hình tố tụng của nước ta chuyển từ mơ
hình tố tụng thẩm vấn và tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mơ hình tố tụng thẩm
vấn. Đồng thời trước yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta đòi hỏi các
nhà lập pháp phải sửa đổi pháp luật TTHS và cần ghi nhận nguyên tắc tranh tụng
như là nguyên tắc cơ bản bắt buộc trong các hoạt động của các chủ thể tiến hành tố
tụng. Chính từ sự tiếp thu có chọn lọc của mơ hình tố tụng Việt Nam hiện nay và
trong tương lai sửa đổi BLTTHS theo hướng ghi nhận nguyên tắc tranh tụng. Lúc
này vai trò của Tòa án càng thể hiện rõ nét như là vị trọng tài trong quá trình tố
tụng, đặt biệt là hoạt động tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm; Tịa án đóng vai trị
trung tâm – trọng tài điều khiển mọi hoạt động của các bên tham gia tranh luận. Mơ
hình tố tụng tranh tụng càng phát triển và nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận
trong BLTTHS, điều này đồng nghĩa với “vai trò trọng tài của Tịa án” được nâng

lên, Tịa án đóng vai trị như là vị trọng tài trong các hoạt động tố tụng càng được
thể hiện một cách đậm nét và rõ ràng hơn.
1.2.2. Vai trị, vị trí của Tịa án trong tố tụng hình sự Việt Nam
Dưới góc độ ngơn ngữ vai trò của Tòa án trong xét xử là “ xét rõ các sự kiện
rồi xử theo đúng pháp luật”. Dưới góc độ thuật ngữ pháp lý, xét xử là “Hoạt động
xem xét đánh giá bản chất pháp lý của sự việc nhằm đưa ra một phán xét về tính
chất mức độ pháp lý của vụ việc từ đó nhân danh nhà nước đưa ra một phán quyết
tương ứng với bản chất mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ
án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính..)”. Khơng giống
chức năng buộc tội và bào chữa chỉ tồn tại trong lĩnh vực TTHS, chức năng xét xử
còn tồn tại trong các lĩnh tố tụng dân sự, hành chính. Trong các lĩnh vực tố tụng
khác nhau, chức năng xét xử biểu hiện những đặc thù riêng vì thế vai trị của Tịa án
cũng có những nét đặc thù riêng theo từng lĩnh vực. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập
chức năng xét xử trong lĩnh vực TTHS ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
Việt Nam, đặt trong mối quan hệ với chức năng buộc tội và bào chữa cũng như các
chức năng khác của TTHS để làm nổi lên vai trò của Tòa án như là một người trọng
tài trong quá trình giải quyết vụ án hình sự sơ thẩm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, “Chức năng xét xử là hoạt động đặc trưng, là
nhiệm vụ của Tòa án, các Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước đảm nhiệm
chức năng xét xử. Mọi bản án do Tịa án đều phải qua xét xử khơng một ai có thể bị
buộc tội mà khơng qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng


14

bản án” 7. Quan điểm trên đã cho rằng chức năng xét xử là hoạt động, là nhiệm vụ
của Tòa án và là hoạt động đặc trưng riêng của tòa án. Vậy ở đây có sự đồng nhất
giữa khái niệm chức năng, hoạt động, nhiệm vụ khi lý luận về khái niệm chức năng
xét xử. Theo chúng tôi quan điểm này chưa đủ sức thuyết phục và chưa thể hiện hết
vai trò của Tòa án, bởi lẽ chức năng, nhiệm vụ, hoạt động là những khái niệm gần

nhau nhưng không đồng nhất. Chức năng là những định hướng lớn, cơ bản nhằm
phân định các hoạt động, từ đó cho thấy bản thân chức năng không phải là những
hoạt động. Mặt khác, tác giả cũng không đưa ra những đặc trưng của chức năng xét
xử một cách rõ ràng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, “Chức năng xét xử (chức năng giải quyết vụ án)
là hoạt động của Tòa án nhằm giải quyết vụ án” 8. Chúng tơi khơng hồn tồn đồng
tình với quan điểm này. Tác giả đồng nhất chức năng xét xử với chức năng giải
quyết vụ án là không phù hợp. Chức năng giải quyết vụ án do nhiều chủ thể thực
hiện khơng riêng chỉ Tịa án. Trong lĩnh vực TTHS ngồi Tịa án thì Cơ quan điều
tra, VKS… cũng có chức năng giải quyết vụ án.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Chức năng xét xử là chức năng giải quyết vụ án,
xem xét và xử các vụ án” 9, tương tự như quan điểm thứ hai tác giả đưa ra quan
điểm đồng nhất chức năng giải quyết vụ án với chức năng xét xử vụ án. Quan điểm
này khơng phân biệt rạch rịi giữa chức năng xét xử và chức năng giả quyết vụ án,
bởi lẽ để thực hiện một chức năng có thể có nhiều nhiệm vụ đặt ra trong một giai
đoạn và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thực hiện tốt các nhiệm vụ đặt ra có nghĩa là sự
cụ thể hóa chức năng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhiệm vụ cơ bản và quan
trọng lại bao trùm và có ảnh hưởng, tác động đến nhiều chức năng. Từ mối quan hệ
này có thể khẳng định rằng chức năng và nhiệm vụ là những khái niệm gần nhau
nhưng không đồng nhất với nhau. Điều này dẫn đến việc nhầm lẫn vai trị, vị trí của
từng cơ quan trong hoạt động TTHS.
Quan điểm thứ tư cho rằng: “Chức năng xét xử là hoạt động của Tịa án có
thẩm quyền xem xét, quyết định người bị buộc tội có tội hay khơng có tội” 10. Chúng
tơi nhất trí với quan điểm thứ tư cho rằng chức năng xét xử là hoạt động tố tụng của
Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước áp dụng pháp luật vào trường hợp cụ
thể như: xem xét và phán quyết người bị buộc tội có tội hay khơng có tội, nếu có tội
thì trách nhiệm hình sự như thế nào, cũng như các vấn đề khác liên quan, được thực
hiện trong mối quan hệ với các chức năng tố tụng khác nhằm mục đích bảo vệ
7


Từ điển luật học, (1999), Nxb, từ điển Bách khoa Hà Nội, tr.345.
Hoàng Thị Sơn, (1998), Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong TTHS, Tạp chí luật học số 02.
9
Từ điển tiếng Việt, (1996), Nxb, Đà Nẵng, tr. 301.
8

10

Lê Tiến Châu, (2009), Quan điểm về chức năng xét xử, tr. 40.


15

quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân và Nhà nước. Từ cách tiếp cận như vậy mới
có thể thấy hết được vai trò của Tòa án trong xét xử, đặt biệt là giai đoạn xét xử
hình sự sơ thẩm. Đồng thời trong mối quan hệ với chức năng xét xử của các nguyên
tắc cơ bản của TTHS thì nguyên tắc tranh tụng là tiền đề cần thiết cho chức năng
xét xử. Chỉ trong điều kiện tranh tụng thì chức năng xét xử mới vận hành một cách
tốt nhất và chỉ có tranh tụng thì Tịa án mới thể hiện được vai trò của một vị phán
xét khách quan cơng minh như một vị trọng tài. Tại phiên tịa sau khi nghiên cứu
khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án một cách cơng khai thông
qua hoạt động xét hỏi và tranh luận, cuối cùng là phán quyết của Hội đồng xét xử
xác định bị cáo có tội hay khơng. Chính vì các lẽ trên, trong các giai đoạn TTHS thì
giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự mà trọng tâm là phiên tịa sơ thẩm hình sự có một
vị trí quan trọng, bảo đảm cao nhất, đồng thời xác định rõ trách nhiệm pháp lý cũng
như quyền lợi hợp pháp của người tham gia tố tụng. Qua phiên tòa mà trung tâm là
tại hoạt động xét hỏi và tranh luận Tịa án mới có thể thể hiện rõ nét nhất - vai trò
của một cơ quan xét xử. Đối với những người tham gia vào q trình tố tụng thì xét
xử của Tịa án đặc biệt là tại phiên tịa sơ thẩm hình sự có vị trí quan trọng nhất so
với các giai đoạn tố tung khác. Tại đây họ được công khai tranh tụng, đưa ra lý lẽ để

bảo vệ mình hoặc bác bỏ những lý lẽ buộc tội thông qua việc cung cấp, kiểm tra
chứng cứ, hoặc đưa ra yêu cầu. Đến giai đoạn xét xử của Tịa án thì mọi hoạt động
điều tra của cơ quan điều tra được phơi bày một cách công khai, thông qua hoạt
động kiểm tra, xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa. Khi đó người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất
vấn những điều mà tại cơ quan điều tra họ khơng có điều kiện thực hiện nhờ việc
Tịa án đảm bảo quyền bình đẳng của họ.
Xét xử sơ thẩm của Tòa án mà trung tâm nhất là phiên tòa sơ thẩm được coi
như là một biểu hiện tập trung cao nhất của quá trình giải quyết vụ án hình sư sơ
thẩm, có thể làm cho hoạt động điều tra khơng có giá trị đối với vụ án, ví dụ như: tại
phiên tòa lời khai của bị cáo, người làm chứng được Tịa xác định là hợp lý và có
căn cứ nhưng hoàn toàn trái với biên bản lấy lời khai của cơ quan điều tra thì xem
như hoạt động ấy khơng có giá trị, thậm chí bản cáo trạng của VKS vẫn có thể bị rút
một phần hoặc tồn bộ trong q trình xét xử tại phiên tịa hoặc phát sinh những
tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án. Mặt khác, cùng tồn tại với bên buộc tội
và bên bào chữa thì vai trị bên xét xử rất quan trọng. Bởi lẽ, vai trò của Tòa án chỉ
xuất hiện ở giai đoạn xét xử - giai đoạn đoạn trung tâm, có tính chất và vai trị quyết
định. Tại đây với sự hiện diện đầy đủ ba chức năng, có mặt đầy đủ chủ thể thực hiện
vai trị tố tụng, q trình tranh tụng được tiến hành thơng qua hoạt động của các bên


16

buộc tội, bào chữa với sự điều khiển của Tòa án. Trong suốt q trình tranh tụng tại
phiên tịa, vai trị trung tâm và quyết định ln thuộc về Tịa án, người đứng giữa
hai bên làm trọng tài có quyền đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ án trên cơ sở các
chứng cứ do các bên tham gia tố tụng đưa ra để kết thúc vụ án. Trong ba chức năng
nêu trên, chức năng xét xử tồn tại độc lập với chức năng buộc tội và chức năng bào
chữa. Như vậy, khi chức năng xét xử chưa xuất hiện, các chức năng buộc tội và bào
chữa được các bên thực hiện một cách độc lập; các chứng cứ, tài liệu về vụ án chưa

được thu thập, kiểm tra và đánh giá một cách đầy đủ, các tình tiết của vụ án cũng
chưa được xem xét, đánh giá một cách tồn diện và khách quan vì thiếu vai trị quan
trọng của hoạt động xét xử. Tuy nhiên, khẳng định xét xử có vị trí trung tâm khơng
có nghĩa là vị trí của bên buộc tội và bên bào chữa trở thành thứ yếu, đóng vai trị
phụ. Vấn đề này xác định rằng vai trò của cả ba chức năng mà chúng ta nói tới
(buộc tội, bào chữa và xét xử) đều có mối quan hệ với nhau, sự hiện diện của một
chức năng nhất định có ảnh hưởng với hai chức năng còn lại. Mỗi một chức năng
được tồn tại và phát triển khi và chỉ khi hai chức năng còn lại cùng tồn tại và phát
triển. Việc xét xử của Tòa án chỉ được thực hiện tốt khi bên buộc tội và bên bào
chữa kiểm tra được tất cả các chứng cứ và những tình tiết buộc tội cũng như các
tình tiết và chứng cứ gỡ tội đối với bị cáo. Vai trò của bên buộc tội, gỡ tội và xét xử
đều quan trọng và không được phép đặt nặng vai trò của chức năng này lên trên vai
trò của chức năng khác. Tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, mỗi một chức năng
đều có vai trị nhất định, chính vai trị của từng chức năng sẽ quyết định sự tồn tại
tất yếu của chúng, là nhân tố để đảm bảo cho tiến trình TTHS được vận hành đúng
mục đích.
Nghị Quyết 49 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc;
trong đó xác định Tồ án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Vai
trò trung tâm và quyết định của Tòa án cũng được thể chế hóa bằng những quy định
mang tính pháp lý. Điều này thể hiện tại Điều 72 Hiến pháp 1992 và Điều 9
BLTTHS 2003 và điều này đã được Đảng ta thể hiện rõ trong định hướng cải cách
tư pháp. Chức năng xét xử xuất hiện trể hơn chức năng buộc tội và bào chữa nhưng
chức năng xét xử có vai trị trung tâm và quyết định trong q trình giải quyết vụ án
hình sự. Tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, Tịa án thực hiện chức năng xét xử với vai
trò trọng tài phân xử, dựa vào kết quả tranh tụng của bên buộc tội và bên bào chữa,
xem xét một cách toàn diện các tài liệu chứng cứ và cuối cùng ra phán quyết giải
quyết vụ án. Khi nói đến tranh tụng thì chúng ta phải xét đến vai trò của Tòa án, bởi



17

vì trọng tâm của hệ thống tư pháp là Tịa án và trong cải cách tư pháp hiện nay
chúng ta phải làm sao để Tòa án thể hiện đúng vai trị của mình. Tịa án thực hiện
đúng chức năng xét xử, không xâm phạm đến các chức năng khác không phải là
chức năng xét xử, là biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng và chúng tôi đồng ý với
nhận định của Giáo Sư, Tiến Sĩ Khoa Học, Đào Tri Úc rằng: “…Sự chủ động, sáng
tạo, trách nhiệm của Tòa án đến mức nào chính là biểu hiện của nguyên tắc tranh
tụng…” và khi nguyên tắc tranh tụng được nhấn mạnh thì vai trị của Tịa án sẽ tiến
gần với vai trị của một vị trọng tài ở giữa cơng minh, khách quan khi xét xử.
Về vấn đề buộc tội, có quan điểm cho rằng: Tịa án cũng có chức năng buộc
tội “…Nếu Cơ quan điều tra dựa trên những tài liệu, chứng cứ ban đầu để buộc tội
một người bằng quyết định khởi tố bị can rồi sau đó trong một thời gian nhất định
đã thu thập chứng cứ để tiếp tục cũng cố và chứng minh cho tính có căn cứ của
quyết định khởi tố bị can thì Tịa án thực hiện sự buộc tội ngược lại, nghĩa là tiến
hành xét xử, nghe ý kiến của các bên buộc tội và bào chữa và cuối cùng đưa ra bản
án kết tội, nghe người khác chứng minh và tự chứng minh rồi mới quyết định buộc
tội…”. Theo chúng tôi, quan điểm này không thuyết phục, tác giả của quan điểm
trên đã có sự nhầm lẫn dẫn đến sự nhận thức không đúng đắn về những khác biệt
của các chức năng cơ bản trong TTHS. Tòa án tuyên bản án kết tội hay vơ tội thì
Tịa án vẫn thực hiện chức xét xử. Nghĩa là Tòa án chấp nhận quan điểm của bên
buộc tội hoặc chấp nhận quan điểm gỡ tội của bên bào chữa. Tòa án tuyên bản án
kết tội đối với bị cáo nghĩa là bên buộc tội đã thuyết phục được Hội đồng xét xử.
Tòa án tuyên bản án vô tội đối với bị cáo, tức là bên buộc tội đã không thuyết phục
được Hội đồng xét xử.
Chúng tôi ủng hộ quan điểm: “…Sẽ là sai lầm nếu cho rằng chức năng của
Tịa án khơng chỉ là xét xử mà bao gồm cả buộc tội và bào chữa”. Tịa án phải làm
sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhưng không phải để buộc tội hay gỡ tội đối với bị
cáo mà nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, để có quyết định đúng đắn về

vụ án, tức là để thực hiện chức năng xét xử. Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng
xét xử, khơng có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Tịa án có nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật nhưng Tịa án thực hiện chức năng đó thơng qua chức năng xét xử, Tịa án
khơng phải là người truy tố bị cáo. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện chức năng buộc tội (Cơ quan điều tra và VKS). Tịa án
chỉ có nhiệm vụ chứng minh lý do và căn cứ cho bản án hoặc quyết định của mình
vì sao Tịa án chấp nhận cáo trạng của VKS mà không chấp nhận lời bào chữa của
luật sư khi kết tội bị cáo hoặc ngược lại, vì sao Tịa án khơng chấp nhận cáo trạng
của VKS mà lại chấp nhận lời bào chữa của luật sư khi tun bị cáo vơ tội, vì thế


18

chúng ta cần phải nhìn nhận lại vấn đề Tịa án có thẩm quyền khởi tố. Việc xác định
khơng chính xác chức năng của Tòa án trong TTHS sẽ làm mất đi vai trò của người
trọng tài đứng giữa hai bên phân xử, đồng thời sẽ biến Tòa thành một công tố viên
hoặc luật sư thứ hai trong tranh tụng. Điều đó sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng giữa bên
buộc tội và bên bào chữa và làm cho quá trình tố tụng khơng đạt được mục đích của
mình là xác định sự thật khách quan của vụ án.
Tóm lại, các chức năng trong TTHS ở Việt Nam thì Tịa án chủ thể được giao
chức năng quan trọng nhất, đó là chức năng xét xử. Đây là chủ thể độc lập với các
cơ quan nhà nước khác và với vai trò là chủ thể đứng giữa kiểm tra, thẩm tra và
điều hành phiên tịa một cách cơng khai, cơng minh, lắng nghe và ghi nhận kết quả
tranh tụng của VKS có chức năng buộc tội với bên có chức năng gỡ tội là bị cáo và
người bào chữa, để từ đó xác định sự thật khách quan của vụ án thơng qua q trình
xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa từ đó dựa vào các quy định của pháp luật để quyết
định một người là có tội hay vơ tội.
1.2.3. Phân biệt vai trò trọng tài trong lĩnh vực tố tụng hình sự với các lĩnh vực khác
Theo Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi bổ sung năm 2001, Điều 127 quy định:
“Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và

các Tòa án khác do luật quy định là những cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, trong tổ chức bộ máy nhà nước chỉ có Tịa án
mới có thẩm quyền xét xử. Bản án, quyết định của Tòa án mang tính bắt buộc đối
với bị cáo hoặc các đương sự cho nên hoạt động xét xử của Tòa án phải tuân thủ
theo thủ tục, trình tự nghiêm ngặt. Các thủ tục này được quy định trong các văn bản
pháp luật của từng lĩnh vực nhất định. Việc xét xử của Tịa án có tính chất quyết
định cuối cùng khi giải quyết các vụ việc pháp lý. Trong nhiều trường hợp, sau khi
các cơ quan, tổ chức đã giải quyết nhưng đương sự không đồng ý với cách giải
quyết của những cơ quan đó và u cầu Tịa án giải quyết lại, trong trường hợp này
thì quyết định của Tịa án là quyết định cuối cùng. Về mặc nào đó thì vai trị trọng
tài của Tịa án trong TTHS cũng có nét tương đồng nhất định với vai trò trọng tài
trong các lĩnh vực khác, chúng đều là chủ thể được pháp luật quy định có thẩm
quyền đứng giữa để giải quyết các tranh chấp. Mặc dù vậy hình thức tố tụng và vai
trị của Tịa án trong TTHS có những nét đặc trưng nhất định:
-Trong TTHS vụ án được giải quyết tuân theo trình tự thủ tục được pháp luật
TTHS quy định. Nghĩa là trong vụ án hình sự chủ thể có thẩm quyền giải quyết vụ
án khơng chỉ riêng Tịa án, trình tự tố tụng được thực hiện từng bước gắn với từng
chủ thể nhất định. Cụ thể trong giai đoạn điều tra, truy tố chủ thể tiến hành tố tụng


×