Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự việt nam 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

MAI ĐỨC VIỆT
MSSV: 1055020324

BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2005

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2010-2014

Ngƣời hƣớng dẫn: Ths Lƣơng Văn Lắm

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CÁM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Lƣơng
Văn Lắm, đã tận tình hƣớng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cơ trong khoa Luật Dân sự và tồn thể các
Thầy, Cơ trong trƣờng Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh đã tận tình truyền đạt kiến thức
trong 4 năm học tập. Với vốn kiến thức đƣợc tiếp thu trong q trình học khơng chỉ là
nền tảng cho q trình nghiên cứu khóa luận mà cịn là hành trang q báu để em bƣớc
thêm một bƣớc tiến mới trong sự nghiệp.
Trong q trình nghiên cứu, tác giả ln nhận đƣợc sự động viên, khích lệ từ gia
đình, bạn bè. Tác giả không quên cám ơn các bạn, các anh, chị, em đã ln đồng hành,
hỗ trợ tác giả hồn thành cơng trình. Cuối cùng kính chúc q Thầy, Cơ dồi dào sức
khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý. Đồng kính chúc các bạn, các anh, chị, em
trong trƣờng một sự nghiệp viên mãn với nghề luật, cái nghề của công lý và trách


nhiệm.
Trân trọng


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu là của riêng tơi, là kết quả của q trình
nghiên cứu nghiêm túc dƣới sự hƣớng dẫn của cố vấn khoa học. Các số liệu, các nguồn
trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là chƣa
từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 7 năm 2014
Tác giả luận văn
Mai Đức Việt


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 1995

Bộ luật Dân sự năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

BLDS Pháp

Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp

LTM 1997

Luật Thƣơng mại năm 1997


LTM 2005

Luật Thƣơng mại năm 2005

PICC

Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thƣơng mại quốc tế

PECL

Bộ nguyên tắc chung Châu Âu về hợp đồng

CISG

Công ƣớc viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980

VD

Ví dụ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 ................................................. 5
1.1

Khái luận về chế tài dân sự .............................................................................. 5


1.1.1

Khái quát quá trình phát triển của chế tài dân sự trong pháp luật Việt Nam.
................................................................................................................. 5

1.1.2

Khái niệm chế tài dân sự ........................................................................... 8

1.1.3

Đặc điểm của chế tài dân sự .................................................................... 11

1.1.4

Phân loại chế tài dân sự........................................................................... 14

1.2

Khái quát về buộc thực hiện đúng hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005 ........ 15

1.2.1

Khái niệm buộc thực hiện đúng hợp đồng ............................................... 15

1.2.2

Đặc điểm của biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng .......................... 17

1.2.3


Ý nghĩa của biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng ............................ 19

1.3

Quy định của pháp luật hiện hành về buộc thực hiện đúng hợp đồng ............. 20

1.3.1

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 ................................................. 20

1.3.2

Theo quy định của Luật Thƣơng mại 2005 .............................................. 21

1.4 Mối quan hệ giữa buộc thực hiện đúng hợp đồng và các biện pháp xử lý vi
phạm hợp đồng khác trong Bộ luật Dân sự 2005 ..................................................... 23
1.4.1

Mối quan hệ giữa buộc thực hiện đúng hợp đồng và bồi thƣờng thiệt hại ....
............................................................................................................... 23

1.4.2

Mối quan hệ với phạt vi phạm................................................................. 24

1.4.3

Mối quan hệ với hủy bỏ hợp đồng........................................................... 25


1.5 So sánh biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005
với một số quy định của pháp luật nƣớc ngoài ......................................................... 26
1.5.1

Với Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp......................................................... 27

1.5.2

Với Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thƣơng mại quốc tế ................. 29

1.5.3

Với Bộ nguyên tắc chung châu Âu về hợp đồng...................................... 31

1.5.4

Với Công ƣớc Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1980 .......... 32

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 34


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỐI
VỚI BIỆN PHÁP BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG TRONG BỘ LUẬT
DÂN SỰ 2005 ............................................................................................................ 36
2.1 Thực trạng quy định pháp luật về biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự 2005....................................................................................... 36
2.2 Một số điểm không thống nhất trong quy định về buộc thực hiện đúng hợp
đồng giữa Luật Thƣơng mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2005 ...................................... 40
2.3 Thực tiễn áp dụng các quy định về buộc thực hiện đúng hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự 2005 để giải quyết các tranh chấp hợp đồng ......................................... 41

2.3.1

Xác định nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện đúng....................................... 42

2.3.2
đồng

Xác định trƣờng hợp không áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng hợp
............................................................................................................... 45

2.3.3 Xác định biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành quyết định buộc thực hiện
đúng hợp đồng ..................................................................................................... 47
2.4

Một số kiến nghị............................................................................................ 51

2.4.1 Xây dựng khái niệm và tên gọi rõ ràng cho biện pháp buộc thực hiện đúng
hợp đồng .............................................................................................................. 51
2.4.2

Thống nhất các quy định giữa Luật Thƣơng mại và Bộ luật Dân sự 2005 ...
............................................................................................................... 52

2.4.3 Ghi nhận buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng là một nguyên tắc trong
Bộ Luật Dân sự 2005 ........................................................................................... 55
2.4.4 Nâng cao tính khả thi trong việc áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng
hợp đồng khi giải quyết các tranh chấp hợp đồng ................................................. 61
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 62



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của đời sống xã hội cũng nhƣ nhu cầu
của các chủ thể, hợp đồng dân sự ngày càng trở nên phổ biến và thông dụng. Hợp đồng
hiện là một trong những chế định quan trọng đƣợc quy định trong pháp luật Việt Nam
cũng nhƣ pháp luật của nhiều nƣớc trên thế giới. Đây không chỉ là một công cụ pháp lý
để các chủ thể thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của mình mà cịn là một căn cứ phổ
biến nhất làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật về nghĩa vụ và là một
chế định có vai trị hết sức quan trọng của hệ thống pháp luật trong việc tác động tích
cực đến các giao lƣu dân sự và sự phát triển của kinh tế. Hợp đồng dân sự tồn tại và là
cơ sở ràng buộc pháp lý quan trọng trong nhiều lĩnh vực nhƣ đất đai, lao động, bảo
hiểm, ngân hàng…Trong đó, hợp đồng dân sự thơng dụng và phổ biến phải kể đến là:
hợp đồng mua bán, hợp đồng tặng cho, hợp đồng gửi giữ, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng
cho vay…
Cho dù tồn tại đa dạng trong nhiều lĩnh vực và dƣới nhiều hình thức nhƣng mục
đích của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng bao giờ cũng là hƣớng đến
những lợi ích hợp pháp mà các bên xác định sẽ nhận đƣợc trƣớc khi tiến hành giao kết.
Mục đích này sẽ đạt đƣợc khi các bên thực hiện hợp đồng một cách bình đẳng, tự
nguyện trên tinh thần thiện trí và trung thực. Tuy nhiên, trên thực tế vì nhiều nguyên
nhân mà việc vi phạm hợp đồng, phá vỡ “sợi dây gắn kết các lợi ích” giữa các bên
diễn ra khá phổ biến. Vi phạm hợp đồng biểu hiện đa dạng thông qua các hành vi nhƣ
thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn, không đúng địa điểm, không đúng phƣơng
thức, không đúng chất lƣợng… hay thậm chí là khơng thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.
Việc vi phạm nghĩa vụ của một bên chủ thể trong hợp đồng không chỉ làm cho mục
đích khi giao kết của các bên khơng đạt đƣợc mà cịn có thể gây thiệt hại cho bên kia,
từ đó làm phát sinh nhiều hệ lụy nhƣ mất ổn định giao thƣơng, cản trở sự phát triển của
các giao dịch dân sự dẫn đến nền kinh tế bị kìm hãm…Vấn đề đặt ra cho các nhà lập
pháp là phải tìm một biện pháp xử lý tối ƣu nhất khi các hành vi vi phạm xảy ra. Biện

pháp đó khơng những phải hạn chế đƣợc tình trạng vi phạm hợp đồng, khắc phục đƣợc


2

thiệt hại xảy ra cho bên bị vi phạm mà cịn góp phần bảo vệ quan hệ hợp đồng, bảo vệ
những ràng buộc pháp lý mà các bên đã cam kết.
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một trong các biện pháp xử lý việc thực hiện
không đúng hợp đồng đáp ứng đƣợc các tiêu chí trên. Mặc dù là một biện pháp xử lý vi
phạm hợp đồng mang nhiều ƣu điểm và đƣợc pháp luật nhiều quốc gia cũng nhƣ các
văn bản áp dụng thống nhất hợp đồng trên thế giới quy định. Tuy nhiên các quy định
trong Bộ luật Dân sự 2005 về chế tài này còn nhiều khiếm khuyết. Điều này dẫn đến
việc trong thời qua, các đƣơng sự cũng nhƣ Tòa án, Trọng tài đều gặp nhiều khó khăn,
lúng túng trong việc vận dụng các quy định hiện hành về buộc thực hiện đúng hợp
đồng để giải quyết các tranh chấp. Nhiều vấn đề pháp lý phát sinh nhƣng các đƣơng sự
không biết hƣớng giải quyết cụ thể. Nhiều bản án sơ thẩm, phúc thẩm, phán quyết
trọng tài tỏ ra không thuyết phục. Nhận thức đƣợc tình hình trên, tác giả chọn đề tài
“Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005” cho
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề buộc thực
hiện đúng hợp đồng theo quy định của BLDS 2005 nhƣ: “Không thực hiện đúng hợp
đồng trong pháp luật thực định Việt Nam”, tài liệu hội thảo khoa học, TS Đỗ Văn Đại
chủ nhiệm đề tài, NXB TP. Hồ Chí Minh năm 2010; “Các biện pháp xử lý việc không
thực hiện đúng hợp đồng” của TS Đỗ Văn Đại, NXB Chính trị quốc gia, 2010, 2013;
Luật hợp đồng Việt Nam Bản án và bình luận bản án của TS Đỗ Văn Đại, NXB chính
trị quốc gia, năm 2011;“Chế tài dân sự khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng”, Khóa
luận tốt nghiệp cử nhân luật của tác giả Vũ Thị Quyên, TP Hồ Chí Minh…
Nhƣ vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005
đã đƣợc đề cập đến trong cơng trình nghiên cứu của các tác giả. Thơng qua đó những

vấn đề pháp lý cũng nhƣ những bất cập liên quan đến việc áp dụng những quy định của
Bộ luật Dân sự 2005 về buộc thực hiện đúng hợp đồng để giải quyết tranh chấp đƣợc
các tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên những cơng trình trên chỉ nghiên cứu một cách khái
qt nhất về biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng qua việc nghiên cứu các chế tài


3

dân sự nói chung hay các biện pháp xử lý việc thực hiện không đúng hợp đồng mà
chƣa nghiên cứu vấn đề này toàn diện.
Trên cơ sở nghiên cứu của các tác giả về buộc thực hiện đúng hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự 2005, tác giả tiếp tục tìm hiểu và phát triển toàn diện hơn về lý luận, thực
tiễn của việc quy định và áp dụng “buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2005” từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp
luật về vấn đề này, góp phần vào việc hồn thiện pháp luật hợp đồng ở nƣớc ta.
3. Mục đích đề tài
Đề tài nhằm những mục đích sau đây
-

-

Nghiên cứu, phân tích khái quát những quy định của pháp luật dân sự Việt Nam
về chế tài dân sự đồng thời tập trung nghiên cứu phân tích sâu những quy định
của Bộ luật Dân sự 2005 về biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng.
So sánh biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005 với
các quy định tƣơng tự trong các đạo luật của các quốc gia khác, cũng nhƣ những
văn bản áp dụng thống nhất hợp đồng trên thế giới, từ đó dƣới cái nhìn của
nghiên cứu so sánh sẽ nêu ra những điểm cần đổi mới của biện pháp buộc thực
hiện đúng hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005.


-

Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Trên cơ sở đó, nêu lên
những điểm bất cập, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các
quy định hiện hành về buộc thực hiện đúng hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
2005.

4. Đối tƣợng nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật và những vấn
đề pháp lý về buộc thực hiện đúng hợp đồng nhƣ: khái niệm, đặc điểm, các
trƣờng hợp áp dụng, hậu quả…Cũng nhƣ tƣơng quan so sánh với pháp luật các
-

quốc gia và các văn bản thống nhất áp dụng hợp đồng trên thế giới…
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật
Dân sự 2005 về buộc thực hiện đúng hợp đồng. Đồng thời có sự so sánh với
pháp luật các quốc gia và các văn bản áp dụng thống nhất hợp đồng trên thế giới


4

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp phân tích: Nghiên cứu và làm rõ những quy định của pháp luật về
buộc thực hiện đúng hợp đồng.
- Phƣơng pháp so sánh: So sánh quy định của Bộ luật Dân sự 2005 với quy định
của pháp luật một số nƣớc và các văn bản áp dụng thống nhất hợp đồng trên thế
giới.
-


Ngoài ra, khóa luận cịn sử dụng một số phƣơng pháp nhƣ: tổng hợp, phƣơng
pháp khái quát hóa…

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài làm rõ hơn những quy định của pháp luật về biện pháp buộc thực hiện
đúng hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, đồng thời có sự so sánh với
pháp luật các quốc gia, các văn bản có tầm ảnh hƣởng lớn đối với thế giới về lĩnh vực
hợp đồng. Cơng trình cũng làm rõ thực trạng và vƣớng mắc trong q trình áp dụng
của Tịa án, Trọng tài, từ đó kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện. Đề tài hi vọng sẽ là
nguồn tham khảo hữu ích cho các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, các cơng trình
nghiên cứu sau này của các sinh viên, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực pháp lý.
7. Bố cục đề tài
Đề tài đƣợc trình bày theo hai chƣơng cụ thể nhƣ sau
Chƣơng 1: Lý luận chung về buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của Bộ
luật Dân sự 2005
Chƣơng 2: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với biện pháp buộc
thực hiện đúng hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005


5

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
1.1 Khái luận về chế tài dân sự
1.1.1 Khái quát quá trình phát triển của chế tài dân sự trong pháp luật Việt
Nam
Trong lịch sử phát triển của pháp luật thế giới và Việt Nam những quy định về
pháp luật dân sự đã xuất hiện từ rất sớm. Ở Việt Nam, ngay từ thời phong kiến các
quan hệ dân sự đã đƣợc điều chỉnh thơng qua các Bộ Luật. Điển hình là Bộ Quốc triều
Hình luật (Luật Hồng Đức) dƣới Triều Lê sơ (1428-1788) và Bộ Luật Gia Long xây

dựng dƣới thời vua Gia Long (1802-1820). Do đặc điểm của pháp luật dân sự phong
kiến là “trọng hình khinh dân” nên các quy định về dân sự không đƣợc chú trọng,
cũng không tập trung thành các chƣơng riêng mà nằm rải rác trong nhiều chƣơng, phần
nhƣ chƣơng Cấm vệ, Hộ hôn, Điền sản, Tạp luật của Quốc triều Hình luật, phần Hộ
luật, Điền trạch của Bộ luật Gia Long… tất cả thể hiện qua các tình huống cụ thể nhƣ
mua bán (Điều 73, 74, 75… Chƣơng cấm vệ, Điều 316, 313… Chƣơng Hộ hôn, Điều
342, 355, 378… Chƣơng Điền sản trong Quốc Triều Hình luật), vay nợ (Điều 587
Chƣơng Tạp luật Quốc Triều Hình luật) cầm cố (Điều 383, 384 Chƣơng Điền sản Quốc
Triều Hình luật)…Tuy xu hƣớng lập pháp cịn mang tính “hình sự hóa các quan hệ
dân sự” nhƣng những quy định này cũng đã góp phần điều chỉnh các quan hệ dân sự
tại thời điểm đó, và là nền tảng cho việc xây dựng các quy định về dân sự sau này.
Cùng với sự xuất hiện rất sớm của các quy định về pháp luật dân sự nói chung và
chế định hợp đồng nói riêng thì các quy định về chế tài dân sự cũng đƣợc đề cập tới
nhƣ một phần không thể thiếu trong quan hệ pháp luật dân sự. Qua các thời kì, với sự
chuyển biến của xã hội thì nội dung và hình thức của các biện pháp chế tài có sự thay
đổi nhất định.
Trong Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) có nhiều quy phạm điều chỉnh
các quan hệ dân sự, theo đó, trong quan hệ hợp đồng có nhiều loại khế ƣớc đƣợc đề cập
nhƣ khế ƣớc ủy quyền (Điều 73), khế ƣớc cho mƣợn (Điều 356), khế ƣớc gửi giữ (Điều
579)… Nếu các cá nhân tham gia vào quan hệ khế ƣớc mà vi phạm nghĩa vụ thì khơng
những phải chịu các chế tài dân sự (bồi thƣờng bằng tiền, hoàn trả tài sản…) mà phải


6

cịn chịu cả chế tài hình sự (biếm, roi, trƣợng…). VD: Điều 603 Chƣơng Tạp luật quy
định về hợp đồng cho thuê thuyền: “Cho người ta thuê thuyền mà cố cãi rằng khơng
cho th để địi lại thì bị xử biếm một tư và phải bồi thường tiền thuê gấp đôi”. Cũng
nhƣ Luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long dƣới triều Nguyễn cũng quy định các chế tài áp
dụng khi xảy ra vi phạm nghĩa vụ trong khế ƣớc bao gồm cả chế tài hình sự và dân sự.

Nhƣ vậy, các biện pháp chế tài đƣợc sử dụng trong hai Bộ luật phong kiến này
quy định khá tản mạn và khơng phân biệt rõ chế tài dân sự, hình sự. Chế tài dân sự ít
đƣợc quy định một cách cụ thể hay độc lập mà thƣờng đƣợc sử dụng đồng thời với các
chế tài hình sự. Trong khi các chế tài dân sự cịn khá mờ nhạt và khơng thực sự rõ ràng
thì các chế tài hình sự lại đƣợc thể hiện một cách rõ nét thông qua hệ thống hình phạt
rất nghiêm khắc và mang tính răn đe, trừng trị cao.
Từ năm 1883 đến những năm 30 của đầu thế kỉ XX, lịch sử lập pháp Việt Nam
chứng kiến sự ra đời của 3 Bộ Dân luật: Bộ Dân luật Giản yếu Nam kỳ (áp dụng cho
Nam kỳ) năm 1882, Bộ Dân luật Bắc kỳ (áp dụng cho Bắc kỳ) năm 1931 và Bộ Dân
luật Trung kỳ (áp dụng cho Trung kỳ) năm 1936. Phản ánh kết quả của sự giao thoa
pháp luật qua con đƣờng đô hộ của Thực dân Pháp, thời kì này BLDS pháp 1804 thành
tựu pháp luật rực rỡ của ngƣời Pháp và thế giới đã đƣợc tiếp thu và ghi nhận trực tiếp
trong 3 Bộ Dân luật này. Đặc biệt với Bộ Dân luật Trung kỳ đã quy định một cách rất
hệ thống và hồn chỉnh về chế định khế ƣớc. Theo đó, khái niệm khế ƣớc đã đƣợc nêu
rõ trong văn bản pháp luật này. Điều 80 Bộ Dân luật trung kỳ 1936 quy định: “khế ước
là một hiệp ước của một hay nhiều người cam đoan với một người khác để chuyển
giao, để làm hay khơng làm cái gì”. Cùng với sự hồn thiện về chế định khế ƣớc thì
những quy định về chế tài dân sự cũng đƣợc ghi nhận. Ví dụ, về chế tài phạt vi phạm
Bộ Dân luật Trung kỳ 1936 quy định: “khoản phạt là một khoản do một người cam
đoan rằng nếu không thi hành nghĩa vụ thì phải chịu, khoản ấy là để bảo đảm cho sự
thi hành nghĩa vụ”1, hay “khoản phạt cốt để đền vào sự tổn hại mà người chủ nợ phải

1

Điều 842 Bộ Dân luật Trung kỳ 1936


7

chịu và sự mắc nợ không y ước thi hành”2, “mức phạt vi phạm do các bên tự thỏa

thuận”.3
Sau Cách mạng tháng tám năm 1945, nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, trong điều kiện xây dựng xã hội mới, vai trò của các Bộ Dân luật của thời Pháp
thuộc ngày càng bị thu hẹp và dần đi tới chấm dứt hiệu lực. Từ năm 1986, công cuộc
đổi mới, tái thiết đất nƣớc đòi hỏi phải xây dựng một khung pháp lý điều chỉnh các
quan hệ dân sự trên nền tảng một nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Ngay từ những năm đầu của thời kì đổi mới hàng loạt các văn bản pháp lý điều
chỉnh các quan dân sự ra đời, trong đó phải kể đến pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991.
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự 1991 điều chỉnh quan hệ về hợp đồng dân sự, trong đó
chứa các quy định về chế tài áp dụng khi chủ thể vi phạm hợp đồng. Theo đó, khi chủ
thể vi phạm các nghĩa vụ đƣợc thỏa thuận trong hợp đồng thì có thể bị áp dụng các chế
tài nhƣ: buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng; bồi thƣờng thiệt hại (Điều 51); phạt vi phạm
(Điều 55); đơn phƣơng đình chỉ (Điều 29) hoặc hủy bỏ hợp đồng (Điều 28). Pháp lệnh
này cũng nêu rõ biện pháp chế tài áp dụng cho từng trƣờng hợp cụ thể nhƣ thực hiện
hợp đồng không đúng chất lƣợng (Điều 47), chậm thực hiện nghĩa vụ hoặc không thực
hiện nghĩa vụ trả tiền (Điều 50)…
Kế thừa các quy định trong pháp lệnh Hợp đồng dân sự 1991, đồng thời thực hiện
lộ trình “Luật hóa” các văn bản pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng thì
đến khi Bộ luật Dân sựnăm 1995 (BLDS 1995) ra đời, các quy định về chế tài dân sự
tiếp tục đƣợc hoàn thiện. Các chế tài đƣợc BLDS 1995 quy định là buộc thực hiện
đúng hợp đồng (thực tế là nghĩa vụ phải giao đúng vật trong trƣờng hợp chủ thể không
thực hiện nghĩa vụ giao vật theo Điều 311; nghĩa vụ chấm dứt một việc làm trong
trƣờng hợp chủ thể vi phạm nghĩa vụ không đƣợc làm công việc đó theo Điều 312…),
bồi thƣờng thiệt hại (Điều 310). Ngoài ra, các điều luật về phạt vi phạm (Điều 377, 378
và 379 BLDS 1995 trong Mục bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự) đã đƣợc xây dựng
theo hƣớng hoàn thiện hơn các quy định trong pháp lệnh trƣớc đó.

2
3


Điều 485 Bộ Dân luật Trung kỳ 1936
Điều 847 Bộ Dân luật Trung kỳ 1936


8

Đến năm 2005 tại kì họp thứ 7 Quốc hội khóa XI, Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS
2005) đã đƣợc thông qua. Với BLDS 2005, luật Dân sự đƣợc nâng lên với vị thế một
đạo luật chung, đạo luật gốc với hiệu lực trên thực tế là rất lớn khi điều chỉnh các quan
hệ dân sự theo nghĩa rộng.4 Tuy nhiên, về cơ bản các quy định về chế tài dân sự trong
BLDS 2005 là giữ nguyên nội dung so với BLDS 1995, chỉ thay đổi về cấu trúc điều
luật.
1.1.2 Khái niệm chế tài dân sự
Về khái niệm chế tài dân sự, hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau:
Theo quan điểm của các học giả về lý luận nhà nƣớc và pháp luật thì chế tài đƣợc hiểu
là: “một phần của quy phạm pháp luật chỉ ra các biện pháp mang tính chất trừng phạt
mà các chủ thể có thẩm quyền áp dụng quy phạm có thể áp dụng đối với các chủ thể vi
phạm pháp luật, không thực hiện đúng những mệnh lệnh đã được nêu trong phần quy
định của quy phạm pháp luật”.5Chế tài thể hiện thái độ của nhà nƣớc đối với chủ thể
có hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm chế tài hình sự, chế tài hành chính và chế tài
dân sự. Mỗi chế tài khác nhau có mục đích áp dụng khác nhau tùy vào khách thể của
quan hệ xã hội bị xâm hại. Chẳng hạn, khách thể của quan hệ pháp luật hình sự, hành
chính là trật tự xã hội, là lợi ích giai cấp, lợi ích chung của cộng đồng và do đó, mục
đích áp dụng của chế tài hình sự, hành chính là nhằm răn đe, cải tạo, trừng phạt, giáo
dục ngƣời có hành vi vi phạm và ngăn ngừa các hành vi gây nguy hiểm cho xã
hội.6Trong khi đó, khách thể của quan hệ hợp đồng nói riêng và quan hệ dân sự nói
chung là những lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt đƣợc. Vì vậy, chế tài dân
sự đƣợc đặt ra trƣớc hết và chủ yếu là nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên bị vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng và bên bị hành vi trái pháp luật xâm hại.


4

Quan hệ dân sự theo nghĩa rộng đƣợc hiểu là: “không chỉ bao gồm các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân
thân và tài sản trong các quan hệ dân sự mà cịn trong quan hệ hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao
động.” xem Lê Thị Nam Giang (2010) Tư pháp Quốc tế, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM tr.17.
5
Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.391.
6
Nguyễn Thị Việt Hà (2010), Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng thương mại, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, TP.Hồ Chí Minh, tr.14.


9

Dựa vào quan điểm về chế tài nói chung, theo nghĩa rộng có thể xem chế tài dân
sự là một dạng chế tài song hành cùng các chế tài hình sự, hành chính trong việc thực
hiện chức năng quản lý xã hội của nhà nƣớc thông qua pháp luật.
Theo nghĩa hẹp, có ý kiến nhận định rằng: “chế tài dân sự là các hình thức xử lý
khi có hành vi vi phạm pháp luật dân sự”7 hay“chế tài dân sự là bộ phận cấu thành
của quy phạm pháp luật dân sự xác định hậu quả pháp lý được áp dụng đối với người
có hành vi vi phạm”.8Trên bình diện nghiên cứu thuật ngữ pháp lý cả hai khái niệm
này đã bao quát chung nhất đặc điểm của một chế tài nhƣng chƣa nêu rõ đặc trƣng cơ
bản của một chế tài dân sự. Khi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật dân sự, có rất nhiều
biện pháp xử lý nhƣng không phải cách thức nào cũng là chế tài theo đúng nghĩa.
Chẳng hạn biện pháp thu hồi khoản lợi khơng có căn cứ pháp luật của chủ thể là một
cách thức xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật nhƣng lại khơng phải là chế tài.9
Cũng có quan điểm khác cho rằng: “Chế tài dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi
ngoài mong muốn được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm trong quan hệ dân
sự khi họ thực hiện không đúng nghĩa vụ”.10 Hiểu trên quan điểm này thì chế tài dân sự

phải là những hậu quả pháp lý bất lợi, thể hiện thông qua những quy định cụ thể của
pháp luật dân sự hoặc những thỏa thuận mà giá trị của nó đƣợc thừa nhận và đảm bảo
thực hiện qua các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Khi một chủ thể vi phạm những
giá trị đƣợc ghi nhận đó, khơng thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ
những cam kết thì sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý không mong muốn, để đảm bảo
quyền lợi của chủ thể bị vi phạm.
Trên bình diện pháp luật thực định, BLDS 2005 không định nghĩa thế nào là chế
tài dân sự mà sử dụng thuật ngữ “trách nhiệm dân sự”. Cụ thể, BLDS 2005 liệt kê nhƣ
sau: Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự (Điều 302 BLDS 2005), trách
nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 303 BLDS 2005)…Vậy
thuật ngữ “Chế tài dân sự” và “trách nhiệm dân sự” có đồng nhất với nhau hay không.
7

Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.90.
Đại Học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội tr.36.
9
Vũ Thị Quyên (2013), Chế tài dân sự khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân
luật, TP. Hồ Chí Minh, tr.11.
10
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB từ điển Bách khoa – NXB Tƣ pháp,
tr.131.
8


10

Theo từ điển Tiếng việt, Trách nhiệm là “phần việc, cơng việc mà mình phải làm
và phải chịu kết quả tốt xấu”11 hay “phần việc được giao cho hoặc coi như giao cho,
phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả khơng tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”.12
Về mặt pháp lý, khoản 1 Điều 302 BLDS 2005 quy định: “Bên có nghĩa vụ mà

khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với
bên có quyền”.Trách nhiệm dân sự, theo nghĩa khách quan, là “tổng thể các quy định
của pháp luật dân sự về căn cứ, các điều kiện phát sinh trách nhiệm, năng lực chịu
trách nhiệm, cách thức thực hiện trách nhiệm và hậu quả pháp lý của việc áp dụng
trách nhiệm dân sự”. Theo nghĩa chủ quan thì “trách nhiệm dân sự là biện pháp
cưỡng chế được áp dụng đối với người có hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác, nhằm buộc người vi phạm phải thực hiện hành vi nhất định
hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm bù đắp tổn thất và khôi phục các quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị xâm hại”.13Hơn nữa, tại Điều 7 BLDS 2005 có quy định một
trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự là nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự.
Theo đó, các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình và tự chịu
trách nhiệm về việc khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu khơng
tự nguyện thực hiện thì có thể bị cƣỡng chế theo quy định của pháp luật. Hiểu một cách
đơn giản thì “trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý mang tính tiêu cực xảy ra khi bên
có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.14
Nhƣ vậy, Theo những quy định trong BLDS 2005 và các quan điểm, nhìn chung
trách nhiệm dân sự đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, là các biện pháp phát sinh do hành vi vi
phạm nghĩa vụ của chủ thể. Trong những biện pháp này, có những biện pháp mang lại
hậu quả bất lợi cho bên bị áp dụng (bồi thƣờng thiệt hại, phạt vi phạm) và có những
biện pháp mục đích chính là nhằm bảo vệ quan hệ pháp luật giữa các bên mà không
gây hậu quả bất lợi nào cho bên vi phạm (buộc thực hiện đúng hợp đồng). Trong đó,
những biện pháp mang lại hậu quả bất lợi cho bên vi phạm chính là các biện pháp chế
tài dân sự nhƣ đã phân tích. Do đó, có thể kết luận hai khái niệm “chế tài dân sự” và
11

Ban biên soạn chuyên từ điển New Era (2011), Từ điển Tiếng việt, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr.1184.
Trung tâm từ điển học Vietlex (2013), Từ điển Tiếng việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội, tr.131.
13
Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (02), NXB Công an nhân dân, tr.46.
14

Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, NXB Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, tr.373.
12


11

“trách nhiệm dân sự” là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Về hai thuật ngữ này,
không những pháp luật chƣa có quy định rõ ràng, mà ngay cả trong khoa học pháp lý
Việt Nam cũng chƣa hiểu thống nhất. Điều đó dẫn đến sự nhầm lẫn khi sử dụng khái
niệm trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ dân sự và chế tài pháp lý khác.15Tuy nhiên, trên
thực tế các học giả vẫn thừa nhận khả năng thay thế cho nhau của 2 khái niệm chế tài
dân sự và trách nhiệm dân sự trong một số trƣờng hợp.16
Tổng quan lại, chúng ta có thể nêu một cách cụ thể về khái niệm chế tài dân sự
nhƣ sau: “Chế tài dân sự là những biện pháp pháp lý đem lại cho chủ thể vi phạm
nghĩa vụ dân sự, vi phạm phạm pháp luật những hậu quả bất lợi, được áp dụng trên cơ
sở của hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật”.
1.1.3 Đặc điểm của chế tài dân sự
Thứ nhất, chế tài dân sự chỉ đƣợc áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng hoặc thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Chế tài dân sự khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là một dạng chế tài trong
hợp đồng. Điều kiện cần để có thể áp dụng các chế tài này chính là xảy ra hành vi vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng. Điều này cũng có nghĩa là giữa các bên phải tồn tại hợp đồng
hợp pháp, đồng thời có ít nhất một bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ. Nói cách khác, nếu
khơng có hợp đồng, khơng có hành vi vi phạm hợp đồng hoặc khơng có hành vi vi
phạm pháp luật thì sẽ khơng có chế tài nào đƣợc áp dụng và căn cứ để xác định hành vi
vi phạm của các bên chính là các thỏa thuận trong hợp đồng cũng nhƣ quy định của
pháp luật về hợp đồng. Cần phải lƣu ý rằng, hành vi vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng
chỉ là điều kiện cần mà không phải là điều kiện duy nhất quyết định để áp dụng chế tài
dân sự khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Trong nhiều trƣờng hợp, tồn tại hành vi

vi phạm hợp đồng của một hay nhiều bên chủ thể nhƣng vẫn khơng có chế tài nào đƣợc
áp dụng, chẳng hạn trƣờng hợp hoàn toàn do lỗi của bên vi phạm theo khoản 3 Điều
302 BLDS 2005, sự kiện bất khả kháng theo khoản 2 Điều 302 và những quy định khác
của pháp luật.
15

Phạm Kim Anh (2009),“Trách nhiệm dân sự và chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự 2005 - Thực trạng và giải pháp hồn thiện”, Tạp chí khoa học pháp lý số 6(55), tr.03.
16
Đỗ văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng, NXB Chính trị Quốc gia, tr.43.


12

Bên cạnh khả năng áp dụng chế tài dân sự khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ dân sự
theo hợp đồng, thì pháp luật dân sự cũng quy định khả năng áp dụng chế tài dân sự
trong các trƣờng hợp khơng có yếu tố hợp đồng, cụ thể là trách nhiệm bồi thƣờng thiệt
hại ngoài hợp đồng. Đối với quy định này, chế tài dân sự, cụ thể là biện pháp bồi
thƣờng thiệt hại chỉ đƣợc áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp
luật. Khoản 1 Điều 604 BLDS 2005 quy định: “người nào có lỗi cố ý hoặc vơ ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Ở đây, các điều kiện thông thƣờng để áp
ứng khả năng chế tài bồi thƣờng đƣợc thực hiện là có hành vi trái pháp luật, có thiệt hại
xảy ra, ngƣời có hành vi trái pháp luật có lỗi có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và
hành vi trái pháp luật.
Thứ hai, các biện pháp chế tài dân sự thƣờng mang tính tài sản.
Với bản chất là một chế tài, khi đƣợc áp dụng thì bên vi phạm sẽ phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi. Sự bất lợi thể hiện qua việc đền bù về tinh thần và vật chất mà
ngƣời vi phạm phải gánh.Tính tài sản của các biện pháp chế tài dân sự là một sự đền bù

vật chất. Nội dung này thể hiện một cách rõ nét thông qua biện pháp bồi thƣờng thiệt
hại (trong và ngoài hợp đồng) cũng nhƣ phạt vi phạm. Đối với hai chế tài này, bên vi
phạm sẽ phải sử dụng tài sản để bồi thƣờng thiệt hại hoặc trả cho bên bị vi phạm một
khoản tiền nhất định để bù lại những thiệt hại gây ra. Đó là khoản thiệt hại chứng minh
đƣợc của bên bị vi phạm hay là khoản tiền phạt mà các bên đã thỏa thuận trƣớc. Nhƣ
vậy, hai chế tài này tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của chủ thể có hành vi vi
phạm.
Thứ ba, căn cứ để áp dụng chế tài dân sự chính là thỏa thuận của các bên hoặc
theo quy định của pháp luật
Đối với chế tài dân sự khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, việc xác định có
hay khơng có hành vi vi phạm hợp đồng phải dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên
cũng nhƣ quy định của pháp luật, khi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng không phải lúc nào


13

các chủ thể cũng hồn tồn thiện chí, trung thực với nhau.17 Mặt khác, trong quá trình
thực hiện hợp đồng cũng có nhiều tình huống khách quan xảy ra, để bảo vệ quyền lợi
của mình địi hỏi khi giao kết cần lƣờng trƣớc những tình huống rủi ro. Từ đó dự liệu
những biện pháp chế tài áp dụng cho từng tình huống cụ thể, các biện pháp xử lý địi
hỏi phải có sự thống nhất của các bên trong hợp đồng để đảm bảo tính tự chủ và cơng
bằng cũng nhƣ đảm bảo khả năng thực thi trên thực tế khi có tranh chấp xảy ra.
Các bên có thể thỏa thuận chế tài với cả những hành vi mà pháp luật khơng quy
định, hoặc có thể thỏa thuận biện pháp chế tài khác với biện pháp chế tài mà pháp luật
quy định cho cùng một hành vi vi phạm cũng nhƣ có thể thỏa thuận tăng giảm, miễn áp
dụng chế tài. Ngồi ra, pháp luật cịn quy định với một số chế tài các bên phải thỏa
thuận với nhau trong hợp đồng thì khi tranh chấp xảy ra mới đƣợc áp dụng.VD: đối với
chế tài phạt vi phạm, các bên chỉ có thể áp dụng chế tài này với điều kiện đã có thỏa
thuận trong hợp đồng.18
Ngồi thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, quy định của pháp luật cũng đƣợc

xem là một căn cứ để áp dụng chế tài khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc vi
phạm pháp luật đối với chế tài bồi thƣờng thiệt hại ngồi hợp đồng. Với mục đích quản
lý nhà nƣớc trong lĩnh vực dân sự, các nhà làm luật đã dự liệu các tình huống xảy ra
địi hỏi phải áp dụng chế tài mà không cần thỏa thuận. Theo đó, nếu xảy ra hành vi vi
phạm pháp luật về mặt hợp đồng, ngay cả khi các bên khơng có thỏa thuận và hợp
đồng cũng không ghi nhận về hành vi này thì chủ thể thực hiện hành vi vi phạm vẫn có
thể bị áp dụng chế tài. VD: Trƣờng hợp bên có nghĩa vụ giao vật nhƣng khơng thực
hiện nghĩa vụ mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thƣờng.19
Đối với chế tài bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng, do đây là một loại chế tài dân
sự đặc thù nên quy định của pháp luật là một trong những điều kiện tiên quyết nhằm
xác định việc có áp dụng chế tài khi tranh chấp xảy ra hay không, việc thỏa thuận chỉ

17

Điều 283 BLDS 2005 quy định: “bên có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung
thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật đạo đức xã hội”
18
Khoản 1 Điều 422 BLDS 2005 quy định: “phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó
bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”.
19
Khoản 3 Điều 303 BLDS 2005


14

có giá trị trong trƣờng hợp các bên thƣơng lƣợng về mức bồi thƣờng, hình thức và
phƣơng thức bồi thƣờng khi chế tài này đã đƣợc áp dụng trên thực tế.20
Thứ tƣ, việc áp dụng hay không áp dụng chế tài dân sự là quyền của bên bị vi
phạm hợp đồng hoặc bên chịu hậu quả bất lợi từ hành vi trái pháp luật.
Xuất phát từ mục đích của các biện pháp chế tài là nhằm bảo vệ quyền lợi và khơi

phục lợi ích cho bên bị vi phạm đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và khơi
phục danh dự, uy tín và các lợi ích hợp pháp khác của chể thể bị hành vi trái pháp luật
xâm hại, pháp luật trao quyền quyết định về việc áp dụng hay không áp dụng chế tài
cho chủ thể bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc bị hành vi trái pháp luật xâm hại.
Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, về bản chất hợp đồng là “luật riêng”
của các bên dựa trên sự thỏa thuận bình đẳng. Khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
sẽ làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích chính đáng của bên bị vi phạm. Do đó, trong
quan hệ pháp luật dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng nói riêng, bên vi phạm phải
gánh chịu hậu quả trƣớc bên có quyền và lợi ích hợp pháp chứ khơng phải với cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền nhƣ trong các quan hệ pháp luật hình sự, hành chính. Vì vậy,
khi có vi phạm hợp đồng xảy ra, thơng thƣờng bên bị vi phạm sẽ có quyền quyết định
có hay không việc áp dụng các chế tài đối với bên vi phạm. Đối với hành vi xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân cũng nhƣ các chủ thể khác trong
pháp luật dân sự cũng vậy, việc có hay khơng áp dụng chế tài đối với bên xâm hại là
phụ thuộc vào chủ thể bị xâm hại có yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khơng. Sự bảo vệ này dựa trên u cầu và không
vƣợt quá yêu cầu của bên bị vi phạm, hay bên bị xâm hại.21
1.1.4 Phân loại chế tài dân sự
Pháp luật Dân sự Việt Nam chia chế tài dân sự ra làm hai loại theo cách phân loại
trách nhiệm dân sự.

20

Điều 605 BLDS 2005
Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 quy định: “Đƣơng sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u
cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu của đƣơng sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.
21



15

Xét theo căn cứ phát sinh trách nhiệm thì chế tài dân sự đƣợc chia thành: chế tài
dân sự trong hợp đồng và chế tài dân sự ngoài hợp đồng.
-

Chế tài dân sự trong hợp đồng: là chế tài dân sự phát sinh do một bên vi phạm
nghĩa vụ đƣợc quy định trong hợp đồng.

-

Chế tài dân sự ngoài hợp đồng: là chế tài dân sự phát sinh do chủ thể xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền và
lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức đƣợc pháp luật bảo vệ. Các quy định
này đƣợc nêu tại Chƣơng XXI của BLDS 2005. Cụ thể là những quy định về
trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.

Nhiều học giả phân loại trách nhiệm dân sự theo nhiều tiêu chí khác nhau, nhƣ
trách nhiệm đối nhân (các loại trách nhiệm thông thƣờng) và trách nhiệm đối vật (tức
bị hạn chế bởi một tài sản nhất định, VD: trách nhiệm của bên thế chấp tài sản theo hợp
đồng thế chấp), trách nhiệm không giới hạn và trách nhiệm bị giới hạn.22Các tiêu chí
phân loại trách nhiệm dân sự trên cũng là những tiêu chí phân loại chế tài dân sự, vì về
cơ bản, cơ sở phát sinh trách nhiệm dân sự cũng là cơ sở phát sinh việc áp dụng chế tài
dân sự. Thiết nghĩ, việc phân loại nhƣ thế nào là tùy quan điểm của các học giả. Điều
quan trọng là chúng ta phải hiểu cách thức phân tích và lựa chọn giải pháp phù hợp khi
có hành vi vi phạm xảy ra, từ đó đƣa ra chế tài hiệu quả nhất với chủ thể có hành vi vi
phạm.
1.2 Khái quát về buộc thực hiện đúng hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005
1.2.1 Khái niệm buộc thực hiện đúng hợp đồng
Cũng nhƣ khái niệm chế tài dân sự, BLDS 2005 không đƣa ra một định nghĩa cụ

thể nào về buộc thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định của BLDS
2005 có thể xếp buộc thực hiện đúng hợp đồng là một trong những trách nhiệm dân sự,
hay biện pháp xử lý việc thực hiện không đúng hợp đồng khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng. Theo các quy định của BLDS 2005, khi ngƣời có nghĩa vụ khơng thực hiện,
thực hiện khơng đúng, khơng đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng thì bên có quyền u cầu

22

Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, NXB Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, tr.382.


16

cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền áp dụng biện pháp cƣỡng chế để thực hiện nghĩa vụ.23
Biện pháp “buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng hay buộc thực hiện đúng hợp
đồng”24nhằm bảo vệ quan hệ hợp đồng và giúp các bên đạt đƣợc những lợi ích mà họ
hƣớng tới khi giao kết. Bản chất của biện pháp này đòi hỏi các bên phải thực hiện đúng
mục đích của hợp đồng nhƣ đã thỏa thuận ngay cả khi hợp đồng đã bị vi phạm.25 Nhƣ
đã phân tích, một hợp đồng hợp pháp thì có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên.
Khi một bên chủ thể vì lý do nào đó mà vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng thì giá trị
ràng buộc của hợp đồng buộc bên chủ thể này phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của
mình, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia.
Trong Điều 292 Luật Thƣơng mại 2005 (LTM 2005) có nêu việc buộc thực hiện
đúng hợp đồng là một trong các “chế tài thương mại”. Tuy nhiên, thực chất đây khơng
phải là một “chế tài” vì chúng ta không phạt một bên trong hợp đồng mà chỉ buộc họ
thực hiện những gì đã cam kết. Hơn nữa, xu hƣớng chung trên thế giới hiện nay là
không dùng thuật ngữ “chế tài” khi đề cập đến những giải pháp cho việc không thực
hiện đúng hợp đồng. Công ƣớc Viên1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
(Convention on Contracts for the International sale of Goods - viết tắt là CISG)sử dụng

thuật ngữ “các biện pháp bảo hộ pháp lý”. Tƣơng tự nhƣ vậy đối với Bộ nguyên tắc về
hợp đồng thƣơng mại quốc tế Unidroit (Principles of International Commercial
Contracts – viết tắt làPICC) và Bộ nguyên tắc chung châu Âu về hợp đồng (The
Principles of European Contract Law - viết tắt là PECL), thuật ngữ “chế tài”cũng
không đƣợc sử dụng.26
Nhƣ vậy, tổng quan lại chúng ta có thể nêu một cách cụ thể về khái niệm buộc
thực hiện đúng hợp đồng nhƣ sau: “buộc thực hiện đúng hợp đồng là biện pháp buộc
bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải thực hiện đúng những nghĩa vụ đã

23

Nguyễn Xuân Quang - Lê Nết - Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh, tr.362.
24
Luật thƣơng mại sử dụng thuật ngữ “buộc thực hiện đúng hợp đồng” nhƣng trong Bộ luật Dân sự thƣờng nói
đến yêu cầu “tiếp tục” thực hiện hợp đồng. Xem Đỗ Văn Đại (2011), Luật Hợp đồng Việt Nam Bản án và Bình
luận Bản án (02), tr.137.
25
Nguyễn Thị Khế - Bùi Thị Khuyên (2006), Luật thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại, NXB Tài
chính, tr.181.
26
Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng, NXB Chính trị Quốc gia, tr.42.


17

được cam kết, từ đó bảo vệ quan hệ hợp đồng giữa các bên, giúp các bên đạt được lợi
ích mong muốn khi tham gia giao kết”.
1.2.2 Đặc điểm của biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng
Thứ nhất, buộc thực hiện đúng hợp đồng là một biện pháp mà bên có quyền có

thể sử dụng và đƣợc ƣu tiên áp dụng so với những biện pháp xử lý khác khi chủ thể vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Khi hợp đồng không đƣợc thực hiện đúng, pháp luật dự liệu một số biện pháp mà
bên có quyền (bên khơng đƣợc thực hiện đúng hợp đồng) đƣợc trang bị để bảo vệ
quyền lợi của mình. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một trong những giải pháp mà
bên có quyền có thể sử dụng. Cũng nhƣ các chế tài dân sự khác, việc áp dụng hay
không áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng là quyền của bên bị vi phạm
hợp đồng. Điều này xuất phát bản chất của quan hệ pháp luật dân sự là bên vi phạm
phải gánh chịu hậu quả trƣớc bên có quyền và lợi ích hợp pháp chứ khơng phải với cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền nhƣ trong các quan hệ pháp luật hình sự, hành chính.
Vì mục đích bảo vệ quan hệ hợp đồng, cũng nhƣ giúp các bên đạt đƣợc lợi ích
mong muốn khi tham gia giao kết nên buộc thực hiện đúng hợp đồng đƣợc coi là một
biện pháp đƣợc ƣu tiên áp dụng so với những biện pháp khác. Trong BLDS 2005, mặc
dù khơng có khái niệm cụ thể nhƣng “bóng dáng” của biện pháp này vẫn đƣợc quy
định trong những điều luật đầu tiên của chƣơng Trách nhiệm dân sự. Tƣơng tự, trong
LTM 2005 thì Điều 292 liệt kê danh sách các chế tài thƣơng mại cũng đề cập đến biện
pháp này đầu tiên.
Thứ hai, buộc thực hiện đúng hợp đồng đƣợc áp dụng khi có hành vi vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng.
Nhƣ đã phân tích, chế tài dân sự khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là một
dạng chế tài trong hợp đồng. Điều kiện cần để có thể áp dụng các chế tài này chính là
xảy ra hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Điều này cũng có nghĩa là giữa các bên
phải tồn tại hợp đồng hợp pháp, đồng thời có ít nhất một bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ.
Nói cách khác, nếu khơng có hợp đồng hoặc khơng có hành vi vi phạm hợp đồng thì sẽ


18

khơng có chế tài nào đƣợc áp dụng. Căn cứ để xác định hành vi vi phạm của các bên
chính là các thỏa thuận trong hợp đồng cũng nhƣ quy định của pháp luật về hợp đồng.

Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một biện pháp xử lý đƣợc áp dụng khi chủ thể
vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. Do đó, biện pháp này chỉ có thể đƣợc áp dụng khi
hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh
rằng, hành vi vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng chỉ là điều kiện cần mà không phải là
điều kiện duy nhất quyết định để áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng khi
chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Thứ ba, buộc thực hiện đúng hợp đồng là giải pháp hƣớng tới mục đích nhằmđạt
đƣợc nhữnglợi ích mà các bên mong muốn từmột hợp đồng đƣợc giao kết hợp pháp.
Khác với các loại quyền và nghĩa vụ pháp lý khác là do nhà làm luật quy định,
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng là do các bên tự mình tạo ra dựa trên cơ
sở thỏa thuận bình đẳng, tự do và tự nguyện. Pháp luật thừa nhận ràng buộc pháp lý
phát sinh từ những cam kết hợp pháp, tự nguyện của cá nhân, tổ chức. Các nghĩa vụ
đƣợc tạo ra bởi các bên này có giá trị pháp lý giống nhƣ các nghĩa vụ do pháp luật quy
định. Mọi sự vi phạm các nghĩa vụ ƣớc định, nếu không thuộc các trƣờng hợp đƣợc
pháp luật cho phép, đều bị coi là trái pháp luật và chủ thể vi phạm phải chịu chế tài
tƣơng ứng. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là một hệ quả của hiệu lực ràng buộc hợp
đồng ấy. Nói cách khác, nhà làm luật quy định biện pháp buộc thực hiện đúng hợp
đồng nhằm hƣớng tới mong muốn các bên đạt đƣợc mục đích của hợp đồng, khi chấp
nhận giao kết là các bên đã chấp một sự ràng buộc về mặt pháp lý, chấp nhận khả năng
bị áp dụng chế tài khi vi phạm.
Thứ tƣ, buộc thực hiện đúng hợp đồng đƣợc áp dụng khi bên có yêu cầu chứng
minh đƣợc lợi ích họ mong đợi từ hợp đồng chƣa đƣợc đáp ứng.
Nhƣ đã phân tích, buộc thực hiện đúng hợp đồng là giải pháp hƣớng tới mục đích
nhằm đạt đƣợc những lợi ích mà các bên mong muốn từ một hợp đồng đƣợc giao kết
hợp pháp. Do đó, bên có nghĩa vụ cam kết cung cấp cho bên có quyền một lợi ích và
hiệu lực ràng buộc thực hiện hợp đồng buộc bên có nghĩa vụ cung cấp lợi ích này cho
bên có quyền, bên có nghĩa vụ phải đáp ứng lợi ích mà bên có quyền mong đợi nên bên


19


có quyền khơng cần phải chứng minh là mình có thiệt hại mà chỉ cần chứng minh rằng
lợi ích mà họ mong đợi chƣa đƣợc bên có nghĩa vụ đáp ứng.Điều này đồng nghĩa với
việc trong trƣờng hợp có tranh chấp xảy ra, khi có yêu cầu từ một bên trong quan hệ
hợp đồng và bên yêu cầu chứng minh đƣợc lợi ích của mình mong đợi chƣa đạt đƣợc
thì biện pháp buộc thực hiên đúng hợp đồng sẽ đƣợc áp dụng. Nhƣ vậy, “sự thỏa mãn
lợi ích” giữa các bên và hiệu lực pháp lý của hợp đồng là điều kiện đầu tiên để biện
pháp này đƣợc áp dụng. Điều này khác với các biện pháp xử lý vi phạm khác, khi
ngƣời yêu cầu phải chứng minh những dấu liệu luật định nhƣ dấu hiệu “có thiệt hại”,
có “quy định phạt vi phạm trong hợp đồng” nhƣ đối với biện pháp bồi thƣờng thiệt hại
và phạt vi phạm.
1.2.3 Ý nghĩa của biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 388 BLDS 2005) khi tham gia giao kết hợp
đồng, các bên đều hƣớng tới những mục đích nhất định, đó là “lợi ích hợp pháp mà
các bên mong muốn đạt được” (Điều 123 BLDS 2005). Đồng ý giao kết hợp đồng
cũng có nghĩa là các bên chấp nhận sự ràng buộc của các điều khoản trong đó, chấp
nhận thực hiện để đổi lấy những lợi ích mong muốn khác đồng thời việc thực hiện hợp
đồng đòi hỏi các bên phải tự nguyện, trung thực và có thiện chí.
Bản thân hợp đồng khơng phải là luật, khơng mang quyền lực nhà nƣớc nhƣng
một hợp đồng hợp pháp thì có hiệu lực ràng buộc và có giá trị nhƣ luật đối với các
bên27 và giá trị ràng buộc của hợp đồng đƣợc đảm bảo bởi pháp luật. Tuy nhiên, do hợp
đồng xuất phát từ sự thỏa thuận, ràng buộc mang tính chất của một “luật riêng” giữa
các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng, kết cấu quan hệ đƣợc xây dựng chủ yếu
trên nền tảng trung thực và thiện chí. Sự ràng buộc này đơn thuần chỉ là “sợi dây gắn
kết các lợi ích”. Cho nên, trên thực tế tình trạng vi phạm hợp đồng, cắt đứt sợi dây ràng
buộc lỏng lẻo ấy, diễn ra khá phổ biến bằng việc vi phạm hợp đồng.
Hành vi vi phạm hợp đồng khơng những có thể dẫn tới việc các bên khơng đạt
đƣợc những lợi ích khi giao kết mà cịn có thể gây ra những thiệt hại nhất định cho bên
27


Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
học,TP.Hồ Chí Minh, tr.125.


×